Tải bản đầy đủ (.pdf) (106 trang)

nghiên cứu, đánh giá tiềm năng và đề xuất giải pháp phát triển du lịch sinh thái vườn quốc gia ba bể

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (919.61 KB, 106 trang )

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM




TRƯƠNG THỊ HƯỜNG




NGHIÊN CỨU, ĐÁNH GIÁ TIỀM NĂNG VÀ ĐỀ
XUẤT GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN DU LỊCH SINH
THÁI VƯỜNG QUỐC GIA BA BỂ


LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP

Chuyên ngành : Khoa học môi trường
Mã số : 60 85 02




Người hướng dẫn khoa học : TS. Phí Hùng Cường









Thái Nguyên, năm 2011

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong nhiều thập kỷ vừa qua, đặc biệt là từ những năm 1950 trở lại đây, du
lịch toàn cầu đã phát triển nhanh chóng với tốc độ tăng trưởng bình quân về lượng
khách là 6,9%/năm; về doanh thu là 11,8%/năm [41] và đã trở thành một trong
những ngành kinh tế hàng đầu thế giới.
Đối với nhiều quốc gia, khu vực, du lịch đã trở thành ngành kinh tế mang
tính đột phá, đồng thời cũng đóng vai trò là một ngành kinh tế có nhiều đóng góp
cho việc bảo vệ môi trường (BVMT), thúc đẩy phát triển các vấn đề an sinh xã hội
cho cộng đồng dân cư địa phương. Tuy nhiên, việc quy hoạch, khai thác và phát triển
du lịch, nhiều lúc, nhiều nơi còn chưa hợp lý không những không khai thác hết được
tiềm năng của các dạng tài nguyên du lịch mà còn có những tác động không tốt đến
môi trường và cuộc sống của cộng đồng dân cư địa phương. Do vậy, trong những
thập kỷ gần đây, vấn đề đặt ra cho các địa phương cũng như các quốc gia đối với việc
phát triển kinh tế, trong đó có du lịch phải gắn với việc BVMT và đảm bảo an sinh xã
hội, phát triển phải đi theo hướng bền vững. Trong đó, việc xác định tiềm năng để
phát triển du lịch sinh thái (DLST) dựa vào cộng đồng là một nhiệm vụ cấp thiết.
Việt Nam có điều kiện địa lý và tiềm năng du lịch phong phú, hấp dẫn về vẻ
đẹp sinh thái tự nhiên, nền văn hóa đa dạng và truyền thống lịch sử lâu đời. Được
đánh giá là một ngành kinh tế mũi nhọn, có khả năng cạnh tranh cao, du lịch Việt

Nam đã tích cực hội nhập và đạt được những kết quả đáng khích lệ. Du lịch là một
trong ít ngành kinh tế ở nước ta mạng lại nguồn thu trên 2 tỷ USD/năm. Hơn 10
năm trước, du lịch Việt Nam đứng vào hàng thấp nhất khu vực, nhưng đến nay
khoảng cách này được rút ngắn, đã đuổi kịp và vượt Philippin, chỉ còn đứng sau
Malaysia, Singapore, Thái Lan và Indonesia. Theo Tổ chức du lịch thế giới thuộc
Liên hợp quốc (UNWTO), hiện nay Việt Nam là một trong những nước có tốc độ
tăng trưởng du lịch cao nhất khu vực và thế giới. [51]

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

2
Vườn quốc gia (VQG) Ba Bể nằm ở phía Bắc của tỉnh Bắc Kạn, có tiềm
năng đất đai, khí hậu và tài nguyên động thực vật đa dạng và phong phú. Nơi đây
từng được chọn làm nơi nghỉ mát, vui thú của quan lại, thực dân thời Pháp thuộc.
Tuy nhiên, vấn đề quan trọng là việc quan tâm đầu tư, khai thác các thế mạnh của
Vườn còn chưa tương xứng với tiềm năng hiện có.
Vì vậy, để đạt được những mục tiêu phát triển kinh tế bền vững của tỉnh
Bắc Kạn trong tổng thể kinh tế - xã hội của cả nước, việc “Nghiên cứu, đánh
giá tiềm năng và đề xuất giải pháp phát triển du lịch sinh thái Vườn quốc gia
Ba Bể”nhằm đảm bảo hài hoà giữa phát triển nhanh, hiệu quả và lâu bền, xoá
đói giảm nghèo, nâng cao dân trí và thể lực của nhân dân và cải thiện môi trường
là rất cần thiết.
2. Mục đích nghiên cứu
Vận dụng có chọn lọc cơ sở lý luận và thực tiễn về phát triển du lịch trên thế
giới và Việt Nam vào địa bàn VQG Ba Bể nhằm đánh giá tiềm năng và đưa ra các
giải pháp cho phát triển DLST ở VQG Ba Bể. Góp phần tôn tạo, khai thác có hiệu
quả tài nguyên, BVMT, phát triển cộng đồng, bảo tồn và phát huy các giá trị văn
hóa truyền thống.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tổng quan các công trình, các hướng nghiên cứu về phát triển DLST trên

thế giới và Việt Nam. Vận dụng nghiên cứu vào phát triển DLST VQG Ba Bể.
- Nghiên cứu, phân tích, đánh giá tiềm năng và hiện trạng hoạt động DLST
tại khu vực VQG Ba Bể.
- Đề xuất một số định hướng khai thác hiệu quả các tiềm năng phát triển
DLST phù hợp với lãnh thổ VQG Ba Bể.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

3
4. Yêu cầu của đề tài
- Các nguồn số liệu điều tra, thu thập phải đảm bảo độ chính xác, đầy đủ và
phản ánh đúng thực tế vấn đề cần nghiên cứu.
- Quá trình đánh giá phải khách quan, dựa trên những số liệu thu thập,
tổng hợp được.
- Các đề xuất đưa ra phải có tính khả thi cao, phù hợp với điều kiện thực tế
địa phương.
5. Ý nghĩa của đề tài
5.1. Ý nghĩa khoa học
Kết quả nghiên cứu làm sáng tỏ được tiềm năng tự nhiên, tài nguyên, thực
trạng hoạt động DLST tại VQG Ba Bể. Những vấn đề lý luận và thực tiễn nghiên
cứu sẽ góp phần hoàn thiện về mặt phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu,
sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên ứng dụng cho một khu vực cụ thể.
5.2. Ý nghĩa thực tiễn
Những định hướng và giải pháp phát triển được đề xuất, các mô hình kinh tế
sinh thái được xây dựng sẽ góp phần cho việc xác lập chiến lược phát triển KT –
XH, BVMT cho khu vực nghiên cứu.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

