Tải bản đầy đủ (.doc) (69 trang)

Quản lý rủi ro tín dụng tại Ngân hàng TMCP Liên Việt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (988.24 KB, 69 trang )

MỞ ĐẦU
I. Tính cấp thiết của đề tài:
Trong hoạt động kinh doanh của các NHTM nói chung, NHTM Việt
Nam nói riêng, hoạt động tín dụng vẫn là hoạt động mang lại nguồn thu chủ
yếu cho các ngân hàng. Tuy nhiên, đây cũng là hoạt động tiềm ẩn nhiều rủi
ro. Rủi ro tín dụng xảy ra sẽ ảnh hưởng đến khả năng thu hồi được vốn vay,
làm ảnh hưởng đến khả năng thanh khoản của ngân hàng, làm giảm khả năng
cung cấp vốn cho nền kinh tế và cuối cùng ảnh hưởng đến lợi nhuận của ngân
hàng. Do vậy, quản lý rủi ro tín dụng tức là làm thế nào để xác định, đo lường
và kiểm soát rủi ro ở mức có thể chấp nhận được luôn là vấn đề mà các
NHTM quan tâm.
Cũng như các NHTM Việt Nam, lợi nhuận của Ngân hàng TMCP Liên
Việt chủ yếu từ hoạt động tín dụng (chiếm khoảng 90% tổng thu nhập của
ngân hàng). Do đó, quản lý rủi ro tín dụng có ý nghĩa quyết định đối với sự
tồn tại và phát triển của Ngân hàng TMCP Liên Việt.
Chính vì vậy, tôi đã chọn đề tài “Quản lý rủi ro tín dụng tại Ngân
hàng TMCP Liên Việt” làm đề tài nghiên cứu cho luận văn của mình.
II. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu lý luận về rủi ro tín dụng, quản lý rủi ro tín dụng và thực tiễn
hoạt động quản lý rủi ro tín dụng tại Ngân hàng TMCP Liên Việt, từ đó đề xuất
các giải pháp nhằm tăng cường quản lý rủi ro tín dụng tại Ngân hàng TMCP
Liên Việt.
III. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Quản lý rủi ro tín dụng của NHTM.
Phạm vi nghiên cứu: Tập trung nghiên cứu quản lý rủi ro tín dụng tại
Ngân hàng TMCP Liên Việt từ khi thành lập cho đến 6 tháng đầu năm 2010.
IV. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu, cùng với việc vận dụng các phương pháp
luận nghiên cứu khoa học như: duy vật lịch sử, duy vật biện chứng… luận
văn chú trọng sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu khoa học cụ thể
như: thống kê, so sánh, phân tích, tổng hợp…


V. Bố cục luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn chia thành 3 chương chính:
Chương 1: Lý luận chung về quản lý rủi ro tín dụng của NHTM
Chương 2: Thực trạng quản lý rủi ro tín dụng tại Ngân hàng TMCP
Liên Việt
Chương 3: Một số giải pháp nhằm tăng cường quản lý rủi ro tín
dụng tại Ngân hàng TMCP Liên Việt
CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUẢN LÝ RỦI RO TÍN DỤNG CỦA NHTM
1.1. TÍN DỤNG NGÂN HÀNG
1.1.1. Khái niệm tín dụng ngân hàng
Tín dụng theo nghĩa phổ biến là quan hệ vay mượn, gồm cả cho vay và
đi vay. Mối quan hệ tín dụng bao gồm hai mặt cơ bản:
- Là quan hệ vay mượn về vốn giữa hai đối tác: một đối tác là chủ thể
cho vay còn đối tác khác là người đi vay.
- Là quan hệ hoàn trả: sự dịch chuyển vốn giữa hai đối tác là sự dịch
chuyển quyền sử dụng vốn tạm thời. Người vay phải trả cả gốc và lãi cho
người sở hữu vốn sau một thời gian thoả thuận. Sự hoàn trả là đặc trưng của
hoạt động tín dụng.
Tín dụng ngân hàng là quan hệ vay mượn giữa ngân hàng với các cá
nhân, doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế xã hội và các tổ chức tín dụng khác
theo nguyên tắc có hoàn trả.
Theo Điều 14 Luật các tổ chức tín dụng năm 2010, cấp tín dụng là việc
thỏa thuận để tổ chức, cá nhân sử dụng một khoản tiền hoặc cam kết cho phép
sử dụng một khoản tiền theo nguyên tắc có hoàn trả bằng nghiệp vụ cho vay,
chiết khấu, cho thuê tài chính, bao thanh toán, bảo lãnh ngân hàng và các
nghiệp vụ cấp tín dụng khác.
Hoạt động tín dụng là việc tổ chức tín dụng sử dụng nguồn vốn tự có,
nguồn vốn huy động để cấp tín dụng. Để đảm bảo tính an toàn và khả năng
sinh lời trong hoạt động tín dụng, đòi hỏi các ngân hàng phải tuân thủ các

nguyên tắc sau:
- Khách hàng phải cam kết hoàn trả vốn (gốc) và lãi với thời gian xác
định như đã thoả thuận.
- Khách hàng phải cam kết sử dụng vốn theo đúng mục đích được thoả
thuận với ngân hàng, không trái với các quy định của pháp luật và các quy
định khác của ngân hàng cấp trên.
- Ngân hàng tài trợ dựa trên phương án (hoặc dự án) có hiệu quả. Thực
hiện nguyên tắc này là điều kiện để thực hiện nguyên tắc thứ nhất.
Như vậy, hoạt động tín dụng là hoạt động quan trọng nhất của các
NHTM bởi nó mang lại thu nhập từ lãi lớn nhất cho ngân hàng. Tuy nhiên
đây cũng là hoạt động mang lại rủi ro cao nhất cho các NHTM.
1.1.2. Vai trò của tín dụng ngân hàng
* Đối với nền kinh tế
Trong nền kinh tế thị trường, đặc biệt là trong quá trình hội nhập hiện
nay, các doanh nghiệp luôn phải chịu áp lực cạnh tranh gay gắt, do đó, nhu cầu
đầu tư phát triển luôn được đặt lên hàng đầu. Tuy nhiên, khó khăn đầu tiên đối
với các doanh nghiệp khi quyết định đầu tư mở rộng sản xuất bao giờ cũng là
thiếu vốn, và thông thường để giải quyết những khó khăn này các doanh nghiệp
cần có sự giúp đỡ từ các ngân hàng. Như vậy, thông qua hoạt động tín dụng,
ngân hàng không những thu được lợi nhuận mà còn góp phần đẩy mạnh quá
trình tái sản xuất mở rộng và giải quyết các vấn đề kinh tế xã hội.
Tín dụng ngân hàng góp phần làm giảm hệ số tiền nhàn rỗi và nâng cao
hiệu quả sử dụng vốn. Trong nền kinh tế, luôn xuất hiện hiện tượng một nhóm
người hay tổ chức có tiền nhàn rỗi còn một nhóm tổ chức hay cá nhân khác
lại thiếu vốn để sản xuất, kinh doanh, vì vậy tín dụng ngân hàng đóng vai trò
trung gian để giải quyết việc ứ đọng vốn ở nơi này và bù đắp sự thiếu hụt ở
nơi khác. Từ nguồn lợi nhuận thu được thông qua hoạt động tín dụng đã thúc
đẩy ngân hàng đẩy mạnh hơn nữa trong công tác huy động vốn và do đó
lượng tiền nhàn rỗi trong dân cư sẽ giảm đi đáng kể; bên cạnh đó, ngân hàng
sẽ sử dụng nguồn vốn này để đáp ứng nhu cầu sản xuất, đầu tư phát triển kinh

