Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

So sánh Incoterms 2000 và Incoterms 2010 Thực trạng và Rủi ro

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (430.62 KB, 29 trang )

Đại học Kinh Tế - Luật
Tiểu luận
So sánh Incoterms 2000 và Incoterms 2010
Thực trạng và Rủi ro
So sánh Incoterms 2000 và Incoterms 2010
Mục Lục
Mục Lục 2
I.TỔNG QUAN VỀ INCOTERMS 2
2.Mục đích sử dụng 3
3.Lịch sử hình thành và phát triển của INCOTERMS: 4
4.Phạm vi điều chỉnh Incoterms và tính chất pháp lý của Incoterms 6
4.1 Phạm vi điều chỉnh 6
4.2 Tính chất pháp lý tùy ý của INCOTERMS: 7
5.Một số lưu ý khi sử dụng INCOTERMS: 8
II.SO SÁNH GIỮA INCOTERMS 2000 VÀ INCOTERMS 2010 10
1.Điểm giống nhau: 10
2.Điểm khác nhau: 11
2.1. Bảng tóm tắt: 11
II.2.Những điểm khác nhau cụ thể: 12
III.THỰC TRẠNG SỬ DỤNG INCOTERMS Ở VIỆT NAM: 19
1.Thực trạng và rủi ro 19
2.Nguyên nhân 25
IV.GIẢI PHÁP SỬ DỤNG INCOTERMS Ở VIỆT NAM: 26
Tài liệu tham khảo 28
I. TỔNG QUAN VỀ INCOTERMS
1. Khái niệm Incoterm
2
So sánh Incoterms 2000 và Incoterms 2010
Hiện nay, việc giao thương giữa các nước trên thế giới ngày càng được mở rộng. Trong
quá trình đó, thương mại quốc tế thường sử dụng những ngôn ngữ khác nhau, luật lệ địa
phương khác nhau dẫn đến sự hiểu lầm, gây mâu thuẫn tranh chấp giữa hai bên tham gia. Để


hạn chế bất đồng và thúc đẩy thương mại quốc tế, Phòng thương mại quốc tế (ICC) đã soạn
thảo INCOTERMS - Điều kiện thương mại quốc tế .
Incoterms (viết tắt của International Comerce Terms – Các điều khoản thương mại quốc
tế) là một bộ các quy tắc thương mại quốc tế được công nhận và sử dụng rộng rãi trên toàn thế
giới. Incoterm quy định những quy tắc có liên quan đến giá cả và trách nhiêm của các bên (bên
bán và bên mua) trong một loại hợp đồng thương mại quốc tế.
 Bộ Incoterms bao gồm những nội dung gì?
Bộ quy tắc này quy định những ai sẽ trả tiền vận tải, ai sẽ đảm trách các chi phí về thủ
tục hải quan, bảo hiểm hàng hoá, ai chịu trách nhiệm về những tổn thất và rủi ro của hàng hoá
trong quá trình vận chuyển , thời điểm chuyển giao trách nhiệm về hàng hoá.
2. Mục đích sử dụng
- Incoterms là một bộ các quy tắc nhằm hệ thống hóa các tập quánTM quốc tế được áp
dụng phổ biến bởi các doanh nhân trên khắp thế giới
- Incoterms là phương tiện quan trọng để đẩy nhanh tốc độ đàm phán, xây dựng và tổ
chức thực hiện hợp đồng ngoại thương. Tránh những hiểu lầm và tranh chấp giữa các
bên trong việc phân chia chi phí và chuyển gia rủi ro về hàng hóa
- Incoterms là cơ sở quan trọng để xác định giá cả mua bán hàng hóa.
- Incoterms là căn cứ pháp lý quan trọng để thực hiện khiếu nại và giải quyết tranh
chấp (nếu có) giữa người bán trong quá trình thực hiện hợp đồng ngoại thương.
Theo nguyên tắc chung, Incoterms được áp dụng trong trường hợp khi các bên trực tiếp
thỏa thuận việc áp dụng nó trong chính hợp đồng và chỉ ra điều kiện được áp dụng tương ứng.
Incoterms cũng có thể được áp dụng trong trường hợp khi mà các bên không trực tiếp thỏa
thuận việc á dụng chúng trong hợp đồng nhưng xuất phát từ điều kiện, hoàn cảnh cụ thể trong
3
So sánh Incoterms 2000 và Incoterms 2010
đó hợp đồng được ký kết và thực hiện, Tòa án hay trọng tài cho rằng các bên có sự thỏa thuận
ngầm việc áp dụng tập quán thương mại quốc tế.
3. Lịch sử hình thành và phát triển của INCOTERMS:
Bộ Incoterms đầu tiên được ICC ban hành vào năm 1936 dưới tên gọi INCOTERMS
1936. Ðể phù hợp với thực tế thương mại INCOTERMS đã được sửa đổi bổ sung vào các năm

1953, 1967, 1976, 1980, 1990, 2000 và lần gần đây nhất đã cho ra đời bộ INCOTERMS 2010.
Tên phiên bản Nội dung ban hành/ sửa đổi
Incoterms 1936
Ban hành với 07 điều kiện giao hàng:
• EXW (: Ex Works) - Giao tại xưởng
• FCA (: Free Carrier) - Giao cho người chuyên chở
• FOT/FOR (:Free on Rail/Free on Truck) - Giao lên tàu hỏa
• FAS (: Free Alongside Ship) - Giao dọc mạn tàu
• FOB (: Free On Board) - Giao lên tàu
• C&F (:Cost and Freight) - Tiền hàng và cước phí
• CIF (: Cost, Insurance, Freight) - Tiền hàng, bảo hiểm và cước phí
Incoterms 1936 chủ yếu giải thích những điều kiện sử dụng phương thức
vận tải đường bộ và đường thuỷ. Trên thực tế, Incoterms 1936 không
được các nhà kinh doanh thừa nhận và sử dụng rộng rãi vì không giải
thích hết được những tập quán thương mại quan trọng.
Incoterms 1953
Ban hành với 09 điều kiện giao hàng:
• 07 điều kiện giao hàng tương tự như Incoterms 1936
• Bổ sung thêm 02 điều kiện: DES (: Delivered Ex Ship) – Giao tại
tàu; DEQ (: Delivered Ex Quay) – Giao trên cầu cảng, sử dụng
cho phương thức vận tải đường biển và đường thủy nội bộ.
4
So sánh Incoterms 2000 và Incoterms 2010
Incoterms 1953
(sửa đổi lần 1
vào năm 1967)
Incoterms 1953 trong lần sửa đổi thứ nhất đã thay đổi như sau:
• 09 điều kiện giao hàng tương tự như Incoterms 1953
• Bổ sung thêm 02 điều kiện: DAF (Delivered: At Frontier) – Giao
tại biên giới; DDP (: Delivered Duty Paid) - Giao hàng đã nộp

