Tải bản đầy đủ (.doc) (157 trang)

các vấn đề còn tồn tại trong phát triển cây hồ tiêu ở vùng gò đồi bắc trung bộ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.86 MB, 157 trang )

PHẦN 1. MỞ ĐẦU
1.1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Hồ tiêu (Piper nigrum L.) là cây công nghiệp dài ngày, có giá trị kinh tế và giá trị xuất
khẩu cao. Hạt tiêu là một loại gia vị được yêu thích trên toàn thế giới. Nó được mệnh danh là
“vua của các loại gia vị” (Maju và cs. 2012; Thangaselvabal và cs., 2008). Hạt tiêu có vị cay,
tính nóng nên là một loại thuốc cổ truyền quan trọng và được sử dụng để điều trị tiêu đờm,
cảm lạnh, nôn mữa, ỉa chảy, hen xuyễn, khó thở, đờm tắc (Đỗ Tất Lợi, 2004; Ahmad và cs,
2011; Hussain và cs., 2011). Bên cạnh đó, tiêu còn có tác dụng sát trùng, diệt ký sinh trùng,
xua đuổi sâu bọ (Đỗ Tất Lợi, 2004). Ngoài ra, tiêu còn dùng trong chế biến thực phẩm và
nước hoa (Ahmad, 2011; Maju và cs., 2012).
Những năm gần đây, hiện tượng hồ tiêu chết hàng loạt những vùng trồng tiêu ở các
tỉnh Bắc Trung Bộ như Quảng Trị, Quảng Bình …nhưng chưa có biện pháp phòng trừ hữu
hiệu nào được nông dân áp dụng. Nhiều nơi nông dân phải phá bỏ vườn tiêu, tốn nhiều công
lao động để đào trụ, cây choái, phải đầu tư vốn để trồng các loại cây trồng khác và gặp khó
khăn trong chuyển đổi cây trồng hoặc nhiều nơi vẫn để trống các vườn hồ tiêu bị bệnh chết
nhanh. Bên cạnh đó những năm qua cũng cho thấy giá tiêu rất bất ổn có thời điểm rớt giá
xuống 18.000 đ/kg tiêu khô. Người nông dân đang chạy theo giá tiêu, khi tiêu rớt giá bỏ mặc
cây hồ tiêu không đầu tư. Nhưng khi hồ tiêu được giá như thời điểm hiện nay giá tiêu đạt
120.000đ/kg tiêu khô (Báo nông nghiệp Việt Nam ngày 27/4/2012) thì người nông dân đầu tư
quá nhiều làm cho cây hồ tiêu bội thực nên công tác chọn giống không rõ nguồn gốc và kỹ
thuật nhân giống không đảm bảo, tình trạng dịch hại phát sinh. Nhiều nông dân đã ồ ạt phá bỏ
cà phê để trồng hồ tiêu do giá hồ tiêu được giá (Báo nông nghiệp Việt Nam ngày 21/4/2012).
Đặc biệt, hiện nay Việt Nam là nước đứng đầu trong xuất khẩu hồ tiêu và trong 2 - 3 năm trở
lại đây hồ tiêu được giá, bà con nông dân bắt đầu khôi phục lại các vườn tiêu bị bệnh và trồng
mới nhưng các biện pháp kỹ thuật áp dụng để hạn chế và ngăn ngừa bệnh chết nhanh chưa
đảm bảo. Trong hội nghị lần thứ 4 của Hiệp hội hồ tiêu Việt Nam (VPA) tổ chức ngày
26/4/2012, các nhà khoa học trong và ngoài nước đã cảnh báo về việc nếu Việt Nam không có
các biện pháp phòng ngừa bệnh chết nhanh hồ tiêu thì sản xuất hồ tiêu Việt Nam sẽ có kịch
bản tương tự như Ấn Độ và Indonesia bị bệnh chết nhanh lây lan, phá huỷ nặng nề, sản lượng
sụt giảm một cách nhanh chóng và đến nay sản xuất hồ tiêu vẫn chưa có thể khôi phục lại
được.


