Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

khủng hoảng tài chính thế giới những nguyên nhân, cách ngăn ngừa và khắc phục

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (222.63 KB, 25 trang )

KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH THẾ GIỚI:
NHỮNG NGUYÊN NHÂN, CÁCH NGĂN NGỪA
VÀ KHẮC PHỤC
Bởi LAWRENCE H. SUMMERS *

Dale Jorgenson đã dành cho tôi một niềm vinh dự lớn và thách thức không nhỏ
khi mời tôi diễn thuyết.: một niềm vinh dự lớn vì danh sách dài những nhà kinh tế lỗi lạc,
họ có thứ tự trước tôi, thách thức là tiêu chuẩn mà họ đặt ra, và bởi vì bất cứ một nhà
khoa học không có thách thức nào lớn hơn bằng việc đưa ra một báo cáo mạch lạc trong
những sự kiện quan trọng với những nhà khoa học ngang hàng với mình.
Đôi khi các bạn tôi hỏi tôi về sự khác nhau giữa cuộc sống như một viện sĩ và
cuộc sống của một viên chức. Có rất nhiều sự khác nhau. Tôi đưa ra hai điểm. Trước
tiên, như là một viện sĩ , một trong những tội lỗi có thể mắc phải là ký tên vào một cái gì
mà thực chất mình không viết. Như là một công chức, đó là một sự đánh dấu của hiệu
quả để làm càng thường xuyên càng tốt. Thứ hai, là một viễn sĩ, nếu có một vấn đề quá
khó và không tìm được một giải pháp thõa đáng, thì sẽ có một câu trả lời rõ ràng: làm
việc trên vấn đề khác biệt . Đó không phải là một nét xa xỉ mà một chính phủ phải có.
Tôi đã được nhắc nhở điều này thường xuyên những năm gần đây bởi vì chúng ta
đang vật lộn với khủng hỏang tài chính, trong số đó nổi bậc là thị trường kì hạn không
kiểm soát được. Bất cứ ai nghi ngờ tầm quan trọng trong xã hội về những gì nhà kinh tế
làm thì nên xem xét các cuộc tranh luận xung quanh những cuộc khủng hỏang này. Hàng
trăm ngàn người có tiêu chuẩn sống gia tăng nhanh chóng thì lại bị tụt giảm. hàng trăm
ngàn nếu không phải là hàng triệu trẻ em buộc phải nghỉ học và đi làm; hàng trăm tỷ đô
la của tài sản có thật đã bị mất; Sự ổn định của nhiều quốc gia lớn đang trở thành vấn cần
bàn đến và Mỹ đã thực hiện những chính sách ngoại giao phi quân sự lớn nhất liên quan
đến những cam kết tài chính bằng kế hoạch Marshall.
Hầu như tất cả các vấn đề liên quan đến tìm hiểu, ngăn ngừa và làm giảm những
cuộc khủng hoảng này đều là bí quyết của các khóa học kinh tế : cố định tỷ giá hối đoái
linh hoạt, tâm lí hành xử tắc trách và cân bằng kép, đầu cơ và lưu lượng tiền mặt, tài
chính và chính sách tiền tệ, quy định và cạnh tranh. Các nhà kinh tế nghĩ gì, nói gì và làm
gì, đều có ngụ ý sâu xa về cuộc sống của hàng triệu công dân. Dù đó là thảo luận về vai


trò nguồn gốc trong việc điều chỉnh cam kết về tỷ lệ trao đổi của Tổng Thống Trung
Quốc Zhu Rongji, hay thảo luận tài liệu NBER về mục tiêu lạm phát với ngân hàng trung
ương Brazil Arminio Fraga, hoặc thảo luận mục tiêu thay thế cho luật phá sản của nền
kinh tế Indonesia, hay chu kì nợ tối ưu của Mexico, tôi đã gây được ấn tượng về vấn đề
nghiên cứu như vậy tại cuộc họp AEA.
Tương lai của phần lớn người dân trên thế giới sẽ phụ thuộc vào quá trình hội
nhập toàn cầu diễn ra như thế nào. Đây là một tuyên bố mạnh mẽ,dựa vào các bài viết của
nền kinh tế toàn cầu trong thất bại của Chiến tranh Thế giới thứ nhất và các bài viết về sự
thành công trong Thế chiến thứ hai. Hội nhập từ trung ương đến toàn cầu chính là hội
nhập về tài chính : dòng chảy của các quỹ và vốn thông qua biên giới quốc tế.Và như các
sự kiện cuối thập niên 20 và đầu thập niên 30 nhắc nhở chúng tôi, không hội nhập trung
ương đến toàn cầu là khủng hoảng tài chính quốc tế.
Hôm nay, tôi muốn phản ánh về vấn đề hội nhập tài chính toàn cầu trong những
sự kiện kịch tính và không thể đóan được trong những năm gần đây. Đây là một dịp tốt
để phản ánh liệu có đủ sự sửa chữa để vấn đề ưu tiên có thể thay đổi từ quản trị khủng
hỏang tức thì, nhưng những cuộc khủng hỏang này diễn ra đủ gần và có ý nghĩa khẩn cấp
vì nó góp phần cải thiện hệ thống khỏi sự mất mát.
Tôi sẽ dẫn chứng bốn vấn đề :
(i), có nghĩa là phải có một hệ thống tài chính hữu hiệu, đánh dấu điểm quan trọng là
ngăn ngừa sự cố không phải là một khía cạnh của việc hệ thống thể hiện như thế nào.
(ii) Những nguyên nhân lần lượt của cuộc khủng hỏang nói chung và nguồn gốc của
những cuộc khủng hỏang gần đây nói riêng.
(iii) Cách tốt nhất để tạo ra một hệ thống là sự kết hợp giữa quốc gia và quốc tế, điều đó
sẽ làm cho công việc họat động tốt và ngăn ngừa khủng hoảng hữu hiệu hơn.
(iv) Vấn đề phản ứng lại cuộc khủng hỏang hữu hiệu ở cả hai mức độ chính sách của
quốc gia và phản ứng của cộng đồng quốc tế.
* US Department of the Treasury, 1500 Pennsylvania Avenue, Washington, DC 20005.
Bài giảng này phản ánh nhiều điều mà tôi học được từ thực tiễn khi tôi chia sẽ với đồng
nghiệp ở chính phủ Mỹ và các chính phủ khắp nơi trên thế giới. Tôi xin cảm ơn Brad
DeLong, Marty Feld - Stein, Stephanie Flanders, Ken Rogoff, Andrei Shleifer, và Ted

Truman đã cho tôi những bình luận và đề nghị rất hữu ích. Tôi đặc biệt cảm ơn Nouriel
Roubini và Stephanie Flanders vì sự trợ giúp và thảo luận giá trị cho bài giảng này.
I. Mục tiêu của một hệ thống tài chính tòan cầu hiệu quả
Những năm gần đây đã chứng kiến một sự thay đổi mạnh mẽ trong hệ thống tài
chính toàn cầu, như dòng chảy vốn của đầu tư tư nhân để phát triển công nghiệp đến các
quốc đang gia phát triển tăng từ $ 174 tỷ đồng trong thập niên 1980 đến $ 1,3 nghìn tỷ
đồng trong thập niên 1990. Năm 1990, nền kinh tế sát nhập đã phát hành đồng tiền
chung Châu Âu. Năm 1998, 40 hay nhiều nền kinh tế sát nhập đã phát hành chúng trong
suốt những năm của thập niên 1990. Và phạm vi của cuộc khủng hỏang tài chính lớn lan
rộng nhanh chóng, như cuộc khủng hoảng mà chúng ta đã trải qua vào năm 1998 được
xem là cuộc khủng hoảng tồi tệ nhất trong suốt 50 năm qua, điển hình là sự sụp đổ của
Nga đã dấy lên nhiều câu hỏi về tiền đề của việc hội nhập tài chính toàn cầu là điều tất
yếu.
Là một câu hỏi quan trọng và công bằng nhất, nhưng nó có thể được trả lời. Có
nhiêu nền kinh tế thị trường mà chúng ta công nhận nó là như vậy. Một trong những khía
cạnh đáng chú ý là tạo ra một hệ thống tài chính được tổ chức tốt. Một mặt người tiêu
dùng muốn giữ nhiều nguồn để chuẩn bị cho việc về hưu, hay cho những ngày mưa hay
tích lũy để mua xe mà không có cơ hội đầu tư cho sản xuất. Mặt khác, có nhiều cơ hội
cho việc sử dụng nguồn năng lượng hôm nay để sản xuất ra nhiều nguồn năng lượng hơn
cho ngày mai bằng cách đầu tư cho khoa học công nghệ hay giáo dục, hoặc tạo cơ hội
cho người tiêu dùng Thõa mãn nhu cầu của họ. Đó là nhiệm vụ của hệ thống tài chính
nhằm mang những cơ hội và nhu cầu lại với nhau.
Khi mà điều này được làm tốt hơn, sẽ tạo được lợi ích rất lớn. Nền kinh tế tăng
trưởng bởi vì đầu tư thu hồi được lợi nhuận cao hơn. Nguồn vốn khan hiếm sẽ được sử
dụng hiểu quả hơn. Người tiêu dùng sẽ có được lợi ích từ tiêu dùng tương lai nhiều hơn
thay vì từ bỏ cơ hội tiêu dùng. Rủi ro được chia đều và mỗi cá nhân sẽ có ít biến động
hơn về số lượng mà họ có thể tiêu dùng. Đó là những lợi ích hiển nhiên và có thực, vì vậy
mà thật thích hợp cho hệ thống tài chính có thể hấp thụ được những nguồn thực tế này.
Bây giờ để hiểu rộng hơn, cuộc tranh luận cụ thể về một hệ thống tài chính cạnh
tranh diễn ra song song với cuộc tranh luận về những thị trường cạnh tranh nói chung.