thuế), sử dụng cho mọi phương thức vận tải, kể cả vận tải kết hợp
nhiều phương thức vận tải khác nhau.
Incoterms 1953
(sửa đổi lần 2
vào năm 1976)
Incoterms 1953 trong lần sửa đổi thứ hai đã thay đổi như sau:
• 11 điều kiện giao hàng tương tự như Incoterms 1953 (sửa đổi lần
1)
• Bổ sung thêm 01 điều kiện: FOA (: FOB Airport) – Giao lên máy
bay, để giải quyết các vấn đề giao hàng tại sân bay.
Incoterms 1980
Ban hành với 14 điều kiện giao hàng:
• 12 điều kiện giao hàng tương tự như Incoterms 1953 (sửa đổi lần
2)
• Bổ sung thêm 02 điều kiện CIP (: Carriage and Insurance Paid to)
- Cước phí và bảo hiểm trả tới địa điểm đích quy định và CPT (:
Carriage Paid to) - Cước phí trả tới địa điểm đích quy định, nhằm
thay thế cho CIF và CFR khi không chuyên chở hàng hoá bằng
đường biển.
Incoterms 1990
Ban hành với 13 điều kiện giao hàng. So với Incoterms 1980, có những
thay đổi như sau:
• Bỏ 2 điều kiện FOA và FOT, vì bản chất của chúng giống FCA.
• Bổ sung điều kiện DDU (: Delivered Duty Unpaid) - Giao hàng
tại đích chưa nộp thuế.
Incoterms 2000 Incoterms 2000 giữ nguyên 13 điều kiện như Incoterms 1990 nhưng sửa
5
So sánh Incoterms 2000 và Incoterms 2010
đổi nội dung 3 điều kiện FCA, FAS và DEQ.
Incoterms 2010

Incoterms 2010 gồm 11 điều kiện, trong đó:
• Thay thế 04 điều kiện DAF, DES, DEQ, DDU trong Incoterms
2000 bằng 02 điều kiện mới có thể sử dụng cho mọi phương thức
vận tải là DAT (: Delivered At Terminal) – Giao hàng tại bến và
DAP (: Delivered At Place) – Giao tại nơi đến.
 Tại sao phải sửa đổi INCOTERMS:
Nhằm tương thích với những thay đổi về môi trường và điều kiện thương mại quốc tế,
đặc biệt là:Trong bối cảnh ngoại thương phát triển ngày càng sôi động và phức tạp dẫn đến
nhiều khả năng hiểu lầm và tranh chấp, khi hợp đồng không được soạn thảo chặt chẽ.
Sự phát triển các khu ngoại quan, miễn trừ thủ tục hải quan, việc gia tăng sử dụng các
phương tiện thông tin điện tử trong giao dịch thương mai cùng những thay đổi tập quán vận
tải.Do đó, cho đến nay INCOTERMS đã được tu chỉnh 7 lần vào các năm 1953, 1967, 1976,
1980, 1990, 2000 và 2010. Điểm đặc biệt cần lưu ý là, INCOTERMS được sửa đổi, bổ sung
nhiều lần, lần sau hoàn thiện và phù hợp với thực tiễn hơn, nhưng không vì thế mà phủ nhận
tính hiệu lực của các lần trước đó. Điều này có nghĩa là, tất cả các INCOTERMS do ICC phát
hành ( bao gồm 8 INCOTERMS) đều còn nguyên hiệu lực thi hành, do đó trong hợp đồng
thương mại, các bên tham gia có quyền chọn bất kì INCOTERMS nào, và phải dẫn chiếu rõ
ràng INCOTERMS mà các bên muốn sử dụng.
Ví dụ: các bên muốn áp dụng INCOTERMS 2010, thì trong hợp đồng mua bán phải có dẫn
chiếu: “The contract is governed by INCOTERMS 2010”
4. Phạm vi điều chỉnh Incoterms và tính chất pháp lý của Incoterms
4.1 Phạm vi điều chỉnh
Trong những vấn đề về quyền và nghĩa vụ của các bên ký kết hợp đồng mua bán lien quan đến
việc giao hàng ( với nghĩa là hàng hữu hình, mà không bao gồm hàng “vô hình” ví dụ như các
phần mềm máy tính…)
6
So sánh Incoterms 2000 và Incoterms 2010
INCOTERMS chỉ giải quyết mối quan hệ giữa người mua và người bán theo hợp đồng mua
bán và chỉ điều chỉnh một số khía cạnh cụ thể trong hợp đồng này. Một thương vụ hoàn thành
cần liên quan đến nhiều hợp đồng khác nhau: như hợp đồng vận tải, hợp đồng bảo hiểm và hợp

đồng tài trợ thương mại, trong khi đó INCOTERMS chỉ liên quan đến một hợp đồng đó là hợp
đồng mua bán hàng hóa. Tuy nhiên, khi đã thỏa thuận áp dụng INCOTERMS, thì
INCOTERMS cũng được áp dụng cho các hợp đồng có iên quan. Ví dụ: với điều kiện CFR
hoặc CIF thì người bán không thể thực iện nghĩa vụ bằng các phương thức vận tải khác với vận
tải bằng đường biển. Hơn nữa, tính phù hợp của bộ chứng từ thanh toán theo L/C (Thư tín
dụng) phụ thuộc vào chứng từ vận tải quy định trong L/C, nên không thể tùy ý lựa chọn
phương thức vận tải khác.
Cho dù INCOTERMS là cực kì quan trọng cho việc thực hiện hợp đồng mua bán, tuy nhiên có
rất nhiều vấn đề mà INCOTERMS lại không điều chỉnh, như việc chuyển nhượng quyền sở
hữu hoặc các quyền về tài sản khác, hành vi vi phạm hợp đồng và hậu quả của những vi phạm
đó cũng như quyền miễn trách trong một số trường hợp. Những điều như vậy phải được điều
chỉnh bằng các quy định cụ thể trong hợp đồng mua bán và theo luật áp dụng.
Về bản chất, INCOTERMS được áp dụng khi mua bán hàng hóa qua biên giới, do đó, nó
bao gồm các điều kiện thương mại quốc tế. Nhưng vì INCOTERMS là văn bản quy phạm pháp
luật tùy ý, nên đôi khi người ta lại dùng nó cho thương mai nội địa, điều này là không khuyến
khích và phải thận trọng khi áp dụng các điều khoản INCOTERMS cho thích hợp.
Trong thực tế, có hai cách hiểu sai lầm phổ biến về INCOTERMS. Thứ nhất,
NCOTERMS thường bị hiểu lầm là áp dụng cho hợp đồng vận tải mà không phải là hợp đồng
mua bán hàng hóa. Thứ hai, đôi lúc INCOTERMS bị coi là bộ quy tắc về mọi nghĩa vụ mà các
bên muốn đưa vào hợp đồng.Ngoài ra, thuật ngữ INCOTERMS còn được gọi bằng các thuật
ngữ khác đan xen như “Shipment Terms”, “Terms of Delivery” hay “Trade Terms”
4.2 Tính chất pháp lý tùy ý của INCOTERMS:
INCOTERMS là văn bản do ICC phát hành, mà ICC là một tổ chức mang tính xã hội
(phi chính phủ) chứ không phải là một tổ chức liên chính phủ, do đó, INCOTERMS không
7
So sánh Incoterms 2000 và Incoterms 2010
mang tính chất pháp lý bắt buộc đối với các hội viên cũng như các bên liên quan. Tính chất
pháp lý tùy ý của INCOTERMS thể hiện ở các điểm chính:
 Tất cả các phiên bản INCOTERMS đều còn hiệu lực, nghĩa là phiên bản sau không
phủ nhận phiên bản trước. Do đó, khi dẫn chiếu INCOTERMS trong hợp đồng mua

