Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

skkn các BIỆN PHÁP TU từ TRONG dạy học NGỮ văn THCS

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (180.7 KB, 17 trang )

CÁC BIỆN PHÁP TU TỪ TRONG DẠY HỌC NGỮ VĂN THCS
PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ – LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
I. Xuất phát từ yêu cầu dạy Văn theo quan điểm tích hợp.
Theo quan điểm tích hợp: Dạy Văn là sự kết hợp của ba phân môn Văn-tiếng Việt-Làm
văn trên cơ sở vừa cung cấp cho học sinh (HS) một số tri thức về tiếng Việt (đặc điểm tình
hình và ngữ nghĩa của các đơn vị cấu tạo từ, các qui tắc sử dụng tiếng Việt và các qui tắc
chi phối sử dụng tiếng Việt để giao tiếp trong nhà trường, xã hội); Về các kiểu văn bản
(văn bản tự sự, miêu tả, biểu cảm, nghị luận ); Về văn học (những tác phẩm văn học dân
tộc và văn học trên thế giới )vừa rèn luyện kĩ năng nghe, nói, đọc, viết thành thạo tiếng
Việt, rèn luyện năng lực tư duy theo hướng nhận thức phân tích, rèn luyện năng lực thực
hành nh: sử dụng tiếng Việt, khả năng cảm thụ, phân tích, bình giá văn học; nhằm giúp các
em trở thành những con ngời mới có tư duy sáng tạo và khả năng ứng dụng vào cuộc sống.
Khai thác các hình thức tu từ trong dạy học tác phẩm văn học chính là vận dụng quan
điểm tích hợp vào giảng dạy văn trên cơ sở giúp HS tìm hiểu mặt nghệ thuật ngôn ngữ- cái
làm nên nội dung tác phẩm cũng như giá trị độc đáo của cách trình bày cuộc sống theo
quan điểm thẩm mĩ của nhà văn để các em cảm và hiểu văn học một cách sâu sắc hơn.
II. Xuất phát từ mối liên hệ giữa hai phân môn Văn và tiếng Việt.
Dạy văn là quá trình hướng dẫn HS khám phá , rung động với cái hay, cái đẹp của nghệ
thuật văn chương, cảm thông với những tâm trạng, tính cách, số phận của con người trước
cuộc đời chứa đựng trong tác phẩm. Dạy văn giúp HS tự hoàn thiện mình về mặt nhân
cách, hình thành cho các em tình yêu quê hương đất nước, ông bà, cha mẹ, xóm làng và
lòng nhân ái sâu sắc.
Dạy tiếng Việt là quá trình hướng dẫn HS khám phá tiếng Việt, cách thức hoạt động của
tiếng Việt và những sản phẩm của quá trình này. Dạy tiếng Việt rèn luyện cho HS khả
năng sử dụng tếng Việt văn hoá, chuẩn mực trong giao tiếp cũng như năng lực và phẩm
chất tư duy khoa học.
Khai thác các hình thức tu từ trong dạy học tác phẩm văn học thể hiện mối liên hệ giữa
dạy Văn và tiếng Việt trong đó tiếng Việt là chất liệu, phương tiện, là cái tạo nên hình t-
ượng nghệ thuật của văn, còn văn là mục đích cuối cùng của tiếng Việt (Tiếng Việt ta rất
giàu và đẹp). Bởi văn chương là nghệ thuật của ngôn từ. Ngôn từ trong tác phẩm văn học
vừa chính xác, vừa giàu sức gợi tả, gợi cảm, cô đọng, súc tích có sức lay động tư tưởng,


tình cảm của con người một cách sâu xa, mạnh liệt. “ Sự phân tích ngôn ngữ sâu sắc trong
dạy học văn là cách bồi dưỡng năng lực ngôn ngữ tối ưu cho người học. Mặt khác, sự hiểu
biết sâu sắc về ngôn ngữ lại tác động mạnh trở lại đến năng lực cảm thụ văn học của HS ”.
PHẦN II: NỘI DUNG
A. CƠ SỞ LÍ LUẬN
Khai thác các hình thức tu từ trong dạy học tác phẩm văn học chỉ là cách đi sâu vào
một khía cạnh nhỏ trong tổng quát phương pháp phân tích tác phẩm văn học.
I. Tác phẩm văn học và việc dạy tác phẩm văn học ở trường THCS.
Trang 1
1.Tác phẩm văn học.
Tác phẩm văn học là một chỉnh thể thống nhất giữa hai mặt nội dung và hình thức. Nội
dung là những hiện thực đời sống được phản ánh theo ý thức chủ quan của nhà văn còn
hình thức là những biện pháp nghệ thuật được tác giả sử dụng một cách chọn lọc theo ý đồ
sáng tác của mình.
a. Mặt nội dung của tác phẩm văn học:
- Nội dung của tác phẩm văn học bao giờ cũng thể hiện ở hai phương diện: đó là hiện
thực được phản ánh và tư tưởng thái độ tình cảm của tác giả gửi gắm qua tác phẩm. Hai
phương diện này luôn gắn bó chặt chẽ và có mối quan hệ thâm nhập vào nhau.
- Nội dung của tác phẩm văn học bắt nguồn từ mối quan hệ giữa văn học với hiện thực. “
Đó là mối quan hệ nhất định của con người đối với hiện tượng đời sống đã được phản ánh.
Đó vừa là cuộc sống được ý thức, vừa là sự ý thức cảm xúc đánh giá đối với cuộc đời đó”.
- Nội dung của tác phẩm văn học là “ Cuộc sống được lí giải đánh giá, là nhận thức và lí
tưởng đã hoá thành máu thịt hiển hiện” thể hiện qua những trăn trở băn khoăn, một tình
cảm yêu thương hay căm phẫn của nhà văn trước những vấn đề xã hội. “ Tắt đèn” là nổi
thương tâm của một gia đình cùng cực như chị Dậu, làm lụng quanh năm vẫn không đủ ăn
đến nổi suất suư thân cũng phải bán con, bán chó để có tiền nộp thuế.
b. Mặt hình thức của tác phẩm:
- Hình thức là sự biểu hiện của nội dung. Nhà văn sáng tạo hình thức phải dùng thủ
pháp, phương tiện nghệ thuật. Nhưng chất liệu và phương tiện nghệ thuật chỉ trở thành
hình thức nghệ thuật chừng nào nó trở thành sự biểu hiện của nội dung, trở thành hình thức