Như trong sách, tỷ lệ thay thế và tỷ lệ biến đổi thích hợp là tương đương nhau. Những
họat động trung gian sẽ có lợi khi mà họat động hiệu quả. Nghĩa là, cái đang có sinh ra
cái có giá trị lớn hơn chi phí cho họat động. Do đó, ví dụ như các chuyên gia đưa một lưu
lượng trên thị trường sẽ thu về lợi nhuận và lợi nhuận này phản ánh lợi ích mà họ mang
lại cho người mua và người bán, chỉ những người nào có sự chu chuyển hàng hóa ở
những vùng có sự chênh lệch giá có thể thu được doanh thu, và doanh thu này phản ánh
lợi ích mà họ tạo ra.
Trong nền kinh tế Hoa Kỳ ngày hôm nay, 7% GNP là dành cho các họat động
trung gian tài chính, chiếm gần gấp đôi so với 40 năm trước. Và không có một báo cáo
nào về những nỗ lực lớn trong các tập đòan phi tài chính, nơi mà đang gia tăng vốn và
phân phối vốn. Điều này rất là hấp dẫn , tuy nhiên, tôi tin rằng đã sai khi nghĩ tất cả họat
động tài chính trung gian này đều mang lại lỗ và đưa trò chơi về con số không. Trong khi
có vài yếu tố minh chứng rằng điểm quan trọng là thậm chí là một lượng nhỏ gia tăng
hữu hiệu trong việc phân phối vốn cũng sẽ tạo ra được lợi ích xã hội rất lớn. Nếu một nền
kinh tế cụ thể có tỷ lệ vốn là 3:1, nghĩa là có một sự gia tăng hữu hiệu trong vốn được
phân phối 2% hay 20 điểm cơ bản có lợi ích xã hội tương đương nhau là 6% GNP cho
việc từ bỏ tiêu dùng.
Kết luận này phản ánh sự tiến triển trong tư duy của tôi. Summers và Victoria P.
mùa hè (1989) có cái nhìn khá sáng sủa về hệ thống tài chính. Trong khi các cuộc tranh
luận được thực hiện có yếu tố liên quan đến thuê-tìm kiếm dường như vẫn còn hợp lệ,
các thảo luận không minh chứng được cho các lợi ích mà thị trường mang lại.

Tất cả phải làm gì với hệ thống tài chính quốc tế hay với cuộc khủng hoảng tài
chính quốc tế? Ngụ ý rằng cho dù việc hội nhập tài chính quốc tế mang lại sự cải thiện
trong trung gian tài chính ( bởi vì sự chuyển đổi tiết kiệm từ việc thực thi pháp luật cao
hoặc thấp, bởi vì sự phân chia rủi ro tốt hơn hay bởi vì liên quan đến việc chuyển đổi vốn
thông qua thực thi pháp luật cải thiện hữu hiệu vốn được phân phối.), thì nó vẫn tạo ra sự
gia tăng quan trọng đầy tiềm năng trong hiệu quả kinh tế với lợi ích cho cả người tiêu
dùng và nhà đầu tư trên thế giới. Chỉ khi giao dịch hàng hóa thông qua thực thi pháp luật
mới có được lợi ích, vì vậy mà cả giao dịch trung gian hay phân chia rủi ro thông qua

thực thi pháp luật cũng mang lại lợi ích.
Đây là những khái niệm trừu tượng. Có một lập luận rằng cái lợi từ giao dịch
trung gian và giao dịch qua các dịch vụ tài chính có tiềm năng rất lớn. Trước tiên, đó là
sự tăng trưởng của lực lượng lao động trên thế giới trong vài thập kỉ tới sẽ diễn ra ở phần
thế giới đang phát triển cũng như thời đại của công nghiệp hóa thế giới. Bây giờ, việc tiết
kiệm trên thế giới đều diễn ra ở các nước công nghiệp phát triển. Và nhiều chứng cứ về
các nhà máy thép phế thải và những gì mà chủ tịch dự trữ liên bang Alan Greenspan gọi
là “việc xây dựng dễ thấy” nói về tiềm năng của các hệ thống trung gian được cải thiện
làm cho việc phân bổ vốn hiệu quả hơn trong các nước đang phát triển cũng như giữa
phần thế giới phát triển và đang phát triển.
Đáng chú ý là một số Jagdish Bhagwati (1998) đã dẫn chứng rằng những lợi ích
này chỉ được áp dụng cho việc đầu tư trực tiếp dài hạn. Nhưng trong khi đó, như tôi sẽ
thảo luận, sẽ có rất nhiều nguy hiểm từ việc tạo ra giá trị thặng dư trong dòng tài chính.
Nên nhớ rằng bản thân môi trường tài chính cũng tạo ra được những lợi ích quan trọng.
Trước tiên, thu nhập từ phí giao dịch giữa giao dịch tài chính và các giao dịch khác có
liên quan, cung cấp tính thanh khỏan xuyên biên giới đến thị trường liên ngân hàng. Thứ
hai,họ cung cấp vốn cho các doanh nghiệp trong nước với những điều khỏan tốt nhất.
Thứ ba, hợp tác với các đại diện của doanh nghiệp nước ngoài và các quỹ tài chính nước
ngoài, bản thân nó cũng mang lại những lợi ích quan trọng. Nói chung, càng cố gắng
phân biệt giữa luồng vốn tốt và xấu nhắc nhở tôi phân biệt giữa nhập khẩu tốt và xấu về
hang hóa và dịch vụ trong thương mại quốc tế và để chứng minh……
Trong khi tất cả những tiềm năng chắc chắn là có, những thuật ngữ như “rủi ro về
đạo đức”, “ lựa chọn ngược”, “mua bans khống”, và “ tâm lý bày đàn” cho chúng ta biết
rằng lý thuyết kinh tế chỉ ra rất nhiều lí do tại sao thị trường tài chính luôn luôn không
hòan hảo. Và lịch sử các cuộc khủng hoảng hàng thế kỉ qua đã dạy chúng ta một cách
không rõ ràng về việc các dòng chảy vốn trên thị trường tài chính rất khác nhau trong
việc phân phối quỹ tiết kiệm hiệu quả và tối ưu cho những dự án đầu tư đúng đắn.
Nghĩ về động lực tài chính như thế nào là tốt nhất? Phép suy luận có thể là hữu
dụng. Máy bay phản lực bay trên bầu trời thoải mái hơn, hiệu quả hơn và an tòan hơn
mặc dù tai nạn sẽ khốc liệt hơn và xuất hiện nhiều hon từ khi mà phát minh ra máy bay

phản lực. Tương tự, thị trường tài chính tòan cầu hiện đại mang trong mình nó rất nhiều
tiềm năng về lợi ích, thậm chí nếu có một vài tai nạn khốc liệt xảy ra. Ví chính sách công
đúng đắn dành cho phản lực có đường băng dài hơn, kiểm sóat không vận tốt hơn, huấn
luyện phi công tốt hơn và không khuyến khích việc bay nhanh, vì vậy, chính sách công
dành cho sự phát triển tài chính đảm bảo khung an toàn cho các lợi ích, chứ không phải
dập tắt sự thay đổi.
Điều đó nói lên rằng, sự phát triển của hệ thống vận tải hàng không cũng phụ
thuộc vào sự hiểu biết và tìm ra những lí do về sự va chạm. Tương tự vậy, sự phát triển
của hệ thống tài chính đúng dắn sẽ phụ thuộc vào sự hiểu biết các nguyên nhân cuộc
khủng hoảng, đó chính là chủ đề mà tôi muốn đề cập tới.
II. Sự hiểu biết về khủng hoảng tài chính quốc tế
Leo Tolstoy quan sát thấy rằng, mỗi gia đình hạnh phúc thì giống nhau, mỗi gia
đình không hạnh phúc thì có hoàn cảnh riêng của họ. Mỗi cuộc khủng hoảng tài chính thì
khác nhau và có yếu tố riêng đặc thù của nó. Tuy nhiên có những yếu tố phổ biến cho
những cuộc khủng hoảng tài chính mà chúng ta đang thấy trong những năm gần đây.
BẢNG 1 - THỐNG KÊ CÁC KHỦNG HOẢNG NHỮNG QUỐC GIA
Nước
Thông tin được thống kê Brazil Indonesia
c
Hàn
Quốc
Mexico
Thái
Lan
d
Nga
GDP thực tế hàng quý
( % thay đổi)
Điểm cao nhất đến điểm thấp nhất 2.6 (18.9) (7.5) (9.7) (13.6) (4.3)
Cộng 12 tháng thấp nhất 4.0

e
7.5 9.9 6.6 7.4 2.0
Cộng 24 tháng thấp nhất 8.7
e
n.a. n.a. 15.6 n.a. n.a.

Tài khoản hiện thời hàng quý
(tỉ USD)
Điểm cao nhất (11.5) (2.4) (7.4) (7.9) (7.8) (3.6)
Điểm thấp nhất (4.6) 1.8 10.9 0.3 4.2 6.6
12 tháng sau điểm thấp nhất (3.8)
e
1.8 6.2 (1.2) 3.5 3.5
24 tháng sau điểm thấp nhất n.a. n.a. n.a. (3.0) n.a. n.a.

Tài khoản hiện thời hàng quý
(Phần trăm của GDP)
Điểm cao nhất n.a. (3.8) (6.3) n.a. (10.7) n.a.
Điểm thấp nhất n.a. 8.6 16.1 n.a. 16.4 n.a.
12 tháng sau điểm thấp nhất n.a. 3.4 6.9 n.a. 10.8 n.a.
24 tháng sau điểm thấp nhất n.a. n.a. n.a. n.a. n.a. n.a.

Thay đổi trong những nguồn lực mạng
lưới quốc tế

(tỉ USD)
a

Điểm cao nhất đến điểm thấp nhất (14.5) (15.3) (25.7) (19.5) (36.0) (18.0)
Cộng 12 tháng thấp nhất 8.8

e
52.5 44.8 6.6 13.8 0.4
Cộng 24 tháng thấp nhất 13.5
e
n.a. 69.8 15.7 24.8 n.a.

Thay đổi trong qui định tỷ giá hối đoái
(%)
b

Điểm cao nhất đến điểm thấp nhất -41.0 -526.5 -57.2 -54.0 -58.3 -76.0
Cộng 12 tháng thấp nhất 13.0
e
53.5 62.7 -10.0 52.2 n.a.
Cộng 24 tháng thấp nhất 4.0
e
n.a. 73.6 -15.0 47.5 n.a.