4

Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Tổng quan tài liệu nghiên cứu về du lịch sinh thái
1.1.1. Trên thế giới
“DLST là một loại hình du lịch có nguồn gốc từ du lịch thiên nhiên, được
xem như một phương pháp hữu hiệu nhằm thỏa mãn lòng khao khát cháy bỏng của
con người đến với thiên nhiên, gắn BVMT tự nhiên với phát triển bền vững.” [39]
Khi con người bắt đầu quan tâm về vấn đề BVMT, cũng là lúc DLST được
nhắc tới ngày càng nhiều hơn, nhất là từ sau hội nghị thượng đỉnh về môi trường tổ
chức tại Thụy Điển năm 1972. Nhưng nó chỉ thực sự được nghiên cứu vào thập kỷ
80 của thế kỷ XX, DLST đã được Hector Ceballos Lascurain – một nhà nghiên cứu
tiên phong về loại hình du lịch này đưa ra định nghĩa đầu tiên vào năm 1987 – đã
thu hút sự quan tâm của nhiều người trên phạm vi toàn thế giới. Năm 1990, hiệp hội
DLST Quốc tế được thành lập. Ở phạm vi quốc gia, một số nước cũng đã thành lập
hiệp hội DLST quốc gia như: Brazil, Úc, Vênêzuêla…
Hiện nay trên thế giới đã có rất nhiều tài liệu, công trình nghiên cứu DLST
mang tính lý thuyết cũng như thực tiễn cao như: Ecotourism: Principles, practices &
policies for sustainability; Tourism planning; Ecotourism planning for protected areas;
The sustainability of ecotourism in Indonesia; Ecotourism and deverlopment, … hầu
hết các tài liệu này đều đã đưa ra các quan điểm, các nguyên tắc về DLST. Tuy nhiên
tùy thuộc vào mục tiêu, đối tượng khai thác du lịch và tùy từng quốc gia mà có quan
niệm khác nhau, nhưng nhìn chung, các tác giả đều cho rằng DLST là một loại hình
du lịch tối ưu, đảm bảo thực hiện được hai chức năng: phát triển và bảo tồn.
Các quốc gia đứng đầu về DLST hiện nay là Australia, New Zealand, Thụy
Điển, Đan Mạch, Thụy Sỹ, Canada, Hoa Kỳ, ở khu vực Đông Nam Á có Mailaisia,
Mianma… Do nhu cầu đặc biệt cho chăm sóc sức khỏe con người về thể chất, tinh
thần, nâng cao nhận thức về thiên nhiên, cũng như BVMT cho người dân trên toàn
cầu, Đại hội đồng Liên Hợp Quốc đã lấy năm 2002 là “Năm Quốc tế DLST” nhằm
tôn vinh ý nghĩa quan trọng của DLST, những ảnh hưởng và các lợi ích mà DLST
mang lại đối với vấn đề BVMT.


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

5
1.1.2. Tại Việt Nam
DLST mới được nghiên cứu từ giữa thập kỷ 90 của thế kỷ XX. Vào năm
1995, một dự án thí điểm đầu tiên nằm trong khuôn khổ hợp tác Quốc tế về nghiên
cứu, lập quy hoạch cho những cơ hội phát triển du lịch thám hiểm thiên nhiên ở
Việt Nam. Với các nhà chuyên môn New Zealand, đây là tiền đề của DLST ở Việt
Nam. Từ đó, ta có các chương trình xây dựng quy hoạch phát triển DLST với công
cụ có giá trị. Những đề tài, công trình đã tiếp cận với lĩnh vực du lịch liên quan đến
môi trường và con người như: Tài nguyên môi trường và du lịch Việt Nam; Quy
hoạch du lịch bền vững; Chiến lược quốc gia về phát triển DLST tại Việt Nam;…
Nhìn chung, các công trình này đều mang tính chất định hướng, lý thuyết cao, tính
thực tiễn còn hạn chế, hiệu quả áp dụng không cao.
Trong nhiều hội thảo đã tiến hành thảo luận về lợi ích cũng như ảnh hưởng
của DLST đối với BVMT đã được tổ chức như: Hội thảo về DLST với phát triển du
lịch bền vững ở Việt Nam (1998), Hội thảo Quốc gia về xây dựng chiến lược phát
triển DLST ở Việt Nam (1999), Hội thảo khoa học về phát triển DLST trong khu dự
trữ sinh quyển “cơ hội và thách thức” (2004)…
Với tiềm năng DLST mà thiên nhiên ban tặng, Việt Nam tiến hành quy
hoạch DLST trên quy mô toàn quốc dựa trên tiềm năng của các rừng đặc dụng mà
tiêu biểu là các VQG: Ba Bể, Ba Vì, Bái Tử Long, Bạch Mã, Côn Đảo, Phong Nha,
Tam Đảo, U Minh Thượng… [20]
VBG Ba Bể được xếp là một trong 20 thắng cảnh đẹp nhất Việt Nam [30,
31] nhưng do nằm cách xa các khu trung tâm kinh tế, hành chính, văn hóa của cả
nước; việc đi lại gặp nhiều khó khăn nên chưa thu hút được khách du lịch cũng như
sự quan tâm của các nhà đầu tư. Trong những năm gần đây, điều kiện vật chất, giao
thông đi lại được cải thiện, VQG Ba Bể đã bắt đầu thu hút được sự chú ý của các
nhà đầu tư, của khách du lịch và của các nhà khoa học. Nhiều công trình nghiên cứu

khoa học đã và đang được tiến hành trong khu vực, bao gồm: Luận chứng kinh tế -
kỹ thuật VQG Ba Bể; Điều tra, đánh giá hiện trạng môi trường, đề xuất giải pháp
khai thác hợp lý phục vụ phát triển KT - XH và BVMT vùng hồ VQG Ba Bể;

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

6
Nghiên cứu vùng đệm và đề xuất một số giải pháp phát triển bền vững ở VQG Ba
Bể; Nghiên cứu KT - XH, nguyên nhân sâu xa của sự suy giảm đa dạng sinh học
(ĐDSH) ở hai vùng khác nhau của Việt Nam, nghiên cứu mẫu ở khu vực VQG Ba
Bể và KBTTN Na Hang ở phía Bắc và VQG Yok Don ở Tây Nguyên; Quy hoạch
phát triển nông – lâm nghiệp và nông thôn huyện Ba Bể giai đoạn 1999 – 2010; …
Xuất phát từ nhu cầu thực tiễn và kế thừa các thành tựu nghiên cứu của các nhà
khoa học đi trước trong lĩnh vực DLST về cơ sở lý luận, cơ sở thực tiễn, luận văn
giải quyết một cách có hệ thống mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn về vấn đề này
và vận dụng vào nghiên cứu trong điều kiện khu vực VQG Ba Bể.
1.2. Các vấn đề cơ bản về du lịch sinh thái
1.2.1. Khái niệm về du lịch sinh thái
1.2.1.1. Du lịch
Trên thế giới, khái niệm du lịch được đưa ra từ rất sớm, với rất nhiều khái
niệm khác nhau. Các định nghĩa truyền thống chỉ xem du lịch đơn giản như một kỳ
nghỉ hoặc một chuyến đi để giải trí, làm phong phú thêm nhận thức của con người.
Theo Dowling & Weiler “Du lịch là sự di chuyển tạm thời của người dân
đến ngoài nơi ở và làm việc của họ, là những hoạt động xảy ra trong quá trình lưu
lại nơi đến và các cơ sở vật chất tạo ra để đáp ứng những nhu cầu của họ” [41]
Hay trong định nghĩa của Pirojnik, một nhà địa lý người Belarus đã đưa ra định
nghĩa về du lịch mà trong đó không dùng tới cụm từ di chuyển tạm thời, một trong
những yếu tố để phân biệt một chuyến di chuyển bình thường với một chuyến du
lịch là sử dụng thời gian nhàn rỗi: “Du lịch là một dạng hoạt động của dân cư trong
thời gian nhàn rỗi có liên quan đến sự di cư và lưu trú tạm thời ngoài nơi ở thường

xuyên nhằm mục đích phát triển thể chất và tinh thần, nâng cao trình độ nhận thức
vằn hóa hoặc hoạt động thể thao kèm theo việc tiêu thụ những giá trị về tự nhiên,
kinh tế, văn hóa và dịch vụ”. [8]
Định nghĩa của Tổ chức Du lịch thế giới đã xác định rõ: “Du lịch là hoạt
động của con người ngoài nơi cư trú của mình nhằm thỏa mãn nhu cầu tham quan,
giải trí, nghỉ dưỡng trong một khoảng thời gian nhất định”. [38]