Bằng phương pháp nhân giống thông thường như: chiết, ghép, giâm cành hoặc trồng
bằng hạt, người ta đã thay thế những cây tiêu chết trong vườn (Nguyễn Thị Kim Linh và cs.,
2006) và gia tăng diện tích ở các vùng trồng tiêu. Tuy nhiên, các phương pháp này còn hạn
chế như tốn nhiều thời gian (Hussain và cs., 2011), hệ số nhân giống thấp mà cây giống khi
đem trồng vẫn mang theo mầm bệnh và làm lây lan bệnh virus từ cây này sang cây khác, từ
vườn này sang vườn khác, từ thế hệ này sang thế hệ khác (Nguyễn Thị Kim Linh và cs.,
2006).
Để khắc phục những hạn chế trên, nuôi cấy mô và tế bào thực vật là một trong những
phương pháp nhân giống vô tính cây tiêu có hiệu quả cao. Ngoài việc nhân giống nhanh, tạo
ra được một số lượng lớn cây con đồng đều có sức sống tốt, sạch bệnh trong thời gian ngắn,
phương pháp này còn cho phép giữ được những tính trạng quý của cây mẹ và chủ động cung
cấp nguồn giống vào bất kỳ thời điểm nào trong năm. Vì vậy, nhân giống in vitro cây hồ tiêu
1
(Piper nigrum L.) góp phần đem lại hiệu quả thiết thực trong việc nâng cao chất lượng giống
hồ tiêu.
Các vấn đề còn tồn tại trong phát triển cây hồ tiêu ở Vùng gò đồi Bắc Trung Bộ là:
- Các biện pháp kỹ thuật thâm canh cây hồ tiêu chưa được áp dụng đúng mức. Nhất là
việc áp dụng quản lý, phòng trừ bệnh hại cây trồng và trồng cây che phủ.
- Chế biến hồ tiêu ở Vùng gò đồi Bắc Trung Bộ còn hạn chế, chủ yếu là hồ tiêu đen.
Chế biến tiêu trắng hầu như chưa được nghiên cứu và chuyển giao cho bà con;
- Chưa xây dựng và phát triển được các kênh tiêu thụ, thương mại hồ tiêu ở vùng và có
các liên kết trong sản xuất và kinh doanh.
1.2. TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.2.1. Nghiên cứu về phân hữu cơ vi sinh
Phân hữu cơ vi sinh (phân HCVS) là sản phẩm của quá trình ủ, sản phẩm phân HCVS
phải đảm bảo các điều kiện như: chất hữu cơ ổn định (dạng mùn), không mang mầm bệnh, cỏ
dại và các loại nhiễm bẩn khác có hại cho đất và cây trồng.
Phân HCVS thường chứa các chất hữu cơ bền vững, sinh khối vi sinh vật đã chết và
một số vi sinh vật còn sống cùng với các sản phẩm khác của phản ứng hóa học khác giữa các
vật liệu trên.

Trichoderma là loại nấm sống chủ yếu trong đất, rất phong phú và đa dạng chủng loại.
Trichoderma lấy dinh dưỡng để phát triển bằng cách hoại sinh (phân hủy chất hữu cơ) và kí
sinh (tấn công nấm, vi khuẩn, và tuyến trùng gây bệnh). Trichodermacạnh tranh dinh dưỡng
và không gian sống của các đối thủ, hoặc ức chế và tiêu diệt bằng cách tiết ra các enzyme và
chất kháng sinh để tiêu diệt nấm, vi khuẩn đối kháng, làm bất hoạt các enzyme gây bệnh. Do
sở hữu các đặc tính này cho nên người ta còn gọi nấm Trichoderma là nấm đối kháng.
Trichoderma còn có thể hình thành khuẩn lạc tập trung quanh vùng rễ, giúp rễ cây hấp thụ
dinh dưỡng và nước tốt hơn khi gặp điều kiện khắc nghiệt bằng việc gia tăng phát triển của rễ
và cây trồng.
Nông dân Việt Nam đã sử dụng phân bón hữu cơ từ rất lâu trước khi có phân bón vô
cơ (đạm, lân, kali, canxi, vi lượng). Cho đến nay, mặc dù sản xuất nông nghiệp đã và đang sử
dụng một lượng phân vô cơ rất lớn nhưng phân hữu cơ vẫn được trọng dụng để bón lót cho
hầu hết các loại cây trồng và đặc biệt cho các loại đất đã bị thoái hóa, nghèo mùn như đất bạc
màu, đất cát, đất phù sa chua, Bón phân hữu cơ cho cây trồng sẽ ổn định năng suất, tăng
chất lượng sản phẩm, tăng sức khỏe cộng đồng khi sử dụng sản phẩm nông nghiệp bón phân
hữu cơ. Phân hữu cơ nguyên chất như: phân gia súc, phân xanh, phân bắc sẽ ủ cho chất lượng
cao, đảm bảo vệ sinh an toàn cho người sử dụng
Sử dụng phân hữu cơ vi sinh trong trồng trọt được đánh giá là một biện pháp phù hợp,
an toàn và tiết kiệm trong nông nghiệp. Thông qua tác dụng phòng ngừa một số bệnh hại nên
nấm Trichoderma giúp giảm một phần thuốc bảo vệ thực vật (BVTV), giảm ô nhiễm môi
trường, giúp cây trồng sinh trưởng khỏe, giúp đất tơi xốp, giữ độ phì đất lâu dài và cho sản
phẩm sạch, an toàn không có dư lượng thuốc hóa học, giúp người nông dân tiết kiệm được
tiền bạc hơn khi sử dụng các thuốc hóa học khác.
Phân hữu cơ vi sinh được chế biến từ quá trình ủ rác sinh hoạt khi bón vào đất làm
tăng độ phì nhiêu của đất: tăng chất hữu cơ, cải thiện cấu trúc đất, tạo môi trường sống thuận
2
lợi cho hệ sinh vật đất. Việc bổ sung phân HCVS vào đất cho thấy giảm một số bệnh thực vật
bởi tuyến trùng, vi khuẩn và nấm bệnh trong hệ thống canh tác nông nghiệp. Trichoderma là
một sản phẩm giàu vi sinh vật, thành phần các loài vi sinh vật trong mỗi loại khác nhau và rất
đa dạng. Các loại phân ủ bón cho cây trồng có tác dụng nhanh hơn phân nguyên chất chưa ủ.

