O
NGUYỄN VĂN
XIÊM
(Trường
THCS
Hùng
Vương)
Giải
B
A.
PHẦN
MỞ
ĐẦU:
I.
ĐẶT VẤN
ĐỀ:
Ơ Û
bất
kì
một quốc
gia
nào, những đổi mới về giáo dục nói
chung,
giáo dục
phổ thông nói
riêng
cũng đều bắt đầu từ việc
xem
xét, điều chỉnh về mục tiêu
giáo dục với
mong
muốn là
các nhà trường
đào
tạo
cho
đất nước những
con
người mới
có đủ
phẩm chất,
trình
độ, năng lực thực hiện tốt các
nghóa vụ
của
người
công dân
trong
từng
giai
đoạn xây dựng và
phát triển đất nước.
Ơ Û
nước
ta,
việc
thực
hiện đổi mới giáo
dục
phổ thông
nói
chung,
đổi mới
chương trình,
nội
dung
và
phương
pháp giảng dạy môn giáo dục công dân
(GDCD)
ơ û
cấp
trung
học
cơ
sơ û
(THCS)
nói
riêng
cũng không ngoài mục
đích
đó
đòi
hỏi
các cấp quản
lí
giáo
dục
và mỗi giáo viên phải nỗ
lực
thực
hiện.
Nhưng
vấn đề đặt
ra
là
cách
tổ
chức thực hiện các yêu cầu đổi mới đó
như
thế nào để
vừa
có
tính
khả
thi,
vừa đảm bảo
tính
đúng đắn của một chủ
trương trong
điều
kiện
có
được
của mỗi
nhà
trường, mỗi
đòa phương
và kết quả
thu
được
đạt như
mong
muốn
-
nhất
là
đối
với
giáo viên, lực
lượng
có
vai
trò quyết đònh chất lượng
giáo dục và đào tạo
trong
các nhà trường
thì
phải đổi mới cách
dạy,
cách
tổ
chức
học
tập
cho học sinh
của
mình như
thế nào để đạt được những yêu cầu và
mục tiêu
của
đổi mới đặt
ra?
Xuất phát
từ
quan
điểm và những yêu cầu
như
vậy của
việc đổi mới
phương
pháp
giảng dạy
ơ û
các môn học
nói
chung,
môn
GDCD
ơ û
cấp
THCS
nói
riêng
thì
bất
cứ
người giáo viên nào
cũng
đều
có
thể
sử
dụng
những
phương
pháp
dạy học
phù
hợp
với đặc thù của mỗi bộ môn
như:
trực
quan,
đàm
thoại, nêu vấn
đề,
giảng thuyết, thảo
luận
nhóm,
tổ
chức ngoại khóa,
thực
hành…
để chuyển
tải
đến các đối
tượng
học
sinh
những nội
dung cơ
bản của từng
bài
học trong
sách giáo
khoa (SGK). T
uy
nhiên, việc chuyển
tải
đó
có
gây
cho
các
đối tượng học
sinh
có
được những hứng thú
học
tập
cần
thiết hây không
thì
đây mới
là
vấn đề vô cùng
quan trọng trong
tiến
trình
thực hiện giờ
dạy
của
mình, vì theo lí
luận
dạy
đã khẳng
đònh:
-
Hứng thú là nguồn lực vô tận của mọi cảm nhận của
con
ngưới, nó
kích
thích tư duy
và
hành
động của
con
người
vươn
tới sự
tri
giác các sự vật, hiện tượng
có
trong
thế giới khách
quan
mà
con
người muốn lónh hội.
-
Hứng thú còn là cửa sổ, là lực hút của quá
trình
nhận thức và
hình
thành
những
tri
thức mới ở
con người.
-
Hứng thú
chính
là động lực thôi thúc và giúp
con
người luôn có
những
hưng
phấn, năng động và
sáng tạo để
vươn
tới
những mục tiêu mới.
Thật vậy,
trong
quá
trình
giảng dạy bộ môn này
ở
khối lớp
6, 7
tại trường
THCS
Hùng
Vương - TP Long
Xuyên và
qua
dự giờ, học tập
kinh
nghiệm
từ các
tiết
thao
giảng, chuyên đề của các đồng
nghiệp trong
tổ,
ở
cụm và hội đồng bộ môn
…
bản thân tôi lại càng thấy
rõ và càng thấm
thía hơn
về
yếu tố này
và
nó luôn thôi
thúc tôi có
những
suy
nghó, nghiên
cứu và quyết tâm thực hiện
nó. Đó là
lí do
mà tôi
mạnh
dạn
đăng
kí
nghiên cứu, trải nghiệm và đúc kết đề tài sáng kiến
kinh
nghiệm
(
SKKN )
về:
“
Một số
biện pháp
tạo hứng thú học tập
cho
học
sinh trong
giờ học môn
GDCD
ơ û
khối lớp
6, 7
”.
II.
NHỮNG CÔNG VIỆC
ĐÃ
NGHIÊN
CỨU
VÀ
TRẢI
NGHIỆM
ĐỀ
TÀI
SKKN:
Để thực hiện những mục tiêu của đề
tài
SKKN
đặt
ra,
bản thân
tôi
đã tiến
hành
những công việc cụ thể
như
sau:
-
Nghiên
cứu nắm vững
chương trình,
nội
dung
các bài dạy môn
GDCD
lớp
6, 7
và
tích
cực
tìm hiểu
thêm những vấn đề về
đạo đức, pháp luật và xã hội có liên
quan
đến kiến thức bài học
trong
thực tế.
-
Nghiêm túc
thực
hiện việc đổi mới
phương
pháp giảng
dạy
và kiểm
tra
đánh giá học
sinh trong
tiến
trình
soạn, giảng
theo
hướng dẫn và tập huấn của Sở
đối
với
bộ
môn.
-
Nghiên
cứu tài liệu về tâm
lí
học lứa tuổi học
sinh
ở cấp
THCS
và kết hợp
với các giáo viên chủ
nhiệm lớp để nắm, biết về hoàn cảnh sống của
gia đình,
môi
trường
sinh
hoạt…
của những học
sinh
có
dấu
hiệu bất thường về đạo đức,
lối
sống
và
ý
thức chấp hành
trong
lời nói, hành
vi giao
tiếp, ứng xử.
-
Thực hiện đầu
tư
thiết kế và
biên soạn nội
dung
các tiết dạy
theo
hướng
gắn kết nội
dung
tiết
dạy
với những hoạt động để tạo
cho
các đối
tượng học
sinh
có
sự
hưng
phấn cần thiết và
ham thích
học tập.
-
Thường xuyên
đúc rút
kinh
nghiệm
sau
từng tiết dạy
để có
những điều chỉnh,
bổ
sung
hợp
lí
về hệ
thống các câu hỏi, cách diễn đạt các nội
dung
và kó năng,
thao
tác sử
dụng các
phương
tiện, đồ
dùng dạy học
…
để tiết dạy
sau
đạt hiệu quả
hơn.
III.
PHẠM
VI
NGHIÊN
CỨU, TRẢI
NGHIỆM
ĐỀ TÀI
SKKN
:
Do
thời
gian
tiếp cận, giảng dạy môn
GDCD
ơ û
trường phổ thông không lâu
so
với các đồng
nghiệp
khác
trong
trường và được trường sắp xếp, tạo điều kiện
cho
tôi
được giảng dạy liên tục môn học này
ở
2
khối lớp
6
và
7
nên việc nghiên cứu, trải
nghiệm
đề tài
SKKN
của tôi cũng chỉ
xoay quanh “
Một số biện pháp tạo hứng thú
học tập
cho
học
sinh
trong
giờ học môn
GDCD
lớp
6, 7
“
ơ û
trường
THCS
Hùng
Vương
– TP.Long
Xuyên
từ đầu học
kì II
năm học
2008 – 2009
đến
nay
mà
thôi.