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

7
Ở Việt Nam khái niệm du lịch được định nghĩa chính thức trong Luật Du lịch
(2005): “Du lịch là các hoạt động có liên quan đến chuyến đi của con người ngoài
nơi cư trú thường xuyên của mình nhằm đáp ứng nhu cầu tham quan, tìm hiểu, giải
trí, nghỉ dưỡng trong một khoảng thời gian nhất định”. [14]
Tóm lại, du lịch là hoạt động mang tính không thường xuyên của con người
ở ngoài nơi công tác và nơi cư trú, diễn ra vào thời gian rảnh rỗi, nhằm mục đích
tham quan, vui chơi giải trí, phục hồi sức khỏe đồng thời nâng cao nhận thức về thế
giới xung quanh. Tác động của du lịch đến địa bàn hoạt động du lịch là trên mọi
khía cạnh và tùy thuộc từng loại hình du lịch cụ thể. Ngược lại thì địa bàn lại quy
định sự có mặt của các loại hình du lịch.
1.2.1.2. Tài nguyên du lịch
“Tài nguyên du lịch là các thành phần và các tổ hợp khác nhau của cảnh
quan tự nhiên, công trình lao động sáng tạo của con người và các giá trị nhân văn
khác được sử dụng nhằm thỏa mãn nhu cầu du lịch, là yếu tố cơ bản để hình thành
các điểm du lịch, tuyến du lịch, khu du lịch, đô thị du lịch…” [14]
Tài nguyên du lịch được chia làm hai dạng là tài nguyên du lịch tự nhiên và
tài nguyên du lịch nhân văn. Các tài nguyên này có thể đang được khai thác hoặc
chưa khai thác. Mức độ khai thác tiềm năng tài nguyên DLST phụ thuộc nhiều yếu
tố: khả năng nghiên cứu và đánh giá các tiềm năng tài nguyên vốn còn tiềm ẩn, yêu
cầu phát triển các sản phẩm DLST, trình độ phát triển khoa học công nghệ tạo các

phương tiện khai thác tiềm năng tài nguyên…
Tài nguyên du lịch tự nhiên gồm các yếu tố địa chất, địa mạo, địa hình, khí
hậu, thủy văn, sinh vật, hệ sinh thái (HST), cảnh quan thiên nhiên, di sản thiên
nhiên có thể được sử dụng trực tiếp hoặc gián tiếp để phục vụ mục đích du lịch.
Tài nguyên du lịch nhân văn là nhóm tài nguyên có nguồn gốc nhân tạo do
con người sáng tạo ra. Bao gồm truyền thống văn hóa, văn nghệ dân gian, di tích
lịch sử cách mạng, khảo cổ, kiến trúc, các công trình lao động sáng tạo của con
người và các di sản văn hóa vật thể, phi vật thể khác có thể được sử dụng vào mục
đích du lịch. [17, 29]

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

8
Tài nguyên du lịch được xem như là tiền đề để phát triển du lịch. Thực tế cho
thấy, tài nguyên du lịch càng phong phú, càng đặc sắc bao nhiêu thì sức hấp dẫn và
hiệu quả hoạt động du lịch càng cao bấy nhiêu. Và nơi nào có tài nguyên du lịch
phong phú thì sẽ có điều kiện thuận lợi để tổ chức nhiều loại hình du lịch với nhiều
sản phẩm du lịch có giá trị đáp ứng nhu cầu của khách du lịch.
1.2.1.3. Du lịch sinh thái
DLST được hiểu trên nhiều khía cạnh khác nhau dưới các tên gọi khác nhau:
Du lịch thiên nhiên (Nature tourism), du lịch môi trường (Environmental tourism),
du lịch đặc thù ( Particular tourism), du lịch xanh (Green tourism), du lịch thám
hiểm (Adventure tourism), du lịch bản xứ (Indigenuos tourism), du lịch có trách
nhiệm (Responsible tourism), du lịch nhạy cảm (Senditized tourism), Du lịch bền
vững (Sustainable tourism)… [16]
Định nghĩa tương đối hoàn chỉnh về DLST lần đầu tiên được Hector
Ceballos- Lascurain đưa ra năm 1987: “DLST là du lịch đến những khu vực tự
nhiên còn ít bị thay đổi, với những mục đích đặc biệt: Nghiên cứu, tham quan với ý
thức trân trọng thế giới hoang dã và những giá trị văn hoá được khám phá”. Được
biểu diễn bằng sơ đồ sau:












Nguồn: [8]
Hình 1.1: Sơ đồ cấu trúc du lịch sinh thái

DU LỊCH
SINH THÁI
DU LỊCH
Du lịch hỗ trợ bảo
tồn & phát triển cộng
đồng
Du lịch được quản
lý bền vững
Du lịch có giáo
dục môi trường
Du lịch thiên nhiên

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

9
Năm 1991, theo Megan Epler Wood: “DLST là du lịch đến các khu vực còn

tương đối hoang sơ với mục đích tìm hiểu về lịch sử môi trường và văn hoá mà
không làm thay đổi sự toàn vẹn của các HST. Đồng thời tạo những cơ hội về kinh tế
để ủng hộ việc bảo tồn tự nhiên và mang lại lợi ích cho người dân địa phương”. [43]
Theo Lindberg, K. and Hawkins, 1993: “DLST được phân biệt với các loại
hình du lịch thiên nhiên khác về mức độ giáo dục cao đối với môi trường và sinh
thái, thông qua những hướng dẫn viên có nghiệp vụ lành nghề. DLST tạo mối quan
hệ giữa con người và thiên nhiên hoang dã cùng với ý thức được giáo dục để biến
bản thân du khách thành những người đi đầu trong công tác BVMT. Phát triển
DLST sẽ làm giảm thiểu tác động của khách du lịch đến văn hoá và môi trường,
đảm bảo cho địa phương được hưởng nguồn lợi tài chính cho du lịch mang lại và
chú trọng đến những đóng góp tài chính cho việc bảo tồn thiên nhiên”. [13].
Định nghĩa của Hiệp hội DLST quốc tế: “ DLST là việc đi lại có trách
nhiệm tới các khu vực thiên nhiên mà bảo tồn được môi trường và cải thiện phúc
lợi cho người dân địa phương”. [20]
DLST (ecotourism) được xem như một quan điểm phát triển du lịch bền
vững, đảm bảo thực hiện chức năng phát triển kinh tế và bảo tồn[1, 16]. Ngoài ý
nghĩa góp phần bảo tồn tự nhiên, bảo vệ ĐDSH và văn hóa cộng đồng, phát triển
DLST mang lại những nguồn lợi to lớn về mặt kinh tế, tạo cơ hội tăng thêm việc làm
và nâng cao thu nhập, dân trí và sức khỏe cộng đồng dân cư địa phương thông qua
GDMT, văn hóa, lịch sử và nghỉ ngơi giải trí.
Ở Việt Nam, tại Hội thảo quốc gia về “Xây dựng chiến lược phát triển
DLST ở Việt Nam” từ ngày 7 đến 9-9-1999 cũng đã định nghĩa: “DLST là loại
hình du lịch dựa vào thiên nhiên và văn hoá bản địa, gắn với giáo dục môi trường,
có đóng góp cho nỗ lực bảo tồn và phát triển bền vững, với sự tham gia tích cực
của cộng đồng địa phương”. [8]
Cho dù khái niệm về DLST còn có nhiều quan điểm chưa thống nhất, song
dựa trên những điểm chung từ các định nghĩa về DLST trên thế giới, Tổ chức du
lịch thế giới đưa ra những đặc điểm cơ bản về định nghĩa về DLST như sau:

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


10
- DLST bao gồm tất cả những hình thức du lịch dựa vào thiên nhiên mà ở đó
mục đích chính của khách du lịch là tham quan tìm hiểu về tự nhiên cũng như giá
trị văn hóa truyền thống ở các vùng thiên nhiên đó.
- DLST phải bao gồm những hoạt động giáo dục và diễn giải về môi trường.
- Thường DLST được các tổ chức chuyên nghiệp và doanh nghiệp có quy
mô nhỏ ở nước sở tại tổ chức cho các nhóm nhỏ du khách. Các công ty lữ hành
nước ngoài có quy mô khác nhau cũng có thể tổ chức, điều hành hoặc quảng cáo
các tour DLST cho các nhóm du khách có số lượng hạn chế.
- DLST hạn chế đến mức thấp nhất các tác động đến môi trường tự nhiên và
văn hóa – xã hội.
- DLST có sự hỗ trợ cho hoạt động bảo tồn tự nhiên bằng cách:
+ Tạo những lợi ích về kinh tế cho địa phương, các tổ chức và chủ thể quản
lý, với mục đích bảo tồn các khu tự nhiên đó.
+ Tạo ra các cơ hội về việc làm và tăng thu nhập cho cộng đồng địa phương.
+ Tăng cường nhận thức của cả du khách và người dân địa phương về sự
cần thiết phải bảo tồn các giá trị tự nhiên và văn hóa. [20].
1.2.2. Nguyên tắc, yêu cầu và đặc trưng của du lịch sinh thái
1.2.2.1. Các nguyên tắc cơ bản của du lịch sinh thái
Những nguyên tắc để đảm bảo phát triển DLST không tách rời những nguyên
tắc chung cho phát triển bền vững. Du lịch là một ngành kinh tế tổng hợp có định
hướng tài nguyên rõ rệt và có nội dung văn hóa sâu sắc, có tính liên ngành, liên
vùng và xã hội hóa cao. Chính vì vậy sự phát triển DLST đòi hỏi có sự nỗ lực chung
và đồng bộ của toàn xã hội. Phát triển DLST cần hướng tới việc đảm bảo đạt được 3
mục tiêu cơ bản sau:
- Đảm bảo sự phát triển bền vững về kinh tế: đảm bảo sự tăng trưởng, phát triển
ổn định lâu dài về mặt kinh tế của du lịch, góp phần tích cực vào phát triển kinh tế
của quốc gia và cộng đồng.
- Đảm bảo sự bền vững về tài nguyên và môi trường: thể hiện ở việc sử dụng

hợp lý các tiềm năng tài nguyên và điều kiện môi trường. Việc khai thác, sử dụng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

11
tài nguyên du lịch cho phát triển cần được quản lý sao cho không chỉ thỏa mãn nhu
cầu hiện tại mà còn đảm bảo cho nhu cầu phát triển du lịch qua nhiều thế hệ. Bên
cạnh đó trong quá trình phát triển, các tác động của hoạt động du lịch đến môi
trường sẽ được hạn chế đi đôi với những đóng góp cho các nỗ lực tôn tạo tài
nguyên, BVMT.
- Đảm bảo sự bền vững về xã hội : theo đó sự phát triển du lịch có những đóng
góp cụ thể cho phát triển xã hội, đảm bảo sự công bằng trong phát triển.
Để đảm bảo đạt được 3 mục tiêu cơ bản trên, phát triển DLST cần tuân thủ
các nguyên tắc cụ thể sau:
a. Khai thác, sử dụng các nguồn tài nguyên một cách hợp lý
Sự phát triển bền vững nói chung và phát triển DLST nói riêng cần đảm bảo
việc lưu lại cho thế hệ tương lai nguồn tài nguyên không kém hơn so với những gì
mà các thế hệ trước được hưởng. Điều này có nghĩa là trong quá trình khai thác sử
dụng các nguồn tài nguyên cần phải tính đến các giải pháp nhằm ngăn chặn sự mất
đi của các loại sinh vật, sự suy giảm những chức năng thiết yếu của các HST có giá
trị du lịch như các khu rừng nguyên sinh, các vùng đất ngập nước, các rạn san hô
và khả năng bảo tồn các giá trị văn hóa truyền thống dân tộc. Điều này cũng còn có
nghĩa là tài nguyên và môi trường du lịch cần được hiểu đó không phải là "hàng hóa
cho không" mà phải được tính vào chi phí đầu vào của sản phẩm du lịch để có được
nguồn đầu tư cần thiết cho việc bảo tồn và tái tạo tài nguyên, kiểm soát và ngăn
chặn sự xuống cấp môi trường. Duy trì hoạt động du lịch trong giới hạn "sức chứa"
(Carrying Capacity) được xác định.
Khái niệm "Sức chứa" ở đây cần được hiểu từ 5 khía cạnh: vật lý, sinh học, tâm
lý, xã hội và quản lý. Trên quan điểm bảo vệ tài nguyên, môi trường đảm bảo cho phát
triển bền vững, khái niệm "sức chứa" cần được hiểu từ khía cạnh sinh học và xã hội.

b. Hạn chế việc sử dụng quá mức tài nguyên và giảm thiểu chất thải ra môi trường
Việc khai thác sử dụng quá mức tài nguyên và không kiểm soát được lượng chất
thải từ hoạt động du lịch sẽ góp phần dẫn đến sự suy thoái môi trường mà hậu quả của
nó là sự phát triển không bền vững của du lịch nói riêng và KT - XH nói chung.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

12
Đối với một số loại tài nguyên như nước, rừng hoạt động du lịch đòi hỏi
nhu cầu cao. Ví dụ nhu cầu nước sinh hoạt cho một người dân trung bình là 50
lít/ngày, song nhu cầu này đối với khách du lịch trung bình gấp 4 lần, thậm chí là 10
lần. Mỗi sân golf trung bình tiêu thụ 1 lượng nước ngầm để tưới cỏ là 3000m
3
/ngày.
Chính vì vậy ở nhiều khu du lịch ở Gam bia, Thái Lan v.v tình trạng thiếu nước
sinh hoạt là nghiêm trọng, trong khi nguồn nước thải từ các khu du lịch đó lại rất
lớn gây ô nhiễm đất và nguồn nước.
c. Phát triển phải gắn liền với nỗ lực bảo tồn tính đa dạng
Tính đa dạng về thiên nhiên, về văn hóa và xã hội là nhân tố đặc biệt quan
trọng tạo nên sự hấp dẫn của du lịch, làm thỏa mãn nhu cầu đa dạng của khách du
lịch, tăng cường sự phong phú về sản phẩm du lịch. Nơi nào có tính đa dạng cao về
tự nhiên, văn hóa và xã hội, nơi đó sẽ có khả năng cạnh tranh cao về du lịch và có
sức hấp dẫn lớn, đảm bảo cho sự phát triển. Chính vì vậy việc duy trì và tăng cường
tính đa dạng thiên nhiên, văn hóa và xã hội là hết sức quan trọng cho sự phát triển
bền vững lâu dài của du lịch và cũng là chỗ dựa sinh tồn của ngành du lịch.
Du lịch cũng góp phần bảo tồn các giá trị văn hóa bằng việc khích lệ các hoạt
động văn hóa dân gian, thúc đẩy việc sản xuất các hàng truyền thống, chia sẻ lợi ích
từ nguồn thu cho việc tôn tạo, bảo vệ các di tích lịch sử văn hóa Du lịch còn tạo
thêm công ăn việc làm, góp phần làm đa dạng hóa xã hội. Tuy nhiên trong quá trình
phát triển của mình, bên cạnh những đóng góp tích cực vào quá trình bảo tồn tính đa

dạng, hoạt động du lịch cũng dễ làm tổn hại đến nó nếu không được quản lý và
giám sát có hiệu quả.
Sự đa dạng văn hóa bản địa cũng bị đe dọa khi người dân bản địa biến nó
thành hàng hóa bán cho khách du lịch. Việc tiêu chuẩn hóa các sản phẩm văn hóa
để phục vụ khách đang làm mất đi nhiều giá trị văn hóa đặc sắc độc đáo riêng của
địa phương. Tính đa dạng văn hóa cũng sẽ bị ảnh hưởng khi cộng đồng địa phương
có những điều chỉnh hóa văn hóa bản địa riêng của mình để đáp ứng thị hiếu theo nhu
cầu của khách và điều này còn thường dẫn tới sự điểu chỉnh về tinh thần "phục vụ".