Khi sử dụng phân hữu cơ vi sinh bón cho cây trồng, quá trình phân hủy trong đất giúp:
- Cải thiện cơ cấu đất: phân hữu cơ vi sinh khi bón vào đất sẽ làm cho nơi có đất sét,
đất bạc màu và đất quánh rã ra, rồi khi gặp lại với đất cát lại làm cho cát rời dính lại với nhau,
từ đó làm cho đất thông khí dễ dàng. Phân HCVS còn cải tạo tính chất cơ lý hoá của đất,
chống xói mòn, chống chai hoá đất.
- Quân bình độ pH trong đất: Phân HCVS cung ứng đầy đủ các chất hữu cơ để chống
lại sự thay đổi pH.
- Tạo sự màu mỡ trong đất: Phân HCVS chứa nitơ, photpho, magiê, lưu huỳnh…quá
trình phân hủy tiết ra các chất dinh dưỡng, làm đất tăng sự hấp thụ khoáng chất. Phân bố dinh
dưỡng hợp lý, giúp phục hồi đất bạc màu, đất đã khai thác lâu năm và đất đã sử dụng nhiều
phân bón hóa học.
Việc bổ sung phân HCVS vào đất đã cho thấy kháng một số bệnh thực vật bởi tuyến
trùng, vi khuẩn hoặc nấm bệnh trong hệ thống canh tác nông nghiệp (Hoitink và Fahy, 1986;
Ringer, 1998). Phân HCVS tạo môi trường tốt cho các loại vi khuẩn có lợi trong đất sinh
sống, có khả năng tạo ra các chất dinh dưỡng tốt cho các loại vi sinh vật sinh sống trong đất,
từ đó tạo môi trường cho các loại côn trùng và những loài vi sinh vật chống lại nấm bệnh và
tuyến trùng ký sinh thực vật cũng như tiêu diệt các loại côn trùng phá hoại đất, hoặc tác động
xấu đến cây trồng (Andrés và cs, 2003).
Các nhà khoa học đã tìm ra và chứng minh được khả năng kiểm soát và ngăn chặn các
mầm bệnh của phân HCVS. Tiềm năng tự nhiên của phân HCVS có thể được xây dựng dựa
trên sự kết hợp của 4 yếu tố: cạnh tranh dinh dưỡng thông qua các vi sinh vật có lợi; sản sinh
kháng sinh nhờ hệ vi sinh vật có lợi; sự cạnh tranh đối kháng giữa vi sinh vật có lợi với các
tác nhân gây bệnh; và cuối cùng là kích thích hoạt tính của các gen kháng trong cây (EPA,
1997).
Cơ chế tác động của phân HCVS lên tuyến trùng ký sinh thực vật
Alam và Jairajpuri (1990) đã đưa ra cơ chế tác động của neem nói riêng và của phân
hữu cơ nói chung lên tuyến trùng ký sinh thực vật như sau: (Randhawa và Parmar, 1995).
- Làm thay đổi các đặc tính lý hóa của đất, ngăn chặn sự phát triển của tuyến trùng.
- Phóng thích những chất dinh dưỡng làm bộ rễ phát triển nhanh hơn, làm cây trưởng
thành toàn diện và điều này sẽ giúp cho cây thoát khỏi sự tấn công của tuyến trùng.