B.
PHẦN
NỘI
DUNG :
I.
NHỮNG CĂN
CỨ
NGHIÊN
CỨU,
TRẢI
NGHIỆM
ĐỀ
TÀI
SKKN :
1. Cơ
sở
lí
luận:
Mục tiêu của môn
GDCD
ơ û
trường phổ thông nói
chung,
cấp
THCS
nói riêng
là nhằm
cung
cấp
cho
học
sinh
hiểu biết về những giá trò đạo đức, pháp luật
cơ
bản
phù hợp với nhận thức của lứa tuổi,
hiểu
biết về những chuẩn mực
giao
tiếp, ứng xử
của
con
người Việt
Nam trong giai
đoạn công nghiệp hóa,
hiện
đại hóa v
a ø
hội nhập
quốc tế của đất nước. Từ những hiểu biết đó của học
sinh,
bằng khả năng
sư
phạm
của
mình
mà người giáo viên tiến hành các hoạt động giáo dục nhằm
hình
thành và
xác lập
cho
các đối
tượng
học
sinh
có ý
thức và hành
vi sinh
hoạt, học tập đúng
đắn;
tích
cực, tự giác
trong
thực hiện những chuẩn
mực,
những
qui
đònh mà các
em
đã học
ơ û
mọi
nơi,
mọi lúc
(gia đình,
nhà trường và xã
hội).
Nội
dung
của môn
GDCD
cấp
THCS
là
được xây dựng dựa trên những căn
cứ
khoa
học của các
ngành và môn học khác
như :
Đạo đức học, Luật học, Luân
lí
học,
Xã hội học, Giáo dục học
…
và
dựa
vào
những chủ
trương,
đường lối,
chính
sách,
pháp
luật của Đảng
-
Nhà nước
ta trong
chiến lược chăm
lo
phát
triển nhân tố
con
người. Mặt khác, nội
dung
môn
GDCD
cấp
THCS
còn
tích
hợp giáo dục
cho
học
sinh
có
những hiểu biết cần thiết về một số vấn đề có
tính
thời sự, xã hội khác phù hợp
với lứa tuổi các
em như :
Giáo dục về kó năng sống, về giữ
gìn
vệ
sinh -
bảo vệ môi
trường, về thực hiện
chính
sách dân số
- gia
đình,
về giới
tính
và sức khỏe
sinh
sản tuổi vò thành niên,
về
phòng chống
HIV/AIDS
… Song,
dù thực hiện
ơ û
nội
dung
nào
đi
nữa
thì
vấn đề xuyên suốt và có
tính
xâu chuỗi các nội
dung
giáo dục này
lại
với
nhau
là
sự
gắn kết chặt chẽ giữa kiến thức học tập với thực tiễn cuộc sống
theo
những chuẩn mực đạo đức và
pháp
luật được mọi người
quan
tâm thực
hiện.
Mục
đích
cuối cùng của việc dạy và học môn
GDCD
ở cấp
THCS
là làm thế
nào
để hướng các
đối tượng học
sinh
có ý
thức và hành
vi
luôn
vươn
tới những giá trò
chân, thiện, miõ
của cuộc sống; có niềm
tin
và thói
quen
hành động
theo
những
qui
đònh, chuẩn mực đạo đức, pháp luật của một người công dân mới
trong
thời
kì
công
nghiệp hóa, hiện đại hóa
và hội nhập quốc tế của đất
nước.
Để thực hiện được những yêu cầu, mục tiêu của việc đổi mới
chương trình
và
nội
dung trong
dạy học
môn
GDCD
cấp
THCS
nói
chung,
khối lớp
6, 7
nói riêng
thì
vấn đề trước tiên được các cấp quản
lí
giáo dục
quan
tâm chỉ đạo và tổ chức thực
hiện
là phải đổi mới có hiệu quả về
phương
pháp giảng dạy
ở
bộ môn này
nhằm
đảm
bảo
cho
các đối tượng học
sinh
lónh hội được đầy đủ những kiến thức, kó năng và có thái độ,
tình
ca
ûm
và
lí
tưởng hành động đúng đắn,
trung
thực
trong
việc thực hiện những
chuẩn mực, những giá trò
về
đạo
đức và pháp luật
theo
nội
dung
các kiến thức đã
học; biết phân biệt được những hành
vi,
thái độ
“
đúng
– sai
“, “
tốt
–
xấu
“ trong
từng
lời nói, việc làm
…
của bản thân và của những người
xung
quanh
trong
thực hiện
những chuẩn mục,
qui
đònh đó. Từ
đo,
giúp các
em
có
những điều chỉnh về cách ứng xử
của
mình
phù hợp với những
quy
đònh của pháp luật và những truyền thống, đạo
lí
của dân tộc.
Song,
việc đổi mới
phương
pháp giảng dạy
ở
môn
GDCD
cấp
THCS
nói
chung,
ơ û
khối lớp
6,7
nói
riêng
không phải là sự bỏ
đi
những nguyên tắc,
phương
pháp giáo dục truyền thống
cơ
bản của bộ môn
mà là
sự vận dụng
có
chọn lọc, kế thừa
và nâng lên những
phương
pháp dạy học này
trong
điều kiện xã hội và
các
phương
tiện dạy học mới ngày
nay
thông
qua
lăng
kính
và các kó năng
sư
phạm của người thầy
để giúp
cho
từng
học
sinh
có những hứng thú,
ham thích
và
say
mê học tập một cách
tích
cực,
tự giác và chủ động
hơn. Như Đai-ri (
nhà
GD
Liên
Xô cũ
)
đã nói
:
“
Dạy học
hay
dạy bất cứ cái
gì thì
điều trước tiên là đòi hỏi
người thầy
phải khêu gợi
cho
được cái thông
minh,
cái cảm hứng
ở
người học, chứ đừng bắt
trí
nhớ của người học làm
việc
một
cách máy móc, bắt
nó
ghi
chép
rồi
trả lại
”.
Như
vậy, mục
đích
của việc đổi mới
phương
pháp giảng dạy
ơ û
các
môn học nói
chung,
môn
GDCD
nói
riêng không
gì
khác
hơn
là
tạo
cho
học
sinh
có
những hứng thú học
tập
để
từ
đó
các
em
mới thấy được sự
cần thiết của việc học, biến quá
trình
lónh hội
(
có
sự giúp đỡ, hướng dẫn của
giáo viên
)
thành quá
trình
tự lónh hội
(
sự tự vận động các
tri
giác và tâm lực của học
sinh )
một
cách
thông minh
và sáng
tạo.
2. Cơ
sở
thực tiễn:
Ơ Û
trường
THCS
Hùng
Vương đa
số học
sinh
là
con em
của nhân dân
lao
động
nghèo,
cha
mẹ
của
các
em
phải
bươn
chãi để có miếng ăn hằng ng
ày
.