bán phải nói rõ là áp dụng INCOTERMS nào.
 Chỉ khi trong hợp đồng mua bán có dẫn chiếu áp dụng INCOTERMS, thì nó mới trở
nên có hiệu lực pháp lý bắt buộc điều chỉnh các bên liên quan.
Các bên có thể thỏa thuận trong các hợp đồng mua bán:
 Không thực hiện, hoặc thực hiện khác đi một hoặc một số điều không quy định trong
INCOTERMS.
 Bổ sung những điều khoản trong hợp đồng mà INCOTERMS không đề cập.
Nếu nội dung INCOTERMS có xung đột với luật quốc gia, thì luật quốc gia vượt lên trên về
mặt pháp lý. Điều này hàm ý, phán quyết của tòa án địa phương có thể phủ nhận các điều
khoản của INCOTERMS.Do là văn bản pháp lý tùy ý, nên ICC sẽ được miễn trách khi có sai
sót, tổn thất phát sinh trong quá trình áp dụng. Các bên liên quan khi áp dụng INCOTERMS
cần phải hiểu thấu đáo nội dung, sử dụng thành thạo kĩ năng nghiệp vụ có liên quan.
Do các mẫu hợp đồng mua bán thường được in sẵn, trong đó có điều khoản áp dụng
INCOTERMS, nên để tránh sự hiểu lầm, khi kí hợp đồng mua bán các bên phải đặc biệt chú ý
đến điều khoản áp dụng INCOTERMS. Nếu điều khoản INCOTERMS in sẵn không thích hợp
(phiên bản cũ), thì phải sửa lại theo ý chí của các bên.
5. Một số lưu ý khi sử dụng INCOTERMS:
Thực tiễn hoạt động thương mai quốc tế và Phòng thương mại quốc tế có đưa ra các
khuyến cáo sau đây cho các bên khi sử dụng INCOTERMS:- INCOTERMS chỉ nên áp dụng
đối với hợp đồng ngoại thương mà không áp dụng cho hợp đồng nội thương.
8
So sánh Incoterms 2000 và Incoterms 2010
INCOTERMS chỉ áp dụng cho hợp đồng mua bán hàng hóa dạng vật chất (hữu hình),
không áp dụng cho hàng hóa phi vật chất (vô hình: vd công nghệ, phần mềm máy tính…)
Các điều kiện INCOTERMS chỉ đề cập những nghĩa vụ chủ yếu có liên quan hàng hóa
như: giao nhận hàng, nghĩa vụ về vận tải hàng hóa, về chuyển và nhận các chứng từ, thủ tục
xuất nhập khẩu, chuyển rủi ro về hàng hóa… Nên INCOTERMS không phải là hợp đồng vận
tải, và cũng không thể thay (Hợp đồng ngoại thương còn phải bao gồm các điều kiện như: giá
cả hàng hóa, bao bì, chất lượng, số lượng, điều kiện thanh toán…)
Không nên sử dụng các tập quán, thói quen thương mại hình thành tự phát trong hoạt

động buôn bán có tính chất địa phương hay khu vực, mà nên sử dụng thống nhất
INCOTERMS. Trường hợp, nếu các bên muốn áp dụng khác đi so với quy định của
INCOTERMS, thì phải quy định rõ ràng những điểm khác đó trong hợp đồng ngoại thương, ví
dụ như về chi phí bốc, dỡ, san, xếp hàng, thuê tàu, địa điểm chuyển rủi ro.
Xét từ lợi ích kinh tế vĩ mô và vi mô (tiết kiệm hoặc tăng thu ngoại tệ), khi tham gia xuất
nhập khẩu, chúng ta nên giành được quyền thuê phương tiện vận tải và mua bảo hiểm hàng
hóa. Hiện nay, ở Việt Nam, khoảng trên 80% các thương vụ, doanh nghiệp khi xuất khẩu lựa
chọn điều kiện FOB, còn nhập khẩu thì lựa chọn điều kiện CFR hoặc CIF là điều không có lợi.
Các doanh nghiệp thường cho rằng: xuất khẩu theo FOB mau chuyển rủi ro sang cho người
mua, nhập khẩu hàng hóa theo CFR hoặc CIF an toàn hơn vì người bán nước ngoài phải chịu
rủi ro đến tận cảng nhập khẩu. Nhưng theo quy tắc của INCOTERMS 2000, thì nơi chuyển rủi
ro của cả 3 điều kiện FOB, CFR và CIP đều là lan can tàu tại cảng bốc hàng.Vì những lí do bất
lợi do không giành được quyền thuê phương tiện vận tải khi lựa chọn điều kiện thương mại,
các doanh nghiệp Việt Nam cần thay đổi khi xuất khẩu nên chọn nhóm điều kiện C còn khi
nhập khẩu nên chọn nhóm điều kiện F.
9
So sánh Incoterms 2000 và Incoterms 2010
II. SO SÁNH GIỮA INCOTERMS 2000 VÀ INCOTERMS 2010
1. Điểm giống nhau:
• Có 07 điều kiện thương mại: EXW, FAS, FOB, CFR, CIF, CPT, CIP Khuyến
cáo áp dụng phương tiện thủy đối với các điều kiện: FAS, FOB, CFR, CIF.
• Áp dụng với các loại phương tiện vận tải và vận tải đa phương thức đối với các
điều kiện: CPT, CIP, DDP
• Cả Incoterms 2000 và Incoterms 2010 đều không phải là luật. Các bên có thể áp
dụng hoàn toàn, hoặc có thể áp dụng một phần, nhưng khi áp dụng ghi rõ trong
hợp đồng, những điều áp dụng khác đi nhất thiết phải mô tả kỹ trong hợp đồng.
10
So sánh Incoterms 2000 và Incoterms 2010
2. Điểm khác nhau:
2.1. Bảng tóm tắt:


Sự khác nhau 2000 2010
Tiêu đề ấn bản

Incoterms 2000

Incoterms
R
2010

Nhóm

Có 4 nhóm: nhóm E, F,C,D Có 2 nhóm: các điều kiện áp dụng
cho mọi phương thức vận tải. và các
điều kiện áp dụng cho vận tải biển
và đường thủy nội địa

Điều kiện Có 13 điều kiện Có 11 điều kiện: hai điều kiện mới
DAT thay thế cho điều kiện DEQ
DAP thay thế cho DAF, DES, DDU.
Thông tin điện tử Chỉ rõ những chứng từ có thể được
thay thế bằng thông điệp dữ liệu
điện tử
Cho phép trao đổi thông tin bằng
điện tử có hiệu lực tương đương với
trao đổi thông tin bằng giấy, miễn là
2 bên chấp nhận
Bán hàng theo chuỗi

Không đề cập Đề cập đến “bán hàng theo chuỗi”.