- Kích thích tăng sức đề kháng của thực vật chống lại các tuyến trùng ký sinh thực vật.
- Gia tăng những động vật ăn thịt và hoạt động ký sinh của khu hệ vi sinh vật đất.
- Những chất độc được tạo ra trong suốt quá trình vi sinh vật phân hủy chất hữu cơ.
3
Sơ đồ 1.1. Sơ đồ mô tả tác động của neem và phân hữu cơ lên nhóm tuyến trùng ký sinh thực
vật (N.S. Randhawa, B.S. Parmar, 1995)
Cơ chế liên quan đến khả năng ngăn ngừa mầm bệnh của phân HCVS dựa trên: cạnh
tranh đối kháng - chất kháng sinh - sự đa dạng các vi sinh vật ký sinh (Hoitink và cs, 1996).
Hơn nữa, hiệu quả ngăn ngừa của phân HCVS còn được xác định bởi sự tác động tổng hợp
của ba tác nhân: vật lý - hóa học - sinh học. Các tác nhân vật lý và hóa học như mối tương
quan giữa nước và không khí hoặc giữa giá trị pH và tỷ suất dẫn điện có trong thành phần
dinh dưỡng có tác động làm tăng hoặc giảm tình trạng ban đầu của cây. Tuy nhiên, chính các
tác nhân sinh học đóng vai trò chính yếu dựa trên các tác động không chuyên biệt như kích
thích sự gia tăng hoạt động của các vi sinh vật có lợi hoặc các tác động chuyên biệt liên quan
đến sự đa dạng và thành phần kết cấu mật độ các vi sinh vật (Hoitink và Boehm, 1997).
Sơ đồ 1.2. Sơ đồ mô tả hệ thống các tác động của phân HCVS đến vùng rễ (Seminar
proceedings, 2001)
4
Theo Nico và cs (2003), trong quá trình phân hủy phân HCVS đã tiết ra các độc tố đối
với tuyến trùng như: các hợp chất tanin, phenolic (pyrocatechol, caffeic acid, và vanillic acid)
và các acid béo (Cayuela và cs., 2008).
Còn theo Hoitink một số các tác nhân sinh học được phân lập trong quá trình phân hủy
phân HCVS: Trichoderma hamatum 382 (T382), Pseudomonas spp. và Pantoea
agglomerans, các chủng Bacillus tiết ra hệ thống tính kháng cho cây là cơ chế của việc làm
giảm các tác nhân gây bệnh ký sinh thực vật. Trong đó, T. hamatum 382 (T382) có hoạt tính
kháng mạnh nhất, sau đó là các chủng Bacillus, Pseudomonas spp. và Pantoea agglomerans
có hoạt tính kháng kém hơn (Hoitink, 2004).
Phân bón nói chung và phân HCVS nói riêng có thể làm giảm mật độ cũng như sự đa
dạng của tuyến trùng được giải thích như sau: các sản phẩm của quá trình phân hủy phân bón,
phân HCVS trực tiếp tiết ra các độc tố đối với tuyến trùng; sự bổ sung phân bón, phân HCVS

làm tăng các vi sinh vật có hoạt tính kháng sinh hoặc làm tăng các loài nấm, vi khuẩn ăn thịt
và ký sinh đối với nhóm tuyến trùng. Phân bón có thể làm giảm sự sống của tuyến trùng thông
qua tác động làm thay đổi môi trường tự nhiên của đất (Kaplan và Noe, 1993).
Cũng có rất nhiều cơ chế trong kiểm soát bệnh ở thực vật đang được các nhà nghiên
cứu tranh luận. Ở hầu hết các phân HCVS, các vi sinh vật có lợi sẽ cạnh tranh dinh dưỡng
hoặc sản sinh ra kháng sinh từ đó ngăn chặn được sự phát triển của mầm bệnh gây ra bởi
Pythium và Phytophthora. Ở một số ít khác, các vi sinh vật khác sẽ ký sinh lên tác nhân gây
bệnh như Rhizoctonia gây bệnh thối úng. Và cuối cùng, một số nghiên cứu gần đây đã chỉ ra
rằng “tính chống chịu thu được ngấm qua rễ” (systemic acquired resistance) có thể đóng một
vai trò nào đó. Khi cây được lớn lên với sự bổ sung phân HCVS thường xuyên sẽ hấp thu một
lượng lớn các enzyme được cho là có quan hệ tích cực đến hoạt động có lợi của các vi sinh
vật (Hoitink và cs., 1997).
Triển vọng của việc ứng dụng phân HCVS trong kiểm soát tuyến trùng ký sinh thực vật
Như ta đã biết phân phân HCVS bao gồm cả phế thải nông nghiệp (phế thải trong chăn
nuôi và trồng trọt) và phế thải ngành công nghiệp (phế thải trong chế biến thực phẩm,…) và
cả các phế thải trong sinh hoạt của con người, tất cả là nguyên nhân dẫn đến ô nhiễm môi
trường. Tuy nhiên, chính chúng lại được quan tâm và đánh giá là những nguồn phân bón hữu
cơ giàu dinh dưỡng, bao gồm các thành phần dinh dưỡng đa lượng và vi lượng cần thiết cho
sự phát triển của cây (Wilkison,1979).
Quá trình phân hủy của phân HCVS được đánh giá là sự lựa chọn hợp lý và rẻ tiền cho
cả việc làm màu mỡ đất đai cũng như việc kiểm soát tuyến trùng ký sinh thực vật. Đây cũng
chính là biện pháp xử lý nguồn phế thải an toàn và hiệu quả mà không gây ra các vấn đề về
môi trường và rất hữu ích trong chăm sóc và bảo vệ cây trồng (Akhtan và Alam, 1993).
Mặc dù sử dụng phân HCVS về mặt phòng trừ tuyến trùng có hiệu quả thấp hơn so
với các loại thuốc hóa học, nhưng ngược lại, biện pháp này có thể đem lại hiệu quả kinh tế
hơn do nguồn nguyên liệu rẻ và sẵn có. Và điều đặc biệt là không gây tác hại xấu đến môi
trường sinh thái và sức khỏe của con người.
Tình hình sản xuất và nghiên cứu về phân hữu cơ vi sinh có bổ sung chế phẩm
Trichoderma trên cây hồ tiêu
Biện pháp sinh học có thể nói đơn giản là sử dụng các sinh vật để khống chế sinh vật

