Tải bản đầy đủ (.doc) (118 trang)

phát triển hoạt động kinh doanh trái phiếu của công ty cổ phần chứng khoán thăng long

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (602.5 KB, 118 trang )

Luận văn tốt nghiệp Học viện Tài chính
LỜI MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Hiện nay, phần lớn các CTCK đều tập trung vào hoạt động tự doanh cổ
phiếu và môi giới mà chưa chú trọng tới hoạt động kinh doanh trái phiếu.
Điều này đã gây ra khá nhiều rủi ro trong quá trình tham gia thị trường của
CTCK bởi tự doanh cổ phiếu là hoạt động có thể mang lại lợi nhuận cao
nhưng kèm với nó là rủi ro lớn. Trong năm 2011, hoạt động tự doanh cổ phiếu
đã đưa phần lớn các CTCK rơi vào tình trạng làm ăn thua lỗ và CTCK Thăng
Long cũng không ngoại lệ. Trước thực trạng trên các CTCK nói chung và
CTCK Thăng Long nói riêng đã nghiên cứu thêm các phương án đầu tư mới
trong đó có phương án kinh doanh trái phiếu. Đây là một hoạt động nhằm
giảm bớt rủi ro cho CTCK trong thời điểm thị trường biến động mà cũng
mang lại lợi nhuận không nhỏ hơn so với hoạt động tự doanh cổ phiếu.
TTTP của Việt Nam vẫn còn khá non trẻ nhưng cũng đã đóng góp lớn
GDP tính đến hết năm 2011 và đang trong quá trình phát triển. Trên thế giới,
TPCP, trái phiếu công ty có tỷ trọng giao dịch lớn trên TTCK bởi sự sôi động
của TTCK phái sinh. Thời gian tới, theo xu thế chung của thế giới, hoạt động
giao dịch trái phiếu sẽ ngày càng phát triển, đặc biệt sau khi TTTP chuyên
biệt đã chính thức đi vào hoạt động.
Tham gia vào TTTP từ tháng 6 năm 2008, CTCK Thăng Long đã gặt
hái được khá nhiều thành công, đóng góp một phần lợi nhuận không nhỏ cho
công ty. Tuy nhiên, hoạt động kinh doanh trái phiếu tại TLS còn nhiều hạn
chế và vẫn chưa phát triển do quy mô hoạt động kinh doanh nhỏ, phương thức
đầu tư còn đơn điệu và mang tính rủi ro cao. Nhận thức rõ vai trò của việc
phát triển hoạt động kinh doanh trái phiếu trong tương lai nên đề tài: “Phát
triển hoạt động kinh doanh trái phiếu của Công ty cổ phần Chứng khoán
Thăng Long” đã được chọn để nghiên cứu.
2. Mục tiêu nghiên cứu
- Nghiên cứu một số vấn đề lý luận cơ bản về hoạt động kinh doanh trái
phiếu tại CTCK và phát triển hoạt động kinh doanh trái phiếu tại CTCK.


- Phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động kinh doanh trái phiếu tại CTCK
Thăng Long.
SV: Nguyễn Văn Thăng Lớp: CQ46/17.02
1
Luận văn tốt nghiệp Học viện Tài chính
- Đề xuất giải pháp phát triển hoạt động kinh doanh trái phiếu tại CTCK
Thăng Long.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Nghiên cứu hoạt động phát triển kinh doanh trái phiếu của CTCK.
- Nghiên cứu hoạt động phát triển kinh doanh trái phiếu tại CTCK
Thăng Long từ khi Công ty gia nhập TTTP.
4. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy
vật lịch sử, các phương pháp nghiên cứu được sử dụng: phân tích, tổng hợp,
tư duy lôgic và làm sáng tỏ vấn đề nghiên cứu.
5. Những đóng góp của luận văn
- Hệ thống hóa lý luận về hoạt động kinh doanh trái phiếu tại CTCK,
đặc biệt lý luận về phát triển hoạt động kinh doanh trái phiếu tại CTCK.
- Đề xuất một số giải pháp phát triển hoạt động kinh doanh trái phiếu
tại CTCK Thăng Long nói chung và cho các CTCK khác hoạt động trên thị
trường tài chính Việt Nam nói riêng.
6. Kết cấu của luận văn
Luận văn được kết cấu làm 3 chương chính
Chương 1: Một số vấn đề lý luận cơ bản về phát triển hoạt động kinh
doanh trái phiếu tại CTCK.
Chương 2: Thực trạng phát triển hoạt động kinh doanh trái phiếu tại
Công ty Cổ phần Chứng khoán Thăng Long.
Chương 3: Một số giải pháp phát triển hoạt động kinh doanh trái phiếu
tại Công ty Cổ phần Chứng khoán Thăng Long.
Trong quá trình nghiên cứu đề tài luận văn tốt nghiệp của mình, tôi đã

nhận được rất nhiều ý kiến đóng góp quý báu của các thầy cô trong chuyên
ngành Kinh doanh chứng khoán của Học viện Tài chính. Nội dung của bài
luận văn được tham khảo từ rất nhiều giáo trình , bài luận của các nhà khoa
học xuất bản trong và ngoài Học viện Tài chính. Tôi xin chân thành cảm ơn :
GSTS Hoàng Văn Quỳnh, trưởng Bộ môn Chứng Khoán của HVTC; ThS
Nguyễn Lê Cường giảng viên Bộ môn; Anh Nguyễn Thành Công , trưởng
phòng mô giới bộ phận khách hàng cá nhân của công ty cổ phần Chứng khoán
SV: Nguyễn Văn Thăng Lớp: CQ46/17.02
2
Luận văn tốt nghiệp Học viện Tài chính
Thăng Long đã trực tiếp hướng dẫn,đánh giá , nghiệm thu giúp tôi hoàn thành
tốt đề tài nghiên cứu của mình. Xin cảm ơn các anh chị làm việc tại phòng mô
giới của công ty cổ phần chứng khoán Thăng Long đã giúp đỡ tôi trong quá
trình tôi thực tập tại công ty.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng nhưng do kinh nghiệm và kiến thức còn hạn
chế, do vậy, bài luận không tránh khỏi những khiếm khuyết về nội dung và
hình thức. Tôi rất mong nhận được ý kiến đóng góp chân thành của các nhà
khoa học và bạn đọc
Hà Nội,tháng 4 năm 2012
Sinh viên
NGUYỄN VĂN THĂNG
SV: Nguyễn Văn Thăng Lớp: CQ46/17.02
3
Luận văn tốt nghiệp Học viện Tài chính
CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ PHÁT TRIỂN HOẠT
ĐỘNG KINH DOANH TRÁI PHIẾU CỦA CÔNG TY CHỨNG
KHOÁN
1.1Tổng quan về trái phiếu
1.1.1 Khái niệm và các đặc trưng của trái phiếu

1.1.1.1 Khái niệm về trái phiếu
Trái phiếu là loại chứng khoán xác nhận về quyền và lợi ích hợp pháp của
người sở hữu đối với một phần vốn nợ của tổ chức phát hành . Trái phiếu có
thể là chứng chỉ vay nợ của chính phủ hoặc của công ty thể hiện nghĩa vụ của
tổ chức phát hành phải trả nợ cho người nắm giữ trái phiếu một số tiền nhất
định , vào những khoảnh khắc nhất định và phải trả lại khoản tiền gốc khi
khoản tiền vay đến hạn . Khác với cổ phiếu là một chứng khoán vốn , trái
phiếu là một chứng khoán nợ trung và dài hạn tổ chức phát hành trái phiếu
phải có nghĩa vụ trả lãi trái phiếu và hoàn trả gốc của trái phiếu cho chủ sở
hữu trái phiếu khi đáo hạn . Vì vậy trái phiếu còn được gọi là chứng khoán
nợ. Tổ chức phát hành trái phiếu với tư cách là người đi vay người đầu tư mua
trái phiếu là người cho vay và được gọi là trái chủ .
Đặc điểm cơ bản của trái phiếu.
-Chủ thể phát hành không chỉ có công ty mà còn có chính phủ và chính
quyền địa phương
-Nếu như người đầu tư mua cổ phiếu của công ty , trong thực tế là mua một
phần công ty và là người chủ sở hữu công ty thì trái lại người mua trái phiếu
chỉ là người cho chủ thể phát hành vay tiền và là chủ nợ của chủ thể phát hành
trái phiếu.
-Nếu như thu nhập chủ yếu của cổ phiếu là cổ tức ,phục thuộc vào tình hình
sản xuất kinh doanh của công ty thì trái lại , thu nhập chủ yếu của trái phiếu là
tiền lãi –là khoản thu nhập cố định.
-Nếu như cổ phiếu là chứng khoán đưa lại cho người chủ sở hữu quyền đối
với phần tài sản cuối cùng còn lại của công ty khi công ty giải thể hoặc phá
sản thì trái lại , trái phiếu là chứng khoán nợ .Vì vậy nếu công ty bị giải thể
SV: Nguyễn Văn Thăng Lớp: CQ46/17.02
4
Luận văn tốt nghiệp Học viện Tài chính
hoặc bị phá sản thì trước hết công ty phải có nghĩa vụ thanh toán cho các trái
chủ trước , sau đó phần còn lại mới phân chia cho các cổ đông .