Đưa thêm nghĩa vụ “ mua hàng đã
gửi”
Địa điểm giao hàng FOB, CFR, CIF đề cập đến lan can
tàu như 1 địa điểm giao hàng để
phân chia trách nhiệm, nghĩa vụ
của 2 bên
Loại bỏ mọi cách xem lan can tàu
như một địa điểm giao hàng
Phạm vi áp dụng
Chỉ đề cập và áp dụng cho ngoại
thương
Đề cập và áp dụng incoterms cho
việc buôn bán ngoại thương và cả
nội địa
11
So sánh Incoterms 2000 và Incoterms 2010
Bảo hiểm Điều kiện bảo hiểm còn chung
chung, chưa rõ ràng
Điều kiện bảo hiểm được thể hiện rõ
ràng, cụ thể ở các mục B3/B10
Thủ tục an ninh Không qui định hay đề cập đến Qui định về nghĩa vụ làm thủ tục an
ninh và các thông tin để thực hiện
nghĩa vụ giữa các bên.
Cấu trúc trình bày  A1 cung cấp hàng theo hợp
đồng và hóa đơn thương mại theo
hợp đồng.
 B1 thanh toán tiền hàng.
 A1 nghĩa vụ chung của ng
bán
 B1 nghĩa vụ chung của người

mua
A2/b2 giấy phép và các thủ tục
A2/B2 giấy phép, kiểm tra an ninh
và các thủ tục khác
A10/B10 các nghĩa vụ khác
A10/B10 hỗ trợ thông tin và chi phí
liên quan

II.2. Những điểm khác nhau cụ thể:
2.2.1. Incoterms 2011 bỏ 4 điều khoản trong Incoterms 2000
Xu hướng container hóa và giao hàng từ điểm này đến điểm khác ngày càng nhiều
dường như đã khiến cho ICC phải có những sửa đổi quan trọng và đưa ra hai điều khoản mới
“đã giao hàng”:
• Delivered At Place (DAP) được sử dụng thay cho DAF, DES và DDU
 Delivered At Terminal (DAT) thay thế cho DEQ.
Những điều khoản này có thể được sử dụng với bất kì phương thức vận tải nào. Một lí
do có ít điều khoản hơn đơn giản là các bên thường chọn “nhầm” điều khoản hoặc lẫn lộn các
điều khoản, dẫn đến các hợp đồng có nội dung mẫu thuẫn hoặc không rõ ràng.
Đối với cả hai điều khoản mới – Delivered At Place (DAP) và Delivery at Terminal
(DAT) – việc giao hàng diễn ra tại điểm đích đã xác định.
12
So sánh Incoterms 2000 và Incoterms 2010
Qui tắc mới DAP trong Incoterms 2010 bao gồm tất cả các trường hợp người bán giao
hàng cho người mua trên phương tiện vận tải đến mà chưa dỡ hàng xuống, là những trường hợp
trước đó được qui định bởi các điều khoản DAF, DES cũng như tất cả các trường hợp giao
hàng tại cơ sở của người mua hay điểm đích nào khác tại nước của người mua mà trước đó
được qui định bởi điều khoản DDU.
Đối với điều khoản DAP, “phương tiện vận tải đến” cũng có thể là một con tàu, và
“điểm đích xác định” có thể là cảng dỡ.
Với qui tắc mới DAT của Incoterms 2010 việc giao hàng diễn ra khi hàng hóa được giao

vào quyền định đoạt của người mua tại ga/trạm xác định tại cảng hoặc tại điểm đích chưa được
dỡ xuống khỏi phương tiện vận tải đến. Điều khoản DAT của Incoterms 2010 thay thế cho điều
khoản DEQ trước đó của Incoterms 2000 (Delivered Ex Quay) vốn chỉ phù hợp cho hàng
nguyên liệu.
Incoterms 2000 không có giải pháp thỏa đáng cho các điều khoản “D” đối với trường
hợp hàng hóa được giao mà chưa dỡ xuống khỏi phương tiện vận tải đến tại trạm/ga. Điều
khoản mới DAT của Incoterms 2010 (Delivered at Terminal) đã giải quyết được vấn đề này và
bao gồm tất cả các trường hợp trước đó được qui định bởi điều khoản DEQ. “Trạm xác định”
trong điều khoản DAT có thể là cầu cảng tại cảng dỡ hoặc trạm container tại cảng dỡ.
II.2.2. Incoterms 2010 đưa ra hai loại điều khoản thay vì bốn loại như trước kia 11
điều khoản được chia thành hai loại:
Giao hàng bằng bất kì phương thức vận tải nào (vận tải biển, đường bộ, hàng không, đường sắt,
đa phương thức) – EXW, FCA, CPT, CIP, DAP, DAT và DDP
Giao hàng bằng vận tải đường biển/đường thủy nội địa – FAS, FOB, CFR và CIF
II.2.3. Các quy tắc được điều chỉnh
Bộ qui tắc Incoterms mới được nêu rõ là có thể sử dụng “cả cho thương mại quốc tế và
thương mại nội địa”. Điều này là nhờ những câu trong các qui tắc rằng nghĩa vụ thực hiện các
thủ tục hải quan xuất nhập khẩu chỉ tồn tại trong trường hợp có liên quan đến xuất nhập khẩu.
13
So sánh Incoterms 2000 và Incoterms 2010
II.2.4. Các ghi chép điện tử
Các nghĩa vụ của người bán và người mua trong việc cung cấp các chứng từ hợp đồng
giờ đây có thể được thực hiện bằng “bản điện tử nếu các bên đồng ý hoặc đó là tập quán”, phản
ánh sự thừa nhận của ICC về tầm quan trọng ngày càng tăng và tính chắc chắn về hợp đồng
(nhờ tốc độ chuyển thông tin nhanh chóng) mà giao tiếp bằng điện tử mang lại. Điều này cũng
đảm bảo sự phù hợp của INCOTERMS 2010 trong tương lai khi các giao tiếp/thủ tục điện tử
ngày càng phát triển.
INCOTERMS 2000 yêu cầu người bán và người mua phải thống nhất rõ ràng là sẽ giao
tiếp với nhau bằng đường điện tử để trao đổi dữ liệu điện tử tương đương và chấp nhận chúng
như bằng chứng về chứng từ giao hàng/vận tải.