Ghi chú: Ngày của những cuộc khủng hoảng như sau: Brazil, Tháng giêng 1999; Indonesia, Tháng mười
1997; Hàn Quốc, Tháng mười hai 1997; Mexico, Tháng mười hai 1994; Thái Lan, Tháng bảy 1997;
Russia, Tháng tám 1998. " Điểm cao nhất " của GDP hằng quý được giả thiết là quý mà " cơn khủng
hoảng " xảy ra. "Những điểm cao nhất " để thống kê khác được giả thiết để xuất hiện vào một quý trong
năm trước quý có cơn khủng hoảng trong đa số các trường hợp. Tên "n.a." cho thấy rằng dữ liệu không có
sẵn. Dữ liệu GDP thực tế hàng quý và tài khoản hiện thời hàng quý được điều chỉnh theo từng thời kỳ.
a
Cho vay thuần của IMF/BIS
b
Mục phủ định chỉ báo sự sụt giá
c

Dự liệu dự trữ là những dự trữ gộp ít quý giá
d
Những bảng cân đối tài khoản hiện thời hàng quý được điều chỉnh theo từng thời kỳ
e
Dựa trên tham chiếu IMF

Các cuộc khủng hoảng quốc tế có thể được định nghĩa theo nhiều cách hoặc nhiều
dạng khác nhau. Ý tôi muốn nói các cuộc khủng hoàng tài chính quốc tế là tình huống
diễn ra trên phạm vi toàn thế giới, không phải diễn ra trong nền kinh tế đóng. Theo cách
định nghĩa này, tôi không có ý coi nhẹ vai trò chính yếu mà sự yếu kém cơ bản trong
nước có thể góp phần tạo nên sự khủng hoảng. Tôi chỉ muốn loại trừ những tình huống
nền kinh tế trong nước nghèo nàn có thể dẫn đến những vấn đề nợ nần. Tôi cũng muốn
loại trừ những cuộc khủng hoảng tiền tệ ở những quốc gia mà điều chỉnh tỷ giá hối đoái,
như chúng ta nhìn thấy trượt giá có thể là dấu hiệu báo trước cho sự khủng hỏang tài
chính quốc tế.
Nếu chúng ta ngăn ngừa những tai nạn có hiệu quả có thể xảy ra, và giảm nhẹ
chúng nơi mà chúng ta không thể ngăn ngừa, thật quan trọng để biết chúng xảy ra như thế
nào và bản chất của những tiền đề của chúng. Có sáu cuộc khủng hoảng tài chính quốc tế
chính trong suốt những năm 1990 : Mexico 1995; Thái Lan , Indonesia , và Hàn Quốc
1997- 1998; Nga 1998; và Brazil 1998-1999. Bảng 1 cung cấp thông tin về những cuộc
khủng hoảng đó. Những thành phần chung bao gồm một sự khoa trương trong tài khoản
tạm thời, một sự sụt giá thực sự lớn và một sự suy tàn quan trọng trong đầu ra thực sự.
Với một số sự khác nhau giữa những trường hợp, kiểu mẫu trong tất cả những cuộc
khủng hoảng ở đây, và thực vậy, một số khủng hoảng lịch sử, xuất hiện bao gồm ba phần
tử rõ ràng.
Đầu tiên, sau một thời gian đầu tư vốn với số lượng đáng kể, các nhà đầu tư (cả
trong và ngoài nước) quyết định giảm bớt các cổ phiếu về tài sản trong quốc gia bị ảnh
hưởng để phản ứng lại một sự thay đổi trong các vấn đề cơ bản của nó. Điều này có thể
có nhiều nguồn: mối quan tâm về tính khả thi của chế độ tỷ lệ trao đổi, như trong hầu hết
các trường hợp này, mối quan tâm về thiếu hụt tài chính lớn, như ở Nga và Brazil; mối

quan tâm về sự thiếu hụt tài khoản hiện thời lớn, như ở Thái Lan và Brazil, và ngày càng
tăng rõ những tính nhu nhược của khu vực tài chính lâu đời, phát sinh từ sự kết nối của tư
bản hóa thiếu và sự giám sát của các ngân hàng và sự quá mức của đòn bẩy và bảo đảm
sự kết hợp đó, cùng với định hướng cho vay, đã được chụp lấy trong thời hạn " chủ nghĩa
tư bản chí thân "
3
.
Thứ hai, sau khi quá trình này tiếp tục vài lần trong những cuộc khủng hoảng tài
chính, những nhà đầu tư chuyển tiêu điểm ước lượng sẵn tình trạng trong đất nước tới
việc ước lượng hành vi của những nhà đầu tư khác. Tỷ lệ thu hồi gia tăng trong tâm lý
hoạt động ngân hàng được nắm vững, và những nhà đầu tư tìm cách để tránh là người
cuối cùng như họ nhìn thấy những nguồn dự trữ của đất nước được rút hết
4
. Điều này
được biểu lộ trong chuyển dịch của kiểu phân tích đầu tư từ kinh tế tới thủy lực, với một
bài tập kế toán mở rộng mà không làm sự tham khảo tới giá cả trên những nguồn và
những sự sử dụng của những quĩ.

3
See Ronald McKinnon và Huw Pill (1996), Morris Goldstein (1998), Krugman Paul
(1998), Giancarlo Corsetti v.v (1999 a, b), and Council of Economic Advisers (1999)
sự phân tích đang nhấn mạnh vai trò của những nền tảng và những sự biến dạng những
bảo đảm và những sự yếu kém được tạo ra trong tài chính khu vực.
4
Vai trò của họat động ngân hàng/ hoảng sợ và một sự giải thích của cơn khủng hoảng
trong thời kỳ một cơn khủng hoảng lưu lượng tiền mặt quốc tế được nhấn mạnh bởi
Guillermo Calvo (1998), Roberto Chang và Andres Velasco (1998, 1999), Jeffrey Sachs
và Steven Radelet (1998, 1999), và Dani Rodrik và Velasco (1999).
Những tiếng đồn của hoạt động quyết liệt ( một thời kỳ hoãn nợ, làm chủ nguồn
vốn hay cái gì đó) bắt đầu lưu thông, và một sự hoảng sợ trí lực được tiến triển. Hiện

tượng này là đặc biệt hiển nhiên ở Mexico trước 1995 và ở Hàn Quốc giữa sự Tạ ơn Và
Lễ Nôen vào năm 1997, và hình như một sự đặc biệt tỏa khắp của đặc tính khủng hoảng
thị trường. Không ai, rốt cuộc, nâng những câu hỏi món nợ tài chính trong Vương quốc
Anh, theo lối thoát đồng bảng Anh từ cơ chế tỷ lệ trao đổi Châu Âu (ERM) vào 1992, hay
trong lục địa Châu Âu sau khi tan rã ERM vào 1993.
Thứ ba, sự rút vốn và sự dao động có liên hệ trong tỷ giá hối đoái và giảm bớt
truy nhập vốn làm tăng cơ sở hạ tầng yếu kém, lần lượt làm tăng sự đáp ứng của thị
trường tài chính. Sự sụt giảm thực sự của tỷ lệ thu nhập thực tế và tiêu dùng. Những sự
chờ đợi đối với một sức ép đang gia tăng tỷ giá hối đoái sụt lở cho đào thoát vốn. Và,
Quan trọng nhất, giá trị những món tiền nợ nước ngoài đang gia tăng trong nước và giảm
bớt số tiền gửi trong nước của những người đi vay, làm suy yếu hệ thống tài chính, lần
lượt gây ra những sự giảm sút trong việc cho vay và cơ sở hạ tầng trở nên tồi hơn
5
.
Để hiểu được sự khủng hoảng kinh tế chúng ta thấy rằng, cả ba phần tử đều quan
trọng. Không có một sự thay đổi trong quan điểm, được điều khiển bởi một nguyên tắc cơ
bản của sự suy yếu trong nền kinh tế, nó không thể thực hiện việc tính tóan cho những
quyết định rút vốn. Không có ngân hàng chạy tâm lí học, nó không thực hiện được tính
toán cho quy mô của sự thay đổi trong những quyết định định vị của nhà đầu tư, mà hình
như không liên tục như vậy đối với bất kỳ phương diện nào dễ dàng thấy được những
khía cạnh của nguyên tắc cơ bản. Không có sự tham khảo chọn lọc trên những hệ thống
tài chính nội địa và các hãng tập đoàn, nó khó khăn cho việc tính toán to lớn của người
quan sát sự suy sụp kinh tế và sự thất bại của những sự sụt giảm tỉ giá hối đoái thực sự
thúc đẩy lớn việc xuất khẩu trong một số trường hợp.
Một đặc tính của năm 1990 giai đoạn của sự rối loạn là sự có mặt của quốc tế
"truyền nhiễm, " được nhìn thấy trong cơn khủng hoảng ERM của những năm 1992-
1993, " rượu mạnh " hiệu ứng của tiếng Mexico cơn khủng hoảng đồng pêsô của 1994-
1995, " bệnh sốt rét vàng da " những hiệu ứng của cơn khủng hoảng Châu á của 1997-
1998,
5

Nhìn thấy Philippe Aghion v.v (1999) và Krugman (1999) cho những mô hình hình
thức của những hiệu ứng bảng cân đối. Những hiệu ứng này cũng giúp đỡ để giải thích
tại sao khủng hoảng tiền tệ thường được liên quan đến khủng hoảng tài chính / công việc
ngân hàng, một hiện tượng tham chiếu đếni như " khủng hoảng sinh đôi”. Thực vậy,
năm trong sáu cuộc khủng hoảng tài chính quốc tế được xem xét trong trang giấy này,
khủng hoảng tiền tệ được liên quan đến khủng hoảng ngân hàng. Tuy nhiên, sự tương
tác giữa khủng hoảng tiền tệ và ngân hàng thì phức tạp. Trong khi những hiệu ứng bảng
cân đối có thể giải thích tại sao khủng hoảng tiền tệ dẫn đến khủng hoảng ngân hàng và
dấu hiệu cảnh báo sớm khủng hoảng tiề tệ tương lai. Thực nghiệm và phân tích những sự
tương tác phức tạp giữa khủng hoảng ngân hàng và tiền tệ mới đây được học bởi một số
tác giả, bao gồm Barry Eichengreen và Andy Rose (1998), Ilan Goldfajin và Rodrigo O.
Valdes (1998), Corsetti v.v (1999 b), Goldstein v.v (1999), và Graciella Kaminsky
Carmen Reinhart (1999).
Và truyền nhiễm thị trường tài sản đang đi theo sau khi tiếng Nga mất giá và mặc
định trong Tháng tám 1998 và mất giá Brazil trong Tháng giêng 1999.Có nhiều giải thích
và những mô hình của truyền nhiễm
6
:
(i) Nó có thể vì những cú sốc chung (giống từ những cú sốc giá hàng hóa cơ bản) điều đó
đồng thời làm đau những mặt hàng xuất khẩu quốc gia.
(ii) Giá tương đối chuyển đổi những kết nối thương mại và thu nhập (yêu cầu) gây sốc từ
một nước tới kẻ khác.
(iii) Những phá giá cạnh tranh giữa 1 số những nước tranh đua hay giữa chính họ hoặc thị
trường thứ ba co thể giải thích sự sụt giảm tiền tệ quá mức của nhiều tiền tệ.
(iv) Những sự kết nối Tài chính dẫn tới thị trường tài sản những tương quan: nếu một
nước đầu tư và cho mượn tới một nước khác, những tin tức kinh tế nghèo nàn trong đó sẽ
ảnh hưởng đến những thị trường tài sản trong mô hình.
(v) Thị trường hơi chặt có thể làm tăng truyền nhiễm. Chẳng hạn, Khi một số thúc đẩy
cao những cơ quan được trải qua những sự mất mát quan trọng đang đi theo sau cơn
khủng hoảng của Nga, bên lề gọi và thiếu trạng thái lỏng có thể đã dẫn dắt chúng hay bắt