tế. Như vậy, tín dụng ngân hàng là cầu nối giữa tiết kiệm và đầu tư.
Tín dụng ngân hàng góp phần điều chỉnh cơ cấu kinh tế. Trong nền
kinh tế, doanh nghiệp chủ động chọn lĩnh vực đầu tư để mang lại hiệu quả cao
nhất; nhưng trên phạm vi toàn bộ nền kinh tế phải có sự cân đối trong cơ cấu
kinh tế giữa các vùng lãnh thổ, các ngành và trong nội bộ ngành kinh tế.
Thông qua chính sách tín dụng, lãi suất sẽ là đòn bẩy kích thích đầu tư phát
triển, góp phần điều chỉnh cơ cấu kinh tế hợp lý.
Tín dụng ngân hàng là đòn bẩy kinh tế quan trọng thúc đẩy quá trình
mở rộng mối quan hệ giao lưu quốc tế. Thông qua hoạt động tài trợ xuất nhập
khẩu của NHTM sẽ làm tăng tính cạnh tranh và uy tín của doanh nghiệp trên
trường quốc tế, bên cạnh đó các doanh nghiệp sản xuất có điều kiện để thay
đổi công nghệ, máy móc thiết bị nhằm tăng năng suất lao động, đáp ứng yêu
cầu xuất khẩu. Sự phát triển của doanh nghiệp xuất khẩu có tác động đến sự
phát triển của ngoại thương, phát triển các dịch vụ thanh toán quốc tế, mở
rộng sự hợp tác quốc tế.
Tín dụng ngân hàng tác động có hiệu quả đến nhịp độ phát triển kinh tế
và thúc đẩy cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường. Với việc vay vốn phải
đảm bảo hoàn trả đủ gốc và lãi đúng theo thời hạn đòi hỏi các doanh nghiệp
phải tìm đủ biện pháp nhằm tăng nhanh vòng quay vốn, thu hồi vốn để trả nợ
và lãi vay ngân hàng đúng hạn. Do vậy, hoạt động kinh tế sẽ trở nên nhộn
nhịp và có tính cạnh tranh khốc liệt hơn.
* Đối với ngân hàng cấp tín dụng
Tín dụng ngân hàng có vai trò quan trọng đối với sự tồn tại và phát
triển của ngân hàng. Trước hết, hoạt động tín dụng là hoạt động tiền đề cho sự
ra đời của NHTM, đem lại thu nhập lớn cho ngân hàng. Trong bảng tài sản
của ngân hàng thì 2/3 tài sản Có là các khoản cho vay, vì vậy việc duy trì và
mở rộng hoạt động tín dụng mang ý nghĩa sống còn đối với các NHTM, lợi
nhuận từ hoạt động tín dụng bao giờ cũng chiếm khoảng trên dưới 70% tổng
lợi nhuận của ngân hàng. NHTM thực hiện chức năng tập trung huy động vốn
nhàn rỗi trong nền kinh tế để tiến hành cho vay. Nếu các ngân hàng không

thực hiện được việc duy trì và mở rộng tín dụng thì nguồn vốn ngân hàng sẽ
bị ứ đọng, từ đó ảnh hưởng đến thu nhập của ngân hàng. Hơn nữa, việc nâng
cao chất lượng tín dụng và mở rộng hoạt động tín dụng sẽ tạo điều kiện để
ngân hàng phát triển them các hoạt động khác như dịch vụ thanh toán, chuyển
tiền, tư vấn… kết quả là ngân hàng vừa tăng được nguồn vốn, vừa phát triển
các dịch vụ, tăng thu nhập và phân tán rủi ro trong hoạt động kinh doanh.
1.1.3. Phân loại tín dụng ngân hàng
Tuỳ theo yêu cầu của khách hàng và mục tiêu quản lý của ngân hàng
mà có các cách phân loại tín dụng khác nhau. Bao gồm:
* Phân loại theo thời hạn tín dụng:
- Tín dụng ngắn hạn: là loại tín dụng có thời hạn dưới một năm.
- Tín dụng trung hạn: là loại tín dụng có thời hạn từ trên 1 đến 5 năm.
- Tín dụng dài hạn: là loại tín dụng có thời hạn trên 5 năm.
Việc phân loại tín dụng theo thời gian có ý nghĩa quan trọng đối với
ngân hàng vì thời gian liên quan mật thiết đến tính an toàn và sinh lợi của
hoạt động tín dụng cũng như khả năng hoàn trả của khách hàng.
* Phân loại theo hình thức: gồm chiết khấu, cho vay, bảo lãnh, cho thuê
tài chính.
- Chiết khấu thương phiếu là việc ngân hàng ứng trước tiền cho khách
hàng tương ứng với giá rị của thương phiếu trừ đi phần thu nhập của ngân
hàng để sở hữu một thương phiếu chưa đến hạn.
- Cho vay là việc ngân hàng đưa tiền cho khách hàng với cam kết
khách hàng phải hoàn trả cả gốc và lãi trong khoảng thời gian xác định.
- Bảo lãnh là việc ngân hàng cam kết thực hiện các nghĩa vụ tài chính
hộ khách hàng của mình khi khách hàng không thực hiện đúng nghĩa vụ đã
cam kết.
- Cho thuê tài chính là việc ngân hàng bỏ tiền mua tài sản để cho khách
hàng thuê theo những thoả thuận nhất định. Sau một thời gian nhất định, khách
hàng phải trả cả gốc và lãi cho ngân hàng. Đây thường là hoạt động tín dụng
trung và dài hạn trên cơ sở hợp đồng cho thuê tài sản giữa bên cho thuê là ngân

hàng với khách hàng thuê. Khi hết thời gian thuê, khách hàng mua lại hoặc tiếp
tục thuê tài sản đó theo các điều kiện đã thoả thuận trong hợp đồng thuê.
* Phân loại theo tài sản đảm bảo:
Việc phân chia tín dụng theo tiêu thức này sẽ phản ánh tình trạng an
toàn của các khoản tín dụng, bởi tài sản đảm bảo cho các khoản tín dụng
chính là nguồn thu nợ thứ hai của ngân hàng (bằng cách bán các tài sản đó)
khi nguồn thu nợ thứ nhất (từ quá trình sản xuất kinh doanh) không có hoặc
không đủ.
- Tín dụng có tài sản đảm bảo: là loại tín dụng mà khi cho vay, bảo
lãnh đòi hỏi người vay phải có các tài sản thế chấp, cầm cố như bất động sản,
chứng khoán, giấy tờ có giá, phương tiện máy móc… hoặc bảo lãnh của bên
thứ ba để đảm bảo cho khoản vay.
- Tín dụng không có tài sản đảm bảo: là loại tín dụng mà khi cho vay,
bảo lãnh không có tài sản đảm bảo tức là không có tài sản thế chấp, cầm cố
hoặc bảo lãnh của bên thứ ba mà chỉ dựa vào uy tín của bản thân khách hàng;
hoặc các khoản tín dụng theo chỉ thị của Chính phủ mà Chính phủ yêu cầu,
không cần tài sản đảm bảo.
Tín dụng dựa trên cam kết đảm bảo yêu cầu ngân hàng và khách hàng
phải ký hợp đồng đảm bảo, ngân hàng phải kiểm tra, đánh giá được tình trạng
của tài sản đảm bảo (quyền sở hữu, giá trị, tính thị trường, khả năng tài chính
của người thứ ba…), có khả năng giám sát việc sử dụng hoặc có khả năng bảo
quản tài sản đảm bảo.
* Phân loại theo ngành kinh tế:
- Tín dụng cho công nghiệp: là loại tín dụng được cấp cho các doanh
nghiệp hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp.
- Tín dụng cho TMCP Liên Việt: là loại tín dụng được cấp cho các
doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực TMCP Liên Việt.
- Tín dụng cho thương mại dịch vụ: là loại tín dụng được cấp cho các
doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực thương mại dịch vụ.
Cách phân chia này sẽ tạo điều kiện cho ngân hàng chuyên môn hoá