II.2.5. Các điều khoản bảo hiểm hàng hóa chuẩn
Khi một điều khoản trong Incoterms 2010 yêu cầu người bán phải mua bảo hiểm, thì các
yêu cầu bảo hiểm đều đã được sửa đổi để phản ánh những sửa đổi trong các điều khoản bảo
hiểm hàng hóa chuẩn. Nghĩa vụ của các bên về bảo hiểm cũng đã được làm rõ: chỉ theo CIF và
CIP thì người bán mới có nghĩa vụ mua bảo hiểm vì quyền lợi của người mua, tuy nhiên trong
tất cả các điều khoản giao hàng, các bên đều có nghĩa vụ cung cấp cho bên kia, nếu có yêu cầu,
những thông tin cần thiết để mua bảo hiểm hay mua them bảo hiểm cho hàng hóa (hoặc tự mua
hoặc nhờ bên kia mua hộ vì lợi ích của mình). Các qui tắc Incoterms 2010 qui định về nghĩa vụ
cung cấp thông tin trong các Điều A3/B3, là những điều nói về kí kết hợp đồng vận tải và bảo
hiểm. Những điều này giờ đây đã được tách khỏi những điều qui định chung trong phần
A10/B10 của các qui tắc Incoterms 2000. Ngôn ngữ trong các điều A3/B3 liên quan đến bảo
hiểm cũng đã được sửa đổi để làm rõ nghĩa vụ của các bên về vấn đề này.
II.2.6. An ninh
Vấn đề an ninh hàng hóa/tàu biển, v.v giờ đây là mối quan tâm hàng đầu của mọi người
khi nói đến thương mại quốc tế. Vì ngày nay hầu hết các nước đều yêu cầu kiểm tra an ninh
nghiêm ngặt nên các qui tắc thương mại quốc tế cũng yêu cầu cả hai bên đều phải cung cấp tất
cả những thông tin cần thiết (như thông tin về những người cầm giữ hàng hóa trong quá trình
14
So sánh Incoterms 2000 và Incoterms 2010
vận chuyển) để làm thủ tục thông quan xuất nhập khẩu. Các qui tắc cũng phân bổ rõ ràng các
chi phí có liên quan.
Trong các qui tắc A2/B2 và A10/B10 của mỗi điều khoản Incoterms, nghĩa vụ của người
bán và người mua về thông tin cần cung cấp cho bên kia hay sự hỗ trợ để lấy được thông tin đó
cũng được nêu rõ. Các phiên bản Incoterms trước đây không yêu cầu chi tiết về mức độ hợp tác
như vậy.
II.2.7. Các khoản phí bốc xếp tại ga/trạm
Trong trường hợp người bán phải thuê và thanh toán cho việc vận chuyển hàng hóa đến
một điểm đích nhất định (CIP, CPT, CFR, CIF, DAT, DAP và DDP), có thể các chi phí bốc
xếp hàng hóa đã được chuyển sang cho người mua thông qua giá cả của hàng hóa. Tuy nhiên,
từ trước đến nay, trong một số trường hợp, người mua vẫn có thể phải thanh toán khoản này

cho nhà ga (tức là chịu phí hai lần).
INCOTERMS® 2010 đã cố gắng khắc phục tình trạng này bằng cách làm rõ ai sẽ chịu
trách nhiệm thanh toán các chi phí ở ga/trạm. Tuy nhiên, vẫn phải chờ thêm một thời gian nữa
để xem liệu qui định của Incoterms có chấm dứt được tình trạng người mua phải chịu phí hai
lần như trước nữa hay không.
II.2.8. Bán hàng dây chuyền
Trong các hợp đồng mua bán “hàng nguyên liệu” (khác với hàng chế tạo), thường có
trường hợp hàng hóa được bán tiếp một vài lần trong quá trình vận chuyển (tức là bán dây
chuyền, hay bán hàng trong quá trình vận chuyển). Trong những trường hợp như vậy, người
bán ở giữa dây chuyền không phải là người gửi hàng đi, bởi vì hàng đã được gửi đi bởi người
bán ở đầu dây chuyền. Do đó, nghĩa vụ của người bán ở giữa dây chuyền là mua hàng hóa mà
đã được gửi đi. Bộ INCOTERMS mới làm rõ điều này bằng cách cho thêm cụm từ “nghĩa vụ
mua hàng hóa đã được gửi đi” như một nghĩa vụ thay thế cho nghĩa vụ gửi hàng. Điều này phù
hợp với các trường hợp FAS, FOB, CFR và CIF vì về nguyên tắc nó chỉ có thể được thực hiện
khi sử dụng vận đơn hay một chứng từ sở hữu có tính chất tương đương.
15
So sánh Incoterms 2000 và Incoterms 2010
II.2.9. Lưu ý hướng dẫn sử dụng Incoterms 2010
Trong ấn phẩm Incoterms® 2010, bạn sẽ thấy có một phần Lưu ý hướng dẫn trước mỗi
điều khoản. Phần lưu ý này giải thích những nội dung căn bản của mỗi điều khoản. Các lưu ý
hướng dẫn không phải là một phần của các qui tắc trong Incoterms 2010, mà chỉ nhằm mục
đích giúp cho người sử dụng hiểu rõ hơn về các qui tắc này.
Ví dụ, lưu ý hướng dẫn cho các điều khoản CPT và CIP Incoterm 2010 nhấn mạnh rằng
theo những điều khoản này, người bán được coi là hoàn thành nghĩa vụ giao hàng của mình khi
anh ta giao hàng cho người vận tải chứ không phải là khi hàng đến điểm đích. Những qui tắc
này có hai điểm mấu chốt, bởi vì rủi ro và chi phí được chuyển giao ở các địa điểm khác nhau.
Rủi ro đối với hàng hóa được chuyển từ người bán sang người mua khi hàng được giao cho
người vận tải đầu tiên, tuy nhiên người bán cũng chịu trách nhiệm thuê hay mua hợp đồng vận
tải hàng hóa đến điểm đích xác định. Tương tự như vậy, với các điều khoản CFR và CIF trong
Incoterms 2010, rủi ro và chi phí được chuyển giao ở những nơi khác nhau.