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

13
Sự đa dạng của hệ thống xã hội và hệ thống sinh thái của một vùng hay ở
một địa phương cũng sẽ bị ảnh hưởng khi các ngành nghề truyền thống ít thu nhập
như đánh bắt cá, canh tác nông nghiệp bị những công việc dịch vụ du lịch có thu
nhập cao hơn lấn át và theo thời gian những nghề này sẽ dần bị mất đi nhường chỗ
cho một số nghề "độc tôn".
d. Phát triển du lịch phải phù hợp với quy hoạch tổng thể kinh tế - xã hội
Du lịch là ngành kinh tế tổng hợp có tính liên ngành, liên vùng cao vì vậy
mọi phương án khai thác tài nguyên để phát triển phải phù hợp với các quy hoạch
chuyên ngành nói riêng và quy hoạch tổng thể KT - XH nói chung ở phạm vi quốc
gia, vùng và địa phương. Ngoài ra, đối với mỗi phương án phát triển cần tiến hành
đánh giá tác động môi trường nhằm hạn chế các tác động tiêu cực đến tài nguyên và
môi trường. Điều này sẽ góp phần đảm bảo cho sự phát triển bền vững của du lịch
trong mối quan hệ với các ngành kinh tế khác cũng như với việc sử dụng có hiệu
quả tài nguyên, đảm bảo môi trường.
e. Chú trọng việc chia sẻ lợi ích với cộng đồng địa phương trong quá trình phát triển
Để phát triển KT - XH nói chung và từng ngành kinh tế nói riêng việc khai
thác các tiềm năng tài nguyên là điều tất yếu. Tuy nhiên, thực tế cho thấy trên một địa
bàn lãnh thổ nếu mỗi ngành chỉ biết đến lợi ích của mình không có sự hỗ trợ đối với

sự phát triển kinh tế và chia sẻ quyền lợi với cộng đồng địa phương thì sẽ làm cho
kinh tế và cuộc sống người dân địa phương gặp nhiều khó khăn, kém phát triển. Điều
này buộc cộng đồng địa phương phải khai thác tối đa các tiềm năng tài nguyên của
mình làm đẩy nhanh quá trình cạn kiệt tài nguyên và tổn hại đến môi trường sinh thái.
Kết quả các quá trình đó sẽ gây những tác động tiêu cực đến sự phát triển bền vững
của ngành du lịch nói riêng và KT - XH nói chung. Chính vì vậy việc chia sẻ lợi ích
với cộng đồng địa phương là một nguyên tắc quan trọng trong phát triển bền vững.
Bên cạnh đó, việc chia sẻ lợi ích với cộng đồng địa phương còn được thể
hiện thông qua những chi phí cần thiết từ nguồn thu du lịch cho việc bảo tồn tài
nguyên và duy trì môi trường. Điều này sẽ góp phần đảm bảo cho sự phát triển KT -
XH của địa phương nói riêng và sự phát triển bền vững nói chung của lãnh thổ.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

14
f. Khuyến khích sự tham gia của cộng đồng địa phương vào các hoạt động phát
triển du lịch
Kinh nghiệm thực tế về phát triển du lịch ở nhiều nước cho thấy sự tham
gia của địa phương là cần thiết bởi bản thân người dân địa phương, nền văn hóa,
môi trường, lối sống và truyền thống của họ là những nhân tố quan trọng thu hút
khách du lịch.
g. Chú trọng việc đào tạo nâng cao nhận thức về tài nguyên môi trường
Đối với bất kỳ sự phát triển nào, con người luôn đóng vai trò quyết định. Một
lực lượng lao động được đào tạo có trình độ nghiệp vụ không những đem lại lợi ích
về kinh tế cho ngành mà còn nâng cao chất lượng sản phẩm du lịch. Sự phát triển
bền vững đòi hỏi ở đội ngũ những người thực hiện không chỉ trình độ nghiệp vụ mà
còn nhận thức đúng đắn về tính cần thiết của việc bảo vệ tài nguyên và môi trường.
Việc đào tạo đúng hướng sẽ tạo cho đội ngũ cán bộ nhân viên thái độ chăm
lo, có trách nhiệm hơn với đất nước, văn hóa truyền thống, tôn giáo và lối sống
cũng như với tài nguyên môi trường. Để đảm bảo lợi ích lâu dài của ngành du lịch

việc sử dụng và đào tạo cán bộ nhân viên người địa phương là cần thiết bởi họ có
những hiểu biết sâu sắc hơn về tự nhiên, văn hóa bản địa cũng như mối quan tâm
nhiều hơn tới cộng động địa phương.
h. Tăng cường tính trách nhiệm trong hoạt động xúc tiến, quảng cáo du lịch
Xúc tiến, quảng cáo luôn là một hoạt động quan trọng đối với phát triển du
lịch, đảm bảo sự thu hút khách, tăng cường khả năng cạnh tranh của các sản phẩm
du lịch. Chiến lược quảng cáo, tiếp thị đối với DLST bao gồm việc xác định đánh
giá và luôn rà soát để xác định đúng khả năng đáp ứng của các nguồn tài nguyên du
lịch tự nhiên và nhân văn, cũng như việc cân đối các sản phẩm du lịch cụ thể.
Hoạt động quảng cáo, tiếp thị thiếu trách nhiệm sẽ tạo cho khách những hy
vọng không thực tế do thông tin không đầy đủ và thiếu chính xác dẫn đến sự thất
vọng của du khách về các sản phẩm du lịch được quảng cáo. Kết quả của hoạt động
này sẽ là thái độ tẩy chay của du khách đối với cộng đồng và những sản phẩm du lịch
của địa phương ảnh hưởng đến sự phát triển lâu dài của du lịch. Việc quảng cáo, tiếp

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

15
thị cung cấp cho khách du lịch những thông tin đầy đủ và có trách nhiệm sẽ nâng cao
sự tôn trọng của du khách đối với môi trường thiên nhiên, văn hóa và xã hội và các
giá trị nhân văn nơi tham quan, đồng thời sẽ làm tăng đáng kể sự thỏa mãn của khách
đối với các sản phẩm du lịch. Điều này sẽ góp phần làm giảm những tác động tiêu
cực từ hoạt động thu hút khách, đảm bảo cho tính bền vững trong phát triển du lịch.
i. Coi trọng việc thường xuyên tiến hành công tác nghiên cứu
Công tác nghiên cứu là yếu tố đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển của
bất cứ ngành kinh tế nào, đặc biệt là những ngành có nhiều mối quan hệ trong phát
triển và phụ thuộc vào nhiều điều kiện về tự nhiên, môi trường, văn hóa - xã hội
như ngành du lịch. Để đảm bảo cho sự phát triển bền vững cần có những căn cứ
khoa học vững chắc dựa trên việc nghiên cứu các vấn đề có liên quan. Hơn thế nữa,
trong quá trình phát triển nhiều yếu tố chủ quan và khách quan nảy sinh sẽ có những

tác động cần phải nghiên cứu để có những giải pháp phù hợp điều chỉnh sự phát
triển. Như vậy việc thường xuyên cập nhật các thông tin, nghiên cứu và phân tích
chúng là cần thiết, không chỉ đảm bảo cho hiệu quả của hoạt động kinh doanh mà
còn đảm bảo cho sự phát triển bền vững trong mối quan hệ với cơ chế chính sách,
với việc bảo vệ tài nguyên và môi trường
Những nguyên tắc cơ bản trên đây nếu được thực hiện đầy đủ sẽ là đảm bảo
chắc chắn cho sự phát triển bền vững của hoạt động du lịch, phát triển bền vững
chính là chìa khóa cho sự thành công lâu dài của ngành du lịch[11, 28, 42].
1.2.2.2. Các yêu cầu cơ bản
 Yêu cầu đầu tiên cần thiết để tổ chức được DLST là sự tồn tại của các HST
với sức hút cao. Đây là lý do DLST thường ở các khu bảo tồn tự nhiên, các VQG
nơi tồn tại những khu rừng với tính ĐDSH cao và cuộc sống hoang dã.
 Yêu cầu thứ hai liên quan đến những nguyên tắc cơ bản của DLST ở hai điểm:
- Đảm bảo tính giáo dục, nâng cao hiểu biết cho khách DLST, người hướng
dẫn viên ngoài kiến thức ngoại ngữ tốt còn phải là người am hiểu các đặc điểm sinh
thái tự nhiên và văn hóa cộng đồng địa phương.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