Một bộ phận
phụ
huynh
học
sinh
từ
nơi
khác đến
hoặc đi
làm thuê,
mua
bán
xa, gia đình
đổ
vỡ, sống với ông bà
… nơi
ở
của những
em
này thường không ổn
đònh,
thiếu
được
sự
quan
tâm kiểm
tra,
nhắc nhở của
gia đình, …
nên về đạo đức, lối sống,
tình
cảm
và
suy
nghó của các
em ít
nhiều đã bò những tiêu cực, lối sống thiếu lành
mạnh
tác
động. Từ đó, làm
cho
một
bộ
phận
học
sinh
của trường luôn có những biểu hiện
không đúng đắn về động
cơ,
thái độ học tập; một số thói
hư,
tật xấu
như :
chửi thề,
nói tục, dối trá với thầy cô, thô tục bạo hành với bạn bè …
thường xảy
ra trong
giờ
học
lẫn giờ
chơi.
Mặt khác,
do quan
niệm của một
số học
sinh
và phụ
huynh
vẫn còn
coi GDCD
là môn
phụ,
không ảnh hưởng
gì
đến việc
thi
cử
sau
này nên cũng
không
quan
tâm, động viên và cố gắng. Mặc dù
bản
thân và các giáo viên chủ
nhiệm
lớp có giải
thích nhưng
vẫn còn nhiều
ý
kiến
chưa
thật sự đồng
tình, vì
theo
họ
:
nếu gọi là môn học
quan
trọng
thì
tại
sao
Nhà nước không
đưa
môn
GDCD
vào hệ
thống các môn
trong
các
kì thi
tuyển
?
Với cách
suy
nghó này không
chỉ có ở
những
học
sinh
có cá
tính v
e
à
học tập mà
ngay
cả một
số học
sinh
có học lực khá giỏi, đạo
đức
ngoan
hiền
trong
những giờ học khác
thì
cũng thiếu tập
trung trong
giờ học
môn
GDCD,
biểu hiện dễ
thấy
ở
những
em
này là
thường nói chuyện
trong
giờ học,
không
ghi
chép bài,
lơ
là với lời
giảng, câu hỏi
của giáo viên
Một số
khác thường
xuyên
có thái độ bỏ
ngoài
tai
ở
những nội
dung mang tính
giáo dục về
đạo
đức và
rèn luyện nhân cách,
vì
những học
sinh
này
cho
đó là
“chuyện
cũ
rích”,
“chuyện
dạy
đời” nên
cũng không cần chú ý.
Bên
cạnh
những
quan
niệm động
cơ,
thái độ không đúng đắn
trong
một bộ
phận học
sinh
về
học
tập bộ môn
như
đã vừa nêu
thì trong
giảng dạy
do
nhiều yếu
tố
khác
nhau,
bản thân cũng
như
một số
giáo viên
cùng giảng dạy bộ môn đôi
khi
cũng
chưa
thật sự tạo được
sự hứng thú học tập cần thiết
cho
học
sinh trong
từng
giờ
dạy.
Sự rập khuôn,
sơ
cứng
trong
áp
dụng các
phương
pháp dạy học đã tạo
cho
học
sinh
về lối mòn
suy nghó
và lónh hội, các
tình
huống thực tế, các tục ngữ
ca dao,
các
tranh
ảnh
… minh
họa thiếu được người giáo viên
“
thổi hồn
“
để tạo
ra
những hấp
dẫn
từ
những
phương
tiện dạy học này.
Từ thực trạng dạy
và học
ơ û
môn
GDCD
nói
chung,
khối lớp
6, 7
nói riêng
như
đã nêu trên, bản thân
tôi đôi lúc cũng thấy bò
“
sốc
“ -
nhất là
khi
mới về trường.
Nhưng do
xác đònh đúng đắn trách nhiệm của
một giáo viên dạy môn
GDCD :
một
môn
học
có
chức năng giáo dục, rèn luyện
và
xây
dựng
nhân
cách
con
người
từ
trong
lúc ngồi ghế nhà trường đã giúp tôi trụ vững và luôn trăn trở là phải dạy
như
thế
nào để các
em
có
những
hứng thú học
tập
, ham thích
phát biểu,
tích
cực
tham gia
xây dựng bài, tự giác
thực
hành,
ghi
chép
… ?
Với những trăn trở
như
vậy,
từ đầu học
kì II
năm học
2008 – 2009
đến
nay
bản thân đã
không ngừng nghiên cứu, mày mò,
trãi
nghiệm
ơ û
đề tài
: “
Một số
biện pháp tạo hứng thú học tập
cho học sinh trong
giờ
học môn giáo dục công dân lớp
6, 7
“
đã
thu
được một
số kết khả
quan
và
xin
đúc kết
lại
ơ û
những
việc làm và kết quả
như sau :
II.
MỘT
SỐ
BIỆN PHÁP THỰC HIỆN
ĐỀ TÀI
SKKN :
1.
Đầu
tư cho
việc làm và sử
dụng hợp
lí
hệ
thống các
phương
tiện giảng dạy
trực
quan
đảm bảo
tính khoa
học, chuẩn xác,
sinh
động và dễ
hiểu
:
Đây là
phương
pháp giảng dạy có
nhiều
ưu
thế được hầu hết các giáo viên
sử
dụng
trong
quá
trình
dạy học
ơ û
các nhà trường.
Tuy
nhiên,
do tính đa
dạng về nội
dung
giáo dục của môn
GDCD
là
xây dựng,
rèn
luyện
ý
thức, hành
vi,
thái độ, nhân
cách
con
người trên nhiều lónh vực đời sống
xã hội nên các
phương
tiện, đồ
dùng giảng
dạy trực
quan chưa
được các cấp quản
lí
các
đơn
vò chức năng thiết kế,
cung
cấp
cho
việc dạy và
học
ơ û
bộ môn này
như
các môn học khác. Để có
được những loại
phương
tiện, đồ dùng giảng dạy trực
quan
cần thiết
theo
yêu cầu tối thiểu của từng
bài dạy, bản thân cũng
như
hầu hết các giáo viên cùng dạy bộ môn
phải tự làm hoặc
tự
sưu
tầm
theo
những
tính
toán dạy học chủ
quan
nên đôi lúc có những thiếu sót
về
tính chính
xác,
chưa
đảm bảo
tính khoa
học,
thao
tác, kó năng
khai
thác,
trình
bày
các
phương
tiện, đồ dùng dạy
học
này cũng có
những bất cập,
chưa
thật sự hợp
lí …
thậm
chí
đôi
khi
còn
làm tăng thêm
tính
rườm rà, phức tạp
cho
quá
trình
lónh hội các
tri
thức của học
sinh.
Thấy được những
ưu v
a ø
hạn chế
trong
sử
dụng
phương
pháp dạy học này, bản thân
đã tiến hành những
điều
chỉnh để khắc phục những
sai
sót,
hạn
chế từ
khâu chuẩn
bò đến kó năng
trình
diễn các loại đồ dùng,
phương
tiện giảng dạy này
như : tranh
ảnh,
sơ
đồ, mẫu chuyện
… sao cho
hợp
lí, khoa
học, chuẩn xác,
sinh
động và dễ
hiểu để
thu
hút sự tập
trung,
chu ù ý
của các đối tượng học
sinh.
Từ đó dẫn dắt các
em đi
vào nội
dung
của từng vấn đề, từng lónh vực của bài học đặt
ra. Ví
dụ
:
. Khi
dạy bài
1:
“Tự chăm sóc
-
Rèn luyện thân thể”
ơ û
GDCD. 6,
phần giới
thiệu bài tôi
cho học sinh xem hình
một bạn sáng thức dâïy đúng giờ, tập thể dục
và
hình
một bạn ngủ trễ,
đi
học muộn mà tỏ vẻ
không
lo
lắng
gì
và yêu cầu học
sinh
nhận x
ét
v
a ø
cho
ý
kiến v
ề
y ù
thức “rèn luyện thân thể v
a
ø
tự chăm sóc”
của
2
bạn
này
.