có tính nội dung của một nội dung cụ thể. “Chính vì vậy hình thức của tác phẩm văn học
mang tính cụ thể, không lặp lại”
- Hình thức của tác phẩm văn học bao gồm các yếu tố và loại thể, kết cấu, cốt truyện,
nhân vật, chi tiết, ngôn ngữ Đặc biệt “ Ngôn ngữ là hình thức chủ yếu của tác phẩm văn
học”.
+Ngôn ngữ trong tác phẩm văn học trước tiên nó phải là ngôn ngữ nghệ thuật mà theo
TônxTôi “Ngôn ngữ văn học khác với lời nói thường ở chỗ nó gợi ra một tập hợp không
sao kể xiết những ý tưởng, những tình cảm, những sự giải thích”. Nghĩa là ngôn ngữ trong
tác phẩm văn học phải mang tính tạo hình, biểu cảm, có sức biểu trưng lớn, có sức lay
động tư tưởng, tình cảm của con người một cách sâu xa mãnh liệt.
+ Ngôn ngữ trong tác phẩm văn học là ngôn ngữ dùng các phương tiện nghệ thuật để
biểu đạt nội dung bao gồm các phương tiện ngữ âm (như vần, thanh điệu) các hình thức tu
từ ( Như ẩn dụ, nhân hoá, hoán dụ, so sánh, câu hỏi tu từ, điệp ngữ ).
+Ngôn ngữ trong tác phẩm văn học là ngôn ngữ được gọt giũa chọn lọc theo ý đồ của
nhà văn. Nó thể hiện cá tính sáng tạo của nhà văn, có giá trị về mặt thẩm mĩ.
Hay nói một cách khái quát hơn: Ngôn từ trong tác phẩm là ngôn từ vừa mang tính
hình tượng, vừa mang tính cá thể và tính cụ thể hoá.
c. Mối quan hệ giữa nội dung và hình thức trong tác phẩm văn học:
- Trong tác phẩm văn học, nội dung và hình thức có mối quan hệ hữu cơ gắn bó chặt chẽ
với nhau và Hêghen cho là “ Nội dung chẳng phải là cái gì khác, mà chính là chuyển hoá
Trang 2
của hình thức vào nội dung, và hình thức cũng chẳng khác gì hơn là sự chuyển hoá của nội
dung vào hình thức”.
- Tác phẩm văn học là quá trình sáng tạo của nhà văn, đòi hỏi tác giả luôn tìm tòi, sáng
tạo ra hình thức cho phù hợp với nội dung.
- Trong tác phẩm văn học nội dung và hình thức thâm nhập lẫn nhau, khó có thể tách
bạch và phân biệt hẳn làm hai. Khi tiếp nhận tác phẩm đòi hỏi người đọc phải tìm ra cái
tinh vi về tư tưởng, cái độc đáo về nghệ thuật. Cho nên “ Khai thác nội dung qua nghệ
thuật là phân tích sự thể hiện của hình thức đối với nội dung, từ những yếu tố nhỏ nhất của
từ ngữ, nhịp điệu, kiểu câu tới kết cấu cốt truyện, nhân vật, giọng văn ”.

2. Dạy tác phẩm văn học trong trường THCS:
a. Khái niệm tác phẩm văn học trong nhà trường:
- Tác phẩm văn học trong nhà trường “ Vừa có tính chất của một sáng tác nghệ thuật vừa
là cơ sở để hình thành những kiến thức về lịch sử văn học,ngôn ngữ và tiếng Việt”.
- Nắm bắt từ đặc trưng của mình là phương tiện để nhận thức, là đối tượng thẫm mĩ,
tác phẩm văn học đã biết vận dụng công cụ giáo dục đặc biệt để giúp HS tự phát triển một
cách toàn diện về nhân cách. Nó không chỉ cung cấp cho HS về tri thức ( thấy được những
giá trị trong lịch sử văn học của dân tộc và nhân loại, thấy được tiếng Việt của ta rất giàu
và đẹp) mà còn bồi dưỡng cho các em lòng nhân ái, tình yêu quê hương đất nước, xây
dựng nhân cách và ý thức chủ động sáng tạo trong cuộc sống. Vì lẽ đó, mà khi dạy văn, ng-
ười GV phải “ Làm cho HS sống, hiểu biết và xúc động cùng với tác giả, cùng với nhân
vật, có thái độ đối với cuộc đời và tự phát hiện ra mình so với lí tưởng thẩm mĩ chứa đựng
trong tác phẩm. Đấy là cơ sở cho sự nâng cao tâm hồn và phẩm chất thực sự xây dựng
nhân cách HS”.
b. Vị trí tác phẩm văn học trong chương trình Ngữ văn THCS:
* Thời lượng chương trình.
Bộ môn Ngữ văn được chia làm ba phân môn Văn- tiếng Việt-Làm văn. Trong đó phân
môn văn học chủ yếu là dạy tác phẩm văn học. Bao gồm văn học Việt Nam và nước ngoài.
Riêng văn học Việt Nam chiếm số lượng nhiều có văn học dân gian, văn học cổ đại, văn
học cận đại và văn học hiện đại. Chia đều cho bốn khối:
- Khối lớp 6: có 38 tác phẩm cới 51 tiết/68 tiết văn;
- Khối lớp 7: có 10 tác phẩm với 13 tiết/33 tiết văn;
- Khối lớp 8: có 22 tác phẩm với 34 tiết/44 tiết văn;
- Khối lớp 9: có30 tác phẩm với 37 tiết/ 48 tiết văn.
Như vậy có 100 tác phẩm dạy trong 135 tiết trên tổng số 193 tiết văn học ở THCS.
Riêng phần văn học hiện đại có 52 tác phẩm dạy trong 77 tiết trên tổng số 135 tiết thể hiện
phần văn học hiện đại đợc đánh giá khá cao trong chương trình dạy tác phẩm văn học.
* Nội dung chương trình dạy tác phẩm văn học ở THCS :
- Dạy tác phẩm văn học Việt Nam ở trường THCS bao gồm một “ Hệ thống tác phẩm đ-
ược tuyển chọn từ kho tàng văn chương trong nước. Đó là những tác phẩm văn học đích

thực, giàu chất nhân văn, giàu tính nghệ thuật của các nhà văn,nhà thơ nổi tiếng trong nư-
ớc”.
Trang 3
- Chương trình có kết cấu đồng tâm được bố trí ở cả bốn khối lớp theo trật tự từ thấp
lên cao, từ dễ đến khó.
3.Yêu cầu dạy tác phẩm văn học ở trờng THCS:
- Cơ chế dạy học mới chú trọng đến con người mới, con người sáng tạo. Đổi mới ph-
ương pháp dạy học: “ Coi trọng hoạt động học tập của HS, rèn luyện cho HS tính năng
động, sáng tạo bằng cách tích cực hoá hoạt động của HS. GV là người hướng dẫn, tổ chức
HS chủ động phát hiện và giải quyết vấn đề, giúp HS được suy nghĩ nhiều hơn, thực hành
nhiều hơn”.
- Trên tinh thần đổi mới ấy, người giáo viên hướng dẫn HS tiếp nhận tác phẩm bằng
việc lí giải, phân tích các hình tượng nhằm giúp HS nhận ra những điều tác phẩm muốn đề
cập, những sáng tạo nghệ thuật để từ đó tác phẩm ấy có thể thâm nhập, sinh thành ,trong
từng HS.
Để giữ vững vai trò người hướng dẫn, tổ chức cho HS đòi hỏi người GV phải nắm được
các đặc trưng của ngôn ngữ nghệ thuật, phải có vốn hiểu biết và năng lực tư duy sáng tạo.
Dạy tác phẩm văn học, HS là chủ thể tiếp nhận, phát huy vai trò chủ động, tích cực học
tập ở mỗi cá nhân chính là yêu cầu cơ bản trong dạy học hiện nay.
4. Dạy học tác phẩm văn học theo đặc trng loại thể:
a. Mục đích của việc dạy tác phẩm văn học theo loại thể:
Dạy văn theo loại thể “ Giúp chúng ta tìm hiểu và cảm thụ tác phẩm cụ thể được sâu sắc
hơn, tế nhị hơn”, “ Dạy và học có kết quả hơn”, đồng thời giúp cho người GV có phương
hướng thiết kế giờ dạy học tác phẩm.
b. Các loại thể được dạy ở trường THCS chủ yếu có hai loại:
- Tác phẩm thơ là những tác phẩm trữ tình, đặc trưng của loại thể này là cảm xúc, là sự
thể hiện “ Cái tôi trữ tình” với ngôn ngữ đạt đến trình độ điêu luyện, hàm súc, cô đọng,
giàu sức tạo hình, biểu cảm và tính nhạc âm vang của sự phối hợp vần, luật, nhịp điệu, tiết
tấu
-Tác phẩm truyện thiên về tự sự, đặc trưng của loại thể này là con người và cuộc sống