16
- Đối với hoạt động DLST đòi hỏi phải có người điều hành có nguyên tắc.
Các nhà điều hành du lịch truyền thống thường chỉ quan tâm đến lợi nhuận và
không có cam kết gì đối với việc bảo tồn hoặc quản lý các khu tự nhiên, các nhà
điều hành DLST phải có được sự cộng tác với các nhà quản lý thiên nhiên và cộng
đồng địa phương với mục đích đóng góp vào việc bảo vệ một cách lâu dài các giá
trị tự nhiên và văn hóa khu vực, cải thiện cuộc sống và nâng cao sự hiểu biết chung
giữa người dân địa phương với khách du lịch.
 Yêu cầu thứ ba nhằm để hạn chế tới mức tối đa các tác động có thể của
hoạt động DLST đến tự nhiên và môi trường, theo đó DLST cần được tổ chức
với sự tuân thủ chặt chẽ các quy định về “sức chứa”. “Sức chứa” được hiểu từ

bốn khía cạnh: vật lý - sinh học, tâm lý học, xã hội và mức độ quản lý. Tất cả
những khía cạnh này có liên quan đến lượng khách đến một địa điểm vào cùng
một thời điểm.
- Yếu tố vật lý - sinh học: Khía cạnh vật lý là số lượng khách thực tế mà
điểm đó có thể chứa. Khía cạnh sinh học là lượng khách tối đa mà nếu lớn hơn sẽ
vượt quá khả năng tiếp nhận của môi trường, làm xuất hiện các tác động sinh thái
do hoạt động của du khách và tiện nghi mà họ sử dụng gây ra.
- Khía cạnh tâm lý: sức chứa được hiểu là lượng khách mà nếu vượt quá
thì bản thân du khách sẽ bắt đầu cảm thấy hứng thú du lịch của mình bị ảnh
hưởng bởi sự có mặt của các du khách khác. Tác động này làm giảm đáng kể sự
hài lòng của du khách.
- Khía cạnh xã hội: sức chứa là giới hạn lượng khách du lịch mà tại đó bắt
đầu xuất hiện những tác động tiêu cực của hoạt động du lịch đến đời sống văn hóa –
xã hội, KT - XH của khu vực.
- Khía cạnh quản lý: là giới hạn lượng khách tới mà khu du lịch có thể phục
vụ, kiểm soát hoạt động của khách để không làm ảnh hưởng tới môi trường và xã hội.
 Yêu cầu thứ tư là thỏa mãn nhu cầu nâng cao hiểu biết của du khách. Nâng
cao hiểu biết về tự nhiên, văn hóa bản địa là rất khó khăn song là yêu cầu cần thiết
với sự tồn tại lâu dài của DLST. [16, 42]

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

17
1.2.2.3. Đặc trưng của du lịch sinh thái
Bao gồm cả các đặc trưng chung về du lịch và đặc trưng riêng chỉ có ở DLST
a. Đặc trưng của du lịch
 Tính đa ngành
Đặc trưng này được thể hiện ở đối tượng được khai thác phục vụ du lịch (Sự
hấp dẫn về cảnh quan tự nhiên, các giá trị văn hóa, cơ sở hạ tầng, dịch vụ đi kèm
khác…). Đồng thời thu nhập xã hội từ du lịch cũng mang lại nguồn thu cho nhiều

ngành kinh tế khác thông qua sản phẩm du lịch dịch vụ cung cấp cho khách du lịch
(điện, nước, nông sản, hàng hóa…).
 Tính đa thành phần
Biểu hiện rõ ở sự đa dạng của các bên tham gia vào DLST, bao gồm thành phần
khách du lịch, những người phục vụ du lịch, cộng đồng địa phương, các tổ chức phi
chính phủ, các tổ chức tư nhân…
 Tính đa mục tiêu
DLST mang lại lợi ích đa dạng về bảo tồn tự nhiên, cảnh quan lịch sử - văn hóa,
nâng cao chất lượng cuộc sống của khách du lịch và người tham gia hoạt động dịch
vụ du lịch, mở rộng giao lưu văn hóa, kinh tế, nâng cao ý thức trách nhiệm của mọi
thành viên trong xã hội.
 Tính liên vùng
Thể hiện qua các tuyến du lịch với một quần thể các điểm du lịch trong phạm vi
một khu vực, một quốc gia hay giữa các quốc gia.
 Tính mùa vụ
Hoạt động du lịch nói chung đều mang tính mùa vụ, làm cho cường độ diễn
ra các hoạt động du lịch tập trung cao vào một thời gian nào đó trong năm. Nhất
là du lịch biển, thể thao theo mùa hoặc vui chơi giải trí cuối tuần. Nó được hình
thành do nhiều nhân tố vừa tác động riêng rẽ vừa tác động đồng thời: thiên
nhiên, kinh tế, xã hội, tâm lý…

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

18
 Tính chi phí
Thể hiện ở chỗ là mục đích đi du lịch là hưởng thụ các sản phẩm du lịch chứ
không phải mục đích kiếm tiền.
 Tính xã hội
Việc thu hút toàn bộ mọi bộ phận trong xã hội tham gia trực tiếp hay gián tiếp
vào du lịch.

b. Những đặc trưng riêng của du lịch sinh thái
 Giáo dục cao về môi trường
DLST giúp con người tiếp cận gần gũi hơn với các vùng tự nhiên, các khu bảo
tồn, nơi có giá trị cao về ĐDSH và rất nhạy cảm về môi trường. Từ đó nâng cao
hiểu biết của người dân về những ảnh hưởng xấu mà họ có thể gây ra với môi
trường khi tham gia hoạt động du lịch. Do đó họ biết được cách hạn chế tới mức
thấp nhất những tác động tiêu cực tới môi trường. Nên có thể nói DLST là chìa
khóa cân bằng giữa phát triển du lịch với BVMT khi mà các hoạt động du lịch ngày
càng gây áp lực lớn tới môi trường.
 Góp phần bảo tồn nguồn tài nguyên thiên nhiên, duy trì ĐDSH
Với tính giáo dục cao, DLST hình thành và nâng cao ý thức trách nhiệm bảo
vệ các nguồn tài nguyên, thúc đẩy hoạt động bảo tồn đảm bảo phát triển bền vững.
 Thu hút sự tham gia của cộng đồng địa phương
Cộng đồng địa phương chính là chủ sở hữu các nguồn tài nguyên tại địa
phương mình. Việc thu hút và trao cho họ những quyền lợi sẽ giúp các nhà quản lý
tránh đưa ra các quyết định có thể dẫn tới xung đột với địa phương. Mặt khác khi
cộng đồng địa phương tham gia DLST, họ sẽ có cơ hội làm việc và các sản phẩm
dịch vụ của họ được du khách sử dụng. Do đó, mức độ lệ thuộc và khai thác tự
nhiên của họ sẽ giảm dần và nhận thức về giá trị của môi trường cũng được nâng
cao. Giải quyết được vấn đề này cũng chính là giảm được sức ép của cộng đồng địa
phương lên môi trường. [7]