Tập thể
dục
buổi
sáng
đúng giờ Lười tập thể
dục
buổi
sáng
Ngủ
muộn, đi học
trễ giờ
Khi
dán các ảnh này lên phần bảng dành
cho
các hoạt động
tìm
hiểu của học
sinh thì
lập tức
các
em
có sự động não và cả lớp hứng thú
quan
sát, trả lời.
Cách dạy
này, nếu nhà trường hoặc giáo viên
có
điều
kiện v
ề
công nghệ thông
tin ( CNTT ) thì
việc
trình
chiếu những
hình
ảnh này bằng máy hoặc đoạn vidéo
clip thì
học
sinh
lại
càng hứng thú
hơn
và việc vào bài mới hiệu quả và hấp dẫn
hơn.
O
Tương
tự
như
vậy,
khi
dạy bài
3:
“Tự trọng”
ơ û
GDCD.7 cho
học
sinh xem
ảnh một người tật
nguyền
bán vé số và giới
thiệu người
này từ chối không nhận
tiền giúp đỡ của người
qua
đường, rồi
đặt
câu
hỏi
: Vì
4
sao
người tật nguyền này không nhận tiền giúp đỡ? Do
tính
cụ thể, dễ hiểu của
hình
ảnh với câu hỏi
tinh
gọn,
rõ ràng đã
kích thích
được sự hứng thú của nhiều
học
sinh giơ tay
trả lời chuẩn xác
là
: Vì
người bán v
é
số có lòng “tự
trọng”.
Song, khi
sử dụng
phương
pháp dạy này giáo viên cũng cần chú
ý là
những
hình
ảnh không
được
quá nhỏ (tối thiểu bằng khổ giấy
A4
đối với những ảnh
đơn
giản) và tránh
đưa ra
những
hình
ảnh có
quá nhiều
chi
tiết phụ sẽ làm
cho
học
sinh
dễ bò phân tán sự
quan
sát,
khó phát hiện những điểm
chính
mà nội
dung
bài học đặt
ra.
2.
Xây dựng
hệ thống câu hỏi
ơ û
từng bài dạy phải đảm bảo
tính
rõ
ràng,
đủ
nghóa
và có chủ
đích
sát hợp với nội
dung,
phù hợp
cho
từng đối
tượng học
sinh
:
Hệ thống các câu hỏi là một
phương
tiện không thể thiếu
trong
quá
trình
giảng dạy trên lớp
của người giáo viên và được người giáo viên
sử
dụng
nó một
cách
linh
hoạt, sáng tạo cùng với các
phương
pháp dạy học khác
theo
đặc
trưng
của từng bộ môn. Xác đònh được tầm
quan
trọng và những lợi thế của
phương
pháp
dạy học này nên
trong
quá
trình
thiết kế, xây dựng nội
dung
bài dạy đến việc tổ
chức dạy
và
học
trên lớp
thì
bản thân tôi luôn
quan
tâm xây dựng
và
khai
thác tốt các
tính
năng
ưu
điểm về hệ thống các
câu
hỏi
trong
một bài
dạy dưới nhiều dạng, loại
khác
nhau
gồm
:
loại các câu hỏi
chính đưa
vào bài soạn
( do
bản thân đặt
ra theo
nội
dung
từng
mục của bài học hoặc có
trong SGK );
loại các câu hỏi
phụ
để giúp học
sinh
phát hiện vấn đề;
dạng câu hỏi
mang tính
đònh hướng, dẫn dắt học
sinh
tiếp cận,
nhận thức các
tri
thức mới; dạng câu hỏi
khêu
gợi
trí
thông
minh,
sự hứng thú hoặc
động viên nhằm phát
huy
sự sáng tạo và
tính
tập
trung
của học
sinh…Ví
dụ
:
O
Khi
dạy
bài
7:
“Đoàn kết,
tương
trợ
“GDCD.7
để vào
bài,
tôi
đọc lên câu
ca
dao:
“Một cây làm chẳng nên
non,
Ba
cây chụm lại nên hòn núi
cao”
rồi đặt câu hỏi vừa
mang tính
đònh hướng nhận thức, vừa có
ý
khêu gợi sự hứng thú
và
trí
thông
minh
của
học
sinh như sau : “ Em
hãy
cho
biết
y ù
nghóa của câu
ca dao
trên là đề
cao tinh
thần
gì ? “.Khi
câu hỏi kết thúc
thì
nhiều cánh
tay
của học
sinh
giơ
lên
xin
phát biểu. V
a ø
khi
gọi
thì
nhiều
em
phát biểu rất
chính
xác là đề
cao
tinh
thần
“
đoàn kết,
tương
trợ
“
của nhân dân
ta.
O
Hoặc để giúp học
sinh tìm
hiểu sâu
hơn
về ý
nghóa của sự
“
đoàn kết,
tương
trợ
“ trong
bài
dạy
này, bản thân tổ chức
cho
học
sinh
từng lớp tiến hành thảo
luận
nhóm xoay quanh
các dạng câu hỏi
sau . Ví
dụ
cho
học
sinh:
+
Nhóm
1:
Thảo luận để chỉ
ra
những việc làm chứng
tỏ
“đoàn kết,
tương trợ”
sẽ giúp
con
người dễ dàng hòa nhập, hợp tác với mọi người
xung quanh hơn ?
+
Nhóm
2:
Thảo luận để chỉ
ra
những việc làm chứng
tỏ
“
đoàn kết,
tương trợ”
sẽ
tạo
ra
sức
mạnh,
giúp
con
người vượt
qua
khó khăn hoàn thành tốt mục tiêu
đã
đònh?
+
Nhóm
3:
Thảo luận
tìm ra
những sự kiện, những việc làm
trong
lòch sử và
trong
thực tế để
chứng
tỏ
“
đoàn kết,
tương
trợ
“
là
truyền thống quý báu của dân tộc
?
Do
những nội
dung
của những câu hỏi này đã có
trong
phần
ý
nghóa của bài
học nên vấn đề
còn
lại
là
học
sinh
chỉ cần nêu được càng nhiều việc làm cụ thể và
càng nhiều sự kiện lòch
sử thể hiện
tinh
thần
và
truyền thống
“
đoàn kết,
tương
trợ
“
của nhân dân
ta
là
đủ.
Với
những dạng, loại câu
hỏi
này vừa
kích thích
sự
tái
hiện những kiến thức,
những việc làm
nói
về
“
đoàn kết,
tương
trợ
“
mà các
em
đã học, đã biết và vừa gây
cho
các
em
có
sự hứng thú cần thiết
trong
rèn luyện kó năng lập luận, thuyết
trình
Từ
đó
gi
u
ùp
học
sinh khắc
sâu
hơn
về những kiến thức đã học
trong
phần khái niệm
của
bài,
làm nền tảng
cho
các
em vươn
tới
những
việc
làm
tốt
đẹp thể hiện
rõ
hơn
về
trách nhiệm của người công dân
ở
tương lai trong
giữ
gìn v
à
phát
huy truyền
thống
quý báu
này
.
Việc
sử
dụng những dạng, loại câu hỏi này, vấn đề cần
lưu
ý là ở
những câu
hỏi có yêu cầu
học sinh
tái hiện lại những việc làm đã
qua hay
những sự kiện lòch
sử
thì
có thể học
sinh
gắp những khó
khăn,
không tái hiện được đầy đủ hoặc
chính
xác
ngay
trên lớp.