hại và rộng hơn là dùng các sinh vật và các sản phẩm của chúng để kìm hãm sinh vật gây hại.
5
Có thể nói biện pháp sinh học là một biện pháp chủ lực trong quản lý dịch hại tổng hợp hiện
nay (Anandaraj và Sarma, 2003); (Tran, 2007).
Theo Anandaraj (1997) khả năng đối kháng của nấm Trichoderma sp., Gliocladium và
các vi sinh vật sống trong đất với P. capsici rất thấp. Vì thế, biện pháp bổ sung chất hữu cơ
có nhiều vi sinh vật đối kháng hay sử dụng các chế phẩm sinh học từ các vi sinh vật này sẽ
hạn chế sự phát triển của nấm P. capsici trong đất (Anandaraj, 2000). Có thể trồng các loài
Allium như A. fistulosum, A. ascalonicum, A. shoenorapsum, A. sativum xung quanh cây hồ
tiêu vì rễ các cây này tiết ra các chất ngăn cản sự nảy mầm của bào tử động, đồng thời kích
thích sự phát triển của các vi sinh vật có lợi trong đất như các loài Trichoderma spp. và vi
khuẩn. Trichoderma harzianum nếu được sử dụng phối hợp phân hữu cơ có thể hạn chế sự
phát triển của bệnh chết nhanh trên cây hồ tiêu (Manohara và cs., 2002).
Nhiều loài nấm đối kháng đã được các tác giả khuyến cáo sử dụng để hạn chế sự phát
triển của nấm Phytophthora spp. gây bệnh héo chết nhanh trên cây tiêu như: Trichoderma sp.,
Gliocladium (Witkowska và cs, 2002). Diby và cs (2005); Anandaraj và cs (2003) nhận thấy
nấm Trichoderma harzianum IISR-1369, IISR-1370 phân lập từ vùng rễ cây tiêu có khả năng
hạn chế nấm P. capsici và kích thích sinh trưởng cây tiêu.
Trichoderma sp. là một loại vi nấm được phân lập từ đất, thường hiện diện ở vùng xung
quanh hệ thống của rễ cây. Đây là loại nấm hoại sinh có khả năng ký sinh và đối kháng trên
nhiều loại nấm bệnh cây trồng. Nhờ vậy, nhiều loài Trichoderma spp. đã được nghiên cứu
như là một tác nhân phòng trừ sinh học và đã được thương mại hóa thành thuốc trừ bệnh sinh
học, phân sinh học và chất cải tạo đất (Harman và cs, 2004).
Theo Nguyễn Văn Đĩnh và cs (2007) biện pháp phòng trừ sinh học là một biện pháp
tiềm năng và chủ lực trong phòng trừ sâu bệnh hại cây trồng nói chung. Nguyễn Thân (2004)
kết luận việc sử dụng nấm Trichoderma virens dòng T41 có hiệu lực mạnh trong phòng trừ
nấm Phytophthora spp. gây bệnh chết nhanh cây hồ tiêu, bệnh xì mủ cây sầu riêng.
Tại Việt Nam, Trần Kim Loang và cs (2008) đã chọn lọc được 5 isolates nấm
Trichoderma sp. từ rễ và đất trồng tiêu tại Tây Nguyên có khả năng đối kháng cao với nấm
Phytophthora spp. gây hại trên cây tiêu tại đây. Chế phẩm Tricô-VTN của các tác giả khi