buộc chúng để rút gọn những vị trí của chúng trong những thị trường khác, như vậy
truyền nhiễm mạnh hơn.
(vi) Một số phần tử của những nhà đầu tư không hợp lý có thể ở công việc; hoảng sợ, qui
tụ, và sự thương mại hồi tiếp dương có thể giải thích một phần tại sao những nhà đầu tư
rút không phân biệt từ nhiều thị trường không có sự phân biệt cẩn thận trong những thị
trường rõ nét khác dựa trên những nền tảng của chúng.
(vii) Cuối cùng, và trong cách nhìn nhận của tôi, quan trọng hơn, "những ngoại hình danh
tiếng "
7
là gần như chắc chắn tại công việc. Một cơn khủng hoảng vào một nước có thể
ảnh hưởng đến những sự chờ đợi và những sự nhận thức của những nhà đầu tư về những
điều kiện kết cấu chung và những tính dễ bị tổn thương trong những nước khác và chính
sách đáp lại thích hợp tới những tính dễ bị tổn thương như vậy
8
.
Từ viễn cảnh của kinh nghiệm thực tế, những sự phân biệt phân tích giữa "khủng
hoảng được cân bằng lớn" và " khủng hoảng được điều khiển bởi nền tảng " có vẻ ít rõ
hơn so với chúng thỉnh thoảng làm việc trong thực nghiệm.
6
Thực nghiệm và lý thuyết trên truyền nhiễm rộng lớn; nhiều đóng góp gần đây thì hiện
diện ở IMF và Ngân hàng Thế giới- hội nghị tài trợ trên Truyền nhiễm Tài chính Quốc tế
( ngày 3-4 Tháng hai năm 2000) (sẵn có trực tuyến tại <http: // www.worldbank.org /
research/ interest/ confs / upcoming/ papersfeb3-4/ paper.htm>). Những sự khảo sát gần
đây tốt bởi Rudiger Dornbusch v.v (2000) và Matthew Prisker (2000).
7
Đây là một khái niệm được phát triển bởi Richard Zeckhauser (1986).
8
Báo giá báo cáo kinh tế 1999 của tổng thống (Hội đồng của những cố vấn Kinh tế,
1999 P. 244): " chẳng hạn những nhà đầu tư” lòng tin trong sức mạnh của mô hình kinh
tế Châu Á có thể có được thay đổi khi một trong số những ngôi sao biểu diễn vấp. Sự thất

bại của những tổ chức tài chính trong một nước để có thể hướng dẫn nhà đầu tư tin
tưởng, trong sự thiếu của thông tin tốt hơn hơn ngược lại, những cơ quan kia trong
những nước tương tự trong vùng giống như vậy có lẽ đã là việc giáp mặt những vấn đề
giống như vậy. Tương tự, sự miễn cưỡng hoặc không có khả năng của kinh tế Châu Á để
bảo vệ những tiền tệ của họ mạnh mẽ hơn có thể cho phép những cách nhìn của những
nhà đầu tư linh họat quan tâm đến những ưu tiên chính sách của những vùng kinh tế
khác”
Nó dường như khó để chỉ bất kỳ nền kinh tế thị trường rõ nét nào mà trải qua một
cuộc khủng hoảng tài chính nhưng không có những sự yếu kém cơ bản quan trọng mà
được gọi vào trong câu hỏi những chính sách khả thi của nó. Tuy thế nó có vẻ bằng nhau,
khó để tránh sự phán xử điều đó, nhiều trường hợp gần đây, sự trừng phạt là một sự
không tương xứng nhạy cảm đến tội ác, với quá trình của sự rút vốn làm tăng đáng kể bất
kỳ sự yếu kém nào nằm bên dưới.
Một trò chơi thô thiển mà đơn giản, liên quan đến Douglas Diamond và Philip
Dybvig’s (1983) kỷ niệm sự phân tích hoạt động của ngân hàng, minh họa một số vấn đề
liên quan ở đây. Hình dung điều đó mọi người mà đã đầu tư 10 USD với tôi có thể kỳ
vọng kiếm được 1 USD, giả định rằng tôi đủ khả năng thanh toán. Giả sử nếu tôi phá sản,
những nhà đầu tư người mà còn lại mất toàn bộ số tiền đầu tư 10 USD của họ, nếu không
là một nhà đầu tư mà rút không cái nào kiếm được mà cũng không mất hôm nay. Bạn làm
gì? Mỗi sự phán xử riêng lẻ có thể đoán chừng phụ thuộc vào một sự định giá của sự điều
tra của tôi, nhưng điều này lần lượt phụ thuộc vào hội đồng phán xử của tất cả những nhà
đầu tư.
Giả sử, đầu tiên, mà những dự trữ nước ngoài của tôi, khả năng để huy động
những tài nguyên, và sức mạnh kinh tế vì thế bị giới hạn nếu có bất kỳ nhà đầu tư nào rút
vốn tôi sẽ phá sản. Đó là Một Sự cân bằng Nash ( Thực vậy, một Pareto-cái trội) cho mọi
người ở lại, nhưng (tôi mong đợi) không phải có thể đạt tới được. Người nào đó lập luận
rằng một người khác quyết định thận trọng và rút vốn, hay tối thiểu rằng người đó sẽ đưa
lý do suy luận mà người nào đó rút vốn, vân vân. Hiện tượng này, Douglas Hofstadter có
cho là "sự nghi ngờ vang lại," hợp lý sự hướng dẫn tới những sự rời bỏ quy mô lớn, và tôi
sẽ phá sản. Nó không là một thứ họat động - đóng cửa. Cuộc thi vẻ đẹp của John

Maynard Keynes bắt được một ý tưởng tương tự.
Bây giờ giả thiết rằng tình trạng cơ bản của tôi là sao cho mọi người được thanh
toán không lâu hơn một phần ba của những nhà đầu tư động sản để rút vốn. Bạn làm rồi
gì? Trở lại, có nhiều cân bằng: mọi người cần phải ở lại nếu mọi người khác làm, và mọi
người cần phải kéo ở ngoài nếu mọi người khác làm, nhưng nhiều sự căn bằng thuận lợi
hơn dường như nhiều nữa sự linh hoạt.
Tôi nghĩ rằng sự thí nghiệm suy nghĩ này đạt được cái gì đó thực tế. Một mặt,
ngân hàng họat động hay những sự tương tự quốc tế của chúng xảy ra. Mặt khác, chúng
không được điều khiển bởi những hơi nắng: sự có thể đúng của chúng được điều khiển và
xác định bởi phạm vi của nền tảng những sự yếu kém. Những câu hỏi này của sự lựa
chọn cân bằng có thể và thực vậy đã có hình thức được phân tích
9
. Cho những mục đích
của tôi, cái điểm mà ngăn ngừa khủng hoảng thì nặng nề cho việc phát hành của những
tình trạng né tránh nơi mà tâm lý hoạt động ngân hàng nắm giữ, và ý định kia phụ thuộc
nhiều trên việc làm mạnh thêm những cơ quan chính và những nền tảng khác.
9
Stephen Morris và Hyun Song Sing (1998) cung cấp một sự phân tích mới của những
nền tảng yếu, sự không chắc chắn của loại tôi bàn luận ở trò chơi " tình trạng khó xử của
con chó sói” của Hofstadter, và thông tin riêng tư trong một tiêu chuẩn mô hình sự cân
bằng nhiều có thể sản xuất một sự duy nhất. Công việc này gợi ý tính dễ vỡ của kết quả
cân bằng nhiều và vai trò quan trọng của những sự yếu kém cơ bản. Thách thức bây giờ
sẽ là mô hình hiện tượng này trong động lực hiện thực hơn những sự thiết đặt.
III. Sự ngăn ngừa cơn khủng hoảng ở cấp độ Quốc gia và Quốc tế:
A. Những nỗ lực ngăn ngừa cơn khủng hoảng Quốc gia
Nhiều cú sốc lớn kinh nghiệm của những nước - tới điều khoản mậu dịch của họ,
tới sự tin cậy nhà đầu tư, hay bên trong những hệ thống tài chính nội địa. Một cách tương
đối ít của họ có khủng hoảng tài chính chính. Tại sao? Bảng 2 cung cấp những hệ số chủ
quan của sự quan trọng của nhiều nhân tố như những tiền đề tới sáu cuộc khủng hoảng tài
chính phổ biến của những năm 1990.