trong tác phẩm được xây dựng qua hệ thống nhân vật, cốt truyện, tình tiết
c. Các phương hướng tìm hiểu tác phẩm văn học theo thể loại:Tìm hiểu tác phẩm văn
học theo thể loại có rất nhiều phương hướng:
-Lần theo kết cấu của tác phẩm là phương hướng tìm hiểu diễn biến sự việc, cảm xúc
từ khâu mở đầu đến khâu kết thúc xen kẽ, đột biến
- Phương hướng theo hệ thống hình tượng chú ý nhân vật, cảm xúc, thủ pháp, phong
cách.
- Phương hướng theo hệ thống vấn đề: sẽ hướng cách khai thác tác phẩm theo một vấn
đề nào đó mà nó giữ vai trò chủ thể của tác phẩm.
II. Vài nét về hình thức tu từ trong tác phẩm văn học:
Trong tác phẩm văn học, các hình thức tu từ nằm trong lớp ngôn từ nghệ thuật có chức
năng biểu đạt nội dung của tác phẩm văn học.
1. Các hình thức tu từ ngữ âm:
Trang 4
Là những cách phối hợp sử dụng khéo léo các âm thanh đem đến cho phát ngôn ( th-
ường là văn bản thơ) một cấu thanh nhất định, nhằm tạo ra những giá trị tượng thanh, tư-
ợng hình, biểu cảm.
Các hình thức tu từ ngữ âm xuất hiện chủ yếu trong văn bản thơ thể hiện qua điệp phụ
âm đầu, điệp vần, điệp thanh, nhịp điệu, âm hưởng, hài âm tạo nên đặc trưng rất riêng ở
thơ: tính nhạc tràn đầy.
2. Các hình thức tu từ từ vựng:
Là tên gọi thứ hai mang màu sắc tu từ của sự vật, hiện tượng.Các hình thức tu từ từ
vựng chủ yếu: ẩn dụ, nhân hoá, hoán dụ, so sánh tu từ, nói quá, nói giảm nói tránh.
3. Các hình thức tu từ cú pháp:
Là cách nói phối hợp sử dụng các kiểu âm, kiểu câu nhằm đem lại ý nghĩa biểu cảm,
cảm xúc cho những mảnh đoạn của lời nói do chúng cấu tạo nên.
Các hình thức tu từ cú pháp: Điệp ngữ; đổi trật tự cú pháp;Liệt kê; câu hỏi tu từ.
4. Vị trí các hình thức tu từ trong tác phẩm văn học:
Các hình thức tu từ tiếng Việt rất phong phú và việc vận dụng sáng tạo ở từng bài văn,
bài thơ của từng tác giả rất đa dạng linh hoạt nhưng có thể hiểu nó ở hai vị trí sau:

a. Các hình thức tu từ xuất hiện với tư cách là những biện pháp nghệ thuật:
Tác phẩm văn chương là hành vi sáng tạo là kết quả của ý đồ sáng tác của việc vận dụng
những thủ pháp tu từ. Với tư cách là những biện pháp nghệ thuật, các hình thức tu từ thể
hiện sự sử dụng từ, phối hợp từ, câu một cách chọn lọc- sáng tạo, theo ý đồ sáng tác của
nhà văn nhằm đem lại cho tác phẩm những giá trị có tính biểu trưng lớn về nội dung và
tính thẩm mĩ về mặt nghệ thuật.
Các hình thức tu từ xuất hiện trong tác phẩm văn học với tư cách là những biện pháp
nghệ thuật bởi nó không có mục đích tự thân mà chỉ phân tích nội dung và hình thức trong
tác phẩm thì giá trị của chúng mới thể hiện rõ.
b. Các hình thức tu từ xuất hiện trong tác phẩm văn học với tư cách là những mã ngôn
ngữ nghệ thuật.
Trong tác phẩm văn học, các hình thức tu từ chính là sự vận dụng ngôn ngữ một cách có
nghệ thuật nhằm đạt hiệu quả cao về mặt thẩm mĩ.
Các hình thức tu từ với tư cách là những mã ngôn ngữ nghệ thuật thể hiện ở phương
tiện biểu hiện nhằm khiêu gợi liên tưởng, tưởng tượng qua sáng tác nghệ thuật mà chỉ khi
khám phá, phân tích tác phẩm nó mới được giải mã. Do đó “ để hiểu lời văn nghệ thuật nh-
ư là hình thức của tác phẩm, chẳng những phải hiểu các phương tiện ngôn từ được tác giả
sử dụng, nhận ra chính xác nội dung và hình thức của chúng mà còn phải lí giải sự tổ chức
của chúng phù hợp với các nguyên tắc tư tưởng- thẩm mĩ của tác giả. Chỉ như vậy mới
thâm nhập được vào cái hồn thâm thuý của văn chương, thưởng thức cái hay cái đẹp của
nó”.
Khả năng mã ngôn ngữ nghệ thuật thể hiện ở tính hình tượng. Bởi “ đặc điểm diễn đạt
của ngôn ngữ văn chương tận dụng tất cả các biện pháp tu từ của ngôn ngữ dân tộc để sáng
tạo hình tượng”.
5. Các hình thức tu từ là cách thức sử dụng ngôn ngữ biểu đạt nội dung một cách hiệu
quả:
Trang 5
Các hình thức tu từ là cách dùng từ, câu bóng bẩy, giàu hình ảnh, gợi cảm thể hiện rõ
giá trị to lớn của chúng đối với nội dung. Đó là tính chính xác, giá trị hình tượng, giá trị
thẩm mĩ và mang phong cách nhà văn.

a. Mang tính chính xác:
Ngôn ngữ trong tác phẩm văn học là ngôn ngữ gợi ra những tập hợp không sao kể xiết,
là ngôn ngữ “ Làm sống dậy các động tác sự vận động đầy ý nghĩa của sự vật trong những
thời khắc nhất định ”chính là nhờ các hình thức tu từ, nó đã vẽ đúng được một nét sinh
động của đối tượng theo như quan niệm của tác giả.
Tính chính xác của hình thức tu từ biểu hiện một cách đúng đắn nhất cái hiện thực mà
nhà văn muốn diễn tả, cái tư tưởng tình cảm mà nhà văn muốn gửi gắm.
b. Mang giá trị hình tượng:
- Tác phẩm nghệ thuật dù thuộc loại hình nào đi nữa cũng đều tác động bằng hình tượng
và hình tượng bao giờ cũng đến với người tiếp nhận bằng con đường cảm quan nội tại,
thông qua một cái nhìn thấy bên trong tạo nên những rung động, những tác dụng thẩm mĩ
nhất định.
- Các hình thức tu từ bằng nội dung ngữ nghĩa của từ, của câu trong việc kết hợp sử dụng
ngôn từ trong tác phẩm có thể biểu hiện thực tại tới tận những chi tiết, những sắc thái tinh
vi, tế nhị nhất, do đó lại tạo cho hình tượng văn học nhiều khả năng to lớn, có thể dựng lại
cuộc sống trong cả chiều rộng lẫn chiều sâu.
- Giá trị của các hình thức tu từ khi xây dựng hình tượng nghệ thuật thể hiện ở tính tạo
hình, biểu cảm.
+Tính tạo hình có sức gợi trong trí tưởng tượng, hình ảnh cái hiện thực nhà văn muốn
gửi gắm.
+ Tính biểu cảm làm rung động trong đời sống tâm hồn tình cảm của ngời đọc những
cảm xúc, tình cảm mà nhà văn muốn biểu hiện.
c. Mang giá trị thẩm mĩ:
- Các hình thức tu từ là cách dùng từ bóng bẩy, trau chuốt, là cách dùng từ hay, câu hay
vào trong tác phẩm nghệ thuật. Mà nói đến nghệ thuật là nói đến cái đẹp. “ Cái đẹp là điều
kiện không thể thiếu được của nghệ thuật, nếu thiếu cái đẹp thì không có và không thể có
nghệ thuật”.
- Giá trị thẩm mĩ của các hình thức tu từ không chỉ thể hiện ở ý nghĩa tinh tế, mới mẻ có
sức khơi dậy và tiếp sức cho những rung động từ cái đẹp.
d. Mang phong cách tác giả:

Cái riêng của tất cả các yếu tố trong sáng tác: lối nghĩ, lối cảm, lối thể hiện những đặc
điểm riêng trong cách sử dụng từ ngữ, ngữ pháp, thủ pháp nghệ thuật đều mang đậm dấu
ấn phong cách tác giả. Tìm ra được cái riêng của tác giả tức là đã nhận ra giá trị nghệ thuật
độc đáo theo quan điểm của nhà văn.
Vận dụng các hình thức tu từ vào sáng tác thể hiện cá tính sáng tạo của nhà văn qua
cách sử dụng từ ngữ một cách chọn lọc, khả năng kết hợp từ, câu theo một cách nào đó. Vì
vậy, ở một bình diện rộng các hình thức tu từ chính là phong cách.

B. CƠ SỞ THỰC TIỄN
Trang 6
Xuất phát từ thực tiễn giảng dạy và học tập môn văn ở trường THCS. Lâu nay, giờ học
văn trở thành nổi lo sợ, nặng nề về mặt tâm lí ở một số HS. Do các em không thích học
môn văn, lượng kiến thức của giờ văn nhiều, lại quá trừu tượng so với tầm đón nhận và
một số giờ dạy văn chưa thực sự lôi cuốn các em.
Bản thân là một GV nhận thấy khi phân tích tác phẩm văn học chỉ tập trung phân tích
phần nội dung, không chú trọng đến mặt hình thức nghệ thuật nhất là các hình thức tu từ ít
được phân tích nên HS hiểu theo kiểu diễn nôm, máy móc.Tôi thiết nghĩ, không chỉ riêng
bản thân mà một số các đồng nghiệp khác cũng mắc phải điều này. Nhất là những đồng
nghiệp non trẻ.

C. GIẢI PHÁP KHAI THÁC CÁC HÌNH THỨC TU TỪ TRONG TPVH.
I. GIẢI PHÁP CHUNG ĐỐI VỚI TỪNG HÌNH THỨC TU TỪ CỤ THỂ :
1. Hình thức tu từ ngữ âm:
Hướng vào âm điệu du dương nhạc điệu của sự phối hợp vần, nhịp điệu, tiết tấu. Do đó
khi khai thác các hình thức tu từ ngữ âm, GV phải chỉ ra được cái âm hưởng chung của
toàn bài thơ (vì ở truyện ít sử dụng hình thức tu từ ngữ âm ngoài cách điệp âm, điệp thanh
nhằm tạo sự hài hoà cân đối cho câu văn).
Dùng phương pháp so sánh đối lập âm thanh để xem sự xuất hiện của loại hình tu từ ngữ
âm và loại hình không phải tu từ ngữ âm cách sử dụng nào chi phối đến âm hưởng chung
của toàn tác phẩm.

VD: Nếu ta thay đổi cách ngắt nhịp, thay đổi cách gieo vần thì âm sắc của toàn bài thơ,
đoạn văn có bị ảnh hưởng gì đến nội dung không?
2. Hình thức tu từ về từ : Hướng vào sự tạo hình, gợi cảm.
* So sánh, ẩn dụ, hoán dụ, nhân hoá: GV dùng phương pháp tái hiện để khai thác chúng.
Dùng phương pháp này vào phân tích, GV nên có hướng gợi ý cho HS liên tưởng, tưởng
tượng. Nghĩa của ẩn dụ, hoán dụ, nhân hoá bao giờ cũng mang nghĩa hình tượng, nghĩa
bóng nên dùng phương pháp tái hiện nhằm giúp HS ngoài cách biểu hiện nghĩa gốc, nghĩa
cơ bản còn hiểu được ý nghĩa bổ sung, ý nghĩa hình tượng của biện pháp ấy. Dùng phương
pháp tái hiện, GV phân tích cơ chế cơ bản trong việc sản sinh ra sức gợi tả là thông qua sức
liên tưởng mà tạo nên sự chuyển đổi nghĩa, dẫn dắt người đọc từ một nghĩa đầu tiên bề
ngoài đi đến những nghĩa khác bên trong.
Ví dụ1 : Dùng phương pháp tái hiện vào phân tích hình ảnh ẩn dụ sau :
-“Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lí chói qua tim”
(Từ ấy- Tố Hữu, Văn 8)
Hình ảnh ẩn dụ là : Bừng nắng hạ - mặt trời chân lí.
Dùng phương pháp tái hiện bằng cách : gợi hình ảnh cho học sinh hiểu nghĩa gốc.
Bừng nắng hạ được hiểu như thế nào ?
Trang 7
Mặt trời chân lí hiểu ra sao ?
Gợi liên tưởng cho học sinh hiểu theo nghĩa hình tượng: Tác giả nói trong thời điểm
nào, lúc ấy xã hội ra sao? Mặt tời chân lí tượng trưng cho đường lối lãnh đạo nào lúc bây
giờ ?
Sau đó GV khái quát thành nghĩa của hai hình ảnh ẩn dụ như trên : Tôi sáng suốt,
minh mẫn khi bắt gặp ánh sáng soi đường dẫn lối của Đảng.
Ví dụ 2: “ Măng non là búp măng non
Đã mang dáng thẳng thân tròn của tre
Năm qua đi, tháng qua đi
Tre già măng mọc có gì lạ đâu”
( Tre Việt Nam- Nguyễn Duy Ngữ Văn 7).

Ẩn dụ: Măng non được so sánh ngầm với thế hệ trẻ nhằm diễn tả măng non là lớp kế
tiếp cha ông, là mầm non của đất nước.
* Nói quá : Dùng phương pháp giảng nghĩa từ đối với biện pháp tu từ mày GV hướng
HS vào hiểu nghĩa của những sự vật hiện tượng và đem đối chiếu với thực tế để rút ra ý
nghĩa của cách dùng biện pháp này.
VD1 : Trong câu ca dao có sử dụng biện pháp nói quá.
-“Cày đồng đang buổi ban trưa”
GV cần giảng nghĩa mưa ruộng cày là như thế nào ? Trên cơ sở giảng nghĩa “Mồ hôi
thánh thót như mưa ruộng cày” GV cho HS liên hệ với thực tế ở ngoài đời sống để rút ra
kết luận : ý nghĩa tác dụng của biện pháp này nhằm diễn tả công việc cày đồng rất cực
nhọc, người nông dân phải vất vả mới làm ra hạt lúa, hạt gạo trắng thơm.
VD2: “Dân phu kể hàng trăm nghìn con người, từ chiều đến giờ hết sức, kẻ thì
thuổng, người thì cuốc, tình cảnh trông thật là thảm”.
( Tức nước vỡ bờ-phạm Duy Tốn, Ngữ Văn 8).
Cách nói quá này nhằm mô tả cảnh hộ đê đông đúc, hỗn loạn.
* Nói giảm - nói tránh : Dùng phương pháp xác định sắc thái tu từ để phân tích ý nghĩa
trong từ có quan hệ với phạm vi tình cảm - cảm xúc. Xác định sắc thái tu từ, GV dựa trên
cơ sở đối lập sắc thái trung hoà và sắc tu từ (ở sắc thái tu từ bào giờ cũng chia thành hai
thái cực dương tính và âm tính ) nhằm rút ra hiệu quả của cách dùng từ.
Sắc thái biểu cảm dương tính Trung hoà sắc thái biểu cảm Sắc thái biểu cảm âm tính
Thái độ trang trọng, kính
yêu, quý trọng
Thái độ miệt thị, coi thường.
VD1: Nguyễn Khuyến trán dùng cái chết để nói đến nỗi đau buồn :
“Bác Dương, thôi đã thôi rồi”.
Trang 8
Nước mây man mác biết là về đâu ?
(Khóc Dương Khuê - Nguyễn Khuyến)
GV xác lập từ “chết” là trung thành về sắc thái biểu cảm, nó chỉ mang ý nghĩa thông
báo về một con người không còn tồn tại trong cuộc sống.