Với những đặc điểm trên , trái phiếu có tính ổn định và chứa đựng ít rủi ro
hơn cổ phiếu . Vì vậy ,trái phiếu là loại chứng khoán được các nhà đầu tư và
các chế định tài chính ưa chuộng .
1.1.1.2 Những đặc trưng của trái phiếu .
Có nhiều loại trái phiếu khác nhau nhưng tất cả các trái phiếu đều có những
đặc trưng chủ yếu sau :
-Tổ chức phát hành : có hai loại tổ chức phát hành chính là chính phủ và
công ty . chính phủ là tổ chức phát hành đáng tin cậy nhất do có được những
điều kiện đảm bảo cao nhất cho việc hoàn trả gốc và lãi còn trái phiếu công ty
thì tổ chức phát hành có nhiều loại ,mỗi loại có khả năng khác nhau trong việc
đáp ứng các nghĩa vụ đã thỏa thuận với người cho vay .Nói cách khác ,có thể
coi rủi ro thanh khoản của trái phiếu chính phủ bằng 0 còn trái phiếu các
công ty khác nhau có mức độ rủi ro thanh toán khác nhau . Ngoài rủi do thanh
toán trái phiếu chính phủ vẫn phải chịu các rủi ro khác giống như bất kỳ một
trái phiếu công ty nào , như rủi ro lạm phát rủi ro lãi suất ….
-Mệnh giá trái phiếu : mệnh giá hay còn gọi là giá trị danh nghĩa của trái
phiếu là giá trị được nghi trên trái phiếu, giá tri này được coi là số vốn gốc .
Mệnh giá trái phiếu là căn cứ để xác định số lợi tức tiền vay mà người phát
hành phải trả . Mệnh giá cũng thể hiện số tiền tổ chức phát hành phải hoàn trả
khi trái phiếu đến hạn .
-Lãi suất danh nghĩa : Lãi suất danh nghĩa thường được ghi trên trái phiếu
hoặc tổ chức phát hành công bố được gọi là lãi suất danh nghĩa . Lãi suất này
được xác định theo tỷ lệ phần trăm so với mệnh giá của trái phiếu và cũng là
căn cứ để xác định lợi tức trái phiếu . Trong nền kinh tế bình thường , thời
hạn trái phiếu càng dài lãi suất càng cao . Loại trái phiếu có độ tín nhiệm càng
cao thì lãi suất lại càng thấp hơn các loại trái phiếu có độ tín nhiệm thấp .
-Thời hạn của trái phiếu : Là khoảng thời gian từ ngày phát hành đến ngày tổ
chức phát hành hoàn trả tiền lần vốn lần cuối. Ngày mà khoản vốn gốc cuối
cùng được thanh toán gọi là ngày đáo hạn của trái phiếu , các loại trái phiếu
khác nhau có thời gian đáo hạn khác nhau.

SV: Nguyễn Văn Thăng Lớp: CQ46/17.02
5
Luận văn tốt nghiệp Học viện Tài chính
-Kỳ trả lãi : Là khoảng thời gian tổ chức phát hành trả lãi cho người nắm giữ
trái phiếu . ở nhiều nước , lãi suất trái phiếu được xác định theo năm, nhưng
việc thanh toán lãi trái phiếu thường được thực hiện mỗi năm một lần hoặc
hai lần một năm
-Giá phát hành : Là giá bán của trái phiếu vào thời điểm phát hành . Thông
thường giá phát hành được xác định theo tỷ lệ phần trăm của mệnh giá . Tùy
theo tình hình của thị trường của tổ chức phát hành để xác định giá phát hành
một cách thích hợp . Có thể phân biệt ba trường hợp :
+ Giá phát hành bằng mệnh giá (ngang giá)
+ Giá phát hành dưới mệnh giá (giá chiết khấu )
+ Giá phát hành trên mệnh giá (giá gia tăng)
Nhưng dù trái phiếu bán ra có ngang giá , theo giá chiết khấu hay giá gia tăng
thì lợi tức luôn được xác định theo mệnh giá trái phiếu và khi đáo hạn , người
có trái phiếu sẽ được thanh toán theo mệnh giá trái phiếu .
1.1.2 Phân loại trái phiếu
Tại các nước có thị trường chứng khoán phát triển , người ta phát hành rất
nhiều loại chứng khoán khác nhau để huy động vốn. Dưới đây chỉ xem xét
một số cách phân loại trái phiếu chủ yếu :
1.1.2.1 Phân loại trái phiếu theo chủ thể phát hành
Mục đích: Nhằm xác định chủ thể phát hành để đánh giá rủi ro của từng loại
trái phiếu do chủ thể phát hành.
Căn cứ theo chủ thể phát hành có thể chia trái phiếu thành các loại :
-Trái phiếu của chính phủ và chính quyền địa phương .
Để đáp ứng nhu cầu chi tiêu ngân sách , chính phủ các nước thường phát
hành trái phiếu để huy động tiền nhà rỗi trong các tầng lớp đân cư và các tổ
chức kinh tế xã hội chính phủ luôn luôn được coi là nhà phát hành có uy tín
nhất trên thị trường . Vì vậy , trái phiếu chính phủ được coi là chứng khoán ít

rủi ro nhất .
Trái phiếu chính quyền địa phương có thể phát hành để huy động vốn đáp
ứng nhu cầu kinh tế văn hóa , xã hội của địa phương .
SV: Nguyễn Văn Thăng Lớp: CQ46/17.02
6
Luận văn tốt nghiệp Học viện Tài chính
-Trái phiếu doanh nghiệp : Là những trái phiếu do các doanh nghiệp phát
hành để tăng thêm vốn hoạt động kinh doanh. Trái phiếu doanh nghiệp có rất
nhiều loại và rất đa dạng và phong phú .
-Trái phiếu của ngân hàng và các tổ chức này có thể phát hành trái phiếu để
tăng thêm vốn hoạt động.
1.1.2.2 Phân loại theo thời hạn của trái phiếu
Mục đích: xác định thời hạn của từng loại trái phiếu giúp nhà đầu tư ra quyết
định đầu tư.
Theo thời hạn trái phiếu có thể chia thành trái phiếu ngắn hạn, trái phiếu
trung hạn và trái phiếu dài hạn .
Việc phân chia các loại kỳ hạn thành ngắn hạn , trung hạn và dài hạn chỉ
mang tính chất tương đối tùy thuộc vào điều kiện phát triển kinh tế xã hội của
từng quốc gia . Tuy nhiên, theo thông lệ trên thị trường trái phiếu Mỹ , một
trong những thị trường trái phiếu quốc gia và quốc tế lớn nhất thế giới phân
chia như sau :
-Trái phiếu ngắn hạn là một loai trái trái phiếu có kỳ hạn từ 1 đến 5 năm
-Trái phiếu trung hạn là một loại trái phiếu có kì hạn từ 5 đến 12 năm
- Trái phiếu dài hạn là loại trái phiếu có kì hạn trên 12 năm
Trong điều kiện trình độ phát triển kinh tế xã hội Việt Nam hiện nay, loại
trái phiếu có kì hạn từ 5 hoặc 7 năm trở lên có thể được coi là trái phiếu dài
hạn
1.1.2.3 Phân loại theo lợi tức trái phiếu
Mục đích: Xác định các hình thức trả lợi tức của từng loại trái phiếu.
Dựa vào lợi tức trái phiếu có thể chia trái phiếu thành các loại:

-Trái phiếu có lãi suất cố định: Là loại trái phiếu mà lợi tức được xác định
theo một tỉ lệ phần trăm cố định tính theo mệnh giá.
-Trái phiếu có lãi suất biến đổi hay còn gọi là lãi suất thả nổi: Là loại trái
phiếu mà lợi tức được trả trong kì có sự khác nhau tính theo một lãi xuất có
sự biến đổi theo một lãi suất tham chiếu.
SV: Nguyễn Văn Thăng Lớp: CQ46/17.02
7
Luận văn tốt nghiệp Học viện Tài chính
-Trái phiếu có lãi suất bằng không: Là loại trái phiếu mà người mua không
nhận được lãi nhưng được mua với giá thấp hơn mệnh giá và được hoàn trả số
tiền bằng mệnh giá khi trái phiếu đó đáo hạn.
1.1.2.4 .Dựa vào hình thức trái phiếu
Mục đích: Xác định chủ thể sở hữu trái phiếu.
Dựa vào hình thức trái phiếu được phát hành có thể phân biệt trái phiếu vô
danh và trái phiếu ghi danh.
-Trái phiếu vô danh: Là loại trái phiếu không ghi tên của người mua trên
trái phiếu và trong sổ của tổ chức phát hành. Người nắm giữ trái phiếu được
hưởng quyền lợi. Trái phiếu vô danh có gắn các cuống phiếu trả lãi khi đến
hạn trả lãi, người nắm giữ trái phiếu chỉ việc mang tới đâị lý của công ty để
nhận lãi. Trái phiếu vô danh vì thế còn được gọi là “ trái phiếu có cuống
phiếu”.
-Trái phiếu ghi danh hay còn được gọi là trái phiếu ghi tên: là loại trái phiếu
có ghi tên người mua trên trái phiếu và trong sổ của tổ chức phát hành. Hình
thức ghi danh có thể chỉ thực hiện cho một phần vốn gốc, cũng có thể là ghi
danh toàn bộ , cả gốc lẫn lãi. Hình thức tương đối phổ biến là hình thức ghi sổ
ở tổ chức phát hành.
1.1.3 Rủi ro đầu tư trái phiếu
1.1.3.1 Rủi ro lãi suất
Rủi ro lãi suất là rủi ro xảy ra khi giá của trái phiếu bị giảm do lãi suất thị
trường gia tăng đây là loại rủi ro cơ bản của thị trường đối với các trái phiếu

có lãi suất cố định và có mối quan hệ tỷ lệ thuận với thời gian tồn tại của trái
phiếu
1.1.3.2 Rủi ro tái đầu tư
Rủi ro tái đầu tư là rủi ro khi những người nắm giữ không thể tái đầu tư số
lãi được trả vào một danh mục đầu tư có lãi suất tương đương với lãi suất đáo
hạn của trái phiếu . Điều này sẽ làm cho lãi suất đáo hạn trên thực tế khác với
lãi suất đáo hạn dự tính ban đầu .Đó là rủi ro khi lãi suất để tái đầu tư các
dòng tiền giữ bị giảm xuống . Rủi ro này lớn hơn đối với những thời kỳ nắm
giữ dài hơn và đối với trái phiếu có dòng tiền lớn và sớm trái phiếu có lãi suất
cuống phiếu cao
SV: Nguyễn Văn Thăng Lớp: CQ46/17.02
8
Luận văn tốt nghiệp Học viện Tài chính
1.1.3.3 Rủi ro thanh toán
Rủi ro thanh toán còn gọi là rủi ro tín dụng ,là rủi ro sảy ra khi tổ chức phát
hành trái phiếu mất khả năng thanh toán đúng hạn các khoản lãi và gốc của
đợt phát hành . trái phiếu chính phủ được coi là không có rủi ro thanh toán.
Trái phiếu công ty khác nhau sẽ có mức độ rủi ro khác nhau . Rủi ro thanh
toán được xác định bằng mức xếp hạng chất lượng do các công ty xếp hạnh
tín nhiệm ấn định , căn củ vào những điều khoản trong khế ước vay và trình
độ quản lý của công ty phát hành. Tuy nhiên mức tín nhiệm có thể thay đổi
sau khi công ty phát hành .
1.1.3.4 Rủi ro lạm phát
Rủi ro lạm phát hay còn gọi là rủi ro sức mua là rủi ro khi lạm phát làm
cho đồng tiền mất giá và như vậy , lợi tức thu được tư trái phiếu bị giảm giá
trị . Rủi ro lạm phát phát sinh do sự biến đổi trong giá trị của các dòng tiền mà
trái phiếu đem lại do sự lạm phát đươc đo lường bằng sức mua .Bất cứ loại
trái phiếu nào người đầu tư cũng phải chịu rủi ro lạm phát bởi chỉ trừ trái
phiếu có lãi suất thả nổi , còn lại lãi suất mà tổ chức phát hành hứa trả là cố
dịnh trong suốt thời gian của đợt phát hành . Trái phiếu có lãi suất thả nổi có

rủi ro lạm phát ở mức thấp hơn trong chừng mực lãi suất phản ánh được tỷ lệ
lạm phát dự đoán
1.1 .3.5 Rủi ro tỷ giá hối đoái
Đây là rủi ro liên quan tới các loại trái phiếu được phát hành bằng đồng
ngoại tệ nhất là trong trường hợp trái phiếu trên thị trường quốc tế. Nguyên
nhân dẫn đến rủi ro tỷ giá hối đoái là sự biến động của tỷ giá hối đoái trên thị
trường tiền tệ. Nếu trái phiếu được thanh toán bằng đồng nội tệ mà đồng nội
tệ lại giảm giá hơn đồng ngoại tệ thì nhà đầu tư sẽ nhận được ít ngoại tệ hơn
và bị thua thiệt. Trong trường hợp ngược lại nếu đồng nội tệ tăng giá thì nhà
đầu tư được lợi hơn
1.1.3.6 Rủi ro thanh khoản
Rủi ro về khả năng thanh khoản là rủi ro mà khả năng các trái phiếu do
người đầu tư nắm giữ không bán đươc hoặc chỉ bán được ở giá thấp. Rủi ro
thanh khoản tùy thuộc vào việc trái phiếu có bán được theo giá trị gần với giá
trị không. Thước đo chủ yếu của tính thanh khoản trái phiếu là mức độ chênh
lệ giữa giá hỏi mua và giá chào bán của trái phiếu mà nhà giao dịch niêm yết.
SV: Nguyễn Văn Thăng Lớp: CQ46/17.02
9
Luận văn tốt nghiệp Học viện Tài chính
Độ lệch này càng lớn rủi ro càng cao và ngược lại . Đối với nhà đầu tư nắm
giữ trái phiếu tới khi đáo hạn thì rủi ro thanh khoản là không quan trọng .
1.2. Phát triển hoạt động kinh doanh trái phiếu của công ty chứng
khoán
1.2.1 Hoạt động cơ bản của Công ty chứng khoán
1.2.1.1Khái niệm về Công ty chứng khoán
Công ty chứng khoán là một loại hình chế định trung gian đặc biệt trên
thị trường chứng khoán, thực hiện hoạt động kinh doanh chứng khoán như
ngành nghề kinh doanh chính. Tại Việt Nam, Theo điều 65, 66 Nghị định
144/2003/NĐ-CP của Chính phủ về chứng khoán và TTCK Công ty chứng
khoán là công ty cổ phần hoặc công ty trách nhiệm hữu hạn được UBCKNN

cấp Giấy phép thành lập để hoạt động kinh doanh, dịch vụ chứng khoán đáp
ứng đủ các yêu cầu sau:
- Có phương án kinh doanh phù hợp với mục tiêu phát triển kinh tế, xã
hội và phát triển ngành chứng khoán.
- Có đủ cơ sở vật chất, kỹ thuật cho kinh doanh chứng khoán.
- Giám đốc, Phó giám đốc (Tổng giám đốc, Phó tổng giám đốc), các
nhân viên kinh doanh của CTCK phải đáp ứng đủ điều kiện để được cấp
chứng chỉ hành nghề kinh doanh chứng khoán do ủy ban Chứng khoán Nhà
nước cấp.
- Giấy phép bảo lãnh phát hành chỉ được cấp cho công ty có Giấy phép
tự doanh.
- Theo Nghị định số 14/2007, quy định về vốn đối với các nghiệp vụ
kinh doanh của CTCK và quản lý quỹ, mức vốn pháp định theo từng loại hình
kinh doanh sau: Đối với nghiệp vụ môi giới chứng khoán cần số vốn pháp
định là 25 tỷ đồng; Đối với nghiệp vụ tự doanh chứng khoán cần vốn pháp
định là 100 tỷ; Đối với hoạt động nghiệp vụ Bảo lãnh phát hành chứng khoán
cần số vốn pháp định là 165 tỷ và số vốn pháp định cho hoạt động tư vấn là
10 tỷ - Như vậy số vốn pháp định để một CTCK hoạt động ở tất cả các nghiệp
vụ là 300 tỷ đồng.
SV: Nguyễn Văn Thăng Lớp: CQ46/17.02
10
Luận văn tốt nghiệp Học viện Tài chính
Tại thời điểm thị trường khó khăn, các CTCK đã tự xin rút lui một số
nghiệp vụ như nghiệp vụ tự doanh hay bảo lãnh phát hành để đảm bảo mức
vốn hoạt động theo đúng quy định của Pháp luật
1.2.1.2. Các hoạt động cơ bản của công ty chứng khoán
Là một tổ chức trung gian kết nối sự trao đổi mua bán chứng khoán
theo những quy tắc được ấn định, theo quyết định số 27 về việc ban hành Quy
chế tổ chức và hoạt động CTCK, một CTCK được phép thực hiện tất cả các
hoạt động kinh doanh bao gồm: Môi giới chứng khoán, tự doanh chứng