II.2.10. Điểm chuyển giao rủi ro từ người bán sang người mua trong các
trường hợp FOB, CFR, CIF
Các điều khoản FOB, CFR và CIF của Incoterms 2011 đều bỏ phần nói đến lan can tàu
như là điểm giao hàng, thay vào đó là nói đến hàng được giao “lên boong” tàu. Điều này phản
ánh chính xác hơn thực tế thương mại hiện đại và tránh hình ảnh lỗi thời của việc tưởng tượng
rủi ro đang “treo lơ lửng và đung đưa” qua lại một đường tưởng tượng (là lan can tàu).
II.2.11. Sử dụng cụm từ đóng gói
Đã được đóng gói: từ này được sử dụng cho các mục đích khác nhau:
 Đóng gói hàng hóa theo yêu cầu trong hợp đồng mua bán.
 Đóng gói hàng hóa sao cho phù hợp với việc vận chuyển.
 Việc xếp hàng đã đóng gói trong container hay các phương tiện vận tải khác.
16
So sánh Incoterms 2000 và Incoterms 2010
Trong các qui tắc Incoterms 2010, đóng gói có cả hai nghĩa thứ nhất và thứ hai nêu trên.
Incoterms 2010 không nói đến nghĩa vụ của các bên trong việc xếp hàng vào container và do
đó các bên liên quan phải thống nhất cụ thể về vấn đề này trong hợp đồng mua bán.
17
So sánh Incoterms 2000 và Incoterms 2010
Sơ đồ trách nhiệm hai bên ở Incoterms 2000
 Vì sao Incoterms 2010 ra đời?
Có 06 nguyên nhân sau đây:
18
So sánh Incoterms 2000 và Incoterms 2010
+ Nhiều điều kiện thương mại của Incoterms 2000 ít được sử dụng
+ Cách giải thích ở nhiều điều kiện thương mại Incoterms 2000 chưa rõ, khiến cho các doanh
nghiệp chưa nắm chính xác được nghĩa vụ chi phí có liên quan đến giao nhận ngoại thương dẫn
tới sử dụng chưa hiệu quả, tranh chấp xung quanh sử dụng Incoterms còn khá phổ biến. Ví dụ:
Hội đồng chủ hàng châu Á (ASC ) muốn Bộ điều kiện Thương mại do ICC phát hành mới năm
2010 phải xác định rõ ràng những yếu tố tạo thành chuyến hàng FOB để các nhà vận chuyển
hàng hóa đường biển không thể đánh các phụ phí đối với người bán hàng. Những loại phí này

điển hình là các phí bao gồm như phụ phí xếp dỡ container (Terminal handling charges - THC),
phí chứng từ, hoặc thậm chí là phí tắc nghẽn cảng ….
+ Quy tắc bảo hiểm hàng hóa chuyên chở mới có hiệu lực từ 1/01/2009 được hoàn thiện từ
Quy tắc ban hành năm 1982 .
+ Quy định về an ninh hàng hóa sau sự kiện khủng bố ngày 11/9 tại Hoa kỳ
+ Năm 2004 Quy tắc điều chỉnh hoạt động thương mại của Hoa kỳ đã hoàn thiện và cho ra đời
bộ quy tắc mới. Nhiều chuyên gia làm luật thương mại của Hoa kỳ phối hợp với các chuyên gia
của VCCI hoàn thiện và xây dựng Incoterms 2010. Có thể nói nội dung của Incoterms 2010 có
nhiều điểm tương đồng nhất với Bộ quy tắc: “The 2004 revision of the United States' Uniform
Commercial Code” so với Incoterms 1990 hay Incoterms 2000.
+ Sự thay thế nhanh chóng các chứng từ giấy tờ bằng chứng từ điện tử cũng là nguyên nhân
thúc đẩy Incoterms được điều chỉnh đúng chu kỳ là 10 năm/lần.
III. THỰC TRẠNG SỬ DỤNG INCOTERMS Ở VIỆT NAM:
1. Thực trạng và rủi ro.
Ở Việt Nam,các giao dịch trong thời gian vừa qua, phần lớn các doanh nghiệp chỉ thực
hiện xuất khẩu theo điều kiện FOB, nhập khẩu theo điều kiện CIF. Điều này khiến cho các
19
So sánh Incoterms 2000 và Incoterms 2010
doanh nghiệp của ta gặp nhiều rủi ro trong hoạt động xuất-nhập khẩu, mà rủi ro ở CIF thường
nhiều hơn FOB.
Khi mua hàng với điều kiện giao hàng CIF người mua có thể chịu rủi ro như:
Thứ nhất, người bán có thể thiết lập một bộ chứng từ giả để yêu cầu thanh toán, nhưng
trên thực tế không giao hàng.
Thứ hai, người bán đã giao hàng một cách thiện chứ, tuy nhiên hàng không bao giờ đến
được địa chỉ của người mua.
Thứ ba, trong rất nhiều trường hợp người mua không kiểm tra chất lượng hàng hóa và
người bán cố tình giao hàng kém chất lượng hoặc không đúng số lượng.
Thứ tư, người vận chuyển không giao hàng cho người mua vì người bán còn nợ tiền vận
chuyển.
Ví dụ:

Ngày 31/3/2003, Công ty Du lịch (CTDL) Bình Định ký kết hợp đồng mua bán với Công ty
CNR Trading Co.LTD (Hàn Quốc) để mua lô hàng gồm 4 xe đầu kéo đã qua sử dụng. Theo
hợp đồng, hàng sẽ được giao theo điều kiện C.I.F cảng TP Hồ Chí Minh.
Công ty CNR đã thuê hãng tàu Bright Shipping Co.LTD (Hàn Quốc) vận chuyển lô hàng nói
trên về Cảng Lotus TP Hồ Chí Minh. Ngày 2/6/2003, CTDL Bình Định nhận được thông báo
hàng đến của đại lý hãng tàu Bright Shipping tại Việt Nam là Công ty cổ phần Thương mại vận
tải (CPTMVT) OST có trụ sở đóng tại TP Hồ Chí Minh, kèm theo đó, công ty này cũng yêu
cầu CTDL Bình Định mang vận đơn đường biển bản chính đến công ty để nhận lệnh giao hàng.
Ngày 11/6/2003 CTDL Bình Định đã đề nghị ngân hàng đại diện của mình thanh toán tổng số
tiền theo hợp đồng cho phía bán hàng và nhận bản chính vận đơn đường biển. Trên vận đơn
này có ghi rõ cước phí đã trả. Tuy nhiên, khi đại diện CTDL Bình Định mang vận đơn đường
biển đến Công ty CPTMVT OST để nhận lệnh giao hàng thì ở đây không chịu giao với lý do:
20
So sánh Incoterms 2000 và Incoterms 2010
chưa nhận được chỉ thị từ phía hãng tàu. Ngày 29/12/2003, sau khi CTDL cử luật sư sang làm
việc thì phía Công ty CPTMVT OST mới đưa ra được một e.mail cho rằng của hãng tàu với nội
dung: giữ lại lệnh giao hàng vì người gửi hàng còn nợ chủ tàu khoảng 10.000 USD cho 2 vận
đơn (trong đó có vận đơn vận chuyển hàng của CTDL Bình Định). Tiếp sau đó, ngày 4/2/2004
Công ty CPTMVT OST tiếp tục gửi cho CTDL Bình Định một e.mail khác, lần này xác định
CTDL Bình Định phải giao cho Công ty CPTMVT OST 13.500 USD để đổi lấy lệnh giao
hàng.
Luật sư Trương Hoài Tâm - Đoàn Luật sư TP Hồ Chí Minh: Đây là loại hợp đồng mua bán
ngoại thương, các bên thỏa thuận phương thức giao hàng là C.I.F tức người bán có trách nhiệm
thuê tàu, mua bảo hiểm hàng hóa và giao hàng tại cảng thỏa thuận đúng thời hạn, chất lượng
và số lượng quy định trong hợp đồng.
Trong trường hợp này, người mua đã mở L/C (Thư tín dụng), nếu người mua không nhận được
hàng thì do lỗi phía bên bán. Người mua có thể kiện người bán theo điều khoản các bên đã thỏa
thuận trong hợp đồng. Đồng thời, nếu lỗi thuộc về hãng tàu thì bên mua cũng có quyền kiện
hãng tàu với tư cách là người có quyền và nghĩa vụ có liên quan tại cơ quan pháp luật hoặc các
cơ quan tài phán quốc tế.