Bốn kết luận sơ cấp chính:
(i) Trong gần tất cả những trường hợp, công việc ngân hàng nghiêm túc và sự yếu kém
khu vực tài chính đóng một vai trò quan trọng.
(ii) Những tỷ giá hối đoái cố định không có cùng xảy ra những sự phó thác chính sách
tiền tệ là hiện tại như những tiền đề đến cơn khủng hoảng trong mọi trường hợp.
(iii) Những nền tảng kinh tế vĩ mô truyền thống, trong mẫu của những chính sách lưu
thông tiền tệ lạm phát thái quá, những sự thiếu hụt tài chính lớn hay thậm chí sự thiếu hụt
lớn những dòng tài khoản, có mặt trong vài trường hợp nhưng không những tiền đề cần
thiết đến cơn khủng hoảng trong mọi giai đoạn.
(iv) Những sự yếu kém bảng cân đối quốc gia, bao gồm nợ ngắn hạn lớn cả hai khu vực
chính phủ hay tư nhân, là những yếu tố quan trọng trong mỗi cuộc khủng hoảng.
BẢNG 2 - NGUỒN VỀ CHỔ YẾU TRONG CÁC CUỘC KHỦNG HOẢNG TÀI
KHOẢN - VỐN CHÍNH GẦN ĐÂY
Nước
Nguồn Brazil Indonesia
c
Hàn
Quốc
Mexico
Thái
Lan
d
Nga
Chốt tỷ giá hối đoái 1 0.5
a
0.5 1 1 1
(Dự trữ sự suy yếu)

Thiếu hụt tài khoản hiện thời 0.5 2 3 1 1 3


Thiếu hụt tài chính 1 3 3 3 3 1

Sự yếu kém trong lĩnh vực ngân
hàng và tài chính
3 1 1 1 1 1

Nợ ngắn hạn chính phủ 1 3 3 1 2 1

Tổng công nợ ngắn hạn nước
ngoài
2 1 1 2 1 1

Sự cai quản chung 2 1 2 2 2 1


Ghi chú: Chìa khóa đến những mục bảng: 1, rất nghiêm túc; 2, nghiêm túc; 3, không trung
tâm.

a
Indonesia để thả nổi tỷ giá hối đoái vào tháng 8 năm 1998, làm biểu lộ dấu hiệu mạnh mẽ
của sự lơ lửng tỷ giá hối đoái thực tế, không sử dụng dự trữ bảo vệ tỷ giá. Tuy nhiên, chế độ tỷ
giá hối đoái cứng nhắc dường như khuyến khích tăng lên nhiều dòng nợ nước ngoài trong khu
vực tư nhân.
Một thực nghiệm nữa có hệ thống nhiều hơn để có phân tích những tiền đề và
không tiền đề của khủng hoảng tài chính với những kết luận rộng rãi tương tự tới bảng
thô thiển của tôi
10
. Bốn sự quan sát này, lần lượt, giúp đỡ xác định bốn yếu tố của một
chiến lược quốc gia có hiệu quả cho việc tối giản nguy cơ của loại khủng hoảng này.
Đầu tiên, và dễ dàng để nói hơn so với làm, đang gìn giữ một hệ thống tài chính

nội địa mạnh mẽ. Trong khi nhiều tác giả nhấn mạnh những biện pháp dễ bị tổn thương
so sánh mức độ của những dự trữ nước ngoài với đo lường nợ ngắn hạn, công việc của
Simon Johnson v.v (2000) thì đặc biệt có sức thuyết phục trong việc chiếu sáng sức
mạnh của những hệ thống và những cơ quan tài chính nội địa. Khi nào tư bản hóa và
giám sát ngân hàng tốt, những mã cai trị và phá sản của tập đoàn có hiệu quả, và những
phương tiện tin được của sự cưỡng bức hợp đồng, dọc theo với những yếu tố khác của
một hệ thống tài chính mạnh mẽ, thì được gửi, những số lượng quan trọng của món nợ sẽ
có thể chịu đựng được. Trong sự thiếu của chúng, thậm chí những số lượng rất nhỏ của
món nợ có thể bị nghi vấn.
Yếu tố thứ hai là sự lựa chọn của phương pháp chế độ tỉ giá hối đoái, cho kinh tế
với sự truy nhập những thị trường vốn quốc tế, ngày càng tăng có nghĩa một sự chuyển
động ra khỏi từ giữa nền của sự chốt lại nhưng có thể điều chỉnh những tỷ giá hối đoái cố
định về phía hai góc chế độ của tỷ giá hối đoái linh hoạt hay một tỷ giá hối đoái cố định
được hỗ trợ, nếu cần dùng, bởi một ủy ban để nhượng lại cả thảy một chính sách lưu
thông tiền tệ độc lập. Thực hành sự lựa chọn giữa hai cực này, cho nền kinh tế thị trường
rõ nét hôm nay, có lẽ phải ít để làm với vùng tiền tệ tối ưu truyền thống của Robert
Mundell được quan tâm hơn so với với khả năng của một nước để vận hành một chính
sách lưu thông tiền tệ tùy ý trong một cách đó sẽ giảm bớt hơn là tăng thêm mâu thuẫn
cho đầu ra kinh tế.
10
Có một thực nghiệm kinh tế rộng lớn trên những nguyên nhân của khủng hoảng gần
đây và những chỉ báo báo động sớm của khủng hoảng tương lai. Những đóng góp gần
đây bao gồm Jeffrey Frankel và Rose (1996), Sachs v.v (1996), Andrew Berg và
Catherine Pattillo (1998), Goldstein v.v (1999), Sachs và Radelet (1999), và Corsetti
v.v (1999c).
Thứ 3, một môi trường tài chính vĩ mô logic và vững chắc rất cần để tổi thiểu hoá
ở những nước có chính sách tài chính - tiền tệ dễ bị tổn thương, dặc biệt gồm cả những
thiếu hụt tài chính căn bản vượt xa năng lực tài chính trong nước. Mức độ thiếu hụt là gì
thì sẽ phụ thuộc vào hành vi tiết kiệm của một quốc gia và chất lượng thị trường vốn của
quốc gia đó.

Thứ 4, các quốc gia nên giảm tính dễ tổn thuơng của mình để đảm bảo rủi ro
thanh khoản và rủi ro cân đối tài sản. Dự trữ nước ngoài cần thiết để so sánh với thước đo
đáng tin cậy của số tiền nợ/ khoản phải thu mà khoản này sẽ như là một khả năng chống
lại dự trữ của 1 quốc gia. tỷ lệ thường thấy của dự trữ cho xuất khẩu thường ít sử dụng.
Cũng như vậy, chính sách thiện về vốn ngắn hạn cũng bị hạn chế.
Quan điểm cuối cùng cực kỳ quan trọng bởi vì chúng ta sẽ thấy được 1 dạng đường chéo
thời gian và thời gian lặp lại trong những khủng hoảng gần đây:
(i) Chúng ta thấy ở Mexico, với việc gia tăng các khu nghỉ mát với cái tên
Tesoboonos tiêu tốn nhiều dollar dẫn đến khủng hoảng
(ii) Chúng ta thấy ở Thái Lan, trong việc cắt giảm các loại thuế trong việc vay
muợn các bờ biển của nước ngoài và chính phủ quyết định cầm cố tất cả dự
trữ của nó vào thị trưởng giao sau.
(iii) Chúng ta thấy ở Nam Hàn, nơi mà có sự kiểm soát khác nhau đối với giữ
nguồn vốn dài hạn ra và mở rộng đưa các nguồn vốn ngắn hạn vào
(iv) Và chúng ta thấy ở Nga, những nỗ lực của nhà nước để thu hút các nhà đầu tư
quốc tế vào thị trường đồng rub được đặt tên là GKO’s
Trong nội dung bài này thì sự nghi ngờ 1 cách tự nhiên tăng lên để kiểm soát
nguồn vốn ngắn hạn chảy vào như 1 thước đo chống khủng hoảng. Nhưng quan điểm đầu
tiên và thường là quan điểm không được chú ý, giống như các nhà kinh tế học thuờng đề
xuất những nỗ lực giảm thiểu tiêu dùng năng lượng nên bắt đầu bằng việc giảm tiêu dùng
năng lượng hơn là đưa ra một loạt những thuế năng lượng mới, vì thế ưu tiên thứ nhất là
dòng chảy nguồn vốn phải dược làm nhưng không thiệt hại, và vì thế, để tránh những
chính sách mà liên quan quá đến nguồn vốn ngắn hạn như chúng ta đã đề cập ỡ những
nền kinh tế khủng hoảng trước đây.
Một thước đo cách quản lý hợp lý về nguồn vốn ngắn hạn thì ẩn chứa những luật
lệ khôn ngooan thận trọng của ngân hàng. Nơỉ mà sự kiểm soát là lỗi theo tư tưởng thần
học về sự ra đi, nhưng kinh nghiệm thì cho rằng những sự kiểm soát có khuynh hướng trở
nên không hiệu quả qua thời gian tạo nên chi phí tư nhân và sự không chính xác, và
không chắc chắn của thời kỳ quá độ của những dịch vụ tài chính mà có thể đó là nguồn
ổn định quan trọng. Chúng không phải là thuốc bách bệnh và thực sự làm suy biến sự thể

hiện của những chức năng và hệ thống tài chính trong phần I.
Tiếp theo, những chính sách có khuynh hướng dẫn đến sự tích tụ quá mức của nợ
ngắn hạn được chỉ ra thông qua chính sách làm thay đổi bài trừ khuynh hướng, bao gồm:
sự không chính xác mà có thể là kết quả từ việc ngăn cấm sự đầu tư trực tiếp của nước
ngoài, số lượng cổ phần đầu tư hoặc là tăng những người không lưu trú ở thị trường trái
phiếu dài hạn hoặc là chính sách hạn chế và thuế thúc đẩy có thể dẫn đến làm tăng sự tín
nhiệm liên quan đến nợ và và cổ phần tài chính. Chắc chắn rằng, thị trường vốn kém phát
triển thì các hình thức tài chính dài hạn ( cổ phần, trái phiếu ) không hữu dụng nhiều, thì
chúng sẽ tự tạo ra 1 khuynh hướng thích các nguồn vốn ngắn hạn trong môi trường
chuẩn. Khi chúng ta xem xét vai trò đã nhận diện dược thì thị trường vốn hiệu quả có thể
đóng vai trò cung cấp tài chính cho phát triển dài hạn, rõ ràng sự phát triển của các nuớc
nên được ưu tiên đầu tiên trong quá trình mở tự do thị trường vốn trong nước và quốc tế.
Chỉ với những chiếc máy bay và những cảng hàng không tốt theo cách mà tránh
xa được tai nạn, thì tất cả những bước này đều giá trị không chỉ đơn giản là công cụ
phòng ngừa khủng hoảng mà còn là quyền lợi riêng của họ, như chứng tỏ được chiến
lược cho xúc tiến phát triển và hiệu quả nền kinh tế.
B- Khủng hoảng quốc tế - những nỗ lực ngăn chặn
12
Sau cùng, có thể đúng là va chạm máy bay có thể phụ thuộc vào sự đào tạo và xử
lý tình huống của phi công và máy bay sản xuất hoàn hảo. Nhưng hệ thống mà những phi
công quản lý sẽ tương đương với những mong đợi cẩn thận và quan trọng. Tương tự áp
dụng đối với quy mô của sự phòng chống khủng hoảng.
Đa số những đóng góp của cộng đồng quốc tế có thể dẫn đến chống được khủng
hoảng thành công bằng việc khuyến khích những chính sách kinh tế quốc gia hợp lý. Và
điều quan trọng nhất là các cộng đồng quốc tế có thể đạt được mục tiêu là phát triển bền
vững.
Nếu một ai đó viết về lịch sử thị trường vốn của Mỹ, thi chắc chắn người đó sẽ
kết luận rằng sáng kiến quan trọng duy nhất định dạng thị trường là việc chắp nhận các
nguyên lý kế toán chung nhất. Những chỉ số ẩn chứa trong hệ thống nguyên lý kế toán
chung nhất (GAAP) khuyến khích sự phản ứng hiệu quả của thị trường với sự thay đổi và