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

19
1.3. Vƣờn quốc gia và du lịch sinh thái
1.3.1. Khái niệm về vườn quốc gia
VQG là một lãnh thổ tương đối rộng trên đất liền hay trên biển mà:
- Nơi có một hay vài HST không bị thay đổi lớn do sự khai thác hoặc chiếm
lĩnh của con người. Các loài động, thực vật, các đặc điểm hình thái, địa mạo và nơi

cư trú của các loài hoặc trong đó chứa đựng những cảnh quan thiên nhiên đẹp là
mối quan tâm cho nghiên cứu khoa học, cho giáo dục và giải trí.
- Nơi có ban quản lý thực hiện các biện pháp ngăn chặn hoặc loại bỏ sự khai thác
hoặc xâm chiếm của con người trên toàn bộ khu vực và thành công trong việc buộc
con người tôn trọng những đặc trưng về sinh thái, địa mạo hoặc thẩm mĩ của khu vực.
- Nơi cho phép khách du lịch đến thăm quan dưới những điều kiện nhất định,
để đáp ứng nguyện vọng cũng như cho các mục đích nghiên cứu, giáo dục, văn hóa,
giải trí (theo quy hoạch và sự quản lý của VQG và khu bảo tồn). [7, 42]
VQG được ưu tiên lựa chọn phát triển DLST vì có các đặc điểm sau:
- Có tính đại diện cao cho một hoặc vài HST điển hình, với tính ĐDSH cao,
có sự tồn tại của những loài sinh vật đặc hữu có giá trị khoa học và tham quan
nghiên cứu. Việc tham quan và nghiên cứu có khả năng tổ chức tốt trong những
điều kiện mà tự nhiên ít bị ảnh hưởng nhất.
- Gần các trục giao thông, sân bay nội địa và quốc tế hoặc các trung tâm đô
thị, có điều kiện tiếp cận dễ dàng và thuận lợi đối với nhiều đối tượng du khách.
- Có cảnh quan tự nhiên đẹp, hấp dẫn, nổi tiếng trong nước và quốc tế hoặc
có mối liên quan với các chứng tích lịch sử, văn hóa nổi tiếng của dân tộc.
- Gần với những điểm du lịch hấp dẫn khác trong vùng, để có thể tổ chức
một tour du lịch trọn gói mà trong đó có VQG là một điểm DLST quan trọng.
- Có điều kiện về hạ tầng cơ sở vật chất kỹ thuật đáp ứng hoạt động du lịch. [7]
1.3.2. Mối quan hệ giữa phát triển du lịch sinh thái và bảo tồn thiên nhiên
Mối quan hệ giữa phát triển DLST với bảo tồn tự nhiên không phải lúc nào
cũng theo một chiều đơn giản, mà là mối quan hệ qua lại mật thiết với nhau,
thường thể hiện ở 3 dạng theo sơ đồ sau:

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

20














Nguồn: [8]
Quan hệ cùng tồn tại (A): khi có rất ít mối quan hệ giữa hoạt động du lịch và
bảo tồn tự nhiên hoặc cả hai tồn tại một cách độc lập. Trường hợp này xảy ra khi
hoạt động du lịch mới phát triển, mức sử dụng tài nguyên còn thấp, ít ảnh hưởng
tới môi trường.
Quan hệ cộng sinh (B): trong đó cả du lịch và bảo tồn tự nhiên đều nhận
được những lợi ích từ mối quan hệ này và có sự hỗ trợ lẫn nhau. Đây là giai đoạn
phát triển tiếp theo, du lịch có mối quan hệ với bảo tồn theo hướng tích cực nếu
hoạt động du lịch được quản lý, quy hoạch phù hợp với các quy luật tự nhiên có lợi
cho bảo tồn tự nhiên và du lịch. Khi đó giá trị tự nhiên vẫn được bảo tồn, thậm chí
ở điều kiện tốt hơn trong khi chất lượng sản phẩm du lịch vẫn được đảm bảo, lợi
ích cho ngành du lịch và cho khu vực tăng cường.
Quan hệ mâu thuẫn (C): khi sự hiện diện của du lịch, nhất là du lịch đại
chúng, làm tổn hại đến nỗ lực bảo tồn tự nhiên. Trường hợp này xảy ra khi phát
triển du lịch với mục đích đơn thuần về lợi ích kinh tế, không quan tâm với công
tác bảo tồn.
(A)
DL &BT
độc lập với nhau

(C)
DL & BT
quan hệ mâu mâu
thuẫn





(B)
DL & BT
trong mối quan hệ
cộng sinh
DL
BT
DL: Phát triển du lịch
sinh thái
BT : Bảo tồn thiên nhiên
Tình trạng A có thể chuyển sang tình trạng B, từ đó có thể biến đổi
sang C, hoặc từ tình trạng A chuyển trực tiếp sang C
Hình 1.2: Các quan hệ giữa phát triển du lịch sinh thái và bảo tồn thiên nhiên

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

21
1.3.3. Lợi ích của du lịch mang lại cho vườn quốc gia
Các VQG có rất nhiều tiềm năng để phát triển du lịch đặc biệt là DLST,
VQG và DLST có mối quan hệ hữu cơ với nhau. Những lợi ích mà hoạt động
DLST có thể đem lại cho VQG bao gồm:
- Bảo tồn thiên nhiên: các nguồn thu từ hoạt động du lịch có khả năng tạo

một cơ chế tự hoạch toán tài chính cho VQG. Trong đó, có cả việc duy trì bảo tồn
các HST, các diện tích tự nhiên quan trọng, các khu bảo tồn, các VQG.
- Tăng cường chất lượng môi trường: du lịch có thể cung cấp những sáng
kiến cho việc làm sạch môi trường thông qua việc kiểm soát chất lượng nước,
không khí, đất, ô nhiễm tiếng ồn, thải rác và vấn đề môi trường khác. Du lịch còn
cải thiện các tiện nghi môi trường thông qua các chương trình quy hoạch cảnh
quan, thiết kế xây dựng và duy tu bảo dưỡng các công trình kiến trúc.
- Đề cao môi trường: việc phát triển các cơ sở du lịch được thiết kế tốt sẽ
nâng cao giá trị các cảnh quan đồng thời khuyến khích mở rộng vùng đất giáp ranh,
tạo điều kiện duy trì độ che phủ thực vật tự nhiên, tăng cường BVMT.
- Cải thiện hạ tầng cơ sở: các cơ sở hạ tầng địa phương như sân bay, đường
xá, hệ thống điện, nước, thông tin liên lạc, xử lý chất thải có thể được cải thiện
thông qua hoạt động du lịch.
- Tăng cường hiểu biết về môi trường của cộng đồng địa phương cũng như
là du khách thông qua việc trao đổi và học tập với nhau. Từ đó mọi người có nhận
thức tích cực hơn trong việc bảo tồn tài nguyên và môi trường.
- Lợi ích kinh tế: du lịch tạo nguồn thu nhập, ngân sách, giải quyết công ăn
việc làm, thu hút ngoại tệ… Điều đó giúp nâng cao mức sống của cộng đồng địa
phương, phát triển kinh tế địa phương, kinh tế vùng và quốc gia, từ đó giảm bớt
sức ép lên môi trường VQG.
- Giao lưu, trao đổi văn hóa giữa du khách và người địa phương, góp phần
làm phong phú thêm bản sắc văn hóa của cả hai phía cũng như sự hiểu biết và hợp
tác trong nhiều lĩnh vực khác (kinh tế, chính trị, xã hội, văn minh).