được sử dụng với nồng độ 0,3-0,4% có thể hạn chế sự gây hại của nấm Phytophthora spp.
trên cây tiêu và cây ca cao trong nhà lưới. Bên cạnh đó, chế phẩm này cũng cho thấy có hiệu
lực cao trên đồng ruộng khi được sử dụng với lượng 40 g/gốc tiêu/năm.
1.2.2. Nghiên cứu về cây che phủ
Cây che phủ được sử dụng trong hệ thống cây trồng bởi vì chúng cải thiện được dinh
dưỡng đất, độ ẩm đất và nâng cao hiệu suất cây trồng. Các tác động ngắn hạn bao gồm kiểm
soát được quần thể cỏ dại và dịch bệnh. Putnam and DeFrank (1983); Mangan và cs (1995),
cây che phủ tạo ra các hiệu ứng làm cân bằng bức xạ (Facelli, Pickett, 1991), ẩm độ đất, nhiệt
độ (Bristow, 1988), và hàm lượng đạm sẵn có (Echenkamp và Moomaw, 1989). Tất cả các tác
động đó đều làm nâng cao hiệu suất cây trồng. Các lớp che phủ còn tạo ra một môi trường
sống cho các loài côn trùng có lợi (Orr và cs., 1997; Reader, 1991; Stinner, House, 1990).
Malaysia trồng cây che phủ để ngăn chặn sự phát triển của cỏ dại dưới những luống
trồng tiêu trên trụ chết. Cây che phủ có tác dụng ngăn chặn xói mòn đất và cải tạo lý, hóa tính
đất. Hai cây che phủ quan trọng trồng phổ biến ở Sarawak là Centrosema pubescens và
Arachis pintoi (George và cs, 2005).
6
Ở Ấn Độ, cây che phủ hầu như ít được trồng ở các hệ thống canh tác. Một số nơi có
trồng cây che phủ, một số cây được khuyến cáo như: Calapogonium mucunoides và Mimosa
invisa. Duy trì cây che phủ có thân bò trên mặt đất có hiệu quả làm giảm bệnh hại rễ do nấm
Phytophthora spp. Ở Indonesia, việc trồng cây che phủ không phải là một hình thức phổ biến.
Tuy nhiên, vài năm qua, trồng cây lạc dại được nông dân chấp nhận. Thân những cây che phủ
này làm thức ăn cho bò và dê, nông dân hiện trồng cây che phủ trong vườn tiêu kết hợp với
chăn nuôi để tăng thêm thu nhập.
Cây che phủ đất như đậu phộng ma (Arachis pintoi), cỏ Stylo (Stylosanthes guianenis)
ngoài tác dụng che phủ đất còn tổng hợp một lượng đạm đáng kể cho đất, cắt định kỳ cỏ Stylo
làm thức ăn cho trâu bò. Vào mùa khô dùng rơm rạ hoặc cỏ khô tủ quanh gốc tiêu giúp giữ
ẩm, kéo dài chu kỳ và giảm lượng nước tưới.
Biện pháp sinh học nhằm kiểm soát cỏ dại là thay thế cỏ dại bằng việc quản lý những
loài cây che phủ (Teasdale,
1996