khoán, tư vấn đầu tư chứng khoán và bảo lãnh phát hành chứng khoán.
• Hoạt động môi giới chứng khoán
Để thực hiện giao dịch mua, bán chứng khoán theo yêu cầu của khách
hàng, CTCK thực hiện chức năng làm trung gian nhận lệnh của khách hàng
trực tiếp hoặc qua điện thoại sau đó chuyển thông tin tới Sở Giao dịch Chứng
khoán Hà Nội và Hồ Chí Minh. Tại Sở giao dịch chứng khoán khi lệnh mua
và lệnh bán gặp nhau và khớp lệnh, CTCK sẽ được hưởng phí giao dịch.
Để thực hiện nghiệp vụ này, CTCK sẽ phải mở tài khoản giao dịch cho
từng khách hàng; Quản lý tiền và chứng khoán của khách hàng; Thu thập và
bảo mật thông tin tài chính, khả năng chịu đựng rủi ro, kỳ vọng lợi nhuận của
từng khách hàng; Thực hiện nghiệp vụ nhận lệnh giao dịch mua bán chứng
khoán niêm yết và OTC; Cung cấp các dịch vụ liên quan đến đăng ký chứng
khoán niêm yết, chứng khoán của công ty đại chúng chưa niêm yết, đăng ký
giao dịch tập trung, quản lý cổ đông, lưu ký, bù trừ, thanh toán chứng khoán
cho khách hàng; Chăm sóc khách hàng; Tư vấn cho khách hàng giao dịch
chứng khoán; Thực hiện sửa lỗi theo quy định của HNX và HSX.
• Hoạt động tự doanh
Ngoài tư cách là môi giới chứng khoán, CTCK có thể sử dụng nguồn
vốn của mình để tham gia kinh doanh chứng khoán như một tổ chức độc lập
trên thị trường nhằm thu được lợi nhuận về cho CTCK. Hoạt động tự doanh
của CTCK có thể được chia thành hai lĩnh vực thứ nhất là thực hiện việc mua
bán chứng khoán niêm yết cho chính công ty mình, thứ hai là hình thức mua
chứng khoán chưa niêm yết. Ngoài ra CTCK còn mua chứng khoán niêm yết
lô lẻ, sau đó sẽ gộp thành lô chẵn để bán lại trên Sở giao dịch chứng khoán.
Đây cũng là hoạt động mang lại lợi nhuận cho CTCK bởi giá mua lô lẻ là giá
SV: Nguyễn Văn Thăng Lớp: CQ46/17.02
11
Luận văn tốt nghiệp Học viện Tài chính
thỏa thuận giữa CTCK và nhà đầu tư nên CTCK có thể chủ động đưa ra mức
giá thỏa thuận để vừa có thể tìm kiếm lợi nhuận vừa có thể thu hút khách

hàng. Phần lớn doanh thu của CTCK thường là từ hoạt động tự doanh.
• Hoạt động phân tích và tư vấn đầu tư chứng khoán
Ở lĩnh vực này đòi hỏi các CTCK phải có các chuyên gia phân tích để
đưa ra sản phẩm là các báo cáo phân tích cơ bản như phân tích ngành, phân
tích công ty chuyên sâu đồng thời nghiên cứu thị trường hàng ngày hoặc hàng
tuần hoặc báo cáo về triển vọng của thị trường. Đây là những sản phẩm đòi
hỏi sự nghiên cứu chuyên sâu của các chuyên gia. Những sản phẩm này có
thể được thực hiện theo Hợp đồng hợp tác với các tổ chức hoặc cá nhân trong
và ngoài nước hoặc có thể là sản phẩm đặc trưng của một CTCK nhằm nâng
cao vị thế trên thị trường.
• Hoạt động tư vấn doanh nghiệp
Hoạt động tư vấn của một CTCK có thể bao gồm những hình thức sau;
+ Tư vấn bảo lãnh phát hành, chào bán chứng khoán riêng lẻ cho khách
hàng.
+ Tư vấn chuyển đổi hình thức doanh nghiệp 100% vốn nhà nước sang
công ty cổ phần chuyển công ty TNHH sang công ty cổ phần hoặc chuyển
samg hình thức công ty mẹ - công ty con hoặc tổng công ty.
+ Tư vấn các thủ tục để thực hiện chào bán cổ phiếu lần đầu ra công
chúng cho các DNNN cổ phần hóa và các loại hình doanh nghiệp khác; tư vấn
các thủ tục đấu giá bán bớt phần vốn nhà nước;
+ Tư vấn thủ tục cho các doanh nghiệp huy động vốn thông qua hình
thức chào bán riêng lẻ hoặc chào bán chứng khoán ra công chúng theo đúng
các quy định của pháp luật, phù hợp với nhu cầu tối đa hóa lợi ích của doanh
nghiệp đó.
+ Tư vấn cho các doanh nghiệp thực hiện niêm yết chứng khoán tại Sở
giao dịch chứng khoán.
+ Tư vấn tái cấu trúc doanh nghiệp: tư vấn tái cơ cấu tổ chức bộ máy
quản lý và nguồn nhân lực; tư vấn tái cơ cấu hệ thống quản trị bao gồm cơ
chế, chính sách, các quy chế quy định, quy trình công việc; Tư vấn tái cơ cấu
chiến lược hoạt động kinh doanh về mục tiêu chiến lược, kế hoạch kinh

SV: Nguyễn Văn Thăng Lớp: CQ46/17.02
12
Luận văn tốt nghiệp Học viện Tài chính
doanh, chủng loại sản phẩm hàng hóa; Tư vấn tái cơ cấu tài chính gồm cơ cấu
danh mục tài sản, cơ cấu tài chính phù hợp với chiến lược kinh doanh của
doanh nghiệp.
Tùy thuộc vào từng CTCK, các nghiệp vụ trên được đẩy mạnh hay đầu
tư với cơ cấu lớn/nhỏ. Một CTCK nhỏ với vốn điều lệ dưới 100 tỷ đồng thông
thường chỉ có thực hiện nghiệp vụ môi giới và phân tích tư vấn đầu tư chứng
khoán.
• Các hoạt động phụ trợ
Hiện nay các CTCK thường mở rộng hoạt động môi giới thông qua các
dịch vụ cung cấp cho khách hàng. Đó là các hoạt động hỗ trợ tài chính cho
khách hàng tham gia đầu tư chứng khoán hoặc hoạt động kinh doanh vốn trên
thị trường.
+ Kết hợp với hoạt động môi giới, các CTCK có thể cung cấp cho
khách hàng nguồn vốn để đầu tư chứng khoán với tài sản đảm bảo bằng chính
những cổ phiếu của khách hàng. Những cổ phiếu này sẽ bị phong tỏa bởi
CTCK và sẽ được giải tỏa khi khách hàng trả tiền về cho CTCK hoặc khi
khách hàng bán chứng khoán bị phong tỏa, khi đó CTCK sẽ tự động thu phần
vốn đã hợp tác cùng với khách hàng. Nghiệp vụ này áp dụng đối với cả chứng
khoán niêm yết và chứng khoán OTC.
+ Song song với việc cân đối toàn bộ nguồn vốn hoạt động trong
CTCK, một số công ty có bộ phận nguồn vốn trực tiếp tham gia hoạt động
kinh doanh trái phiếu căn cứ vào tình hình nguồn vốn của doanh nghiệp và
tình hình thị trường. Một số CTCK khác kết hợp với một hoặc nhiều ngân
hàng để cung cấp các dịch vụ cho khách hàng như hoạt động ứng trước tiền
mua chứng khoán, hợp tác đầu tư chứng khoán với khách hàng. Khi đó ngân
hàng trực tiếp đứng ra ký kết hợp đồng và thu tiền của khách hàng, CTCK chỉ
là trung gian và hưởng phần trăm hoa hồng.

1.2.2. Hoạt động kinh doanh trái phiếu tại công ty chứng khoán
Hoạt động kinh doanh trái phiếu của CTCK được hiểu là việc CTCK
thực hiện hoạt động môi giới trái phiếu cho khách hàng hoặc tự doanh trái
SV: Nguyễn Văn Thăng Lớp: CQ46/17.02
13
Luận văn tốt nghiệp Học viện Tài chính
phiếu hoặc cả hai để từ đó thu phí giao dịch, hoa hồng, trái tức hoặc chênh
lệch giữa giá mua và giá bán nhằm mang lại lợi nhuận về cho CTCK.
1.2.2.1Các hình thức kinh doanh trái phiếu tại công ty chứng khoán
1.2.2.1.1, Căn cứ vào công cụ đầu tư:
Trái phiếu được chia thành hai loại chính: TPCP và trái phiếu công ty
tương ứng hoạt động kinh doanh trái phiếu được chia thành kinh doanh TPCP
(TPCP và TPCQĐP, trái phiếu kho bạc, và trái phiếu đô thị) và kinh doanh
TPDN hay trái phiếu công ty.
Việc phân loại hoạt động kinh doanh trái phiếu theo công cụ đầu tư có
thể giúp các nhà quản lý xây dựng danh mục đầu tư với mức độ rủi ro phù
hợp, trên cơ sở đó dễ dàng thay đổi kết cấu danh mục đầu tư. Đầu tư vào
TPCP được coi là có rủi ro thấp nhất do được đảm bảo khả năng trả nợ của
Chính phủ. Không những vậy, TPCP còn có khả năng thanh khoản cao, dễ
dàng chuyển thành tiền mặt. Trái phiếu công ty cũng có rủi ro thấp nhưng vẫn
phụ thuộc vào tình hình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Đầu tư kinh
doanh trái phiếu công ty còn có thể được phân chia thành đầu tư vào trái
phiếu thế chấp (trái phiếu có bảo đảm bằng một lượng tài sản tương ứng ký
thác tại cơ quan để đảm bảo chắc chắn khả năng hoàn trả của trái phiếu) và
loại trái phiếu công ty có tính rủi ro cao hơn là đầu tư vào trái phiếu tín chấp
hay trái phiếu không có bảo đảm, loại trái phiếu này chỉ có thể được mua khi
tổ chức phát hành là các công ty lớn, có uy tín danh tiếng trên thị trường.
Dù đầu tư vào TPCP hay TPDN thì hoạt động kinh doanh trái phiếu là
khá an toàn bởi dòng tiền cố định mà nhà đầu tư được nhận đã ấn định từ khi
phát hành trái phiếu chứ không phụ thuộc vào tình hình hoạt động cũng như