trong việc cấp tín dụng. Một số ngân hàng có thế mạnh trong việc đầu tư vào
lĩnh vực công nghiệp, một số ngân hàng khác lại có lợi thế trong lĩnh vực
nông nghiệp hoặc thương mại dịch vụ. Cách phân loại này còn cho phép ngân
hàng theo dõi rủi ro và sinh lợi gắn liền với những lĩnh vực tài trợ để có chính
sách lãi suất, bảo đảm tiền vay, hạn mức tín dụng và chính sách mở rộng tín
dụng phù hợp.
* Phân loại theo hình thái giá trị
- Tín dụng bằng tiền: là loại cho vay mà hình thái tín dụng được cấp
bằng tiền.
- Tín dụng bằng tài sản: là loại tín dụng mà hình thái giá trị của tín
dụng được cấp bằng tài sản. Đối với các NHTM, hình thức tín dụng này chủ
yếu dưới hình thức thuê mua.
* Phân loại theo rủi ro
Phân loại tín dụng theo rủi ro giúp cho ngân hàng thường xuyên đánh
giá được tính an toàn của các khoản tín dụng, từ đó có kế hoạch trích lập dự
phòng tổn thất kịp thời.
- Tín dụng lành mạnh: là các khoản tín dụng có khả năng thu hồi cao.
- Tín dụng có vần đề: là các khoản tín dụng có dấu hiệu không lành
mạnh như khách hàng tiêu chậm tiêu thụ hàng hoá, tiến độ thực hiện kế hoạch
chậm, khách hàng gặp thiên tai…
- Nợ quá hạn có khả năng thu hồi: là các khoản nợ đã quá hạn với thời
hạn ngắn và khách hàng có kế hoạch khắc phục tốt, tài sản đảm bảo có giá
trị lớn…
- Nợ quá hạn khó đòi: là các khoản nợ đã quá hạn quá lâu, khả năng
trả nợ rất kém, tài sản đảm bảo có giá trị thấp, khách hàng chây ỳ không chịu
trả nợ…
1.2. RỦI RO TÍN DỤNG TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA NHTM
1.2.1. Khái niệm rủi ro tín dụng
Theo khoản 1 Điều 2 Quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự
phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín

dụng ban hành kèm theo Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/4/2005
của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước, rủi ro tín dụng là khả năng xảy ra tổn
thất trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng do khách hàng không
thực hiện hoặc không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình theo cam kết.
Các định nghĩa khá đa dạng nhưng tựu trung lại chúng ta có thể rút ra
các nội dung cơ bản của rủi ro tín dụng như sau:
- Rủi ro tín dụng khi người vay sai hẹn trong thực hiện nghĩa vụ trả nợ
theo hợp đồng, bao gồm vốn và/ hoặc lãi. Sự sai hẹn có thể là trễ hạn hoặc
không thanh toán.
- Rủi ro tín dụng sẽ dẫn đến tổn thất tài chính, tức là giảm thu nhập
ròng và giảm giá trị thị trường của vốn. Trong trường hợp nghiêm trọng có
thể dẫn đến thua lỗ, hoặc ở mức độ cao hơn có thể dẫn đến phá sản.
- Đối với các nước đang phát triển (như ở Việt Nam), các ngân hàng
thiếu đa dạng trong kinh doanh cá dịch vụ tài chính, các sản phẩm dịch vụ còn
nghèo nàn, vì vậy tín dụng được coi là dịch vụ sinh lời chủ yếu và thậm chí
gần như là duy nhất, đặc biệt đối với các ngân hàng nhỏ. Vì vậy rủi ro tín
dụng cao hay thấp sẽ quyết định hiệu quả kinh doanh của ngân hàng.
- Mặt khác, rủi ro và lợi nhuận kỳ vọng của ngân hàng là hai đại lượng
đồng biến với nhau trong một phạm vi nhất định (lợi nhuận kỳ vọng càng cao,
thì rủi ro tiềm ẩn càng lớn).
- Rủi ro là một yếu tố khách quan cho nên người ta không thể nào loại
trừ hoàn toàn được mà chỉ có thể hạn chế sự xuất hiện của chúng cũng như tác
hại do chúng gây ra.
Tuy nhiên, chúng ta cần hiểu rủi ro tín dụng theo nghĩa xác suất, là khả
năng, do đó có thể xảy ra hoặc không xảy ra tổn thất. Điều này có nghĩa là
một khoản vay dù chưa quá hạn nhưng vẫn luôn tiềm ẩn nguy cơ xảy ra tổn
thất, một ngân hàng có tỷ lệ nợ quá hạn thấp nhưng nguy cơ rủi ro tín dụng sẽ
rất cao nếu danh mục đầu tư tín dụng tập trung vào một nhóm khách hàng,
ngành hàng tiềm ẩn nhiều rủi ro. Cách hiểu này sẽ giúp cho hoạt động quản trị
rủi ro tín dụng được chủ động trong phòng ngừa, trích lập dự phòng, đảm bảo

chống đỡ và bù đắp tổn thất khi rủi ro xảy ra.
1.2.2. Phân loại rủi ro tín dụng
Có nhiều cách phân loại rủi ro tín dụng khác nhau tùy theo mục đích,
yêu cầu nghiên cứu. Tùy theo tiêu chí phân loại mà người ta chia rủi ro tín
dụng thành các loại khác nhau.
- Nếu căn cứ vào nguyên nhân phát sinh rủi ro, rủi ro tín dụng được
phân chia thành các loại sau đây:
Rủi ro giao dịch là một hình thức của rủi ro tín dụng mà nguyên nhân
phát sinh là do những hạn chế trong quá trình giao dịch và xét duyệt cho vay,
đánh giá khách hàng. Rủi ro giao dịch bao gồm rủi ro lựa chọn (rủi ro có liên
quan đến quá trình đánh giá và phân tích tín dụng, phương án vay vốn để
quyết định tài trợ của ngân hàng); rủi ro bảo đảm (rủi ro phát sinh từ các tiêu
chuẩn đảm bảo như mức cho vay, loại tài sản đảm bảo, chủ thể đảm bảo…);
rủi ro nghiệp vụ (rủi ro liên quan đến công tác quản lý khoản vay và hoạt
động cho vay, bao gồm cả việc sử dụng hệ thống xếp hạng rủi ro và kỹ thuật
xử lý các khoản vay có vấn đề).
Rủi ro danh mục là rủi ro tín dụng mà nguyên nhân phát sinh là do
những hạn chế trong quản lý danh mục cho vay của ngân hàng, được phân
thành rủi ro nội tại (xuất phát từ đặc điểm hoạt động và sử dụng vốn của
khách hàng vay vốn, lĩnh vực kinh tế) và rủi ro tập trung (rủi ro do ngân hàng
tập trung cho vay quá nhiều vào một số khách hàng, một ngành kinh tế hoặc
trong cùng một vùng địa lý nhất định hoặc cùng một loại hình cho vay có rủi
ro cao).
- Nếu phân loại theo tính khách quan, chủ quan của nguyên nhân gây ra
rủi ro thì rủi ro tín dụng được phân ra thành rủi ro khách quan và rủi ro chủ
quan. Rủi ro khách quan là rủi ro do các nguyên nhân khách quan như thiên
tai, địch họa, người vay bị chết, mất tích và các biến động ngoài dự kiến khác
làm thất thoát vốn vay trong khi người vay đã thực hiện nghiêm túc chế độ
chính sách. Rủi ro chủ quan do nguyên nhân thuộc về chủ quan của người vay
và người cho vay vì vô tình hay cố ý làm thất thoát vốn vay hay vì những lý