).
Theo Mammootty và Neema (2006), trồng cây che phủ được khuyến cáo làm giảm sự
lây lan của bệnh do nấm Phytophthora spp. Nghiên cứu được thực hiện bởi Ramachandran và
cs (1990) cho thấy trồng cây che phủ (cỏ và Mimosa sp.) giảm sự di chuyển hoặc lây lan của
sinh vật gây hại có trong đất và gia tăng hoạt động của các vi sinh vật đối kháng đối với bệnh
thối rễ trong vườn tiêu. Để hạn chế nguồn nấm bệnh lây lan từ đất lên thân cây tiêu nên để đất
được che phủ bằng một số cây họ đậu hoặc cỏ (Ramachandranet và cs, 1991; Sarma và cs,
1982). Tuy nhiên, các nghiên cứu của Anandaraj (1997) tại Ấn Độ cho thấy biện pháp phủ đất
sẽ làm gia tăng sự phát triển của nguồn nấm Phytophthora capsici trong đất. Tại Malaysia,
các nghiên cứu của Ahmed (1993) cho thấy cây tiêu được trồng trong điều kiện làm sạch cỏ
phát triển tốt hơn khi được che phủ đất bằng cây Desmodium trifolium (Anandaraj, 2000).
Báo cáo Campuchia cho thấy trồng cây che phủ làm gia tăng năng suất (Litzenberge, Lip,
1961). Mặc dù cây che phủ làm giảm sự gây hại của tuyến trùng lên cây tiêu, cây tiêu được
hồi phục nhưng không làm giảm mật số tuyến trùng.
Trong khi đó, biện pháp trồng cây Macroptilium atropurpureus che phủ đất giữa hàng
và tủ gốc bằng cỏ tranh (Imperata cylindrica) đã được khuyến cáo để giảm mật số tuyến trùng
Meloidogyne incognita trong đất trồng tiêu vùng Amazone (Ichinohe, 1980, 1984). Biện pháp
tủ gốc bằng lá cây Gliricidia cũng làm giảm mật số tuyến trùng nốt sưng trên cây tiêu tại
Srilanca (Ratnasoma và cs, 1991).
Có thể trồng các loài Allium như A. fistulosum, A. ascalonicum, A. shoenorapsum, A.
sativum xung quanh cây hồ tiêu vì rễ các cây này tiết ra các chất ngăn cản sự nảy mầm của
bào tử động đồng thời kích thích sự phát triển của các vi sinh vật có lợi trong đất như các loài
Trichoderma spp. và vi khuẩn. Trichodermaharzianum nếu được sử dụng phối hợp phân hữu
cơ có thể hạn chế sự phát triển của bệnh héo chết nhanh trên cây hồ tiêu (Manohara và cs,
2002).
Trồng cây che phủ như là Arachis pintoi được khuyến cáo và hạn chế cỏ dại, hạn chế
nấm P. capsici và ngăn chặn sự lây lan P. capsici lên những lá tiêu gần mặt đất trong mùa
mưa. Sự ra hoa của Arachis pintoi như là nguồn dinh dưỡng thu hút một số thiên địch tự nhiên
hiện diện xung quanh vườn tiêu (Manoharas và cs, 2004).
Anandaraj (2000) cho thấy rằng mật số Phytophthora capsici gia tăng khi che phủ cỏ

và thực vật chết. Kết luận tương tự được tìm thấy ở Malaysia, trong nghiên cứu với
7
Desmodium trifolium (L.).
Dutta (1977) khi nghiên cứu ảnh hưởng của cây họ đậu che bóng và phủ đất trồng
xen với chè đã nhận xét: việc duy trì hợp lý cây phủ đất sẽ ngăn chặn quá trình mất đạm
bởi quá trình nitrat hóa. Đốn tỉa hoặc cày vùi cây họ đậu cho chè đã đem lại hiệu quả kinh
tế lớn, tiết kiệm nhiều công vận chuyển, bốc dỡ, trả lại cho đất hàm lượng dinh dưỡng mà
cây họ đậu đã sử dụng, đồng thời cung cấp thêm cho đất một lượng lớn chất hữu cơ do
cây họ đậu tổng hợp được.
Việc nghiên cứu tập đoàn cây che phủ bảo vệ và cải tạo đất, đã có nhiều kết quả đáng
khích lệ. Các loại cây được khuyến cáo trồng vào các khoảng trống của vườn hồ tiêu chỉ để
lại khoảng trống dưới tán xung quanh gốc tiêu, cách gốc khoảng 60 cm. Làm sạch cỏ xung
quanh gốc. Các loại cây che phủ thích hợp là: lạc dại (Arachis pintoi), đậu ma (Centrocema
pubesens), đậu lông (Calopogonium mucunoides), cúc nút áo (Wedelia chinensis) (Cục Trồng
trọt, 2009).
Kết quả nghiên cứu tại Bình Dương và Đăk Lăk cho thấy sử dụng đậu phộng dại che
phủ đất cho cây tiêu đạt hiệu quả cao nhất, tỷ lệ nhiễm bệnh thấp. Đậu phộng dại sinh trưởng
và phát triển tốt, khi lớn độ che phủ đất tăng lên đến 92%, hoàn toàn có thể lấn át được cỏ dại,
cải tạo đất, chống xói mòn, rất thích hợp với những vùng đất xấu, có độ dốc cao (Nguyễn
Tăng Tôn, 2009).
Ở Quảng Trị thì việc trồng cây che phủ trên các vườn hồ tiêu để hạn chế dịch bệnh lây
lan chưa được áp dụng.
Cây lạc Arachis
pintoi (lạc dại)
Tên khoa học: Arachis
pintoi.
Thuộc họ:
Fabaceae.
Đ
ặc

tính di truyền: (2n = 20), tự thụ phấn, rất ít xảy ra sự thụ
phấn

chéo.
Tên thường gọi: Úc: pinto peanut; Tây Ban Nha: Maní
forrajero

perenne;
Bồ Đào
Nha: Amendoim forrageiro; Indonesia: Kacang pinto;
Thái
Lan: Thua lisong
tao.
Xuất xứ: Từ miền trung Brazil (cửa sông Jequitinhonh). Đã được
trồng