Cho HS xác định từ “thôi đã thôi rồi” được hiểu ở mức độ tình cảm nào ? tiếc nuối,
coi thường.
GV rút ra nhận xét chung: Đây là lời tiếc nuối buồn đau , tránh nói đến cái chết bằng
tình cảm kính yêu, trang trọng.
VD2: “ Thân lươn bao quản lấm đầu,
Chút lòng trinh bạch từ sau xin chừa”
( Truyện Kiều- Nguyễn Du).
Sau khi bị tú bà và sở khanh đánh lừa, Thuý Kiều buộc phải ra tiếp khách, nàng
không thể nói thẳng phải làm “ Gái lầu xanh” vì thấy bị xúc phạm, đau đớn quá nên thốt ra
lời trên.
3. Hình thức tu từ về câu :
Hướng vào sự gây chú ý, sự nhấn mạnh sáng rõ đặc điểm đối tượng, thái độ bình giá.
* Điệp ngữ ; Dùng phương pháp hệ thống GV hướng HS vào sự xuất hiện của hình thức
này ở mỗi khổ thơ, câu văn có tác dụng như thế nào đối với toàn bộ tác phẩm. Nghĩa là
xem điệp ngữ như là một yếu tố, nó góp phần như thế nào vào một hệ thống lớn là tác
phẩm văn học.
VD1 : + Trong bài “ Tiếng chổi tre’ của Tố Hứu )Văn 7)
Điệp ngữ “Tiếng chổi tre” xuất hiện bốn lần. đặt trong hệ thống bài thơ, GV hướng HS
xác định vào tổng thể lặp lại của “tiếng chổi tre” ở những thời điểm nào? và nhìn vào tổng
thể bài thơ điệp ngữ nhằm thể hiện điều gì? Nhưng điều quan trọng GV phải nói được sự
lặp lại diễn tả mặt thời gian gợi cho người đọc một liên tưởng chị lao công làm việc một
cách âm thầm, bền bỉ.
VD2: Mai sau
Mai sau
Mai sau
Đất xanh tre mãi xanh màu tre xanh
( Tre Việt Nam- Nguyễn Duy, Ngữ Văn 7).
Sử dụng điệp ngữ “ Mai sau” nhấn mạnh sự trường tồn của tre, của người Việt Nam.
Tre là biểu tượng cho con người Việt Nam, cho dân tộc Việt Nam.
VD3 “Ba nó bế nó lên. Nó hôn ba nó khắp mọi nơi. Nó hôn tóc, hôn cổ, hôn vai và

hôn cả vết thẹo dài bên má của ba nó nữa”.
( Chiếc lược ngà- Nguyễn Quang Sáng).
Trang 9
Điệp từ “hôn” xuất hiện liên tiếp, dồn dập diễn tả tình cảm thắm thiết, sâu sắc của bé
Thu đối với ba nó.
* Đổi trật tự cú pháp : Dùng phương pháp so sánh, GV đối chiếu hình thức câu có trật tự
bình thường với hình thức câu đảo thành phần để rút ra hiệu quả của cách dùng này về mặt
hình thức diễn đạt, nội dung ngữ nghĩa.
VD : “Nó chết rồi, com chim của tôi.
Con chim se sẻ mới ra đời
Hôm qua nó hãy còn bay nhảy
Chỉ một ngày gia, đã chết rồi”.
(Con chim của tôi - Tố Hữu, Văn 8)
GV cho so sánh 2 trật tự.
“Nó chết rồi, con chim của tôi” với “con chim của tôi, nó chết rồi”.
Rõ ràng câu dùng biện pháp tu từ hay hơn vì nó nhấn mạnh ý thông báo : Con chim đã
chết.
Hình thức diễn đạt này vừa mới lạ vừa gây một ấn tượng mạnh thể hiện tình cảm của
tác giả trước cái chết của con chim sẻ.
* Đối ngữ : Dùng phương pháp phân tích ngôn ngữ GV chia cặp đối theo từng cấp độ từ,
câu hoặc phân loại theo trường biểu niệm, biểu vật để phân tích.
VD: Miêu tả về cảnh đổi mùa Thạch Lam viết như sau:
“Vừa mới ngày hôm qua trời hãy còn nắng ấm và hanh, cái nắng về cuối tháng mười
làm nứt nẻ đồng ruộng, và làm giòn khô những chiếc lá rơi, Sơn và chị chơi cỏ gà ở ngoài
động còn thấy nóng bức, chảy mồ hôi.
Thế mà qua một đêm mưa rào, trời bỗng đổi ra gió bấc rồi cái lạnh ở đâu đến làm
cho người ta tưởng đang ở giữa mùa đông rét mướt. Sơn tung chăn tỉnh dậy, nhưng không
bước xuống giường ngay như mọi khi, còn ngồi thu tay vào trong bọc bên cạnh đứa em bé
vẫn nắm tay ngủ kĩ. Chị Sơn và mẹ Sơn đã trở dậy đang ngồi quạt lò để pha nước chè
uống. Sơn nhận thấy mọi người đã mặc áo rét cả rồi”.