Do
đó, đòi hỏi người giáo viên cần phải chuẩn bò
những loại câu
hỏi phụ hoặc
hình
ảnh
mang tính
gợi
y ù
để giúp các
em
dễ tái hiện
hơn.
O
Hay, khi
dạy
bài
11 :
“Mục
đích
học tập của học
sinh “
ở
GDCD.6.
Nhằm
để phát
huy tính tích
cực, chủ động học tập của học
sinh sau khi cho
học
sinh tìm
hiểu nội
dung v
à
ý
nghóa
của truyện
đọc v
e
à
”
Tấm
gương
của một học
sinh
nghèo
vượt khó
“ trong SGK thì
bản thân nêu
ngay
câu
hỏi
:
“Mục
đích
học
tập
của
em
là
gì
?”
để tạo sự tập
trung,
động não của học sinh.
Với
dạng câu
hỏi
này, nhiều học
sinh
trả
lời
rất
thật
v
e
à
mục
đích
học tập của
mình
cộng
với
những
lời
ngợi
khen,
nhận xét
và chuyển mạch
rõ
ràng của giáo
viên
tạo
cho
lớp học
có
bầu không
khí
phấn khởi
bước vào
bài
học
mới.
Tóm lại
, việc
sử
dụng hệ thống các câu hỏi
trong
giảng dạy môn
GDCD
lớp
6, 7
nếu được người giáo viên
khai
thác một cách hợp
lí thì
dễ tạo
cho
học
sinh
những hứng thú học tập,
kích thích
sự
tích
cực, tự giác và chủ động
ở các
em
nhiều
hơn do tính
dễ điều chỉnh độ khó, dễ của nó. Hệ
thống các câu hỏi
trong
giảng
dạy
môn
GDCD
thường
ơ û
các dạng, loại
sau:
Thứ nhất
là loại câu hỏi dẫn dắt học
sinh tìm
hiểu khái niệm của một chuẩn
mực đạo đức
hay qui
đònh nào đó của pháp luật. Loại câu hỏi này thường được xây
dựng dưới
1 trong 3 hình
thức
sau :
Hình
thức
thứ nhất
là yêu cầu học
sinh
hãy
trình
bày khái niệm về một chuẩn mực đạo đức
hay qui
đònh nào đó của
pháp luật;
Hình
thức thứ
hai
hỏi về một chuẩn mực đạo đức
hay qui
đònh nào đó của pháp luật
là
gì;
Hình
thức thứ
ba
hỏi về một chuẩn mực đạo đức
hay qui
đònh của pháp luật nào
đó là thế nào. T
ùy
nội
dung
của
mỗi
đònh nghóa v
ề
chuẩn mực đạo đức
hay quy
đònh
của pháp luật mà người
ta
sẽ sử
dụng
1 trong 3
loại câu
hỏi này.
Ví dụ:
O
Khi
dạy
bài
10: “Tích
cực, tự giác
trong
hoạt động tập thể và hoạt động xã
hội”
(GDCD. 6 ) thì
hỏi
: Em
hãy
trình
bày khái niệm về
tích
cực, tự giác
trong …
xã
hội?
O
Hoặc:
Khi
dạy bài
12:
“Sống và làm việc có kế
hoạch”
(GDCD.7) thì
hỏi:
Thế nào là sống và
làm việc có kế
hoạch?
O
Hay:
Dạy bài
14:
“Bảo vệ môi trường và tài
nguyên thiên nhiên”
(GDCD.7)
thì
hỏi: Môi trường là
gì? T
ài
nguyên thiên nhiên
là
gì?
Thứ
hai
là loại câu hỏi dẫn dắt học
sinh tìm
hiểu
ý
nghóa về một chuẩn mực
đạo đức
hay qui
đònh
của pháp luật. Loại câu hỏi này thường được thể hiện dưới
1
trong 3 hình
thức
sau:
O
Hình
thức thứ nhất
là hãy
trình
bày
ý
nghóa.
Ví
dụ: Hãy nêu
y ù
nghóa của
việc
“
Giữ
gìn
và phát
huy
truyền thống
tốt đẹp của
gia đình,
dòng họ? “(Bài
10 -
GDCD.7)
O
Hình
thức thứ
hai
là
hỏi
vì sao
hoặc tại
sao
phải thực hiện về một chuẩn
mực đạo đức
hay qui
đònh nào đó của pháp luật.
Ví
dụ
: Vì sao
chúng
ta
sống phải
có
tư tin?
(Bài
11 – GDCD.7). Hay:
Tại
sao
chúng
ta
phải sống v
à
làm việc
có
k
ế
hoạch? (Bài
12
- GDCD.7)
O
Hình
thức thứ
ba
là hỏi về sự
ích
lợi của việc thực hiện về một chuẩn mực
đạo đức
hay qui
đònh
của pháp luật nào đó.
Ví
dụ
: “
Tiết kiệm
sẽ có
những lợi
ích gì
( hay
lợi
ích
nào
) cho
đất nước,
cho
gia
và
cho
bản thân
? “ (
Bài
3 – GDCD.6 )
Thứ
ba
là loại câu hỏi
khơi
dậy
hay
xác đònh
ý
thức trách nhiệm của người
công dân, của người
học
sinh trong
việc thực hiện những vấn đề về một chuẩn mực
đạo đức
hay qui
đònh của pháp luật.
Ví
dụ
:
Dạy bài
16:
“Quyền tự
do tín
ngưỡng
v
a
ø
tôn giáo”
(GDCD.7)
hỏi:
“
Mọi người phải làm
gì
để thể hiện đúng
đắn về quyền
tự
do tín
ngưỡng
và tôn
giáo?
“Hay
dạy
ơ û
bài
15:
“Quyền
và
nghóa vụ học tập”
(GDCD.6)
hỏi
:
“Học
sinh
có bổn phận
gì
để thực hiện tốt
quyền
và
nghóa vụ học
tập của
mình?”
3.
Tổ chức tốt các
hoạt động
thi
đua học
tập tạo
cho
học
sinh
có
những hứng
thú
trong
giờ
học GDCD
:
Xác đònh
thi đua
là động lực thúc đẩy mọi nỗ lực của
con
người hướng
tới
mục tiêu một cách
hoàn thiện v
à
nhanh
nhất.
Vì
thế, bản thân luôn chú trọng
tổ
chức tốt các
hình
thức
thi đua
học tập
cho
học
sinh trong
giờ học môn
GDCD
thông
qua
các trò
chơi
tiếp sức,
thi
tuyên truyền viên giỏi,
thi
ứng xử lòch sự,
tế
nhò,
văn
minh …
Để việc thực hiện
phương
pháp dạy này có hiệu quả và gây được hứng
thú học tập
cho
các đối
tượng học
sinh,
bản thân đã đầu
tư
tốt
cho
từng khâu
chuẩn bò
từ nội
dung chương trình
đến
hình
thức, thời
gian
thực hiện
sao cho
phù hợp với từng loại
hình,
thực hiện tốt khâu
giao
nhiệm vụ
và dặn dò cụ thể
cho
từng nhóm học
sinh
chuẩn bò trước
ơ û
nhà.
Trong
mỗi giờ
dạy,
bản thân thường
sử
dụng thời
gian
củng cố bài
để thực hiện công việc này.