do chủ quan khác.
Ngoài ra còn nhiều hình thức phân loại khác như phân loại căn cứ theo
cơ cấu các loại hình rủi ro, phân loại theo nguồn gốc hình thành, theo đối
tượng sử dụng vốn vay…
1.2.3 Các chỉ tiêu đo lường rủi ro tín dụng
Các chỉ tiêu sau đây được sử dụng rộng rãi nhất trong việc đo lường rủi
ro tín dụng của ngân hàng thương mại:
- Tỷ lệ nợ quá hạn:
Nợ quá hạn là khoản nợ mà khách hàng không trả được khi đã đến hạn
thoả thuận ghi trên hợp đồng tín dụng. Nợ quá hạn là biểu hiện đặc trưng nhất
của rủi ro tín dụng, là kết quả của mối quan hệ tín dụng không hoàn hảo, khi
người vay vi phạm nguyên tắc của tín dụng là phải hoàn trả đầy đủ cả gốc và
lãi đúng hạn, gây đổ vỡ lòng tin của người cấp tín dụng đối với người được
cấp tín dụng.
Tỷ lệ nợ quá hạn =
Số dư nợ quá hạn
x 100%
Tổng dư nợ
Tỷ lệ nợ quá hạn càng cao thì càng có nhiều các khoản nợ chưa được
thanh toán đúng thời hạn, và như vậy thì mức độ rủi ro tín dụng của ngân
hàng sẽ càng lớn. Các ngân hàng thường sử dụng chỉ tiêu nợ quá hạn để đánh
giá mức độ rủi ro của tín dụng ngân hàng.
- Tỷ lệ giữa giá trị các khoản nợ xấu so với tổng dư nợ cho vay:
Tỷ lệ nợ xấu =
Số dư nợ xấu
x 100%
Tổng dư nợ
Nợ xấu là các khoản nợ được phân vào nhóm 3, 4 và 5; tỷ lệ nợ xấu
trên tổng dư nợ cũng là chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng của TCTD. Tỷ lệ
này càng nhỏ càng tốt, tỷ lệ này càng cao cho thấy khả năng quản lý rủi ro của

ngân hàng càng kém, khả năng không thu hồi được nợ càng lớn.
- Tỷ lệ giữa các khoản xoá nợ trong năm so với tổng dư nợ cho vay:
Tỷ lệ các khoản xoá nợ trong năm =
Dư nợ các khoản xoá nợ trong năm
x 100%
Tổng dư nợ
Các khoản xoá nợ là các khoản vay được ngân hàng đánh giá là không
có khả năng thu hồi vốn và được phân vào nhóm 5 theo Quyết định
493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/4/2005 và Quyết định 18/2007/QĐ-NHNN
ngày 25/4/2007 của Thống đốc NHNN. Các khoản vay này được ngân hàng
dùng quỹ dự phòng cụ thể để xử lý rủi ro và theo dõi ở ngoại bảng.
- Tỷ lệ giữa dự phòng tổn thất tín dụng hàng năm so với tổng dư nợ cho
vay kỳ báo cáo:
Tỷ lệ dự phòng RRTD =
Dự phòng RRTD được trích lập
x 100%
Tổng dư nợ
Dự phòng rủi ro tín dụng là khoản tiền được trích lập để dự phòng cho
những tổn thất có thể xảy ra do khách hàng của TCTD không thực hiện nghĩa
vụ tín dụng theo cam kết. Dự phòng rủi ro được tính theo dư nợ gốc và hạch
toán vào chi phí hoạt động của TCTD, dự phòng rủi ro bao gồm dự phòng cụ
thể và dự phòng chung.
- Tỷ lệ giữa dự phòng tổn thất tín dụng so với các khoản nợ xấu:
Tỷ lệ dự phòng so với các khoản nợ xấu =
Dự phòng RRTD
x 100%
Các khoản nợ xấu
Hai chỉ tiêu sau nói lên sự chuẩn bị của ngân hàng cho các khoản tổn
thất tín dụng thông qua việc trích lập quỹ dự phòng tổn thất tín dụng hàng
năm từ thu nhập hiện tại. Hai chỉ tiêu này càng cao thì sự chủ động của ngân

hàng khi có rủi ro tín dụng xảy ra càng cao.
1.2.4. Các dấu hiệu nhận biết rủi ro tín dụng
Nhận diện rủi ro, qua đó có những giải pháp tối ưu giúp ngăn ngừa và
xử lý các khoản tín dụng có rủi ro là khâu quan trọng quyết định đến hiệu quả
kinh doanh của ngân hàng. Sau khi khoản vay phát sinh và được phân loại,
ngân hàng luôn phải theo dõi, giám sát khoản vay để nhận diện rủi ro thông
qua các dấu hiệu cảnh báo sau:
* Nhóm các dấu hiệu từ phía khách hàng:
- Các dấu hiệu liên quan đến mối quan hệ với ngân hàng:
Trì hoãn hoặc gây khó khăn, trở ngại đối với ngân hàng trong quá trình
kiểm tra theo định kỳ hoặc đột xuất tình hình sử dụng vốn vay, tình hình tài
chính, hoạt động sản xuất kinh doanh của khách hàng;
Chậm gửi hoặc trì hoãn gửi các báo cáo tài chính theo yêu cầu mà
không có sự giải thích minh bạch;
Đề nghị gia hạn, điều chỉnh kỳ hạn nợ nhiều lần không rõ lý do hoặc
thiếu các căn cứ thuyết phục;
Sự sụt giảm bất thường số dư tài khoản tiền gửi tại ngân hàng;
Chậm thanh toán các khoản lãi khi đến hạn;
Thanh toán các khoản nợ gốc không đầy đủ, đúng hạn;
Xuất hiện nợ quá hạn do khách hàng không có khả năng hoặc không
muốn hoàn trả, hoặc do việc tiêu thụ hàng, thu hồi công nợ chậm hơn dự tính;
Mức vay thường xuyên gia tăng, yêu cầu các khoản vay vượt quá nhu
cầu dự kiến;
Tài sản đảm bảo không đủ tiêu chuẩn, giá trị của tài sản đảm bảo giảm
sút so với định giá khi cho vay. Có dấu hiệu tài sản đã cho người khác thuê,
bán hay trao đổi hoặc đã biến mất không còn tồn tại;
Có dấu hiệu cho thấy khách hàng tìm kiếm sự tài trợ nguồn vốn lưu
động từ nhiều nguồn khác, đặc biệt từ đối thủ cạnh tranh của ngân hàng;
Có dấu hiệu cho thấy khách hàng trông chờ các nguồn thu nhập bất
thường khác không phải từ hoạt động sản xuất kinh doanh hoặc không từ hoạt