củng cố thêm sự vững chắc. Hơn nữa, như thể Ken Galbraith đã quan sát, lương tâm là
nỗi lo sợ cho những người đang quan sát, nó có thể là phương tiện hiệu quả duy nhất của
việc khuyến khích các nguyên tắc cá nhân. Rất nhiều loại chỉ số cần thiết trong việc thể
hiện nền kinh tế.
Cũng có 1 vai trò quan trọng cho sự giám sát quốc tế tốt hơn về chất lượng các
chính sách quốc gia ở trong vùng như mô tả. Đó là vai trò được thể hiên bằng việc tăng
quyền hạn, trách nhiệm của IMF lên trong một số lĩnh vực chính của các vùng, như nó có
thể bỏ ngay từ khi nó có thể nói rằng IMF đại diện cho “ nó là chính sách tài chính chính
“ Các hội thảo quốc tế như G-7, G-20 mới, các bộ trưởng tài chính APEC và vân vân
cũng có thể hữu ích. Thật vậy, các thành công chính của họ là không đưa ra quyết định cụ
thể là họ nên gặp nhau khi nào - thi thoảng hay không. Hơn nữa, nó là cách lan truyền
những cách suy nghĩ về những phản ứng lại của sự phát triển kinh tế. Giá trị của sự
truyền tin là các thực hiện tốt nhất, hoặc ít nhất là cách thực hiện tốt hơn, không bị đánh
giá thấp. Những hội thảo ngoài hành lang cung cấp những cơ hội quan trọng để sử dụng
những áp lực chính chính trị để can thiệp các chính sách quốc gia theo hướng đúng.
Ngoài sự tán thành cùa các thành viên tham dự hội thảo, câu hỏi thường được đưa ra là
làm gi để thức đẩy các nước theo đuổi theo những chính sách mạnh hơn. Câu trả lời cơ
bản là tuỳ thuộc sở thích cá nhân. Phân thưởng tương xứng cho những nước với những
chính sách cải thiện là sẽ có thu nhập tốt hơn và một tiêu chuẩn sống cho người dân của
nước đó. Sự khuyến khích này có thể giảm thấp những chi phí vay mượn từ thị trường .
Có một số nguời mà đề nghị làm tăng một cách có hệ thống nguồn dự trữ ngoại tê
của một quốc gia thông qua việc dùng nguồn tài chính cứu trợ vô điều kiện và phổ biến,
qua đó làm giảm tai nạn ít nhất giống như giảm rủi ro mong đợi thể hiện hết khả năng của
mình qua kiểm soát khủng hoảng mà vừa được thảo luận.
12
Có 1 vài lý thuyết và những đóng góp về chính sách tranh cãi về việc cải cách hệ thống
tài chính quốc tế nhằm mục đích phòng tránh và giải quyết khủng hoảng với mức chi phí
thấp. Những đóng góp đó bao gồm Council on Foreign Relations (1999), Eichengreen
(1999), Martin Feldstein (1999), and Kenneth Rogoff (1999). Ngày nay, các nhà nghiên
cứu cũng đã bắt đầu phát triển các mô hình phân tích về kiến trúc để hướng đến các mối

liên quan và những ảnh hưởng của 1 số đề nghị cải cách về chính sách, chẳng hạn như
việc kiểm soát vốn hoặc sự đình chỉ tạm thời các nghĩa vụ nợ bên ngoài. Những đóng góp
về mặt phân tích kiến trúc bao gồm Goldfajin and Valdes (1999), Olivier Jeanne (1999),
Jeanne and Charles Wyplosz (1999), and Jeronim Zettelmeyer (1999).
Trong khi những nguồn tài chính hỗ trợ có điều kiện và có biện pháp phòng ngự
có tính xây dựng trong một số trường hợp, thì rủi ro vốn có trong khoản nợ vô điều kiện
và sẵn có của một quốc gia có thể tóm tắt qua 2 từ: tâm lý hành xử tắc trách. Khủng
hoảng điển hình bởi sữ tiêu tốn hết các nguồn dự trữ. Có một viễn cảnh thực tế là các
nguồn dự trữ sẵn có sẽ dễ dàng trì hoãn các điều chỉnh cần thiết và vì thế chứng tỏ có
tiêu cực.
Trong khi những chính sách phòng tránh tốt nhất sẽ tối thiểu hoá được sự thay đổi
khi những khủng hoảng xảy ra, chứ chúng sẽ không thể loại trừ toàn bộ kủng hoảng. khi
khủng hoảng xảy ra, thì rất quan trọng khi thực hiện những chính sách mà tối thiểu hoá
tính hiểm hoả và hậu quả của nó.
IV Sự phản ứng khủng hoảng quốc gia và quốc tế
Sự phản ứng khủng hoảng giống như ngăn chặn khủng hoảng, có 2 cách: những
chính sách trong nước có thể khôi phục lại lòng tin và những nỗ lực quốc tế có thể tài trợ
1 khoản nợ để loại trừ khủng hoảng.Trong đó quan trọng nhất đó chính là phản ứng của
nhà cầm quyền trong nước ở những nước đả đề cập. Nếu có 1 bài học mà cho thấy rõ là
minh hoạ tốt nhất bằng những sự kiện xảy ra những năm gần đây, đó là những nước định
đạng số phận của mình và cộng đồng quốc tế có thể không bao giờ muốn những chính
sách logic và nền kinh tế vững chắc hơn cính phủ và người dân của nước đó.
A Sự phản ứng khủng hoảng hiệu quả ở mức độ quốc gia
Sự phản ứng quốc gia tốt nhất đối với khủng hoảng thì không có. Cái tốt tiếp theo
là hệ thống kinh tế và các tổ chức trong nước cò đủ sức mạnh để khủng hoảng chứa đựng
và tự hạn chế và không đạt được đến giai đoạn mà ở đó năng lực của quốc gia đáp ứng
được giao ước quốc tế đã trở thành 1 câu hỏi. Nó theo sau những câu hỏi ngăn ngừa
khủng hoảng. Ở đây tác giả sẽ nói về những khủng hoảng đang phát triển mạnh bằng 6 ví
dụ mà chúng ta đã thấy trong giai đoạn 1990.
Theo kinh nghiệm của tác giả, những nhà tạo dựng chính sách ở 1 nước đối măt

với khủng hoảng có khuynh hướng thảo luận chi tiết giai đoạn nhớ lại trong 5 giai đoạn
của tai hoạ. Đầu tiên có sữ phủ nhận là khủng hoảng có thể xảy ra. Thứ hai, chúng ta thấy
sự tức giận với 1 sự xuất hiện đột ngột của những kẻ đầu cơ và những thế lực bên ngoìa
khác. Thứ ba, có 1 sự mặc cả, nghiên cứu liều lĩnh cho dấu hiện ký lạ mà chúng ta đã
thấy ví dụ áp lực cho năng lực hệ thống tiền tệ trong khủng hoảng ở Indonexia. Thứ tư
trở thành sự bất lực, thường dẫn tới quyết định là kêu gọi IMF. Cuối cùng giai đoạn thứ
năm, có sự chấp thuận và 1 thoả thuận vế kế hoạch cho vay muợn.
Về mặt lý thuyết tác giả thường mất kiên nhẫn với việc đưa ra những lời khuyên
vô ích của những nhà cầm quyền tiền nhiệm mà tư vấn cho những nạn nhân của khủng
hoảng tài chính để liên hệ với những khoản nợ của họ, tin xấu đến nhanh dẫn đến quyết
định kịp thời để giải quyết khủng hoảng và vân vân. Hơn nữa, tác giả đánh giá cao những
kế hoạch sắc bén mà trở thành khuôn mẫu bởi vì chúng nắm bắt đúng sự thất. Trong tình
huống này sự tin cậy là trung tâm, sẽ là sai lầm nếu nghĩ nó chỉ là 1 yếu tố mà những nhà
cầm quyền trong nước làm để giải quyết vấn đề.
Có lẽ lời khuyên tốt nhất mà tác giả đã nghe đượclà chính sách đúng đắn theo
đuổi khủng hoảng là lời cảnh cáo của Tổng thống Ernesto Zedillo dựa trên kinh nghiệm
lãnh đạo Mexico thoát khỏi khủng hoảng năm 1995, khi thị trường phản ứng lại thì
những chính sách cũng cần phải phản ứng lại tương tự.
Những phát biểu này dùng để định dạng 1 chính sách hiệu quả phản ứng lại khủng
hoảng. Nội dung là gì? Nó sẽ thay đổi theo từng trường hợp. Nhưng theo kinh nghiệm
Thì tác giả đề nghị một số bài học quan trong sau:
(i) Đảm bảo niềm tin trong thị trường và các nhà đầu tư tin rằng khủng hoảng
luôn tồn tại và việc theo đuổi nó là cần thiết. Điều đó đòi hỏi phải sự rõ ràng
minh bạch ( cung cấp toàn bộ thông tin liên quan đến thị trường cốt để những
nhà đầu tư không thích rủi ro không chắc vấn đề nghiêm trọng như thế nào ).
Lời cam kết tin cậy và phù hợp để thể hiện 1 chính sách điều chỉnh chặt chẽ
( cốt để những nhà chính trị và chính sách chắc chắn không lài hại niền tin của
nhà đầu tư ) và tiếp cận với những chủ nợ ( cốt để chính sách phủ định đột
ngột và những bất ngờ được tối thiểu hoá, và để những chủ nợ được cam đoan
1 lần nữa nữa là sự hợp tác với những khó khăn nợ sẽ được theo đuổi )