Ông Trịnh Xuân - Giám đốc CTDL Bình Định chi nhánh TP Hồ Chí Minh bức xúc: "Việc
Công ty CPTMVT OST cho rằng hãng tàu của họ viện lý do Công ty CNR Trading Co.LTD
còn nợ hãng tàu tiền vận chuyển 2 vận đơn, trong đó có 1 vận đơn vận chuyển hàng của chúng
tôi để không giao lệnh giao hàng là hoàn toàn vô lý bởi trên vận đơn mà bên Công ty CNR
Trading Co.LTD gửi cho chúng tôi đã ghi "cước phí đã trả" thì không có lý do gì bên bán còn
nợ hãng tàu số tiền như trên. Hơn nữa, việc gộp nợ cả 2 vận đơn trong đó có 1 vận đơn không
liên quan gì đến công ty chúng tôi để không giao hàng lại là cách làm việc thiếu thiện chí của
chủ tàu cũng như Công ty CPTMVT OST. Mâu thuẫn hơn, trong e.mail gửi ngày 29/12/2003
thì cho rằng phía chủ hàng còn nợ số tiền 2 vận đơn khoảng 10.000 USD nhưng ở e.mail sau
thì cho rằng chỉ riêng vận đơn vận chuyển lô hàng cho công ty chúng tôi thôi số tiền đã lên đến
13.500 USD. Như vậy, con số nào đúng? Theo tôi được biết thì với lô hàng của chúng tôi, tiền
21
So sánh Incoterms 2000 và Incoterms 2010
vận chuyển cao nhất cũng chưa đến 4.000 USD thì làm gì có chuyện nợ đến số tiền 13.500
USD (!?)". Cũng theo ông Trịnh Xuân, tính đến thời điểm này, tổng thiệt hại từ việc chậm giao
hàng đã lên đến hơn 10.000 USD.
Đây là một tranh chấp trong tư pháp quốc tế, liên quan đến luật hàng hải và các thông lệ hàng
hải quốc tế. Việc xảy ra những tranh chấp loại này rất cần thiện chí thương lượng từ phía các
bên để đi đến những giải pháp tốt nhất nhằm bảo đảm hiệu quả và uy tín kinh doanh giữa các
bên. Tuy nhiên, trong trường hợp này, phía Công ty CPTMVT OST đã đưa ra những lý do
thiếu thuyết phục để cố tình ghìm lô hàng của CTDL Bình Định và cho đến hôm nay, những
giải pháp tốt nhất vẫn chưa được các bên thống nhất.
Căn cứ vào Bộ luật Hàng hải Việt Nam, căn cứ vào các quy định của hợp đồng, Bộ luật Dân sự
Việt Nam, Tập quán Thương mại quốc tế, trong trường hợp này hãng tàu đã vi phạm vì các lý
do sau:
- Ngay khi nhà nhập khẩu thanh toán cho nhà xuất khẩu để đổi lấy bộ chứng từ thì số hàng hóa
này đã thuộc quyền sở hữu của nhà nhập khẩu.
- Tại Điều 81 Bộ luật Hàng hải Việt Nam quy định: "Vận đơn gốc là chứng từ có giá trị dùng
để định đoạt và nhận hàng". Như vậy, một khi nhà nhập khẩu - ở đây là CTDL Bình Định sở
hữu duy nhất vận đơn gốc thì duy nhất chỉ có chủ thể này có quyền định đoạt hàng hóa ghi trên

vận đơn này.
- Hợp đồng đã quy định: Hàng được giao theo điều kiện C.I.F. Như vậy, theo Quy định của
Incoterms 2000, người bán có trách nhiệm thuê tàu và thanh toán cước phí vận chuyển cho toàn
bộ lô hàng. Chỉ có như thế hàng mới được chủ tàu vận chuyển, nếu người bán không thanh
toán cước phí liệu chủ tàu có vận chuyển?
Với chức năng và nhiệm vụ của một đại lý tàu biển thì Công ty CPTMVT OST nên biết ai phải
có trách nhiệm thanh toán với hãng tàu theo hợp đồng và các thông lệ quốc tế. Nếu các bên
không thương lượng được, vụ việc phải đưa ra trọng tài hoặc tòa án giải quyết thì đây sẽ là một
22
So sánh Incoterms 2000 và Incoterms 2010
vụ việc khá mới mẻ và phức tạp. Các doanh nghiệp Việt Nam khi tham gia vào các hợp đồng
ngoại thương nên cảnh giác để tránh rơi vào trường hợp rắc rối như thế này.
Chúng ta cần phải hiểu rõ Phương thức và cách thức giao hàng theo điều kiện CIF, nhập khẩu
theo điều kiện FOB đem lại lợi ích cho Quốc gia và Doanh nghiệp.
a) Xuất khẩu theo Điều kiện CIF:
Lợi ích đối với quốc gia: Theo bảng minh hoạ dưới đây, nếu trong năm 2007, giả sử tất cả
các doanh nghiệp trong toàn quốc đều xuất khẩu theo điều kiện CIF, chúng ta sẽ xuất khẩu
được 50,86 tỷ USD, thay vì chỉ xuất khẩu được 47,54 tỷ USD theo điều kiện FOB, như kế
hoạch của Bộ Công Thương. Phần ngoại tệ tăng thêm 3,32 tỷ USD cho quốc gia là do thu được
tiền bảo hiểm và cước tầu.
Bảng phân tích số liệu XK theo điều kiện CIF - NK theo điều kiện FOB.
Năm 2007 Điều kiện FOB
(Tỷ USD)
Bảo hiểm (I) +
Cước vận tải
(F)
(Tỷ USD)
Điều kiện CIF Cán cân xuất
siêu dự kiến
(Tỷ USD)