động được đề xuất trong phương án vay vốn;
Có dấu hiệu sử dụng nhiều tài khoản tài trợ ngắn hạn cho các hoạt động
đầu tư dài hạn;
Chấp nhận sử dụng các nguồn vốn với giá cao với mọi điều kiện.
- Các dấu hiệu liên quan đến phương pháp quản lý, tình hình tài chính
và hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty:
Có chênh lệch lớn giữa doanh thu hay dòng tiền thực tế so với mức dự
kiến khi khách hàng đề nghị cấp tín dụng;
Những thay đổi bất lợi trong cơ cấu vốn, tỷ lệ thanh khoản hay mức độ
hoạt động của khách hàng;
Xuất hiện ngày càng nhiều các khoản chi phí bất hợp lý như sự gia tăng
đột biến trong chi phí quảng cáo, tiếp khách…;
Thay đổi thường xuyên tổ chức của ban điều hành;
Xuất hiện bất đồng và mâu thuẫn trong quản trị điều hành, tranh chấp
trong quá trình quản lý;
Xuất hiện dấu hiệu hội chứng sản phẩm đẹp: mải mê theo đuổi một sản
phẩm không thích hợp về mặt thời gian và năng lực hiện tại mà không chú ý
đến các yếu tố khác;
Có dấu hiệu phát hiện ra quá trình khảo sát, thẩm định dự án sai dẫn
đến việc đầu tư dự án không hiệu quả;
Do áp lực nội bộ dẫn đến tung ra thị trường các sản phẩm dịch vụ quá
sớm khi chưa hội tụ đủ các điều kiện chín muồi;
Khó khăn trong phát triển sản phẩm dịch vụ mới;
Những thay đổi từ chính sách của Nhà nước như: chính sách thuế, xuất
nhập khẩu; thay đổi các biến cố kinh tế vĩ mô: tỷ giá, lãi suất; thay đổi công
nghệ kỹ thuật sản xuất, thị hiếu tiêu dùng; mất nhà cung ứng hoặc khách hàng
lớn; thêm đối thủ cạnh tranh…;
Thiên tai, hoả hoạn, dịch bệnh xảy ra;
Đối với khách hàng là tư nhân cá thể, có dấu hiệu người vay bị bệnh
kéo dài hoặc chết.

* Nhóm các dấu hiệu từ chính sách tín dụng của ngân hàng:
Sự đánh giá và phân loại không chính xác về mức độ rủi ro của khách
hàng, ví dụ như đánh giá quá cao năng lực tài chính của khách hàng so với
thực tế; đánh giá khách hàng chỉ qua thông tin do khách hàng cung cấp mà bỏ
qua các kênh thông tin bên ngoài khác…;
Cấp tín dụng dựa trên các cam kết không chắc chắn và thiếu tính bảo
đảm của khách hàng về việc duy trì một khoản tiền gửi lớn hay các lợi ích do
khách hàng đem lại từ khoản tín dụng được cấp;
Tốc độ tăng trưởng tín dụng quá nhanh, vượt quá khả năng và năng lực
kiểm soát cũng như nguồn vốn của ngân hàng;
Soạn thảo các điều kiện ràng buộc trong hợp đồng tín dụng mập mờ,
không rõ ràng, không xác định rõ lịch hoàn trả đối với từng khoản vay, cố ý
thoả hiệp các nguyên tắc tín dụng với khách hàng mặc dù biết có tiềm ẩn rủi ro;
Chính sách tín dụng quá cứng nhắc hoặc lỏng lẻo để kẽ hở cho khách
hàng lợi dụng;
Cung cấp tín dụng với khối lượng lớn cho các khách hàng không thuộc
phân đoạn thị trường tối ưu của ngân hàng;
Hồ sơ tín dụng không đầy đủ, thiếu sự tuân thủ hay tuân thủ không đầy
đủ các quy định hiện hành về phê duyệt tín dụng;
Có khuynh hướng cạnh tranh thái quá như: giảm lãi suất cho vay, phí
dịch vụ hay thực hiện chiến lược “giữ chân” khách hàng bằng các khoản tín
dụng mới để họ không quan hệ với các TCTD khác mặc dù biết rõ các khoản
tín dụng sẽ cấp tiềm ẩn nguy cơ rủi ro cao.
1.2.5. Nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng
Qua các dấu hiệu nhận biết rủi ro ở trên, rủi ro tín dụng chủ yếu do các
nguyên nhân sau:
a. Nguyên nhân từ các nhân tố vĩ mô:
Nhóm nhân tố này bao gồm môi trường kinh tế, môi trường pháp lý.
- Môi trường kinh tế:
Bất kỳ hoạt động sản xuất kinh doanh nào cũng chịu tác động trực tiếp

của môi trường kinh tế. Môi trường kinh tế không thuận lợi làm cho các
doanh nghiệp hoạt động kinh doanh kém hiệu quả, làm cho khả năng trả nợ
vay của doanh nghiệp bị hạn chế, dẫn đến rủi ro cho ngân hàng do không thu
hồi được nợ.
Trong một nền kinh tế tăng trưởng lành mạnh, tiềm năng sản xuất và
tiêu dùng của xã hội còn lớn thì hoạt động sản xuất kinh doanh có nhiều điều
kiện để phát triển. Nhưng một nền kinh tế bị khủng hoảng, tỷ lệ lạm phát cao,
sản xuất bị đình trệ, đầu tư giảm sút, tất cả đều tác động đến khả năng thu hồi
vốn tín dụng của ngân hàng.
Đặc biệt, trong xu thế hội nhập như hiện nay, không chỉ môi trường
kinh tế trong nước mà các biến động về kinh tế tài chính trên thế giới cũng có
ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động tín dụng của ngân hàng. Bởi quá trinh tự
do hoá tài chính và hội nhập quốc tế có thể làm cho nợ xấu gia tăng khi tạo ra
một môi trường cạnh tranh gay gắt, khiến hầu hết các doanh nghiệp phải đối
mặt với nguy cơ thua lỗ và quy luật chọn lọc khắc nghiệt của thị trường. Bên
cạnh đó, bản thân sự cạnh tranh của các NHTM trong nước và quốc tế trong
môi trường hội nhập kinh tế cũng khiến cho các NH trong nước với hệ thống
quản lý yếu kém gặp phải nguy cơ rủi ro nợ xấu tăng lên bởi hầu hết các
khách hàng có tiềm lực tài chính lớn sẽ bị các ngân hàng nước ngoài thu hút.
- Môi trường pháp lý:
Đây là một nhân tố rất quan trọng ảnh hưởng tới khả năng phát sinh rủi
ro tín dụng của ngân hàng. Hệ thống pháp luật ban hành không đồng bộ, chưa
đáp ứng được nhu cầu hoạt động sản xuất kinh doanh trong cơ chế thị trường,
ý thức tuân thủ pháp luật của các chủ thể tham gia kinh doanh và các ngành
có liên quan còn yếu kém. Chính những nhân tố này đã không tạo ra một môi
trường cạnh tranh lành mạnh cho các doanh nghiệp, không tạo ra tính an toàn
cho hoạt động kinh doanh, là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến rủi ro trong hoạt
động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, gây nên nợ quá hạn cho ngân
hàng. Môi trường pháp lý không đồng bộ vừa gây khó khăn, vừa tạo khe hở
để những kẻ xấu lợi dụng gây rủi ro cho doanh nghiệp và ngân hàng.