kế hoạch phân chia lợi nhuận của doanh nghiệp.
1.2.2.1.2, Căn cứ vào nguồn vốn và trách nhiệm của công ty
Hoạt động kinh doanh trái phiếu của CTCK được chia thành hoạt động
tự doanh trái phiếu và môi giới giao dịch trái phiếu cho khách hàng.
• Tự doanh trái phiếu là hoạt động CTCK sử dụng nguồn vốn của mình
để kinh doanh trái phiếu trên thị trường. Khi đó, khác với tổ chức trung gian,
CTCK đóng vai trò là một trong hai phía mua hoặc bán khi thực hiện giao
dịch, lúc này công ty sử dụng nguồn vốn của mình để mua hoặc bán trái phiếu
SV: Nguyễn Văn Thăng Lớp: CQ46/17.02
14
Luận văn tốt nghiệp Học viện Tài chính
trên thị trường từ đó được hưởng lợi nhuận thu được từ việc mua/bán trái
phiếu hoặc phải chịu rủi ro khi bị thua lỗ. Đối với hoạt động tự doanh, bất cứ
khi nào cần bán/mua, công ty có thể bán hết lượng trái phiếu đang nắm giữ
hoặc mua tối đa nguồn vốn phân bổ cho hoạt động tự doanh mà không chịu
bất cứ ràng buộc nào – đây là điểm khác giữa hoạt động kinh doanh tự doanh
trái phiếu và hoạt động tạo lập thị trường của các tổ chức tài chính khác.
Hoạt động tự doanh trái phiếu có thể được chia thành hoạt động đầu tư
hưởng lợi khi tới thời điểm đáo hạn trái phiếu hoặc kinh doanh hưởng chênh
lệch giá. Ở hoạt động đầu tư trái phiếu tới thời khi đáo hạn, CTCK sẽ quan
tâm tới kỳ hạn nguồn vốn có thể sử dụng cho việc đầu tư trái phiếu và lãi suất
coupon của trái phiếu để từ đó lựa chọn trái phiếu kỳ hạn 1 năm, 3 năm hay 5
năm…và loại TPCP hay TPDN. Khi đó, ngay từ khi mua trái phiếu, căn cứ
vào trái tức nhận được hàng năm hoặc hàng quý và mệnh giá trái phiếu khi
đáo hạn trái phiếu, công ty có thể tính được lợi suất theo yêu cầu của trái
phiếu. Trường hợp kinh doanh hưởng chênh lệch giá, CTCK có thể bán trái
phiếu trước thời điểm đáo hạn của trái phiếu căn cứ vào tình hình thị trường
khi lợi suất theo yêu cầu đạt kỳ vọng của CTCK. Nắm giữ trái phiếu tới khi
đáo hạn hay bán trước khi đáo hạn tùy thuộc vào nguồn vốn sử dụng cho hoạt
động kinh doanh trái phiếu của CTCK và khả năng phân tích thị trường của

mỗi CTCK để từ đó đánh giá được thời điểm bán trái phiếu tốt nhất.
• Môi giới hay đại lý (tổ chức trung gian)
Lúc này, CTCK đứng ra thay mặt khách hàng thực hiện giao dịch và
hưởng phí giao dịch. Trong giao dịch trái phiếu, người bán và người mua đã
có thỏa thuận thực hiện hoạt động mua/bán trái phiếu, chỉ là thông qua
CTCK để đặt lệch giao dịch. Để thực hiện chức năng này, CTCK phải là
thành viên giao dịch trên hệ thống giao dịch TPCP. Kể từ ngày 24/09/2009,
hệ thống giao dịch trái phiếu chuyên biệt chính thức đi vào hoạt động, chỉ có
các CTCK thành viên mới có chức năng giao dịch môi giới cho khách hàng
ngoài hoạt động tự doanh của mình, các NHTM – thành viên đặc biệt chỉ có
thể giao dịch tự doanh và các CTCK không phải là thành viên hệ thống
TPCP chuyên biệt sẽ phải đặt lệch qua các CTCK thành viên.
SV: Nguyễn Văn Thăng Lớp: CQ46/17.02
15
Luận văn tốt nghiệp Học viện Tài chính
1.2.2.1.3, Căn cứ vào mục tiêu kinh doanh:
Căn cứ theo tiêu thức này có thể chia hoạt động kinh doanh trái phiếu
thành ba loại là kinh doanh đầu tư hưởng lợi, kinh doanh đầu tư phòng vệ và
nhà tạo lập thị trường.
• Kinh doanh đầu tư hưởng lợi: Hoạt động này nhằm mục tiêu lợi
nhuận. Lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh đầu tư trái phiếu có thể có từ trái
tức được phân phối hàng năm và từ chênh lệch giá khi bán trái phiếu. Hoạt
động kinh doanh đầu tư hưởng lợi còn có thể chia thành hoạt động đầu cơ,
kinh doanh chênh lệch giá và kinh doanh xuống giá.
+ Đầu cơ trái phiếu: Là hoạt động đầu tư trái phiếu nhằm tìm kiếm lợi
nhuận từ trái tức và chênh lệch giá trong dài hạn. Hoạt động đầu cơ làm cho
trái phiếu trở nên khan hiếm và giá trái phiếu tăng khi đó nhà đầu cơ có thể
kiếm được lợi từ việc tăng giá trái phiếu.
+ Kinh doanh chênh lệch giá: Là hoạt động mua bán trái phiếu nhằm
tìm kiếm lợi nhuận trong ngắn hạn từ chênh lệch giá mua và giá bán. Giá

chênh lệch có thể do địa điểm mua bán khi tỷ giá giữa hai đồng tiền tại hai
khu vực khác nhau hoặc khi CTCK tìm được người có nhu cầu bán và người
có nhu cầu mua trái phiếu mà giá mua cao hơn giá bán khi đó CTCK sẽ là
trung gian để hưởng chênh lệch này.
+ Kinh doanh giảm giá: Là hoạt động kinh doanh đầu tư hưởng lợi khi
có hiện tượng giảm giá trái phiếu. Khi dự báo lãi suất tăng, CTCK sẽ bán trái
phiếu để chờ giá trái phiếu giảm xuống và mua lại. Trường hợp đặc biệt của
hoạt động kinh doanh giảm giá trái phiếu là bán khống. Khi đó, CTCK sẽ vay
trái phiếu của nhà tạo lập thị trường để bán khống lượng trái phiếu đó khi lãi
suất thị trường có xu hướng tăng lên trong tương lai làm giá trái phiếu giảm
và mua lại trả nhà tạo lập thị trường khi giá trái phiếu đã giảm tới mức kỳ
vọng. Phần chênh lệch giữa giá bán và giá mua sau khi trừ đi phí giao dịch sẽ
là thu nhập của CTCK. Khi giá trái phiếu không xuống thấp như kỳ vọng mà
tăng lên, CTCK vẫn phải mua trái phiếu trả lại nhà tạo lập thị trường và chịu
thua lỗ. Phần thua lỗ là khoản chênh lệch giữa giá mua và giá bán. Đây cũng
là hoạt động mang tính rủi ro cao nên để ra quyết định đầu tư, CTCK cần phải
xem xét tình hình kinh tế vĩ mô và tình hình biến động lãi suất để từ đó tránh
những rủi ro không đáng có.
SV: Nguyễn Văn Thăng Lớp: CQ46/17.02
16
Luận văn tốt nghiệp Học viện Tài chính
• Kinh doanh đầu tư phòng vệ: Là hoạt động kinh doanh đầu tư các
công cụ phái sinh về trái phiếu như hợp đồng giao sau (Forwards), Hợp đồng
kỳ hạn (Futures), Hợp đồng quyền mua (Call Options), Hợp đồng quyền bán
(Put Options) … CTCK tham gia kinh doanh đầu tư vào các hợp đồng này
nhằm mục đích hạn chế rủi ro trong hoạt động kinh doanh đầu tư trái phiếu.
Ngoài mục đích phòng vệ, ngày nay tại các nước phát triển, các công cụ phái
sinh này không chỉ sử dụng cho nghiệp vụ phòng vệ mà còn được được sử
dụng cho nghiệp vụ kinh doanh chênh lệch giá và nghiệp vụ đầu cơ.
• Tạo lập thị trường: Là khi CTCK đảm nhận tạo lập thị trường cho các