(Gió lạnh đầu mùa - Thạch Lam - Văn 8)
GV hướng dẫn HS phân tích từng cặp đối lập như:
+ Thời gian : Hôm qua - sáng nay
+ Thời tiết : Nắng ấm, hanh- gió bấc, lạnh
+ Sự vật : Đồng ruộng nứt nẻ, lá giòn khô - ở giữa mùa đông rét mướt
+ Con người : Thấy nóng bức, chảymồ hôi - mặc áo rét.
Nêu ý nghiã tác dụng : Toàn bộ sự đối lập này báo hiệu cảnh vật đã chuyển mùa hay
thời tiết đã chuyển mùa.
Trang 10
* Liệt kê: Dùng phương pháp phân tích - tổng hợp, GV khai thác hình thức tu từ này trên
cơ sở.
+ Phân tích các thành phần đồng chức bằng cách lý giải, đánh giá hiện tượng, sự vật.
+ Tổng hợp: Phát hiện ra các mối liên hệ giữa các thành phần đồng chức với nhau.
VD : “Chao ôi! Đối với những người ở quanh ta, nếu ta không cố tìm mà hiểu họ, thì
ta chỉ thấy họ gàn dở, ngu ngốc, bần tiện, xấu xa, bỏ ổi toàn những cớ để cho ta tàn
nhẫn; không bao giờ ta thấy họ là người đáng thương; không bao giờ ta thương ”
(Lão Hạc - Nam Cao , Văn 8)
Dùng phương pháp phân tích tổng hợp theo từng bước:
+ Phân tích : GV hướng dẫn HS tìm các thành phần đồng chức trong mối quan hệ
với chủ thể như : Họ - liên hệ với các thành phần đồng chức: Gàn dở, ngu ngốc, xấu xí, bần
tiện, bỉ ổi đây là những tính từ chỉ phẩm chất mang sắc thái biểu cảm âm tính.
+ Tổng hợp : Tìm nét chung từ sự đồng chức trên. Tác giả muốn nhấn mạnh, đề cập
đến những cái nhìn phiến diện miệt thị, khinh bỉ, coi thường người nông dân ở một lớp
người. Đó là một cách nhìn thiếu sự thông cảm, thiếu hoà đồng với nông dân nghèo.
* Câu hỏi tu từ : Dùng phương pháp gợi - tìm, GV hướng HS tìm những phần sau :
+ Dạng câu hỏi là cần trả lời hay không cần trả lời.
+ Câu hỏi không cần trả lời có tính khẳng định hay phủ định.
+ Tìm sắc thái biẻu cảm của loại câu hỏi đã sử dụng.
VD1 : “Tre xanh
Xanh tự bao giờ ?

Chuyện ngày xưa đã có bờ tre xanh?”
(Tre ViệtNam - Nguyễn Duy, Văn 7)
Dùng phương pháp gợi -tìm, GV hướng HS vào tìm hiểu để xác định đây là loại câu
hỏi không cần trả lời, có tính khẳng định về mặt nội dung: Tre đã có từ xưa, nâng tính hình
tượng “cây tre” thật đẹp, ngợi ca, tự hào.
VD2: “Những người muôn năm cũ
Hồn ở đâu bây giờ?”.
(Ông đồ- Vũ Đình Liên).
Câu hỏi là một nổi lòng chất vấn lòng người. Hồn ở đâu bây giờ? như một lời trách cứ,
một nổi xót xa về một quá khứ quí nét đẹp chữ thánh hiền dân tộc đã vội bị mọi người
quên lãng.
VD3 “ Về thì đâm đầu vào đâu? Để chồng bị trói đến bao giờ nữa? Thôi, trời đã bắt
tội, cũng đành nhắm mắt liều ”.
( Tắt đèn- Ngô Tất Tố).
Trang 11
Lời độc thoại thể hiện một tâm trạng giằng xé tâm can chị Dậu: Một bên là chồng bị
trói, một bên là tiền bán chó, bán con rẻ mạt.
Các hình thức tu từ xuất hiện trong tác phẩm phong phú, đa dạng về mặt nội dung lẫn
hình thức. Ngoài những phương pháp nêu trên, GV có thể dùng nhiều phương pháp dạy
học Văn và Tiếng Việt để phân tích.
II. GIẢI PHÁP CỤ THỂ:
1. Khai thác các hình thức tu từ trong dạy thơ :
- “Thơ là một hình thức nghệ thuật cao quý tinh vi”, “thơ như một nghệ thuật của ngôn
ngữ cân đối, hài hoà du dương”. Tác phẩm thơ dồn nén đời sống đầy ắp vào những câu chữ
ít ỏi đã tạo trong thơ mang nghĩa hình tượng, nghĩa bóng.
- Chính những đặc điểm trên đã quy định vị trí các hình thức tu từ phải là những mã ngôn
ngữ nghệ thuật nằm trong một chỉnh thể nghệ thuật thống nhất. Do đó, “dạy tác phẩm trữ
tình trong nhà trường THCS cần tạo cho HS hiểu và cảm được nghĩa của từ, câu, biết rung
động trước cảnh sắc do ngôn ngữ đem lại”.
a. Phương hướng khai thác các hình thức tu từ trong dạy học thơ :

- Làm cho HS cảm và hiểu được ý tưởng của nhà thơ thể hiện qua sáng tác , GV phải
hướng cho HS cảm nhận được những ngôn từ gợi ra “một tập hợp không sao kể xiết”, “sự
dồn nén đời sống trong từng câu chữ”.
+ Giảng thơ chủ yếu là giảng hình tượng, thông qua hình thức để giảng nội dung, là
thông qua việc phân tích các yếu tố về loại thể, kết cấu ngôn ngữ để làm sống dậy hình
tượng với tất cả vẻ đẹp, chiều sâu của nó”. Hình tượng trong thơ là hình tượng của cảm
xúc, là sự thể hiện của nhân vật trữ tình hay “cái tôi trữ tình”.
+ Nhân vật trữ tình trong thơ không được miêu tả, diện mạo, hoạt động, lời nói quan
hệ cụ thể mà thường là những phút giây rung cảm của tâm hồn tác giả trước các biến cố
của đời sống. Có thể nói, nét nổi bật trong thơ là : Không trực tiếp miêu tả các hiện tượng
của hiện thực, không nhằm tạo ra con người, những bức tranh về cuộc sống mà qua chất
liệu của nó, biểu hiện những cảm nghĩ nhất định của con người thể hiện cách nhận thức và
đánh giá của con người đối với cuộc sống.
+ Một trong những hình thức nghệ thuật góp phần vào việc xây dựng hình tượng thơ
phải kể đến các hình thức tu từ. Các hình thức tu từ với tư cách là những mã ngôn ngữ từ
nghệ thuật thể hiện ở tính gợi hình, gợi cảm giàu sức biểu trưng lớn đã xây dựng vẻ đẹp
lung linh, huyền diệu của hình tượng thơ. Khai thác các hình thức tu từ trong thơ chính là
làm sống dậy các hình tượng với tất cả vẻ đẹp, chiều sâu của nó.
+ Trong tất cả các hình thức tu từ mà tôi đã đề cập, có thể nói ẩn dụ hoán dụ, nhân hoá,
so sánh là những hình thức tu từ xuất hiện trong thơ với tần số cao nhất. “Thơ là nghệ thuật
kì diệu bậc nhất của trí tưởng tượng”. “Tác phẩm nghệ thuật phát huy tác dụng thẩm mĩ
của nó bằng con đường liên tưởng”. Phát huy cơ chế liên tưởng, các hình thức tu từ so
sánh, ẩn dụ, hoán dụ, nhân hoá kêu gọi người tiếp nhận một khả năng tái hiện thực hiện
thực cuộc sống bằng những biểu hiện thị giác, thính giác, xúc giác, khứu giác, vị giác,
Trang 12
những vận động về người, vật, việc, cảnh đời được đề cập trong tác phẩm như trong thực
tế. Dùng phương pháp tái hiện, giáo viên hướng học sinh từ chỗ miêu tả những nét phác
thảo về cuộc sống qua từng câu chữ đến chỗ cảm nhận cuộc sống, con người đang cựa
quậy, chuyển động dưới từng câu chữ. Cảm nhận hiện thực cuộc sống, con người trong
thơ, các em sẽ hiểu được những rung cảm, những ý tưởng của nhà thơ muốn gửi gắm qua