Xuất khẩu 47,54 (+) 3,32 50,86 (+) 2,31
Nhập khẩu 48,55 (-) 3,65 52,20
Lợi ích đối với doanh nghiệp:
Đối với doanh nghiệp xuất khẩu trực tiếp: Nếu xuất khẩu theo điều kiện CIF, sẽ thu được
trị giá ngoại tệ cao hơn, so với việc xuất khẩu theo điều kiện FOB. Ngoài ra, nếu doanh nghiệp
thiếu vốn, có thể dùng thư tín dụng (L/C) thế chấp tại ngân hàng, sẽ vay được số tiền cao hơn.
Doanh nghiệp rất chủ động trong việc giao hàng, không phải lệ thuộc vào việc điều tầu (hoặc
container) do người nhập khẩu chỉ định. Đôi khi vì lệ thuộc vào khách nước ngoài, tầu đến
chậm làm hư hỏng hàng hoá đã tập kết tại cảng hoặc trong kho, nhất là hàng nông sản.
Đối với doanh nghiệp cung cấp dịch vụ bảo hiểm và tầu (hoặc container): Các công ty
này của Việt nam rất thiếu việc làm, nếu các nhà xuất khẩu liên hệ mua bảo hiểm hàng hoá và
thuê tầu (container) trong nước, chắc chắn sẽ làm tăng doanh số cho các doanh nghiệp này, giải
23
So sánh Incoterms 2000 và Incoterms 2010
quyết thêm việc làm cho cộng đồng của chúng ta, hơn là để các công ty nước ngoài thu được
phí bảo hiểm và cước tàu.
Lợi ích đối với các cán bộ nghiệp vụ trong các doanh nghiệp xuất nhập khẩu: Theo thông
lệ của các công ty bảo hiểm và hãng tầu, luôn luôn trích lại một tỷ lệ gọi là “tiền hoa hồng -
commission” cho những người giao dịch trực tiếp với họ. Số tiền này không hề ảnh hưởng đến
tiền hàng (cost) của doanh nghiệp. Thay vì phí bảo hiểm và cước tầu nước ngoài được hưởng,
nếu các cán bộ nghiệp vụ trình Giám đốc phương án xuất khẩu theo điều kiện CIF, thì họ rất
xứng đáng được nhận khoản hoa hồng trên, chúng ta không nên coi đó là tiền hối lộ, như lâu
nay nhiều người thường quan niệm.
b) Nhập khẩu theo điều kiện FOB:
Lợi ích cho quốc gia: Nếu tất cả các doanh nghiệp trong nước nhập khẩu theo điều kiện
FOB, kim ngạch nhập khẩu trong năm 2007 của cả nước chỉ là 48,55 tỷ USD, thay vì 52,20 tỷ
USD nhập khẩu theo điều kiện CIF. Số ngoại tệ nhập khẩu giảm (-) 3,65 tỷ USD, do chúng ta
tiết kiệm được tiền bảo hiểm và cước tầu phải trả cho nước ngoài.
Lợi ích đối với doanh nghiệp trực tiếp nhập khẩu: Các doanh nghiệp trả tiền ký quỹ để
mở L/C ít hơn nếu nhập khẩu theo điều kiện CIF. Nếu nhập khẩu theo điều kiện CIF, khi khách

nước ngoài giao hàng, sau 3 ngày họ đã điện đòi tiền. Nếu nhập khẩu theo điều kiện FOB, khi
hàng cập cảng, doanh nghiệp nhập khẩu mới phải trả tiền cước tầu, doanh nghiệp không bị tồn
vốn, hoặc không phải trả lãi vay ngân hàng cho khoản tiền cước Như vậy việc xuất khẩu theo
điều kiện CIF, nhập khẩu theo điều kiện FOB, đã tạo ra lợi ích cho quốc gia, cho doanh nghiệp
và cho cá nhân. Đối với quốc gia có thể làm thay đổi cán cân giữa xuất khẩu và nhập
khẩu,giảm được nhập siêu như n ước ta hiện nay. Theo ví dụ trên, giả sử thực hiện theo điều
kiện tuyệt đối, chúng ta sẽ xuất khẩu được 50,86 tỷ USD trị giá CIF, nhập khẩu 48,55 tỷ USD
trị giá FOB, cán cân thương mại sẽ nghiêng về xuất khẩu, tăng (+) 2,31 tỷ USD so với nhập
khẩu.
24
So sánh Incoterms 2000 và Incoterms 2010
2. Nguyên nhân
Có 2 nguyên nhân dẫn đến thói quen này của các doanh nghiệp ta:
- Thiếu thông tin về bảo hiểm và giá cước tầu hoặc container.
- Tâm lý cán bộ nghiệp vụ ngại chào hàng theo điều kiện CIF, vì phải tính toán tỷ lệ phí
mua bảo hiểm và cước tầu (hoặc container), do đó các doanh nghiệp của ta chỉ chào hàng theo
điều kiện FOB, vì giao hàng lên tầu là hết trách nhiệm. Nếu nhập khẩu, thường đề nghị khách
nước ngoài chào hàng theo điều kiện CIF, hoặc CFR (giá hàng và cước phí).
Ngoài ra còn có các nguyên nhân như:
- Các Công ty Việt nam hiện giờ còn quá nhỏ và non trẻ so với các đối tác trên thế giới,
do đó không có trọng lượng trên bàn đàm phán nên không dành được quyền thuê tàu.
- Nhiều Công ty nhỏ, công ty gia đình còn nhầm lẫn về việc miễn trách nhiệm rủi ro ở
điều kiển C
- Đội tàu trong nước chưa đủ mạnh so với các hãng tàu khác trên thế giới.
- Nhiều người làm ngoại thương chưa hiểu về về nghiệp vụ vận tải, nên e ngại trong việc
thuê tàu chở hàng đi hay thuê tàu nhận hàng về, thường là muốn đơn giản hoá bằng cách giao
nhận hàng ngay tại cảng của mình.
- Do thói quen buôn bán.
- Do năng lực kinh doanh yếu: Không biết cách thuê tàu, mua bảo hiểm cho hàng hoá,
thêm nữa nhiều nhà kinh doanh không am hiểu về nghiệp vụ ngoại thương lại cho rằng: nếu

xuất khẩu theo FOB, hàng lên tàu rồi là người xuất khẩu hết nghĩa vụ có thể được thanh toán
được tiền hàng ngay,và cũng hiểu lầm rầng; nếu xuất khảu theo điều kiện CFR hoặc CIF thì
cần phải giao hàng tận cảng đích cho nhà nhập khẩu mới được thanh toán. Còn nhập khẩu theo
điều kiện CFR hoặc CIF thì được nhận hàng an toàn tại cảng VN, giảm bớt rủi ro trong quá
25

×