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

22
1.3.4. Tác động tiêu cực có thể nảy sinh do hoạt động du lịch ở các vườn quốc gia
DLST là loại hình du lịch dựa vào thiên nhiên, nên sự phong phú, đa dạng
trong các giống loài, các HST của thế giới tự nhiên chính là giá trị của sản phẩm du

lịch. Vì vậy DLST tuy mang lại nhiều lợi ích cho cộng đồng và góp phần tích cực
vào công tác bảo tồn thiên nhiên nhưng cùng với các hoạt động khác thì cũng gây
những tác động tiêu cực tới tài nguyên, môi trường và cuộc sống người dân. Tác
động tiêu cực lên các khu tự nhiên được bảo vệ có thể phân ra làm hai loại: trực
tiếp và gián tiếp. Các tác động trực tiếp gây ra bởi sự có mặt của du khách, còn các
tác động gián tiếp nẩy sinh từ cơ sở hạ tầng, dịch vụ liên quan đến hoạt động du
lịch. Cụ thể các tác động như sau:
- Tác động lên thổ nhưỡng: do hoạt động đi bộ, cắm trại, khai phá và chuyển
đổi mục đích sử dụng các vùng đất tự nhiên để xây dựng khách sạn, đường xá, khu
vui chơi giải trí… gây ảnh hưởng tới cấu trúc địa chất, không gian sống của hệ sinh
vật và người dân địa phương.
- Tác động vào nguồn tài nguyên nước: Du lịch là ngành công nghiệp tiêu
thụ nhiều nước, thậm chí tiêu hao nguồn nước sinh hoạt hơn cả nhu cầu nước sinh
hoạt của người dân địa phương. Nên việc tập trung một lượng khách du lịch lớn sẽ
gây sức ép tới tài nguyên nước của địa phương. Thêm vào đó là lượng nước thải
gia tăng tỷ lệ thuận với lượng nước cấp. Nếu như không có hệ thống thu gom nước
thải và việc xử lý chất thải không triệt để sẽ làm giảm chất lượng nguồn nước của
khu du lịch và vùng lân cận.
- Ô nhiễm không khí: Du lịch được coi là ngành “công nghiệp không khói”,
tuy nhiên du lịch có thể gây ô nhiễm khí thông qua phát thải khí thải động cơ xe
máy, tàu thuyền, ô tô, đặc biệt là ở các trọng điểm và trục giao thông chính.
- Tác động lên hệ thực vật, động vật: Hoạt động du lịch, giải trí có thể tạo ra
tác động đến thực vật như bẻ cành cây, giẫm đạp, khí thải từ phương tiện giao
thông… Còn hoạt động thăm quan, tiếng ồn của khách, phương tiện giao thông
khiến động vật hoảng sợ, thay đổi diễn biến sinh hoạt và địa bàn cư trú, sinh sống
của chúng. Đặc biệt nghiêm trọng hơn là nhu cầu tiêu dùng xa xỉ các món ăn từ đặc

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

23

sản động vật của khách du lịch dẫn đến việc săn lùng, buôn bán làm giảm đáng kể số
lượng quần thể động vật và cuối cùng là thay đổi cấu trúc HST ban đầu. Hơn nữa
khách du lịch và phương tiện vận chuyển khách có khả năng đem đến một số loài sinh
vật ngoại lai ảnh hưởng đến sự phát triển bình thường của những HST địa phương.
- Ảnh hưởng tới KT - XH địa phương: việc mang lại lợi ích kinh tế từ hoạt
động du lịch sẽ không tránh khỏi sự giảm giá trị các hệ thống văn hóa, mất đi tình
trạng ổn định ban đầu của xã hội, xuất hiện sự xung đột giữa cái cũ và cái mới: sự
thương mại hóa nghệ thuật, văn hóa, tăng sự phân hóa xã hội về thu nhập, gây biến
động giá cả…
1.3.5. Quan hệ giữa du lịch sinh thái và cộng đồng địa phương
DLST không chỉ được hình thành và phát triển trên cơ sở các nguồn tài
nguyên thiên nhiên được bảo vệ, mà nó còn có mối quan hệ với cộng đồng địa
phương trong phạm vi lân cận các VQG. Những yếu tố thu hút sự quan tâm của
khách du lịch với cộng đồng địa phương rất đa dạng như: yếu tố văn hoá, di tích lịch
sử, kiến trúc, tập quán sinh hoạt, ngành nghề truyền thống, tôn giáo, món ăn địa
phương… Thêm vào đó, khi khách du lịch đến thăm, cộng đồng địa phương lại cung
cấp các dịch vụ như lưu trú, ăn uống , Vì vậy, khách DLST, dù chỉ đi tham quan,
khám phá thiên nhiên thì vẫn không tránh khỏi những mối quan hệ qua lại với cộng
đồng cư dân địa phương. Mối quan hệ này thể hiện qua quan hệ “ cung-cầu”: nhu
cầu của du khách và việc đáp ứng các nhu cầu đó của địa phương. Mối quan hệ này
nếu được duy trì tốt sẽ tạo ra những lợi ích đối với cả hai bên.
1.3.5.1. Ảnh hưởng tích cực
Du lịch nói chung và DLST nói riêng có thể mang lại lợi ích cho cộng đồng
địa phương thông qua cơ hội việc làm, thay đổi chất lượng cuộc sống của người dân
và khiến họ trở thành lực lượng bảo tồn có hiệu quả. Những thay đổi tích cực này
được thể hiện qua các mặt sau:
- Tạo cơ hội việc làm trực tiếp trong ngành du lịch, trong các ngành hỗ trợ
khác liên quan đến du lịch và cả trong lĩnh vực quản lý nguồn tài nguyên.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


24
- Du lịch là động lực cải thiện cơ sở hạ tầng, giao thông, thông tin liên lạc, cơ
sở y tế địa phương, phương tiện và điều kiện giải trí, mang lại lợi ích chung cho
cộng đồng địa phương.
- Tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau giữa khách và dân địa phương, giới thiệu
những giá trị truyền thống địa phương, góp phần nâng cao dân trí, cải thiện nhận
thức, tạo mối quan hệ xã hội ngày càng tiến bộ.
- Tạo khả năng thoả mãn nhu cầu của khách du lịch với chất lượng cao, trong
khi đảm bảo lợi ích của địa phương. Đó là việc cung cấp các sản phẩm tinh thần và
vật chất - đặc trưng của địa phương cho du khách. Đồng thời, tạo cơ hội để cộng
đồng dân cư tham gia và được hưởng lợi ích từ du lịch.
1.3.5.2. Ảnh hưởng tiêu cực
- Du lịch tập trung gây nên sự quá tải cho cơ sở hạ tầng hiện có như khả năng
cung cấp nước sạch, điện, nhiên liệu, xử lý chất thải. Nhưng nếu cơ sở hạ tầng được
thiết kế và quy hoạch lớn hơn nhu cầu và mức sử dụng thấp sẽ gây thua lỗ hoặc dẫn
đến việc tăng giá cả bất hợp lý.
- Du lịch ảnh hưởng tiêu cực đến văn hoá - xã hội bản địa đã trở nên khá phổ
biến ở nhiều quốc gia. Sự phát triển du lịch quá mức gây ảnh hưởng đến lối sống
truyền thống của dân cư địa phương và thường không phải tốt hơn.
Để tránh những tác động tiêu cực của du lịch thông thường, việc thiết kế một
kế hoạch phát triển DLST, đảm bảo các yêu cầu cơ bản là rất cần thiết trước khi
khuyến khích mở một khu tự nhiên [39, 40].

×