từng câu, chữ.
VD1: Trong bài “Tre Việt Nam - Nguyễn Duy , Văn 7) tác giả sử dụng biện pháp
nhân hoá để miêu tả những đặc tính ở cây tre, GV phải hướng cho HS chỉ ra được những
đức tính ấy là gì và nó có liên hệ với những ai
Chẳng hạn như câu :
“Lưng trần phai nắng phơi sương
Có manh áo cộc, tre nhường cho con “
Phát hiện biện pháp nhân hoá, GV dùng phương pháp tái hiện để phân tích hình ảnh
tu từ “Lưng trần”, “nhường cho con” bằng cách hướng cho HS cảm nhận bằng các giác
quan về cách dùng từ này.
Lưng trần : Cảm nhận bằng cảm giác về sự chịu đựmg cáI khắc nghiệt của thời tiết
(nóng của nắng, lạnh của sương).
Nhường cho con : Tất cả dành chon con một tình cảm yêu thương hết mực, giàu sức
hy sinh.
Đây là những đức tính tốt cho ta liên hệ đến con người và chỉ có con người mới chịu
đựng được gian khổ và giàu đức hy sinh, nhường nhịn cho con. Đó chính là những nét đẹp
của dân tộc mang tính truyền thống, điều mà nhà thơ muốn gửi gắm.
VD2: “ Gởy tre, chông tre chống lại sắt thép của quân thù. Tre xung phong vào xe
tăng, đại bác, tre giữ làng, giữ nước, giữ máI nhà tranh, giữ đồng lúa chín. Tre hy sinh để
bảo vệ con người. Tre, anh hùng lao động! Tre, anh hùng chiến đấu!”.
(Cây tre Việt Nam-Thép Mới, Ngữ Văn 6)
- Làm cho HS cảm và hiểu được ý tưởng của nhà thơ, GV phảI hướng cho HS cảm và
hiểu được những rung cảm, những cảm xúc mãnh liệt của nhà thơ.
Thơ là sự bộc bạch của nỗi lòng, là táI hiện cuộc sống như một duyên cớ để bộc lộ
những rung cảm, tâm hồn của tác giả. Đó là cảm xúc của nhà thơ đối với những sự vật hiện
tượng, tình thế trong đời sống hay nỗi niềm băn khoăn về số phận con người Bằng chức
năng biểu cảm, mạng đậm màu sắc tu từ, các hình thức tu từ đã giúp nhà thơ thể hiện
những suy tư, nguyện vọng, ẩn chứa nỗi niềm qua từng câu chữ. Đó là những phóng đại,
nói giảm – nói tránh, đổi trật tự cú pháp, câu hỏi tu từ với những cung bậc bậc tình cảm
đa dạng: khi dồn dập mạnh mẽ, khi thiết tha sâu lắng, khi cảm thương trăm trở, khi giận dữ

bất bình, khi triết lý nhân sinh, khi trầm tư tâm tưởng tất cả đều tạo nên những cảnh sắc
muôn màu đời sống khắc sâu vào lòng người đọc.
Trang 13
- Tuỳ theo sự xuất hiện của từng hình thức tu từ trong chỉnh thể tác phẩm mà GV sử
dụng một phương pháp khai thác theo mạch cảm xúc của bài thơ, tránh tách rời nó ra khỏi
hệ thống toàn bài.
Hướng cho HS cảm và hiểu được ý tưởng của nhà thơ, GV đã giúp HS cảm và hiểu tác
phẩm một cách chính xác, sâu sắc hơn.
b. Làm cho HS rung cảm với cáI đẹp :
- Làm cho HS rung cảm với cáI đẹp trước tiên GV phảI hướng cho HS thấy được cáI đẹp
nghệ thuật độc đáo của nhà thơ. Đó là cách trình bày cuộc sống theo một quan điểm thẩm
mĩ đầy cá tính sáng tạo. CáI hay của cách dùng từ, câu có tính chất mới mẻ về hình thức,
giàu sức biểu hiện về nội dung tránh được sự nhàm chán lặp lại.
+ Để giúp HS thấy được giá trị của từ hay câu hay, GV phảI chỉ ra cáI mới trong cách
chọn lọc từ ngữ, sử dụng câu của các hình thức tu từ. Chẳng hạn thơ cũ thích dùng thuyền,
bến, mai, trúc, tre để chỉ con người bằng những từ ngữ, tượng trưng ước lệ thì thơ hiện đại
từ ngữ gần gũi với đời sống con người. Đó là cánh đồng lúa rập rờn, cánh đồng cỏ non
mơn mởn tạo vật đầy hơI thở cuộc sống hay những hình ảnh cánh đồng quê chảy máu,
những đọt dừa trơ trọi như một rừng gươm mới thấy sức tàn phá của chiến tranh
+ Giúp HS thấy được từ hay, câu hay, GV còn phảI chỉ ra cáI ý vị sâu xa, ý nghĩa tinh
tế, tế nhị của cách chọn từ ngữ.
- Làm cho HS rung cảm với cái đẹp GV còn phảI biết hướng HS có những rung cảm
cùng vui, cùng buồn với con người, cảnh vật trong tác phẩm. Đó là những rung cảm về tạo
vật thiên nhiên cuộc sống đang chuyển mình, vận động dưới bàn tay nghệ sỹ. Đó là những
rung cảm về cuộc sống đẹp, con người đẹp với hành động cao cả, nhân cách cao thượng
giàu tình nhân áI, tình cảm cha con, ông bà, anh chị, quê hương, đất nước
–Rung cảm với cái đẹp HS không chỉ được bồi dưỡng về mặt tri thức : Cách sử dụng từ
hay, câu hay, những tác phẩm văn học kịêt xuất mà còn giúp các em tự hoàn thiện mình về
mặt nhân cách theo CHÂN – THIỆN –MĨ.
Khai thác các hình thức tu từ trong dạy học thơ không có nghĩa là tôI áp đặt tất cả các

hình thức tu từ nào cũng có ý nghĩa tác dụng đến cảm hứng sáng tác, chủ thể trữ tình trong
tác phẩm. ậ đây tôI đưa ra những định hướng dạy tác phẩm thơ theo hướng khai thác các
hình thức tu từ, tuỳ sự xuất hiện của từng biện pháp tu từ mà GV định ra một phương pháp
áp dụng vào phân tích giá trị của biện pháp ấy đối với nội dung tác phẩm.
2. Khai thác các hình thức tu từ trong dạy học tác phẩm truyện:
1. Nội dung khai thác các hình thức tu từ trong dạy học tác phẩm truyện :
a. Xác định vị trí các hình thức tu từ trong tác phẩm truyện :
Ở truyện, các hình thức tu từ xuất hiện như những biện pháp nghệ thuật thể hiện ý đồ
sáng tác của nhà văn qua nghệ thuật miêu tả nhân vật và nghệ thụat kể chuyện. Sự hiện
diện của các hình thức tu từ không chỉ giúp cho lời văn thêm trong sáng, giàu hình ảnh, có
sức truyền cảm mà còn có tính chất khắc sâu đến nhận thức người đọc về những vấn đề xã
hội.
Trang 14
b. Phương pháp khai thác các hình thức tu từ trong tác phẩm truyện :Khai thác các
hình thức tu từ trong dạy học truyện thực chất là việc giảng dạy truyện trong sự thống nhất
giữa hình thức nghệ thuật với nội dung tư tưởng.
c. Làm cho HS hiểu và rung cảm cùng nhân vật trong tác phẩm truyện :
- Nhân vật là tung tâm của tác phẩm tự sự. Nắm cốt truyện cũng là nắm câu chuyện của
nhân vật.
- Làm cho HS hiểu được nhân vật trong truyện nghĩa là người GV đã giúp HS hiểu đúng
tư tưởng, tình cảm của nhà văn muốn gửi gắm qua nhân vật. Bởi nhân vật trong tác phẩm
là những con người tâm tưởng, là những con người được sáng tác theo ý đồ của nhà văn, là
nơI tập trung biểu hiện tư tưởng tình cảm của tác phẩm và tác giả.
+Trong truyện, các hình thức tu từ xuất hiện như là một thủ pháp nghệ thuật mà sự xuất
hiện của nó qua cách miêu tả nhân vật đã làm cho nhân vật có hình ảnh hơn, sinh động
hơn. Đó là những con người biết nói, biết nghĩ, đang sống và hành động như những con
người đời thường ngoài cuộc sống. Phân tích nhân vật phảI là sự phân tích hình tượng,
phảI phân tích sao cho nhân vật giữ được tính chất sinh động của nó trong cảm thụ của học
sinh.
+ Tìm hiểu nhân vật, GV cần hướng HS tìm hiểu nghệ thuật sử dụng các hình thức tu