Ví
dụ
: Sau khi
dạy
xong
phần nội
dung
của bài
4 : “
Lễ độ
“ ( GDCD.6 )
tôi
chia
lớp thành
2
đội
chơi
trò
chơi
tiếp sức
:
Mỗi
em trong
mỗi đội chỉ viết lên bảng
ở o â
dành
cho
đội
mình
một
biểu
hiện nói về
giao
tiếp, ứng xử có lễ độ và văn
minh trong
vòng
5
phút đội nào
viết được nhiều biểu hiện đúng
thì
đội đó thắng, những
em tham gia
trò
chơi thì
được cộng
1
điểm vào cột điểm thực hành.
Do tính
ràng buộc
của việc được cộng
thêm điểm nên học
sinh
ơ û
mỗi đội đều hăng hái chuẩn bò và sôi nỗi nối tiếp
nhau
giành
phần thực hiện trò
chơi.
Nhờ thực hiện tốt các hoạt động
thi đua
này đã
giúp học
sinh
khắc sâu
hơn
về
những
kiến thức đã học, đồng thời giúp các
em
rèn
luyện tốt những kó năng
theo
mục tiêu của bài học đặt
ra.
4.
Khai
thác tối
đa
các lợi thế của
những bài tập
tình
huống và
y ù
nghóa
của
những câu
cao dao,
tục ngữ
để
làm tăng thêm
tính
hấp dẫn
trong
giáo dục
tư
tưởng
và
hình
thành nhân cách tốt đẹp
cho
các đối
tượng học
sinh
:
Như
chúng
ta
đã biết, vấn đề xuyên suốt
trong
nội
dung
của môn
GDCD
cấp
THCS
nói
chung
và
ở
lớp
6, 7
nói
riêng
là
sự gắn
bó
chặt chẽ giữa kiến thức
với
những
giá trò
đạo
đức, pháp luật đã v
à
đang
diễn
ra trong
cuộc sống.
Vì
thế,
trong
tiến
trình
chuẩn bò và
giảng dạy
bản thân
tôi
luôn chú trọng
khai
thác đúng mức
những lợi thế của các
bài
tập
tình
huống và
ý
nghóa
của những câu
ca dao,
tục ngữ
có
trong SGK
và
trong
đời
sống để làm tăng thêm
tính
hấp dẫn,
thu
hút
học sinh
học
tập
tốt
hơn. Ví
dụ:
O
Trong
dạy bài
: “
Biết
ơn “ ( GDCD.6 )
tôi k
ể
cho
học
sinh nghe v
ề
một
tình
huống: “Hải
và
Bình
là
hai
bạn thân học cùng lớp
6A,
Hải là
con
nhà nghèo và
luôn được sự giúp
đỡ của
Bình như:
quá
giang xe,
hỗ
trợ bút, tập
…
Một hôm vào
giờ kiểm
tra
môn toán,
Bình
không làm được bài, đến lúc sắp hết giờ
Bình
giật
bài
của Hải chép, Hải
cương
quyết không
cho. Khi tan
học về,
Bình
không
cho
Hải quá
giang xe
nữa v
à
còn
mắng Hải là đồ v
ô
ơn. V
a ø
tôi nêu câu hỏi:
a)
Việc Hải không
cho Bình
chép bài làm kiểm
tra
ở
môn Toán
có phải Hải là
người v
ô
ơn không? Vì
sao?
b)
Nếu
em
là
Hải
thì
cần phải làm những
gì
để
Bình
hiểu
mình
là
không vô
ơn?
Từ những
tình
tiết
của câu chuyện và
hai
câu hỏi được nêu
ra
đã tạo
trong
học
sinh
có
ngay 2
luồng
suy
nghó trái ngược và
tranh
luận
nhau :
Một số
em cho
là
Bình
đúng, còn một số đông khác
thì cho
Hải là
người không vô
ơn …
và bầu không
khí tranh
luận, học tập
của lớp học trở nên hào hứng và sôi nỗi. Để giúp
cho
các
em
có nhận thức đúng đắn và kết thúc
tranh luận,
bản thân đã
đưa ra
lời giải đáp
dựa
trên những chuẩn mực đạo đức và nội
qui
học tập, kiểm
tra
của nhà
trường đối
với học
sinh. Qua
việc vận dụng
tình
huống
trong
giảng dạy môn
GDCD
lớp
6, 7
bản thân đã
thấy
rõ ở
đa
số các học
sinh
là
thấy được những lợi
ích
của việc học tập
ơ û
bộ môn này và luôn cố
gắng học tập tốt.
O
Cũng
trong dạy
bài
:
“Biết
ơn”
để giáo
dục tư
tưởng về phát
huy
những truyền thống
đạo
đức tốt đẹp của dân tộc, của
gia đình …
tôi nêu lên
những câu
ca dao,
tục ngữ để
cho
các
em tìm
hiểu
và
nói
lên ý
nghóa. Chẳng
hạn:
Ca dao : “
Dù
ai đi
ngược
về xuôi; Nhớ ngày giổ Tổ mùng mười, tháng
ba
”
Tục ngữ
: “
n
trái nhở
kẻ
trồng cây
”;
Hay:
“
Uống nước nhớ nguồn
”
.v.v. Qua
việc
khai
thác về
y ù
nghóa
và
tính tươi
mát,
êm dòu,
nhẹ
nhàng từ
vần,
điệu
trong
các câu
ca dao,
tục ngữ này vừa gần gũi với sự hiểu biết của các
em,
vừa
tạo thêm sự
phong
phú và
tính
hấp dẫn
cho
nội
dung
bài học, giúp học
sinh thích
thú học tập nhiều
hơn.
5.
Tăng cường gắn kết các nội
dung
bài học với các hoạt động
tổ
chức thực
hành của học
sinh
qua
việc làm các bài tập, hoạt động sắm
vai, sưu
tầm
tư
liệu và
giới thiệu về
gương
người
tốt, việc tốt để
các
em
tự rèn luyện, phấn đấu
vươn
lên
:
T
ổ
chức
cho
học
sinh
thực hành các nội
dung
bài học là một yêu cầu không
thể thiếu
trong
bất
kì hình
thức
hay
loại
hình
giáo dục nào.
Ơ Û
môn
GDCD
cấp
THCS
nói
chung,
khối lớp
6, 7
nói riêng
thì
việc tổ
chức
cho
học
sinh
thực hành
về các kó năng sống
( giao
tiếp, ứng xử,
sinh
hoạt, lễ
nghi … ) theo những
chuẩn
mực đạo
đức và các
qui
đònh của pháp luật mà các
em
đã học
la
ïi
càng
có ý
nghóa
và
vai
trò
đặc biệt
vô cùng. Bởi
vì
đây là một môn học có
chức năng, nhiệm vụ rèn
luyện
và
hình
thành
nhân
cách các
đối
tượng
học
sinh,
giúp
cho
các học
sinh
luôn
có những đức
tính
và thói
quen
tốt đẹp, phấn đấu
vươn
tới
những
giá trò
chân,
thiện, mó
từ
khi
các
em
còn ngồi học trên ghế nhà trường. Có thể cụ thể
hơn
là chỉ
thông
qua
các
hoạt động thực hành
thì
người giáo viên mới có đủ
cơ
sở để đánh
giá đầy đủ về
ý
thức và sự hiểu biết của
học
sinh
về các vấn đề đã học. Đồng
thời thực hành cũng là thước
đo
để người giáo viên nắm biết
được
thái độ,
tình
cảm và lối sống của mỗi học
sinh trong
thực hiện các chuẩn mực đạo đức và các
qui
đònh của
pháp luật một cách
trung
thực
v
à
tế nhò nhất. Với
ý
nghóa v
a ø
sự tác
dụng của thực hành
như
vậy,
trong
từng
bài
dạy bản thân luôn chú trọng
khai
thác
đúng mức việc hướng dẫn và tổ chức
cho
các đối tượng học
sinh
làm tốt các bài
tập thực hành, các
tình
huống, các sự kiện, thông
tin trong SGK.