loại trái phiếu. Các tổ chức này thường được UBCKNN cấp phép thực hiện
nắm giữ một lượng trái phiếu đủ lớn và thực hiện mua bán theo yêu cầu nhằm
tạo tính thanh khoản cho trái phiếu. Nhà tạo lập thị trường có thể thu được lợi
tức đầu tư từ trái tức, phần chênh lệch tăng giá trái phiếu và tiền hoa hồng khi
thực hiện môi giới cho các nhà đầu tư, được miễn giảm thuế, miễn giảm phí
giao dịch, được miễn phí thông tin, thuê trang thiết bị với giá rẻ và các hỗ trợ
khác. Khi tham gia thị trường với tư cách là nhà tạo lập thị trường, CTCK có
thể hoạt động giao dịch dưới hai hình thức là hoạt động tự doanh - mua bán
trái phiếu cho chính mình bằng nguồn vốn của công ty hoặc hoạt động môi
giới - làm môi giới đại lý trái phiếu cho khách hàng để hưởng hoa hồng.
+ Hoạt động tự doanh: Khác với tự doanh trái phiếu tại các CTCK
khoán khác, công ty có thể mua hoặc không mua, có thể bán hết lượng trái
phiếu mình nắm giữ nếu cần. Còn hoạt động tự doanh của CTCK với tư cách
là nhà tạo lập thị trường thì CTCK luôn phải nắm giữ một lượng nhất định trái
phiếu đủ lớn để sẵn sàng bán khi có nhu cầu đặt mua đồng thời phải dự trữ
ngân quỹ khi nhà đầu tư có yêu cầu bán. Khi đó CTCK với vai trò là nhà tạo
lập thị trường đồng thời thực hiện quản lý ngân quỹ và đầu tư.
+ Hoạt động môi giới hay đại lý (tổ chức trung gian): Không chỉ đứng
ra thay mặt khách hàng thực hiện giao dịch và hưởng hoa hồng giống như các
thành viên giao dịch khác, với tư cách là nhà tạo lập thị trường, khi lệnh đặt
mua đến nhưng nhà tạo lập TTTP không đủ số trái phiếu đặt mua trong tài
khoản của mình hoặc lệnh đặt bán đến nhưng nhà tạo lập thị trường không đủ
khả năng để mua toàn bộ lượng trái phiếu đặt bán của khách hàng thì khi đó
nhà tạo lập thị trường sẽ phải tìm một lệnh đối ứng khác thỏa mãn toàn bộ
SV: Nguyễn Văn Thăng Lớp: CQ46/17.02
17
Luận văn tốt nghiệp Học viện Tài chính
hoặc một phần khối lượng đặt mua của khách hàng đặt ra bằng cách tìm đến
một nhà tạo lập thị trường khác.
Việc phân loại hoạt động kinh doanh trái phiếu theo hình thức này có

thể giúp nhà quản trị CTCK kiểm soát được lượng tiền sử dụng cho hoạt động
kinh doanh trái phiếu theo các hình thức đã được xác định.
1.2.2.2 Quản lý danh mục đầu tư trái phiếu
Hiện nay, hoạt động quản lý danh mục đầu tư chứng khoán nói chung
và trái phiếu nói riêng là một công cụ hữu hiệu không chỉ cho các nhà đầu tư
tổ chức mà còn cho cả các nhà đầu tư cá nhân. Như vậy, hoạt động quản lý
danh mục đầu tư trái phiếu là nhu cầu quản lý danh mục đầu tư trái phiếu
trong kho tự doanh của CTCK, trong kho đối với CTCK là nhà tạo lập TTTP
hoặc danh mục trái phiếu được ủy thác quản lý của các nhà đầu tư. Tiền đầu
tư trái phiếu có thể là tiền tự có của CTCK hoặc tiền ủy thác của các nhà đầu
tư trong đó CTCK cam kết trả thanh toán cho nhà đầu tư với một tỷ lệ lãi và
kỳ trả lãi nhất định.
• Vai trò của quản lý danh mục đầu tư trái phiếu
Cũng như các nhà đầu tư kinh doanh khác, CTCK luôn mong muốn lợi
nhuận cao nhất mà rủi ro nếu thua lỗ là thấp nhất. Vì vậy, nhu cầu đa dạng
hóa danh mục đầu tư để giảm thiểu rủi ro tránh “cho trứng vào cùng một rỏ”
để giảm nguy cơ thua lỗ khi trái phiếu giảm giá là rất rõ ràng. Nếu dồn toàn
bộ tiền của mình vào một loại trái phiếu như TPDN thì khi nhà phát hành trái
phiếu rơi vào tình trạng làm ăn thua lỗ, không trả được trái tức, CTCK sẽ gặp
bất lợi trong việc thu hồi tiền hoặc chỉ kinh doanh TPCP mặc dù rủi ro là rất
thấp vì khả năng Chính phủ không trả được tiền là hầu như không có nhưng
cơ hội để thu được lợi nhuận cao lại thấp hơn so với TPDN.
Như vậy, nếu với một khoản tiền, CTCK “rải” ra nhiều loại trái phiếu
khác nhau, thì tính tổng khoản đầu tư, rủi ro của trái phiếu này sẽ được bù đắp
khoản trái tức hoặc chênh lệch giá của trái phiếu khác. Đó chính là đa dạng
hóa đầu tư để giảm thiểu rủi ro.
• Các chiến lược quản lý danh mục đầu tư trái phiếu
Việc lựa chọn một chiến lược quản lý danh mục đầu tư trái phiếu là rất
quan trọng trong quá trình hoạch định hướng đầu tư của CTCK. Có ba chiến
SV: Nguyễn Văn Thăng Lớp: CQ46/17.02

18
Luận văn tốt nghiệp Học viện Tài chính
lược quản lý danh mục đầu tư mà CTCK có thể lựa chọn đó là chiến lược
quản lý thụ động, chiến lược quản lý bán chủ động và chiến lược quản lý chủ
động.
-Chiến lược quản lý thụ động
Chiến lược quản lý thụ động là chiến lược mua và nắm giữ trái phiếu
cho đến khi đáo hạn mà không cần quan tâm đến các biến động của lãi suất.
Đối với chiến lược này, về cơ bản khong cần phân tích dự báo tình hình của
biến động lãi suất, song người đầu tư vẫn cần có sự phân tích để đa dạng hóa
danh mục nhằm giảm thiểu rủi ro và xác định số lượng trái phiếu đưa vào
danh mục phù hợp với danh mục đầu tư. Theo phương pháp này, tốt nhất là
đầu tư vào các danh mục có thành phần trái phiếu tương tự như các chỉ số trên
thị trường nhằm thu được kết quả tương tự của chỉ số đó.
Các bước tiến hành khi thực hiện chiến lược đầu tư thụ động như sau:
Bước 1: Lựa chọn chỉ số trái phiếu:
Trên thị trường có nhiều loại trái phiếu có mức độ rủi ro khác nhau. Do
vậy, nhà quản lý danh mục đầu tư thụ động cũng cần phải xem xét hai yếu tố
để quyết định nên đầu tư theo danh mục loại nào. Yếu tố thứ nhất là xác định
mức độ rủi ro thanh toán mà CTCK có thể chấp nhận được. Nếu lựa chọn
danh mục dựa trên chỉ số chứa đựng hoàn toàn trái phiếu công ty thì sẽ phải
gặp rủi ro tín nhiệm hơn là chỉ số TPCP. Nếu mức rủi ro quá cao không thể
chấp nhận được thì tốt nhất không nên dựa vào chỉ số đó để lập danh mục.
Vấn đề thứ hai là phải tuân theo mục tiêu của công ty đề ra. Chẳng hạn lợi
suất của các chỉ số có thể khá đồng đều, song độ biến thiên của chúng lại khác
nhau mỗi khi có biến động lãi suất. Do vậy, nếu mục tiêu của người đầu tư là
lựa chọn những danh mục có biến thiên lợi suất thấp thì cần phải đầu tư theo
chỉ số có thời gian đáo hạn bình quân rất ngắn.
Bước 2: Phương pháp đầu tư:
Khi người quản lý danh mục đầu tư đã quyết định được nên đầu tư theo