Trong những năm gần đây, Quốc hội, Ủy ban thường vụ quốc hội,
Chính phủ, NHNN và các cơ quan liên quan đã ban hành nhiều luật, văn bản
dưới luật hướng dẫn thi hành luật liên quan đến hoạt động tín dụng ngân
hàng. Tuy nhiên, luật và các văn bản đã có song việc triển khai vào hoạt động
ngân hàng thì lại hết sức chậm chạp và còn gặp phải nhiều vướng mắc bất cập
như một số văn bản về việc cưỡng chế thu hồi nợ. Những văn bản này đều có
quy định: trong những hợp khách hàng không trả được nợ, NHTM có quyền
xử lý tài sản đảm bảo nợ vay. Trên thực tế, các NHTM không làm được điều
này vì ngân hàng là một tổ chức kinh tế, không phải là cơ quan quyền lực nhà
nước, không có chức năng cưỡng chế buộc khách hàng bàn giao tài sản đảm
bảo cho ngân hàng để xử lý hoặc việc chuyển tài sản đảm bảo nợ vay để Tòa
án xử lý qua con đường tố tụng… cùng nhiều các quy định khác dẫn đến tình
trạng NHTM không thể giải quyết được nợ tồn đọng, tài sản tồn đọng.
Ngoài ra, rủi ro tín dụng còn chịu sự tác động của các nhân tố khác như
thiên tai, chiến tranh hoặc những thay đổi ở tầm vĩ mô như thay đổi Chính
phủ, chính sách kinh tế, hàng rào thuế quan… Những nhân tố này vượt quá
tầm kiểm soát của người vay lẫn người cho vay, sự thay đổi này thường xuyên
xảy ra tác động tới người vay, có thể tạo thuận lợi hoặc khó khăn cho người
vay, do đó cũng có thể ảnh hưởng đến khả năng thu hồi nợ của ngân hàng.
b. Nguyên nhân từ phía khách hàng:
Nguyên nhân từ phía khách hàng là một trong những nguyên nhân
chính và cổ điển nhất gây ra rủi ro tín dụng cho ngân hàng, bởi khách hàng là
người trực tiếp sử dụng vốn vay. Khách hàng có thể do vô ý hay cố ý không
thực hiện trả nợ vay cho ngân hàng đúng hạn. Nguyên nhân từ phía khách
hàng có thể xem xét trên các mặt sau:
Khách hàng sử dụng vốn sai mục đích, cố tình lừa đảo để chiếm dụng
vốn ngân hàng. Để đạt được mục đích của mình, họ sẵn sàng tìm mọi cách đối
phó với ngân hàng như cung cấp thông tin sai, mua chuộc cán bộ tín dụng
nhằm vay được nhiều tiền. Nhiều khách hàng kinh doanh có lãi song vẫn
không trả nợ cho ngân hàng đúng hạn, họ chây ỳ với kỳ vọng có thể quỵt nợ

hoặc chiếm dụng vốn vay của ngân hàng càng lâu càng tốt. Đây là một hành
động có chủ ý của người vay được tính toán chuẩn bị trước nhằm chiếm đoạt
tiền vay và được coi là trường hợp tồi tệ nhất trong các nguyên nhân chủ quan
dẫn đến rủi ro tín dụng.
Khách hàng làm ăn thua lỗ dẫn đến mất khả năng trả nợ cho ngân hàng,
nguyên nhân có thể do trình độ yếu kém của khách hàng trong dự đoán các
vấn đề về kinh doanh, khả năng thích ứng thị trường thấp, quản lý điều hành
sản xuất kinh doanh yếu kém, thiếu sự linh hoạt làm cho hoạt động sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp không hiệu quả, thậm chí thua lỗ.
Tình hình tài chính của doanh nghiệp yếu kém, thiếu minh bạch. Quy
mô tài sản, nguồn vốn nhỏ bé, tỷ lệ nợ so với vốn tự có cao là đặc điểm chung
của hầu hết các doanh nghiệp ở nước ta. Ngoài ra, thói quen ghi chép đầy đủ,
chính xác, rõ ràng các sổ sách kế toán vẫn chưa được các doanh nghiệp tuân
thủ nghiêm chỉnh và trung thực. Do vậy, sổ sách kế toán mà các doanh nghiệp
cung cấp cho ngân hàng nhiều khi chỉ mang tính chất hình thức hơn là thực
chất. Khi cán bộ ngân hàng lập các bản phân tích tài chính của doanh nghiệp
dựa trên số liệu do các doanh nghiệp cung cấp, thường thiếu tính thực tế và
xác thực. Đây cũng là nguyên nhân vì sao ngân hàng vẫn luôn xem nặng phần
tài sản thế chấp như là chỗ dựa cuối cùng để phòng chống rủi ro tín dụng.
Như vậy, rủi ro từ phía khách hàng luôn chiếm tỷ trọng lớn nhất và là
chủ yếu trong hoạt động tín dụng. Việc phòng tránh cũng rất khó khăn, phức
tạp vì khách hàng của ngân hàng rất đa dạng, trình độ khác nhau, kinh doanh
trong nhiều lĩnh vực do đó ngân hàng phải nâng cao chất lượng thẩm định dự
án trước khi cho vay, tăng cường công tác giám sát thực hiện khoản vay và đa
dạng hoá đầu tư nhằm phân tán rủi ro.
c. Nguyên nhân từ phía ngân hàng:
Do cán bộ tín dụng yếu kém về trình độ chuyên môn nghiệp vụ cũng
như tư cách đạo đức. Cán bộ tín dụng yếu kém về trình độ, năng lực nghiệp
vụ sẽ không có khả năng phân tích, thẩm định dự án, từ đó dẫn đến việc xác
định sai hiệu quả của dự án, thời hạn cho vay, thời hạn trả nợ không phù hợp

với phương án kinh doanh của khách hàng. Bên cạnh đó, một bộ phận cán bộ
ngân hàng yếu kém về tư cách đạo đực đã lợi dụng vị trí công tác để trục lợi,
cố tình cho vay sai nguyên tắc như cùng với khách hàng làm giả hồ sơ vay,
hay nâng giá tài sản thế chấp, cầm cố lên quá cao so với thực tế để rút tiền
ngân hàng. Đạo đức của cán bộ là một trong các yếu tố tối quan trọng để giải
quyết vấn đề hạn chế rủi ro tín dụng. Một cán bộ cán bộ tha hóa về đạo đức
mà lại giỏi về mặt nghiệp vụ thì thật vô cùng nguy hiểm khi được bố trí trong
công tác tín dụng.
Do thiếu giám sát và quản lý sau khi cho vay. Các ngân hàng thường có
thói quen tập trung nhiều vào việc thẩm định trước khi cho vay mà lơ là quá
trình kiểm tra, kiểm soát đồng vốn sau khi cho vay. Khi ngân hàng cho vay
thì khoản cho vay cần phải được quản lý một cách chủ động để đảm bảo sẽ
được hoàn trả đúng hạn. Theo dõi nợ là một trong những trách nhiệm quan
trọng nhất của cán bộ tín dụng nói riêng và của ngân hàng nói chung. Tuy
nhiên trong thời gian qua các NHTM chưa thực hiện tốt công tác này. Điều
này một phần do yếu tố tâm lý ngại gây phiền hà cho khách hàng của cán bộ
ngân hàng, một phần do hệ thống thông tin quản lý phục vụ kinh doanh tại
các doanh nghiệp quá lạc hậu, không cung cấp được kịp thời, đầy đủ các
thông tin mà NHTM yêu cầu.
Do cơ chế chính sách của bản thân các ngân hàng chưa phù hợp: ngân
hàng vì lợi nhuận mà mở rộng hoạt động tín dụng quá mức dẫn đến rủi ro cao,
nợ quá hạn gia tăng; chính sách khách hàng không đa dạng dẫn đến tập trung
tài trợ cho một số khách hàng, lĩnh vực tạo nên nguy cơ rủi ro cao khi mà “bỏ
tất cả trứng vào một giỏ”…
1.3. QUẢN LÝ RỦI RO TÍN DỤNG TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH
CỦA NHTM
1.3.1. Khái niệm quản lý rủi ro tín dụng
Quản lý rủi ro tín dụng là quá trình ngân hàng tác động đến hoạt động
tín dụng thông qua bộ máy và công cụ quản lý để phòng ngừa, cảnh báo, đưa
ra các biện pháp nhằm hạn chế đến mức tối đa việc không thu được đầy đủ cả