(ii) Nếu chính sách tài chính lỏng lẻo là nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng, thì
việc thắt chặt sẽ là chìa khoá để phục hồi lại niềm tin, nhưng trong tình huống
mà dòng chảy vốn qui mô lớn giống như 1 tác động thu hẹp chúng, nó không
những cần thiết mà còn được mong đợi để siết chặt chính sách tài chính duy
nhất trong phản ứng lại khủng hoảng. Thật vây, bởi vì sự phá giá tiền tệ có thể
dẫn đến giảm phát trong thời gian ngắn ( thông qua giảm chi tiêu ) hơn là mở
rộng ( thông uqa mở rộng chi tiêu để kích thích trong trung hạn ). Ít có sự bắt
buộc đạt dưới hình thức giảm chi tiêu trong quá trình điều chỉnh ( thu hẹp tài
chính ) khi mà những sự cho phép này không dựa trên những nguyên tắc cơ
bản. Và thật vậy, chính sách tài chính cho phép thu hẹp khủng hoảng kinh tế
Châu Á khi khủng hoảng kinh tế ngắn hạn diển ra đầu năm 1998.
(iii) Các quốc gia cần phải có một chính sách tiền tệ hợp lý để thiết lập lòng tin, và
trong tình huống mà chế độ tiền tệ được thả nổi thật khó để tin rằng cách để
giữ cho kinh tế ổn định là sản xuất nhiều hơn bằng chính sách tiền tệ này.
Chính sách tiền tệ chuẩn của thời kỳ khủng hoảng phải là cái mà sẽ tối thiểu
hóa tỷ lệ lãi suất trung bình trong trung hạn và qua đó niềm tin được bộc lộ,
điều này ám chỉ là phải thắt chặt trong ngắn hạn. Thả nổi tiền tệ ( và dẫn đến
hậu quả xấu ảnh hưởng bảng cân đối rút gọn), trong trường hợp như
Indonesia, nơi mà những điều khoản tiền tệ bị thả lỏng trong giai đoạn đầu
của khủng hoảng, những tranh luận về tỉ lệ lãi suất thấp hơn thì sẽ làm chính
sách tiền tệ mạnh hơn dường như không được thuyết phục cũng như được ủng
hộ bởi các bằng chứng đưa ra. Bên cạnh đó chính sách tiền tệ ổn định và phục
hồi trong thời kỳ khủng hoảng kinh tế Châu á sau giai đoạn thắt chặt tiền tệ đã
tạo được niềm tin vào những năm đầu 1998, d0ó là cách cách giảm bớt tỉ lệ lãi
suất nhanh chóng và điển hình ở giai đoạn 2 của năm.
(iv) Hành động tức thời là cần thiết để giữ ổn định tình hình tài chính, thay đổi
nhanh chóng để giữ cho hệ thống lành mạnh và ngăn chặn sự bất ổn. Việc mất
lòng tin vào hệ thống tài chính và tình trạng nóng vội của ngân hàng không
phải bị gây ra bởi sự can thiệp sớm và cần thiết trong tình huống mất khả năng
chi trả. Hơn nữa những rắc rối này xấu đi (a) do trì hoãn trong việc ngăn chặn

khoản cho vay ảo đang tăng lên; (b) những sự cam kết tuyệt đối tin tưởng dẫn
đến nỗ lực tham gia các cuộc “đầu cơ để gỡ gạc”; (c) Một hệ thống bảo đảm
tiền gửi không rõ ràng, được ưa chuộng hơn hệ thống minh bạch và khích lệ
hỗ trợ, trong thời gian mà không có một nguồn nào đáng tin cậy từ nguồn tiền
của nhà nước có sẵn từ mặt trái của đảm bảo này; và (d) sự bóp méo và giao
thoa chính trị trong quá trịnh ngăn chặn đó cũng đươc nêu ra ( vì khi một ngân
hàng Indonesia thuộc sở hữu của con trai tổng thống Soeharto bị đóng cửa 1
ngày và mở lại ngay ngày hôm sau dưới 1 cái tên khác ngay tại cơ ngơi cũ).
(v) Bảo hộ xã hội manh mẽ và có hiệu quả cần được thiết lập. Chính sách xã hội
và chi tiêu hiệu quả có thể làm giảm nhẹ nhiệm vụ điều tiết trong suốt thời kỳ
khủng hoảng, giúp thiết lập sự ủng hộ cho việc cơ cấu lại, và chắc chắn rằng
gánh nặng từ sự điều tiết không rơi vào nhóm người nghèo nhất và dễ bị tổn
thương trong xã hội 1 cách không tương xứng. Đây là vấn đề ràng buộc về
đạo đức. Nó cũng có thể được xem là sự ràng buộc chính trị nếu chính sách
điều tiết mạnh mẽ được trợ giúp. Quốc gia cần sở hữu chương trình điều tiết
và chính phủ phải dân chủ và được sự ủng hộ phổ biến cho chính sách mà
xem chừng là khó khăn trong ngắn hạn. Chẳng hạn, một số quốc gia Châu Á
( Thái Lan, Nam Triều Tiên và Indonesia), quá trình khôi phục lại niềm tin và
phục hồi giá tài sản gắn liền với quyền lực của một chính phủ mới có quyền
lực chính trị hợp pháp và được ủng hộ đông đảo hơn chính quyền cũ.
Rõ ràng, trong tất cả sự điều chỉnh này sẽ rất khó để có được sự công bằng, và
chúng ta không bao giờ đảm bảo rằng họ sẽ làm đúng cho mỗi trường hợp. Nhưng không
có nghi vấn nào (và chưa từng có trước đây) về cái đích của việc duy trì lòng tin và sự
bền vững càng nhanh càng tốt và để mở đường cho sự tăng trưởng mới.
B. Đối phó với khủng hoảng thế giới
Như tôi đã lưu ý ở trên, một đặc trưng của khủng hoảng trong giai đoạn trầm
trọng nhất của nó là các chủ nợ của quốc gia tập trung vào xem xét về mặt động lực học,
không phải kinh tế học, có hay không nguồn đủ chất lượng đáp ứng nghĩa vụ tài chính
sắp đến hạn. Thiếu sự đảm bảo thì xem như sự khôi phục lòng tin là không thể thực hiện.
Nhiệm vụ trung tâm để đối phó với khủng hoảng là sự thiết lập một đường dẫn mà

có thể thấy rằng 1 quốc gia và các chủ nợ của nó đứng ngoài cuộc khủng hoảng trong
suốt quá trình hỗ trợ và tăng cường lẫn nhau. Cái đích nhắm đến phải là phục hồi niềm tin
và dòng chảy bình thường của dòng vốn tư nhân.
Cái đích này được ghi nhận bằng hai cách thức rõ ràng trong điều kiện của chính
sách điều tiết tín dụng:
Thông qua dự trữ quốc gia; hoặc
Thông qua sự hợp tác của các chủ nợ riêng lẻ trong việc giảm luồng tiền ra bên
ngoài hoặc gia hạn các nghĩa vụ nợ đến hạn.
Cùng với những nỗ lực về mặt chính sách trong việc tác động đến đất nước, mục
tiêu chủ yếu của cộng đồng quốc tế trong việc phản ứng lại với khủng hoảng đó là việc sử
dụng 2 công cụ trên để khôi phục lại niềm tin.
Sự hỗ trợ về tài chính trong những trường hợp khẩn cấp chính là chính sách hiệu
quả trong việc khôi phục lại niềm tin ngay cả trong lý thuyết lẫn thực tế. Không giống
những năm 1980 khi mà tổ chức tài chính quốc tế và các tổ chức song phương chỉ hỗ trợ
một cách tương đối cho các nước trong cuộc khủng hoảng, thì vào những năm 1990 việc
hỗ trợ cấp thiết về tài chính được xem là một nhiệm vụ trung tâm. Phương pháp tiếp cận
sau đây, mà tiêu biểu là các chính sách của IMF trong IMF’s Supplemental Resources
facility có những nét tương đồng với lời tuyên bố của Walter Bagehot về việc cho vay với
lãi suất phạt trên những khoản ký quỹ đã tỏ ra đúng đắn trong các trường hợp thông
thường. Trong khi hành động đáp trả không được áp dụng, tôi tin rằng việc hỗ trợ thiết
thực về tài chính sẽ đóng góp tương đối vào sự phục hồi nhanh chóng của các nền kinh tế
trong cuộc khủng hoảng nặng nề, chẳng hạn như đối với Mexico và Nam Triều Tiên đã
thành công trong việc thực hiện các chính sách của họ. Ngày nay, tốc độ tăng trưởng kinh
tế của Hàn Quốc vào khoảng 9%/năm.
Để đối phó với khủng hoảng thì sự hỗ trợ về tài chính có tính lãi suất đã tạo nên
những khó khăn nhất định. Trước tiên, đó là sự cân đối giữa việc hỗ trợ theo chính sách
của quốc gia với việc hỗ trợ nhằm khôi phục lại niềm tin cho thị trường.
Thứ hai, đó là những rủi ro về mặt đạo đức và những những kỳ vọng liên quan
đến việc giải cứu tài chính. Đã có sự tranh luận đáng kể về tầm quan trọng của các vấn đề
này. Trong khi một số người phản đối, tôi cho rằng khó có trường hợp mà sự đầu tư vào

các thị trường mới nổi chịu ảnh hưởng nặng nề bởi kỳ vọng về những nguồn lực sẵn có
cho các giải cứu về tài chính.
Một ví dụ đó là không có một bằng chứng nào về việc trả nợ cho các chủ nợ trong
cuộc khủng hoảng tài chính của Mexico. Ngoài ra, sự phân tích cũng chỉ ra rằng nếu các
khoản cho vay trong cuộc khủng hoảng tài chính được chứng minh là hiệu quả chúng sẽ
mang lại nguồn lợi nhuận cho các chủ nợ, đồng thời các quốc gia có liên quan cũng
không phải gánh chịu chi phí thuế như trong trường hợp nhận tiền từ các công ty bảo
hiểm. Quả thực, các khoản cho vay hiệu quả sẽ đem lại lợi ích cho tất cả các bên liên
quan, điều này được gọi là sự đổi mới Pareto. Một điều chắc chắn là một hệ thống tài
chính vững mạnh không thể được xây dựng dựa trên cơ sở các kỳ vọng về sự giải cứu tài
chính.
Thứ ba, trong một vài trường hợp việc cho vay không thể giúp cho việc giải quyết
hoàn toàn khủng hoảng cũng như là khôi phục lại niềm tin thị trường một cách đầy đủ.
Những nguyên nhân trên dẫn đến việc kết hợp nhiều thành phần tư nhân như là 1
biện pháp thay thế để đối phó với khủng hoảng. Sự kết hợp của các chủ nợ ngân hàng đã
thực hiện 1 vai trò chủ yếu trong việc giải quyết khủng hoảng tài chính ở Nam Triều Tiên
và Brazil. Ưu điểm của phương pháp đối phó khủng hoảng bằng việc kết hợp các thành
phần tư nhân đó là không cần dùng đến sự hỗ trợ tài chính từ các thành phần kinh tế công
và giúp giảm bớt các rủi ro về mặt đạo đức. Tuy nhiên, phương pháp này cũng đem lại
những khó khăn nhất định.
Ở đây có sự khó khăn trong việc đạt đến sự kết hợp giữa các thành phần tư nhân.
Bởi lẻ họ có rất ít động lực để kết hợp với nhau nếu sự kết hợp là dựa trên tinh thần tự
nguyện. Còn trong trường hợp bắt buộc phải kết hợp thì câu hỏi được đặt ra đó là sự công
bằng giữa các bên tham gia.
V Kết luận
Tôi sẽ kết luận từ nơi tôi bắt đầu. Hệ thống tài chính vững mạnh sẽ là nguồn hỗ
trợ to lớn cho sự phát triển kinh tế trên toàn thế giới và việc lưu thông dòng vốn giữa các
quốc gia cũng sẽ tạo ra những khoản lợi nhuận to lớn. Và như chúng ta đã biết, ở đây có
sự tiềm ẩn những rủi ro vô cùng to lớn.
Tôi sẽ mô tả sau đây một vài suy nghĩ hướng dẫn cho sự kết nối quốc tế trong