chỉ số nào thì bước tiếp theo là phải xây dựng danh mục đầu tư theo phiên bản
của chỉ số đó. Để thực hiện công việc này thì người quản lý có thể tiến hành
theo một số cách sau:
SV: Nguyễn Văn Thăng Lớp: CQ46/17.02
19
Luận văn tốt nghiệp Học viện Tài chính
Thứ nhất: Mua tất cả các trái phiếu có trong chỉ số chuẩn mà mình cần
tuân theo, với tỷ trọng đầu tư vào mỗi trái phiếu bằng tỷ trọng trái phiếu đó
CTCK chiếm trong chỉ số chuẩn.
Thứ hai: Chỉ mua chọn lọc một số lượng nhất định các trái phiếu trong
chỉ số.
Thứ ba: Phương pháp chia nhỏ, đây là phương pháp phân chia chỉ số
theo các nhóm nhỏ đại diện cho những đặc tính khác nhau của chỉ số.
Thứ tư: Phương pháp tối ưu hóa (optimization approach).Trong phương
pháp này người quản lý danh mục phải xây dựng một danh mục, một mặt ăn
khớp với các nhóm chia nhỏ như phương pháp thứ ba, mặt khác phải tuân
theo một số điều kiện và đồng thời tối ưu các mục tiêu đề ra.
- Chiến lược quản lý bán chủ động
Trên thực tế có rất ít nhà quản lý danh mục đầu tư theo chiến lược thụ
động đơn thuần mà thường là hướng danh mục đầu tư thụ động theo một số
mục tiêu nhất định. Phương pháp quản lý thụ động đơn thuần chỉ có tác dụng
đa dạng hóa danh mục, giúp giảm thiểu rủi ro phi hệ thống của danh mục và
đạt được kết quả tương tự mức bình quân của thị trường mà không có tác
dụng phòng tránh rủi ro hệ thống. Để đạt được các mục tiêu đề ra và phòng
tránh rủi ro hệ thống, các nhà quản lý danh mục một mặt thiết lập danh mục
theo phương pháp thụ động, một mặt quản lý danh mục mang tính chủ động.
Phương pháp này được gọi là quản lý bán chủ động.
Phương pháp được dùng chủ yếu trong chiến lược quản lý bán chủ
động là phương pháp trung hòa rủi ro lãi suất. Đây là phương pháp phổ biến
trong chiến lược loại bỏ rủi ro cho danh mục đầu tư. Đó là biện pháp xây

dựng một danh mục trái phiếu sao cho khi lãi suất biến động thì rủi ro về giá
và rủi ro tái đầu tư gây ra những tác động chính xác bằng nhau và ngược
chiều nhau, do đó chúng triệt tiêu nhau. Vì vậy, danh mục đầu tư không bị
ảnh hưởng. Để phòng tránh rủi ro lãi suất, một biện pháp trung hòa rủi ro
thường được sử dụng là đầu tư vào trái phiếu có thời gian đáo hạn bình quân
bằng kỳ đầu tư. Một trong những phương pháp có thể sử dụng là đầu tư vào
trái phiếu không coupon có thời gian đáo hạn bằng kỳ đầu tư. Tuy nhiên, trên
thực tế không phải lúc nào cũng sẵn có loại trái phiếu này phù hợp với ý
SV: Nguyễn Văn Thăng Lớp: CQ46/17.02
20
Luận văn tốt nghiệp Học viện Tài chính
muốn của người đầu tư. Do vậy, người đầu tư có thể lựa chọn loại trái phiếu
đó bằng kỳ đầu tư dự kiến.
- Chiến lược quản lý chủ động:
Chiến lược quản lý chủ động là phương pháp mà người quản lý danh
mục dùng khả năng tiên đoán và thủ thuật đầu tư của mình để xây dựng danh
mục đầu tư đạt mức sinh lời cao hơn mức sinh lời chung của thị trường.
Các yếu tố chủ yếu mà nhà quản lý danh mục phải theo dõi và dự đoán đó
là sự thay đổi về mặt bằng lãi suất, sự thay đổi cơ cấu kỳ hạn lãi suất và thay
đổi mức chênh lệch lãi suất giữa các loại trái phiếu khác nhau.
 Phương pháp chủ yếu áp dụng:
- Chiến lược hoán đổi lãi suất: Chiến lược này được thực hiện theo một
số nguyên tắc sau:
+ Đánh giá hai loại trái phiếu tương đương chất lượng và thời gian đáo
hạn, chuyển từ loại có coupon thấp sang loại có coupon cao nhưng giá lại
không cao hơn nhiều để hy vọng thu được lợi suất cao hơn.
+ Dự đoán mức độ tín nhiệm của một công ty có xu hướng tăng lên,tức
lợi suất đầu tư vào trái phiếu do công ty này phát hành sẽ giảm, do vậy phải
mua ngay loại trái phiếu này và bán loại tương đương không có triển vọng.
- Chiến lược dự đoán lãi suất:

Đây là phương pháp đơn giản nhất của chiến lược quản lý chủ động.
Chìa khóa của phương pháp này là dự đoán được xu hướng biến động của lãi
suất trong tương lai để từ đó xây dựng một danh mục nhạy cảm với sự biến
động đó. Vì thời gian đáo hạn bình quân là đơn vị đo mức nhạy cảm của danh
mục tới sự biến động lãi suất nên người quản lý dự đoán lãi suất sẽ giảm thì
cần phải xây dựng danh mục đầu tư có thời gian đáo hạn bình quân dài và
ngược lại.
- Chiến lược dự đoán chênh lệch đường cong lãi suất
Dự đoán chênh lệch đường cong lãi suất có nghĩa là nhà quản lý dự đoán
sự khác nhau trong xu hướng biến động của lãi suất hai kỳ hạn khác nhau của
một loại trái phiếu (hoặc hai trái phiếu tương đương về ngành nghề, chất
lượng và coupon…). Nếu tại một thời điểm nào đó người ta thấy sự biến động
lãi suất của hai loại kỳ hạn diễn ra bất thường (vượt xa ngoài mức biến động
SV: Nguyễn Văn Thăng Lớp: CQ46/17.02
21
Luận văn tốt nghiệp Học viện Tài chính
bình quân thường có trong quá khứ) thì người ta dự đoán nó sẽ đổi chiều vào
một thời điểm nào đó trong tương lai từ đó có hiện lượng đầu tư thích hợp.
- Chiến lược đường cong lãi suất
Chiến lược đường cong lãi suất là chiến lược mà người quản lý chỉ cần
dự đoán về mức biến động của lãi suất, tức lãi suất biến động ít hay nhiều mà
không cần dự đoán về xu hướng lãi suất.
Chẳng hạn, một nhà đầu tư dự kiến kỳ đầu tư 5 năm vậy trước hết để
phòng ngừa rủi ro lãi suất, anh ta phải chọn danh mục có thời gian đáo hạn
bình quân bằng 5 theo một trong các cách sau:
+ Có thể rải đều tiền vào tất cả các loại trái phiếu có kỳ hạn khác nhau.
+ Có thể đầu tư toàn bộ vào loại trái phiếu khong coupon kỳ hạn 5 năm.
+ Có thể đầu tư một nửa vào loại kỳ hạn 3 năm và một nửa vào kỳ hạn
7 năm.
Một đặc điểm cần lưu ý là tất cả các phương án trên đều phải có thời

gian đáo hạn bình quân của danh mục bằng kỳ đầu tư.
• Quy trình quản lý danh mục đầu tư của CTCK
- Xác định rõ mục tiêu đầu tư (policy statement): Trong hoạt động đầu tư
và quản lý danh mục đầu tư, đây là một bước tối quan trọng. Khi thực hiện
bước này CTCK phải xác định rõ ba vấn đề chính. Thứ nhất là kì vọng lợi
nhuận của mình ở mức nào qua đó lựa chọn tài sản đầu tư thích hợp. Thứ hai
CTCK cần phải nhận thức rõ các hạn chế của mình khi thực hiện hoạt động
đầu tư như tiềm lực vốn, thời gian dự định đầu tư. Thứ ba các CTCK cần phải
xác định rõ khả năng chịu đựng rủi ro của mình ở mức độ nào, điều này sẽ rất
có ích trong việc lựa chọn các tài sản để đầu tư thích hợp.
- Thiết lập chiến lược đầu tư (investment strategy): Đây là bước nhằm
thực hiện các quyết định đã được đưa ra ở bước thứ nhất bằng cách phân tích
tài chính và kinh tế. Qua các bước phân tích cẩn trọng các CTCK sẽ phải xác
định một loạt các quyết định đầu tư xem cần thực hiện chiến lược đầu tư bị
động, bán chủ động hay chủ động để nhằm thỏa mãn các mục tiêu đầu tư của
mình.
- Thực hiện chiến lược đầu tư. Đây là bước cụ thể hóa các bước trên
bằng cách xây dựng danh mục đầu tư cụ thể bao gồm danh sách các loại tài
SV: Nguyễn Văn Thăng Lớp: CQ46/17.02
22
Luận văn tốt nghiệp Học viện Tài chính
sản để đầu tư và tỷ trọng vốn đầu tư vào các loại tài sản đó. Việc xây dựng
danh mục đầu tư chú trọng nhất là khâu xác định tỷ trong phân bổ vốn đầu tư
vì nó đóng vai trò quyết định trong thành công của hoạt động này. Các thống
kê cho thấy việc xác định đúng tỷ trọng phân bổ vốn đầu tư chiếm đến 90%
khả năng thắng lợi của một danh mục đầu tư.
- Điều chỉnh và cập nhật. Trong hoạt động đầu tư một danh mục đầu tư
không phải là bất biến mà luôn cần được phân tích và điều chỉnh nhằm đáp
ứng tốt mục tiêu đầu tư và thích ứng với sự biến chuyển không ngừng của
tình hình kinh tế vĩ mô cũng như tình hình kinh doanh của các doanh nghiệp.