gốc và lãi của khoản vay, hoặc thu gốc và lãi không đúng hạn.
Mục đích chính của hoạt động quản lý rủi ro tín dụng của các NHTM là
nhằm đảm bảo cho các hoạt động tín dụng của ngân hàng không phải gánh
chịu những rủi ro có thể làm ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh và tồn tại
của ngân hàng. Quản lý rủi ro tín dụng giúp đảm bảo mức độ rủi ro mà ngân
hàng gánh chịu không vượt quá khả năng về vốn và tài chính của ngân hàng.
1.3.2. Sự cần thiết phải quản lý rủi ro tín dụng của NHTM
Một trong những nội dung hoạt động của NHTM là huy động tiền nhàn
rỗi từ những người thừa vốn để cho những người thiếu vốn vay với mục đích
thu hồi được tiền gốc và lãi cho vay vào một thời điểm nhất định trong tương
lai. Tuy nhiên, hoạt động cho vay của các ngân hàng luôn tiềm ẩn những rủi
ro khiến cho ngân hàng có thể không thu hồi được hoặc không thu hồi đủ tiền
gốc và lãi khi đến hạn. Nếu những tổn thất do rủi ro trong hoạt động tín dụng
gây ra ở mức kiểm soát được thì việc xử lý tương đối dễ dàng trong giới hạn
cho phép của quỹ dự phòng bù đắp rủi ro của NHTM. Nhưng khi tổn thất lớn,
vượt quá khả năng xử lý của NHTM thì vấn đề sẽ trở nên nghiêm trọng, gây
hậu quả khó lường không những cho chính ngân hàng đó, mà còn cho cả
những ngân hàng và doanh nghiệp khác có liên quan, ảnh hưởng tới quyền lợi
người gửi tiền và cuối cùng, ảnh hưởng tới toàn bộ nền kinh tế, và là nguy cơ
tiềm ẩn khủng hoảng tài chính.
Chính vì vậy, công tác quản lý rủi ro tín dụng luôn phải đi kèm với hoạt
động cho vay của NHTM và nó có vai trò hết sức quan trọng đối với sự tồn
tại của mỗi ngân hàng. Nếu công tác quản lý rủi ro tín dụng được thực hiện
tốt, sẽ hạn chế được những rủi ro xảy ra đối với ngân hàng, làm tăng thu nhập
của ngân hàng. Ngoài ra, công tác quản trị rủi ro nếu được thực hiện tốt còn
tạo điều kiện cho sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế nói chung. Vì một khi
rủi ro được hạn chế, tức là ngân hàng đã cung cấp vốn một cách có hiệu quả
cho nền kinh tế, và đó cũng chính là động lực phát triển nền kinh tế.
1.3.3. Nội dung quản lý rủi ro tín dụng
Quản lý rủi ro tín dụng có vai trò vô cùng quan trọng đối với các

NHTM, vì thế, những nội dung của công tác quản lý rủi ro tín dụng cũng luôn
được các NHTM đặc biệt quan tâm. Những nội dung đó bao gồm:
- Cơ cấu tổ chức hoạt động tín dụng và cơ cấu quản lý giám sát rủi ro
tín dụng của ngân hàng: cơ cấu tổ chức hoạt động tín dụng và cơ cấu quản lý
giám sát rủi ro tín dụng là một trong những nội dung quan trọng của quản lý
rủi ro tín dụng. Các cơ cấu này được xây dựng theo nguyên tắc: phân định rõ
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của các đơn vị, cá nhân có liên
quan trong quá trình cấp tín dụng cũng như quản lý giám sát rủi ro tín dụng.
- Xây dựng văn bản chế độ, quy chế, quy trình thủ tục cấp tín dụng:
Một trong những nguyên nhân quan trọng làm phát sinh rủi ro tín dụng thuộc
về chủ quan của ngân hàng là việc xây dựng hệ thống chính sách, chế độ, quy
chế, quy trình, thủ tục cấp tín dụng thiếu đồng bộ, không tuân thủ các quy
định của pháp luật, của NHNN, hoặc quá thông thoáng, không chặt chẽ. Xây
dựng văn bản chế độ, quy chế, quy trình thủ tục cấp tín dụng một cách hợp lý
sẽ giúp cho công tác quản lý tín dụng được thống nhất, khoa học.
- Xây dựng chính sách tín dụng: Để đảm bảo hoạt động tín dụng của
NHTM phát triển theo đúng định hướng, đạt được mục tiêu an toàn, hiệu quả,
tăng trưởng bền vững và kiểm soát được rủi ro thì mỗi NHTM phải xây dựng
được một chính sách tín dụng nhất quán, hợp lý và phù hợp với đặc điểm của
ngân hàng mình, bao gồm các nội dung sau:
+ Cơ chế phân cấp quyền phán quyết tín dụng
+ Xác định thị trường và lĩnh vực cho vay của ngân hàng
+ Xây dựng các giới hạn an toàn trong hoạt động tín dụng
+ Xây dựng chính sách khách hàng trong hoạt động tín dụng
+ Quy định về tài sản đảm bảo tiền vay
+ Đa dạng hoá sản phẩm tín dụng, nghiên cứu phát triển các sản phẩm
tín dụng mới
- Xây dựng hệ thống các công cụ đo lường và định hạng tín dụng phù
hợp với đặc điểm hoạt động kinh doanh, đối tượng khách hàng, tính chất rủi
ro của khoản nợ và theo thông lệ quốc tế; bao gồm:

+ Xếp hạng khách hàng: Ngân hàng tiến hành xếp hạng khách hàng
thông qua chấm điểm các chỉ tiêu tài chính và phi tài chính của khách hàng từ
đó có chính sách tín dụng phù hợp đối với từng khách hàng và nhóm khách
hàng khác nhau.
+ Phân loại khoản vay: khoản vay được thực hiện phân loại theo chất
lượng và mức độ rủi ro. Khoản vay có chất lượng cao thì có tỷ lệ rủi ro thấp
và ngược lại. Việc phân loại khoản vay được thực hiện thường xuyên để theo
dõi, phân tích, trích lập dự phòng và có phương án xử lý kịp thời với các rủi
ro phát sinh trong từng khoản vay để giúp ngân hàng bảo toàn vốn và thu
được lợi nhuận.
- Quản lý, giám sát danh mục cho vay: các ngân hàng luôn hướng tới
mục tiêu xây dựng được một danh mục tín dụng an toàn và hiệu quả. Việc
quản lý, giám sát danh mục cho vay giúp cho các ngân hàng phân bổ nguồn
vốn một cách hợp lý vào các lĩnh vực, ngành nghề, khách hàng, sản phẩm tín
dụng theo các giới hạn quy định, thực hiện đa dạng hoá khách hàng và
phương thức cho vay, tránh tập trung tín dụng quá mức, thực hiện phân tán
rủi ro nhằm đạt được lợi nhuận cao nhất và hạn chế tối đa rủi ro tín dụng. Bên
cạnh đó, thực hiện việc điều chỉnh danh mục tín dụng một cách kịp thời, hợp
lý nhằm tạo sự cân đối của danh mục giữa các tài sản có độ rủi ro cao và tài
sản có độ rủi ro thấp, từ đó tạo ra thu nhập hợp lý và điều tiết được rủi ro trên
cơ sở rà soát, phân tích rủi ro ảnh hưởng đến khả năng giảm sút thu nhập và
mất vốn của danh mục tín dụng hiện tại (do sự thay đổi môi trường kinh tế-xã
hội, sự thay đổi cơ chế chính sách của Nhà nước, sự biến động của bản thân
khách hàng và các nguyên nhân thuộc về ngân hàng ).
- Hệ thống kiểm tra, kiểm soát tín dụng: hệ thống này sẽ kiểm tra việc
tuân thủ các cơ chế, quy chế, quy trình nghiệp vụ và các quy định của pháp
luật trong hoạt động tín dụng nhằm phát hiện ra những sai sót trong quá trình
thực hiện tín dụng, từ đó có thể giúp ngăn ngừa rủi ro có thể xảy ra. Bộ phận
kiểm tra kiểm soát tín dụng phải được xây dựng độc lập với bộ phận thẩm
định cho vay để bảo đảm tính khách quan và chính xác trong quá trình kiểm