Mặt khác, bản
thân còn tổ
chức
cho
học
sinh
các lớp hoặc
trong
cùng khối
thi đua trình
bày, giới
thiệu v
ề
những sản phẩm tự làm, tự
sưu
tầm được
như : tranh
ảnh; mẩu chuyện
“
người tốt
–
việc tốt
“;
các sự kiện, thông
tin,
hò, vè và các
tư
liệu
khác có liên
quan
đến nội
dung
bài học
hay
nằm
trong
nhóm chủ đề tuyên truyền, giáo dục của nhà
trường
và xã hội.
Ví
dụ
:
O
Trước
khi
dạy bài
:
“Lòch sự, tế nhò”
(GDCD.6), trong
phần dặn dò cuối
bài
“
Sống
chan
hòa với
mọi người”
thì
bản thân phân
cho
học
sinh
mỗi nhóm
(6 - 8
em)
về nghiên cứu, luyện đọc diễn cảm nội
dung
phần
tình
huống
trong SGK
(trang 21) theo
cách phân
vai (1 em
đọc lời dẫn,
1 em
đóng
vai
thầy Hùng,
1
em
đóng
vai
bạn Tuyết v
a ø
những
em
còn lại đóng
vai
các bạn
đi
học trễ) để tiết học
sau
các nhóm lên bắt
thăm xem
nhóm nào phải thể hiện
tình
huống. Mỗi học
sinh
trong
nhóm được cộng thêm vào điểm thực hành
: 2
điểm nếu thể hiện tốt,
1,5
điểm
nếu thể hiện khá và
1
điểm nếu thể hiện đạt yêu cầu.
Do
không biết trước
nhóm nào
phải thể hiện
tình
huống nên tất cả học
sinh
ơ û
mỗi nhóm đều cố gắng rèn luyện tốt
phần
vai diễn
của
mình
và
khi
vào tiết học
thì
tất cả học
sinh
đều phấn khởi và đại
diện mỗi nhóm hăng hái lên bốc
thăm.
Một ràng buộc khác là các thăm chỉ được mở
ra
cùng lúc làm
cho khí
thế lớp học lại càng
vui
nhộn lên.
Khi
đến phần trả lời câu hỏi
gợi
ý,
do
từng
em
có sự chuẩn bò trước
nên không
khí xung phong,
hồ hởi
xin
phát biểu của học
sinh
lại càng sôi nỗi
hơn.
O
Hay
trước
khi
dạy bài
: “ Tìm
hiểu về
HIV/AIDS”
(tiết
16 - PPCT
ở
GDCD.7
thuộc phần
mềm
giáo dục về các vấn đề đòa
phương -
Sở
ban
hành).
Bên cạnh bản thân đã chuẩn bò tốt
cho
tiết
dạy bằng
ứng
dựng CNTT thì
kết
hợp
với chủ điểm tuyên truyền “Tháng hành động về phòng chống
HIV/AIDS”
và
“Tháng bộ môn Sử, Đòa,
GDCD”
của nhà trường tổ chức bản thân tôi cũng
cho
học
sinh thi tìm
hiểu về
HIV/AIDS
bằng
sưu
tầm những
hình
ảnh và
sinh
hoạt dưới cờ
tạo
ra
không
khí
thực hành sôi nỗi
trong
thầy
v
a ø
trò nhà trường. Nhân việc đúc k
ết
đề tài này, tôi
xin
giới thiệu một số
hình
ảnh mà học
sinh
khối
6, 7
sưu
tầm và bản
thân tôi chọn và sắp xếp lại
theo
nội
dung
của bài
“ Tìm
hiểu về
HIV/AIDS “ như
dưới đây
:
Tuy
nhiên, để việc thực hành các vấn đề đạo đức v
à
pháp luật của học
sinh
theo
từng nội
dung
bài
dạy được
kết quả tốt
thì
điều trước tiên của người giáo viên
dạy môn
GDCD
phải có sự đầu
tư thích
đáng
trong
từng khâu chuẩn bò. Biết lường
trước những khó khăn, những
tình
huống
có
thể dẫn đến sự kém hiệu quả của
việc tổ
chức học
sinh
thực hành để có những
phương
án dự phòng, xử
lí.
III.
KẾT
QUẢ:
1.
Đối với
học sinh:
Ngoài những tiến bộ
tích cực
của
học sinh được
nêu
trong
từng biện pháp
thì
chất lượng học tập bộ môn của các
em
cũng
đem
lại
những kết quả khả
quan
được thống kê
như sau :
2.
Đối với giáo viên:
Tuy
quá
trình
đầu
tư cho
từng tiết dạy
có công
phu v
a ø
v
ất
vả
hơn nhưng hiệu
quả trên từng tiết dạy trên lớp là rất
khích
lệ;
ít hao
tốn
công sức
cho
việc ổn đònh và nhắc nhở học
sinh,
sự
thể
hiện một tiết dạy luôn được
trôi chảy, nhẹ nhàng
hơn;
tâm
lí
lên lớp không bò
“
sốc
“
và bớt căng thẳng
so
với
trước
khi
áp dụng đề tài.
IV.
MỘT
SỐ
KINH
NGHIỆM
ĐÚC KẾT
ĐƯC:
1.
Những
kinh
nghiệm
đưa
đến
thành công:
O
Trước tiên
là phải xây dựng được
chương trình
thực hiện những công
việc phải làm
( 06 việc chính
đã nêu
ơ û
phần
II ) trong
quá
trình
đònh hướng nghiên
cứu và trải
nghiệm
đề tài; phải thường xuyên cập
nhật tiến độ
thực
hiện và những
thành công, những việc làm
chưa
hiệu quả để kòp thời
xem
xét điều
chỉnh,
bổ
sung
các biện pháp phù hợp với thực tiễn dạy và
học.
O
Nắm vững nội
dung,
mục tiêu của từng bài dạy, tiết dạy v
à
mục dạy; chăm
chút và đầu
tư thích
đáng
trong
khâu thiết kế bài soạn,
khai
thác tối
đa
những lợi
thế
của đổi mới các
phương
pháp dạy học bộ môn
–
nhất là
khai
thác việc gắn chặc
các
nội dung
kiến
thức
bài
học với việc sử dụng các
phương
tiện giảng
dạy
trực
quan,
xây dựng hệ thống các câu hỏi, tổ chức
thi đua
và thực hành các
tình
huống
O
Việc tổ chức các
hình
thức học tập
cho
học
sinh
phải có sự hướng dẫn
rõ ràng, cụ thể
-
nhất
là
việc tự học, tự hành của học
sinh
ở
nhà. Không nên thực
hiện cách dặn dò
theo
cách
chung chung, chẳng
hạn
:
Các
em
về
xem
hoặc đọc
trước bài
A,
bài
B …
để tuần
sau ta
học,
vì
các
em
tuổi còn nhỏ, khả năng
trí
nhớ
chưa
bền và còn
ham chơi.
O
Trong
giáo dục
tư
tưởng, thái độ v
à
rèn luyện nhân cách, hành
vi,
lối sống
của học
sinh
theo
yêu cầu của từng
bài dạy
thì
phải có sự chắc lọc,
linh
hoạt và
nhẹ nhàng gắn kết với những câu
ca dao, tục
ngữ, với việc thật, người thật gần
gũi với cuộc sống v
a ø
sinh
hoạt của các
em.