Việc điều chỉnh này bao gồm điều chỉnh tỷ trọng đầu tư vào các tài sản, chấm
dứt đầu tư vào một hay nhiều loại tài sản hay bắt đầu đầu tư vào các loại tài
sản khác nhau. Tuy nhiên sự điều chỉnh này phải luôn luôn tuân thủ các mục
tiêu đầu tư đã được nêu ra ở các bước trên.
1.2.2.3 Vai trò của hoạt động kinh doanh trái phiếu của công ty chứng
khoán
Hoạt động kinh doanh trái phiếu ngày càng thể hiện rõ ưu việt của nó
trong thị trường tài chính bởi hoạt động này giúp đa rạng hóa danh mục đầu
tư và giảm thiểu rủi ro cho những ai nắm giữ nó . Bất kỳ một tổ chức nào khi
tiến hành đầu tư cũng phải bảo đảm được tính thanh khoản của danh mục đầu
tư.
Thứ nhất: Tăng tính lỏng và tính sinh lời của các tài sản đầu tư. Tại
CTCK, tài khoản thanh toán của công ty và tài khoản của các nhà đầu tư được
tách riêng theo quy định của UBCKNN để đảm bảo quyền lợi của các nhà đầu
tư. CTCK cũng là một nhà đầu tư tham gia vào thị trường tài chính và để đảm
bảo tính thanh khoản của mình, CTCK luôn phải duy trì một khoản mục dự
trữ nhất định. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là mặc dù dự trữ càng nhiều thì thanh
khoản càng được bảo đảm nhưng không sinh lời hoặc sinh lời rất thấp. Trong
khi đó một yêu cầu cũng được đặt ra là phải tăng lợi nhuận. Vì vậy, các
CTCK cũng như các tổ chức tài chính khác như NHTM đã tính tới việc kinh
doanh TPCP hoặc trái phiếu công ty vì chúng có thể mang lại được thu nhập
ổn định và có tính thanh khoản cao do một số loại còn có thể được bán tại hầu
hết thị trường tài chính thế giới như trái phiếu kho bạc Mỹ và các nước Châu
Âu,… Bên cạnh đó, các loại trái phiếu còn có thể được sử dụng để huy động
SV: Nguyễn Văn Thăng Lớp: CQ46/17.02
23
Luận văn tốt nghiệp Học viện Tài chính
nguồn vốn dễ dàng thông qua các nghiệp vụ repo trái phiếu. Đây là nghiệp vụ
khá phát triển và là tài sản thế chấp có tính rủi ro rất thấp do trái phiếu là tài
sản đảm bảo chắc chắn bởi chính phủ hoặc là tài sản nợ của các doanh nghiệp

phát hành nên các tổ chức tín dụng rất ưa dùng.
Thứ hai: đa dạng hóa tài sản đầu tư, hạn chế rủi ro: Không rủi ro
bằng các ngân hàng nhưng hoạt động của CTCK cũng chứa đựng những rủi
ro tiềm tàng như rủi ro trong hoạt động đầu tư chứng khoán tự doanh, rủi ro
do CTCK sử dụng các dịch vụ tài chính để hợp tác kinh doanh chứng khoán
với các cá nhân hoặc tổ chức đầu tư chứng khoán. Nhưng hoạt động này chứa
đựng rất nhiều rủi ro do thị trường biến đổi không ngừng vì vậy để giảm rủi
ro thì CTCK cần có cơ cấu danh mục đầu tư, đa dạng hóa tài sản đầu tư. Khi
tiến hành đầu tư chứng khoán, CTCK có thể tiến hành đầu tư linh hoạt theo
danh mục cổ phiếu bên cạnh đó cũng cần kinh doanh trái phiếu để đảm bảo
khả năng an toàn, từ đó đảm bảo sử dụng hiệu quả nguồn vốn huy động được
trên thị trường. Vì vậy, bên cạnh danh mục cổ phiếu, CTCK cần có danh mục
đầu tư cả TPCP, TPDN.
Thứ ba: thúc đẩy quá trình luân chuyển vốn cho nền kinh tế, cung
ứng vốn: Thông qua hoạt động kinh doanh trái phiếu với tư cách là nhà đầu
tư chuyên nghiệp, CTCK nói riêng và các tổ chức kinh doanh trái phiếu nói
chung đã góp phần tài trợ vốn cho các doanh nghiệp phát hành, góp phần điều
tiết từ nơi thừa vốn sang nơi thiếu vốn từ đó thúc đẩy quá trình luân chuyển
vốn cho nên kinh tế. Tạo sự khơi thông và linh hoạt đẩy mạnh nền kinh tế
phát triển.
1.2.3 Quan niệm về phát triển hoạt động kinh doanh trái phiếu tại công ty
chứng khoán
Phát triển là sự thay đổi về lượng và chất theo hướng tích cực. Như
vậy, phát triển hoạt động kinh doanh trái phiếu tại CTCK được hiểu là sự tăng
lên về chất và lượng trong hoạt động kinh doanh trái phiếu. Đó sẽ là sự thay
đổi trên các mặt sau:
- Gia tăng quy mô kinh doanh trái phiếu trên cơ sở gia tăng quy mô trái
phiếu trong danh mục kinh doanh hoặc gia tăng loại trái phiếu kinh doanh
hoặc cả hai.
SV: Nguyễn Văn Thăng Lớp: CQ46/17.02

24
Luận văn tốt nghiệp Học viện Tài chính
- Tăng hiệu quả và chất lượng kinh doanh nhằm tăng doanh thu, giảm
rủi ro trong kinh doanh trái phiếu từ đó gia tăng lợi nhuận. Để tăng hiệu quả
và chất lượng kinh doanh, CTCK cần gia tăng số lượng và chất lượng cán bộ
quản lý và cán bộ nhân viên đáp ứng nhu cầu công việc bên cạnh đó cần nâng
cao tính chuyên nghiệp trong hoạt động kinh doanh trái phiếu trên cơ sở
chuẩn hóa quy trình kinh doanh trái phiếu, phát triển hệ thống trang thiết bị
phục vụ cho hoạt động kinh doanh.
- Tăng giá trị đầu tư thể hiện qua việc tăng lên về số lượng tiền đầu tư
vào kinh doanh trái phiếu như vậy danh mục kinh doanh và số lượng trái
phiếu cũng tăng lên tương ứng.
- Gia tăng thị phần giao dịch trong hoạt động kinh doanh trái phiếu.
- Đa dạng hóa phương thức kinh doanh: CTCK không chỉ tham gia hoạt
động môi giới trái phiếu mà còn tham gia tự doanh trái phiếu hay kinh doanh
đầu tư hưởng lợi, kinh doanh đầu tư phòng vệ từ đó tiến tới trở thành nhà tạo
lập thị trường.
1.2.4. Các chỉ tiêu đánh giá mức phát triển hoạt động kinh doanh trái
phiếu của công ty chứng khoán
Đánh giá sự phát triển của hoạt động đầu tư trái phiếu cần sử dụng các
chỉ tiêu sau:
1.2.4.1Các chỉ tiêu định tính
- Tính đa dạng của hoạt động kinh doanh trái phiếu: thể hiện qua việc
CTCK thực hiện kinh doanh các loại trái phiếu khác nhau với nhiều kỳ hạn
khác nhau, hay nhiều mảng thị trường khác nhau. Công ty có thể đầu tư vào
TPCP hay trái phiếu công ty hay đầu tư vào các công cụ phái sinh để giảm
thiểu rủi ro kinh doanh trái phiếu. Mỗi loại trái phiếu có ưu điểm và nhược
điểm riêng nên CTCK cần quản lý danh mục đầu tư trái phiếu để thu được lợi
nhuận cao nhất. Công ty có thể chỉ phát triển mảng môi giới trái phiếu hay cả
mảng tự doanh hoặc trở thành nhà tạo lập thị trường.

Thông thường, các CTCK chỉ có thể tham gia môi giới trái phiếu hoặc
đầu tư tự doanh khi nguồn vốn dùng cho kinh doanh trái phiếu là nhỏ. Nhưng
với mức đầu tư vốn lớn, CTCK sẽ hướng tới việc trở thành nhà tạo lập thị
trường trên trái phiếu nhằm tạo nên vị thế, tính chuyên nghiệp cao. Chính vì
SV: Nguyễn Văn Thăng Lớp: CQ46/17.02
25

×