tra tín dụng và phải thực hiện một cách thường xuyên, liên tục.
- Trích lập dự phòng và xử lý rủi ro tín dụng: việc thường xuyên thực
hiện phân loại nợ, trích lập dự phòng và xử lý rủi ro tín dụng nhằm chủ động
xử lý rủi ro xảy ra, làm lành mạnh hoá tình hình tài chính của ngân hàng.
Tỷ lệ trích lập quỹ dự phòng rủi ro thường được quy định ở mỗi nước
khác nhau. Tỷ lệ này thường được đưa ra trên cơ sở con số thống kê hiện tại
về mức độ rủi ro của các Ngân hàng. Ở những nước có hệ thống luật pháp cho
việc quản lý các khoản nợ phát triển thì áp dụng tỷ lệ trích lập thấp hơn. Điển
hình như ở Mỹ thì quy định mức trích lập khoảng 10% đối với các khoản tín
dụng không đủ tiêu chuẩn, 50% đối với các khoản nợ khó đòi và 100% đối
với những khoản tín dụng mất mát, thua lỗ. Còn ở những nước đang phát triển
như Thái Lan thì mức độ trích vào khoảng 20 – 25% đối với khoản nợ không
đủ tiêu chuẩn, 50-75% đối với khoản nợ khó đòi và 100% đối với khoản nợ
mất mát. Việc phân loại nợ, trích lập dự phòng và sử dụng dự phòng để xử lý
rủi ro trong hoạt động tín dụng của các NHTM Việt Nam được thực hiện theo
Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/04/2005.
- Hệ thống thông tin quản trị rủi ro tín dụng: Hệ thống thông tin rủi ro
tín dụng được xây dựng để đảm bảo cung cấp thông tin, cơ sở dữ liệu về hoạt
động tín dụng một cách đầy đủ, rõ ràng, chính xác và thường xuyên cập nhật
nhằm giúp cho việc quản lý hoạt động tín dụng một cách có hiệu quả, hạn chế
các tổn thất do tình trạng thiếu thông tin gây ra.
1.3.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến công tác quản lý rủi ro tín dụng của
NHTM
Có nhiều nhân tố tác động đến công tác quản lý rủi ro tín dụng. Tuy
nhiên những nhân tố cơ bản, quan trọng tác động mạnh mẽ và trực tiếp nhất là
mô hình tổ chức, bộ máy của cơ quan quản lý và điều hành nguồn vốn tín
dụng; Cơ chế, chính sách của Nhà nước có liên quan đến lĩnh vực tín dụng;
Quy chế, quy trình nghiệp vụ hướng dẫn cụ thể đối với hoạt động nghiệp vụ
của cơ quan quản lý và điều hành; trình độ công nghệ, trình độ chuyên môn,
năng lực nghiệp vụ của cán bộ lãnh đạo, chỉ đạo, thẩm định, kiểm tra, kiểm

soát trong quá trình quản lý và điều hành nguồn vốn tín dụng.
- Cơ quan quản lý và điều hành nguồn vốn cho vay của Nhà nước
có vai trò quan trọng trong việc nâng cao chất lượng tín dụng, giảm thiểu rủi
ro tín dụng trong cho vay đầu tư của Nhà nước. Vì vậy, việc xây dựng mô
hình, tổ chức, bộ máy của cơ quan quản lý phù hợp với thực tế hiện tại cũng
như lâu dài là nhân tố quan trọng nhằm nâng cao chất lượng, giảm thiểu rủi ro
tín dụng của nguồn vốn cho vay của Nhà nước.
- Cơ chế, chính sách của Nhà nước về cho vay là nhân tố đặc biệt
quan trọng, có tác động tới chất lượng tín dụng và mức độ rủi ro của nguồn vốn
cho vay. Trong trường hợp Nhà nước ban hành cơ chế, chính sách phù hợp với
yêu cầu khách quan của nền kinh tế, phù hợp với tình hình kinh tế - xã hội của
đất nước và hoạt động của các doanh nghiệp sẽ tác động tới chất lượng tín dụng
và giảm thiểu rủi ro cho hoạt động cho vay.
- Năng lực thẩm định và giám sát tín dụng của cơ quan quản lý hoạt
động cho vay.
Năng lực thẩm định của cán bộ tín dụng là yếu tố quyết định hiệu quả
của công tác quản lý rủi ro tín dụng trong cho vay. Năng lực thẩm định của
cán bộ tín dụng thể hiện ở năng lực phân tích tài chính và xử lý các thông tin
tín dụng. Năng lực thẩm định cao sẽ loại trừ được sai lệch trong việc cung cấp
thông tin cũng như khả năng sử dụng vốn vay của khách hàng, giảm được rủi
ro trong tương lai của khoản vay.
Năng lực giám sát tín dụng: giám sát tín dụng nhằm đảm bảo chất lượng
tín dụng như ban đầu dự đoán, hạn chế xảy ra tình trạng rủi ro trong tín dụng.
Theo dõi sát sao và chặt chẽ việc giải ngân và sử dụng tiền vay là biện pháp
quan trọng để đảm bảo việc sử dụng vốn đầu tư đúng mục đích, ngăn ngừa nợ
quá hạn, nợ khó đòi.
- Tổ chức bộ máy và quy trình nghiệp vụ: Hoạt động cho vay đầu tư
của cơ quan quản lý hoạt động cho vay có triển khai thuận lợi và có đạt hiệu
quả cao, rủi ro tín dụng có được hạn chế hay không phụ thuộc rất lớn vào tổ
chức bộ máy, quy trình nghiệp vụ. Việc quy định rõ quyền hạn trách nhiệm

của từng khâu, từng bộ phận, mối quan hệ của từng bộ phận sẽ có tác dụng
quan trọng trong quá trình thực hiện từ thẩm định đến khi thiết lập quan hệ tín
dụng và thu hồi vốn gốc, lãi. Quy trình quản lý tín dụng được bố trí khoa học,
rõ tàng sẽ góp phần quan trọng làm nâng cao chất lượng của thông tin tới cấp
ra quyết định cho vay, giảm các yếu tố sai lệch thông tin và là cơ sở để nâng
cao chất lượng tín dụng, từ đó hạn chế rủi ro tín dụng.
- Công nghệ ngân hàng: Trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế hiện
nay của Việt Nam, công nghệ ngân hàng có tác động nhiều đến công tác quản
lý rủi ro tín dụng. Công nghệ ngân hàng cung cấp cho người làm công tác
quản lý rủi ro tín dụng những công cụ hữu hiệu từ việc giúp nhanh chóng phát
hiện sớm các rủi ro tín dụng có thể xảy ra đến việc cập nhật các thông tin cần
thiết. Với hệ thống thông tin hiện đại đảm bảo cho ngân hàng có thể thu thập,
phân tích và xử lý những thông tin liên quan đến hoạt động của ngân hàng,
đặc biệt là trong việc đánh giá rủi ro tín dụng của ngân hàng. Với những tiện
lợi về thời gian trong việc cập nhật và phân tích thông tin, công nghệ ngân
hàng hiện đại giúp ngân hàng đưa ra các biện pháp phù hợp và hạn chế được
rủi ro tín dụng.

×