từ, cáI tạo nên nét sinh động của nhân vật thể hiện qua những chi tiết miêu tả hành động,
tâm trạng, lời nói, dung nhan, giới thiệu lại lịch.
+ Phân tích biện pháp này, GV dùng phương pháp phân tích tổng hợp, khai thác các
thành phần đồng chức như : gàn dở, ngu ngốc, bần tiện, xấu xa, bỉ ổi trên cơ sở lý giảI
đây là những tính từ từ chỉ phẩm chất nhằm kháI quát tổng hợp: Tác giả muốn nhấn mạnh
đến những cáI nhìn phiếm diện miệt thị, khinh bỉ, coi thường người nông dân ở một lớp
người. Đó là một cách nhìn thiếu sự thông cảm, hoà đồng với người nông dân nghèo.
+ Tìm hiểu nhân vật trong ý nghĩa hình tượng hay hình tượng nhân vật, GV cần phảI
chỉ ra được việc sử dụng các hình thức tu từ vào xây dựng nhân vật ngoài ý nghĩa tạo nét
sinh động nó còn là sự thể hiện ý đồ sáng tác cỉa nhà văn. Bởi nhân vật trong tác phẩm, là
nhân vật được tạo theo tư tưởng của chủ đề tác phẩm. Sự xuất hiện và tồn tạo của nó là do
sự nhào nặn, tạo hình của nhà văn cho nên hình hài của nó nhất thiết phảI là những tâm tư
tình cảm của nhà văn. Khai thác được ý nghĩa hình tượng qua các hình thức tu từ, GV đã
giúp HS cảm thụ được sâu và đánh giá đúng các nhân vật trong truyện.
d. Làm cho HS cảm nhận được cáI hay trong nghệ thuật kể chuyện:
Đọc truyện, người đọc bị cuốn hút vào câu chuyện không chỉ bằng lối kể chuyện tạo
tình huống bất ngờ, những chi tiết xung đột gay gắt mà còn là lời văn mượt mà, truyền
cảm, đầy sức thuyết phục. Các hình thức tu từ đã góp thâm phần thành công vào những
trang sáng tác của các nhà văn.
- Làm cho HS cảm nhận được cáI hay của nghệ thuật kể chuyện, GV phảI chỉ ra được
cáI hay của nhà văn đã sáng tạo ra một bức tranh chất chứa đầy chất liệu đời sống
và tình ý con người. Bằng những thủ pháp tu từ cuộc sống được miêu tả phong phú,
Trang 15
bề bộn, giàu chất hiện thực, mọi vật như được sinh sôI nảy nở dưới từng câu chữ.
Người đọc như bị chóng ngợp trong không gian bao la trước bức tranh hiện thực
hoàng tráng sôI động hay một khoảnh khắc bất ngờ xảy ra trong đời người. Dưới
ngòi bút người nghệ sỹ, hiện thực cuộc sống không phảI là một bức tranh bất động
mà là sự vận động sinh động có hồn và đầy nhựa sống.
VD: “Sau trận bão, chân trời, ngấn bể sạch như tấm kính lau hết mây hết bụi. Mặt
trời nhú lên dần dần, rồi nhú lên cho kì hết. Tròn trĩnh phúc hậu như lòng đỏ một quả trứng

thiên nhiên đầy đặn. Quả trứng hồng hào thăm thẳm và đường bệ đặt lên một mâm bạc
đường kính mâm rộng bằng cả một cáI chân trời màu ngọc trai nước biển ửng hồng. Y như
một mâm lễ phẩm tiến ra từ trong bình minh để mừng cho sự trường thọ của tất cả những
người chài lưới trên muôn thủa biển đông”
( Cô Tô- Nguyễn Tuân, Ngữ Văn 6)
Miêu tả cảnh trên, tác giả sử dụng biện pháp so sánh, ẩn dụ, nhân hoá độc đáo, từ
ngữ tinh tế để vẽ lên một bức tranh tuyệt đẹp về cảnh mặt trời mọc trên biển đảo Cô Tô .
GV phảI chi ra được cáI hay của biện pháp này là đã tô vẽ bức tranh thêm sinh động
đầy màu sắc của sự sống.
- Làm cho học sinh cảm nhận được cáI hay của lời văn, GV cần chúy ý cách hành văn
trong sáng, chọn lọc từ ngữ theo phong cách nhà văn.
- CáI hay của các hình thức tu từ là tạo ra cáI mới mẻ mang đậm phong cách tác giả.
+Khác với loại thể thơ, đặc trưng nghệ thuật quy định vị trí các hình thức tu từ, còn
ở truyện việc sử dụng các hình thức tu từ mang phong cách nhà văn. Tu từ theo nghĩa rộng
có thể hiểu là phong cách chính vì thế mà ngôn từ trong các tác phẩm truyện cũng đa dạng.
Có tác giả thích dùng ngôn từ hoa mĩ hay giảng dị, triết lý hay tình cảm, tiết kiệm hay
dông dài, sôI nổi hay trầm lắng tất cả đã tạo nên những phong cách đa dạng.
Trên đây là các khai thác các hình thức tu từ trong dạy học truyện, thực tế giảng dạy
truyện ở Trường THCS hiện nay, GV chỉ chú trọng nhiều về cách phân tích nhân vật theo
diễn biến cốt truyện, những tình tiết xây dựng tác phẩm là chính, việc khai thác các hình
thức tu từ không được quan tâm. Thiết nghĩ việc khai thác các hình thức tu từ sẽ góp phần
làm tăng thêm tính truyền cảm, thuyết phục cho giờ dạy văn.
III. KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC.
PHẦN III: KẾT LUẬN
Trên đây là ý kiến bản thân đã đúc rút và nghiên cứu và tìm tòi tài liệu, qua nhiều năm
dạy học bản thân đã áp dụng thường xuyên trong dạy học văn. Kết quả thực hiện cho thấy
là rất hợp lí và hiệu quả. Tuy nhiên, khi sử dụng “ Khai thác các hình thức tu từ” trong dạy
học tác phẩm văn học người GV phảI biết sáng tạo, linh hoạt trong việc kết hợp phương
pháp giảng dạy của hai phân môn Văn- tiếng Việt để đem đến hiệu quả cho giờ dạy.
Trong phạm vi đề tài bản thân chưa đề cập một cách đầy đủ và toàn diện, còn rất nhiều

thiếu sót và chưa thoả đáng. Nhưng là một gợi ý bản thân nêu ra để mong sao góp phần
nhỏ vào việc nâng cao chất lượng giảng dạy tác phẩm văn học nói riêng cũng như bộ môn
Trang 16
Ngữ văn nói chung. Rất mong được sự góp ý chân tình của quí thầy cô và các bạn đọc để
đề tài hoàn thiện hơn.
Xin chân thành cảm ơn!
Trang 17

×