việc phản ứng lại với các kịch bản phát triển trong những năm gần đây. Chúng ta không
có câu trả lời cho tất cả các câu hỏi đặt ra, tuy nhiên việc đặt ra các câu hỏi đúng đắn
cũng mang những ý nghĩa hết sức quan trọng.
THAM KHẢO:
Aghion, Philippe; Banerjee, Abhijit and Bachetta,Philippe. “ Mô hình đơn giản về
chính sách tiền ệ và khủng hoảng” Mimeo, đại học Lausanne, Thụy Sĩ, tháng 9/1999
Berg, Andrew and Pattillo, Catherine “Khủng hoảng tiền tệ có thể dự đoán được? Một
thử nghiệm.” Quỹ tiền tệ thế giới (Washington,DC), báo lao động, số 98/154, tháng
12/1998
Bhagwati, Jagdish. “ Sự huyền bí của dòng vốn”, Hội thảo nước ngoài, tháng 5/6
1998
Calvo, Guillermo. “Capital Flows and Capital-Market Crises: The Simple Economics of
Sudden Stops.” Mimeo, University of Maryland,July 1998.
Chang, Roberto and Velasco, Andres. “Khủng hoảng thanh khoản Châu Á.” Cục
nghiên cứu kinh tế quốc gia (Cambridge, MA) Báo lao động số 6796, Tháng 11 1998.
“Khủn ghoảng thanh khoản trong thị trường năng lượng : Lý thuyết và chính sách.” Cục
nghiên cứu kinh tế quốc gia (Cambridge, MA) Báo lao động số 7272, Tháng 7 1999; in
Ben Bernanke and Julio Rotemberg, eds., NBER kinh tế vĩ mô hàng năm (xuất bản lần 4).
Corsetti, Giancarlo; Pesenti, Paolo and Roubini,Nouriel. “Nguyên nhân xảy ra khủng
hoảng tài chính tiền tệ Châu Á?” Kinh tế Nhật và thế giới, Tháng 9 1999a, 11(3), p. 305–
73. “Những con cọp giấy ? Một mô hình khủng hoảng tài chính Châu Á.” Báo cáo kinh
tế Châu Âu, Tháng 6 1999b, 43(7), pp. 1211–36. “Yếu tố quyết định căn bản khủng
hoảng tài chính: Vai tò của nền tài chính yếu ớt và sự mất cân bằng bên ngoài.”
Unpublished manuscript, Yale University, 1999c.
Những cố vấn hội đồng kinh tế. Báo cáo kinh tế của tổn thống. Washington, DC: U.S.
Chính Phủ Mỹ . Printing Office, 1999.
Hội đồng quan hệ quốc tế. “Tăng cường bảo vệ hệ thống tài chính toàn cầu: Thiết kế hệ
thống tài chính tương lai.” Báo cáo của lực lượng độc lập cố vấn bợi hôi đồng quan hệ
quốc tế, Viện Kinh Tế Quốc Tế,Washington, DC, 1999.
Diamond, Douglas and Dybvig, Philip. “Cuộc chạy đua của các ngân hàng, bảo đảm

tiền gửi và thanh khoản” Thời báo kinh tế chính trị, Tháng 6 1983,91(3), pp. 401–19.
Dornbusch, Rudiger; Park, Yung Chul and Claessens,Stijn. “Sự lây lan : Nó lan
truyền như thế nào và làm thế nào để dừng lại?” Unpublished manuscript, Massachusetts
Institute of Technology, January 2000.
Eichengreen, Barry. Một thiết kế mới cho tài chính quốc tế: Lịch trình ứng dụng tại
Châu Á. Washington, DC: Institute for International Economics, 1999. Eichengreen,
Barry and Rose, Andy. “Thực tiễn của cuộc khủng hoảng tiền tệ ngân hàng.” Mimeo,
University of California–Berkeley,1998.
Feldstein, Martin. “Tự bảo vệ thị trường năng lượng .” National Bureau of Economic
Research (Cambridge, MA) Working Paper No. 6907, January 1999.
Frankel, Jeffrey and Rose, Andy. “Tiền mặt cho thị trường năng lượng: thực tiễn.”
Thời báo kinh tế quốc tế, November 1996, 41(3– 4), pp. 351– 66.
Goldfajin, Ilan and Valdes, Rodrigo O. “Khủng hoảng kép và vai trò của tính thanh
khoản.” Mimeo, International Monetary Fund, Washington, DC, 1998. . “Khủng hoảng
thanh khoản và thiết kế hệ thống tài chính thế giới.” Unpublished manuscript, Central
Bank of Chile, Santiago, July 1999.
Goldstein, Morris. Khủng hoảng tài chính Châu Á: nguyên nhân, giải pháp và những
lời khuyên. Washington, DC: Institute for International Economics, 1998.
Goldstein, Morris; Kaminsky, Graciella and Reinhart, Carmen. “Hệ thống tài chính
dễ đổ vỡ: Cảnh báo cho thị trường năng lượng.” Mimeo, Institute for International
Economics, Washington, DC, 1999.
Jeanne, Olivier. “Khủng hoảng nợ và hệ thống tài chính thế giới.” Unpublished
manuscript, International Monetary Fund, Washington, DC, November 1999.
Jeanne, Olivier and Wyplosz, Charles. “The International Lender of Last Resort: How
Large Is Large Enough?” Mimeo, International Monetary Fund, Washington, DC,
September 1999.
Johnson, Simon; Boone, Peter; Breach, Alastar and Friedman, Eric. “Doanh nghiệp
nhà nước trong khủng hoảng tài chính Châu Á.” Journal of Financial Economics, 2000
(forthcoming).
Kaminsky, Graciella and Reinhart, Carmen. “Khủng hoảng kép: nguyên nhân từ rắc

rối của ngân hàng và cán cân thanh toán.” American Economic Review, June 1999, 89(3),
pp. 473–500.
Krugman, Paul. “Điều gì xảy ra cho Châu Á?” Unpublished manuscript, Massachusetts
Institute of Technology, January 1998. . “Bảng cân đối kế toán, Vấn đề chuyển nhượng,
và khủng hoảng tài chính,” in Peter Isard, Assaf Razin, and Andrew K. Rose, eds.,
International finance and international crises:Essays in honor of Robert Flood, Jr.
Washington,
DC: International Monetary Fund, 1999.
McKinnon, Ronald and Pill, Huw. “Tự do tín dụng và luồng vốn quốc tế: The ‘Hội
chứng vay trội’,” in T. Ito and A. O. Krueger, eds., Financial deregulation and
integration in East Asia. Chicago: University of Chicago Press, 1996, pp. 7– 42.
Morris, Stephen and Shin, Hyun Song. “Sự công kích mô hình cân bằng tiền tệ độc
đáo.” American Economic Review, June 1998, 88(3), pp. 587–97.
Prisker, Matthew. “Các kênh dịch chuyển tài chính.” Unpublished manuscript, Board of
Governors of the Federal Reserve System, Washington, DC, January 2000.
Rodrik, Dani and Velasco, Andres. “Dòng vốn ngắn hạn.” National Bureau of
Economic Research (Cambridge, MA) Working Paper No. 7364, September 1999.
Rogoff, Kenneth. “Các thể chế quốc tế về giảm thiểu bất ổn tài chính.” Journal of
Economic Perspectives, Fall 1999, 13(4), pp. 21–42.
Sachs, Jeffrey and Radelet, Steven. “Nơi bắt đầu khủng hoảng tài chính Đông Nam Á.”
National Bureau of Economic Research (Cambridge, MA) Working Paper No. 6680,
August 1998. . “Chúng ta học được gì, xa hơn, từ khủng hoảng tài chính Đông Nam Á?”
Mimeo, Đại học Haverd, tháng 1, 1999.
VOL. 90 NO. 2 RICHARD T. ELY LECTURE 15
Sachs, Jeffrey; Tornell, Aaron and Velasco, Andres. “Khủng hỏang tài chính trên thị
trường năng lượng: Bài học năm 1995.” Brookings Papers on Economic Activity, 1996,
(1), pp. 147–98.
Summers, Lawrence H. “Các cách thức đúng đắn của IMF cho sự ổn định tài chính.”
bài diễn thuyết tại trường học kinh tế London, London, U.K., 14 December 1999.
Summers, Lawrence H. and Summers, Victoria P. “Khi thị trường tài chính hoạt động

hiệu quả: Một trường hợp thận trọng cho thuế giao dịch chứng khoán.” Tạp chí nghiên
cứu tài chính, Tháng 12, 1989, 3(2–3), pp. 261–86.
Wallace, Neil. “Sự cố gắng để giải thích tính kém thanh khoản của hệ thống ngân hàng :
The Diamond and Dybvig Model with Sequential Servicing Taken Seriously.” Federal
Reserve Bank of Minneapolis Quarterly Review, Fall 1988, 12(4), pp. 3–16.
Zeckhauser, Richard. “Trách nhiệm lẫn lộn giữa khu vực công và tư nhân,” in Winthrop
Knowlton and Richard Zeckhauser, eds., American society: Public and private
responsibilities. Cambridge, MA: Ballinger, 1986, pp. 45–77.
Zettelmeyer, Jeronim. “Ảnh hưởng ngắn hạn về vay nợ quốc gia .” Bản thảo,
Quỹ tiền tệ quốc tế, Washington, DC, T.12 – 1999.

×