Tránh
đưa
các
em v
ào
những
vấn đề mà
đa
số
chưa
hiểu biết
hay chưa
thấy sẽ làm
cho
các
em
bò hẫng hụt về nhận thức
dẫn đến
thiếu
tự
tin.
O
Lời
nói,
tác
phong,
phẩm chất và
lối
sống của giáo viên
trong
giờ lên lớp
và
trong
cả cuộc
sống
đời
thường phải luôn
trung
thực, lành mạnh và gần
gũi,
thân thiện
với
học
sinh
và mọi người. Tận tụy
lao động,
sáng tạo và nhiệt
tình dìu
dắt giúp
đỡ
các
em.
2.
Những
yếu tố
dẫn đến những hạn chế,
chưa
thành công:
Việc tạo hứng thú học tập
cho
học
sinh trong
giờ học môn
GDCD
ơ û
lớp
6,
7
là
một chuỗi
các
vấn
đề thuộc về nghệ thuật
sư phạm
của người thầy, nên
khi
thực hiện, áp dụng đề
tài
này không
sao
tránh khỏi những hạn chế, khó khăn
thường gặp
phải như
sau:
-
Không thể tạo nên sự hứng
thú
cho
học
sinh
đối những nội
dung
bài học cùng
lúc phải giải
quyết
nhiều vấn đề
hay
nhiều lónh vực
trong
một khái niệm
hay
một ý
nghóa của bài.
-
Khó phát
huy tính
hứng thú
ở
học
sinh
về những vấn đề
mang tính
giáo dục
để sửa
chữa nhận thức,
thái độ, uốn nắn và điều chỉnh các hành
vi sai
trái.
-
Rất khó thành công
trong
sử
dụng đề tài này đối với các giáo viên mới vào
ngành, thiếu yếu về
vốn sống,
kinh
nghiệm giảng dạy
và các kiến thức
cơ
bản ở
các
môn học khác có liên
quan.
- Chưa thu
đạt nhiều kết quả
ơ û
những đối tượng học
sinh
thiếu sự
quan
tâm, động viên của
gia đình
và một vài học
sinh
có cá
tính,
lối sống buông thả.
3.
Hướng
mở rộng và phát triển
SKKN:
Do
đặc thù “hứng thú” là
trạng thái tâm
lí
phấn khởi của
con
người trước các
sự vật, hiện
tượng
khách
quan.
Nó tạo
ra trong
mỗi
con
người một cảm giác
hưng
phấn
và trở thành động lực thôi thúc
trong
mỗi
con
người vượt
qua
những giới hạn để hành
động
vươn
tới những
gì
họ muốn.
Trong
dạy học cũng vậy, điều mà
bất cứ
người giáo
viên nào cũng muốn
là
tạo
cho
mỗi học
sinh
của
mình
có
được những hứng
thú
học tập
cần
thiết,
nên
SKKN
này có thể
nghiên
cứu vận dụng
và phát triển nó
trong
dạy các
môn học khác
ơ û
trường phổ
thông
–
nhất
la ø ở
môn
GDCD
với những mức
độ
cao
thấp,
rộng hẹp khác
nhau
tùy vào khả năng, nghệ thuật của mỗi người thầy và các điều
kiện,
phương
tiện
cũng
như thực trạng
học tập của học
sinh
ở
mỗi trường
nếu
như
người giáo viên chòu khó đầu
tư thích
đáng
cho
các biện pháp đổi mới cách dạy,
đổi mới cách
nhìn
và
phương
pháp đánh giá
học sinh, khắc
phục
tốt
những
hạn
chế, khuyết điểm
như
đã nêu
trong
phần những yếu tố
chưa
thành công
.
C.
KẾT LUẬN:
Tóm lại, việc nghiên cứu, trải
nghiệm
đề tài
SKKN v
ề
“Một
số
biện pháp tạo
hứng thú học tập
cho
học
sinh trong
giờ học
GDCD
lớp
6, 7”
mà bản thân đã thực
hiện
trong hơn 2
học
kì qua
ơ û
trường
THCS
Hùng
Vương - TPLX
bước đầu đã
thu
được những kết quả khả
quan
và đầy
khích
lệ. Nó không chỉ có tác
dụng
nâng
cao
chất lượng dạy và học của bộ môn
trong
những lớp bản thân dạy mà còn góp phần bồi
dưỡng và làm
chuyển biến
rõ nét về những phẩm chất
dạo
đức, lối sống và
lí
tưởng của nhiều đối tượng học
sinh
nhà
trường.
Đa
số
trong
các đối tượng học
sinh
đều thể hiện tốt
trong
lối sống và hành
vi,
có ước
mơ
và hoài
bão
học
tập để trở
thành những người công dân tốt của quê
hương
Bác T
ôn
v
à
của đất nước
sau
này.
V
iệc
thực hiện các biện pháp dạy học tạo hứng thú học tập
trong
giờ học môn
GDCD
ở
khối lớp
6, 7
của bản
thân
trong
thời
gian qua
còn thể hiện khá
sinh
động
về sự
tương
tác
trong
đổi mới các
phương
pháp dạy học giữa
thầy và trò, phát
huy
khả năng độc lập
suy
nghó, chủ động,
tích
cực lónh hội kiến thức một cách sáng tạo
và
hiệu quả của nhiều đối
tượng
học
sinh,
đẩy lùi thói
quen
ỷ
lại, dựa
dẫm, rụt
rè, nhút nhát, trông chờ vào
những
gì
giáo viên
cung
cấp.
Với
SKKN
này, tôi
hy
vọng sẽ góp phần nhỏ bé của
mình v
ào
phong
trào
chung
về đổi mới
phương
pháp giảng dạy và tổ
chức học tập của nhà trường
–
nhất
là
ở
bộ môn
GDCD. Qua
đó, từng giáo
viên tích
cực
chung tay đưa
chất lượng dạy
và học cũng
như
các hoạt động khác của nhà trường ngày một tốt
hơn. V
ề
bản thân,
tôi hứa là sẽ tiếp tục phát
huy
những
ưu
điểm, mặt
tích
cực của
SKKN
này, đồng
thời
không
ngừng nghiên cứu cải tiến, vận dụng thêm nhiều biện pháp để khắc
phục
có
hiệu quả những yếu tố
dẫn đến
sự hạn chế,
chưa
thành
công.
Cuối cùng, tôi
xin
chân thành cảm
ơn
sự giúp đỡ, những tác nghiệp của
tổ
chuyên môn
và
q
đồng nghiệp
trong
cụm,
trong
hội đồng bộ môn đã
cho
tôi nhiều
kinh
nghiệm
q
báu
trong
thời
gian
qua.
Xin
cảm
ơn Ban
giám hiệu trường
THCS
Hùng
Vương
đã giúp đỡ và tạo điều kiện
cho
tôi
được tiếp tục
giảng
dạy bộ môn này
ơ û
khối lớp
6, 7
để tôi hoàn thành được việc nghiên cứu, trải nghiệm
và đúc kết thành
công
ở
đề tài
này.
Rất
mong
sự góp ý,
trao
đổi của quý thầy,
cô v
a ø
Hội đồng giám khảo các cấp
để tôi có thêm
cơ
sở
lí
luận và thực tiễn hầu bổ
sung,
cải tiến và hoàn thiện
hơn SKKN
này
trong
thời
gian
tới./.