Argentina,
Colombia, Mỹ, gần đây trồng ở Đ
ông
- Nam Châu Á, Trung Mỹ

Thái Bình Dương

Là một loại có thân ngầm, lâu năm và có rễ cọc ăn sâu
vào

lòng
đất và tạo thành
thảm dày từ thân bò. Ban đầu thân mọc nghiêng, sau đó


rạp, có thể cao đến 50 cm phụ
thuộc vào môi trường và cách quản lý. Lá có 4

chét, kích thước 4,4 cm × 3,5 cm. Hoa
từ nách lá, cuống ngắn, cánh cờ
rộng

12-17
mm, màu vàng tươi hoặc vàng nhạt tuỳ theo
giống. Ra hoa quanh
năm
(hoa có màu vàng tươi). Quả (củ) ra ở cuối cuống hoa,
thường có 1 hạt, đôi
khi
có 2 hạt. Cuống hoa dài trung bình 10-15 cm hoặc hơn. Kích
thước củ
phụ

thuộc
vào điều kiện chăm sóc, tuy nhiên trung bình khoảng 4 mm × 5 mm.
Trọng
lượng nghìn hạt khoảng 70- 80 g. Là cây họ đậu có nốt sần và khả năng cố đ
ịnh
đ
ạm.


Việt Nam cây lạc Arachis pintoi, còn được gọi là cỏ lạc- lạc dại.
Giống


lạc
Arachis pintoi thuộc dự án nghiên cứu hệ thống nông nghiệp miền núi
phía
Bắc (SAM)
nhập vào Việt Nam từ năm 1999 và bắt đầu nghiên cứu ứng
dụng

tại
xã Ngọc Phái,
huyện Chợ Đ
ồn,
tỉnh Bắc Kạn. Giống này còn được
Trường Đại
học tổng hợp
Hohenheim - Cộng hòa Liên bang Đ
ức
- đưa vào tập đoàn
cây
họ đậu phục vụ lớp tập
huấn về đánh giá dinh dưỡng và khả năng cải tạo đất
của
các loại cây họ đậu nhiệt đới
được tổ chức tại Viện Khoa học Kỹ thuật
Nông
nghiệp Việt Nam từ 12 đến 15 tháng 4
năm
1999.
Khả năng ứng
dụng

Trồng ở các đồng cỏ lâu năm nơi gia súc được chăn thả ở mật độ cao;
che
phủ đất ở
các khu đất trống và trồng dưới tán cây cao
(
đ
ặc
biệt là cây ăn quả
như
cam, bưởi, xoài,
); làm cây cảnh ở các khu đất trống như dải phân cách trên
các
trục đường giao thông,
8
trước cửa khách sạn, trong công viên, Trong nông
lâm
nghiệp, lạc lưu niên che phủ đất
LN99 là cây cố định đạm nên có tác dụng che
phủ đ
ất, chống xói mòn, bảo vệ và cải tạo đất
đồng thời cũng là cây thức ăn gia
súc
Tình hình nghiên cứu và ứng dụng cây lạc dại ở Việt Nam
Ở Việt Nam, lạc dại được du nhập thông qua một số dự án hợp tác quốc tế, đặc biệt là các
chương trình nghiên cứu cây thức ăn gia súc với CIAT. Tuy nhiên, hiện nay cây lạc dại được
nghiên cứu và phát triển chủ yếu thông qua dự án “Nghiên cứu hệ thống nông nghiệp miền
núi phía Bắc Việt Nam” do Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp Việt Nam (VASI) và
CIRAD hợp tác thực hiện tại huyện Chợ Đồn tỉnh Bắc Kạn. Sau đó lạc dại đã được Viện
Khoa học kỹ thuật nông lâm nghiệp miền núi phía Bắc (NOMAFSI) tiếp tục nghiên cứu ứng
dụng ở nhiều địa phương trong cả nước, đặc biệt là ở các tỉnh miền núi phía Bắc và Tây

Nguyên. Hiện nay, lạc dại được trồng nhiều ở Mộc Châu, Sông Mã (Sơn La); Tuần Giáo, Tủa
Chùa, Điện Biên Đông (Điện Biên), Chợ Đồn (Bắc Kạn); NOMAFSI (Phú Thọ); Văn Chấn,
Văn Yên (Yên Bái) và các tỉnh Tây Nguyên (Đắc Nông, Đắc Lak, Gia Lai).
1.2.3. Các nghiên cứu ứng dụng kỹ thuật nuôi cấy mô tế bào trong nhân giống in vitro
cây hồ tiêu
Trên thế giới đã có nhiều công trình nghiên cứu in vitro cây hồ tiêu thành công được
ghi nhận như nuôi cấy đỉnh chồi (Nazeem và cs., 1992; Philip và cs., 1992; Babu và cs., 1993;
Joseph và cs., 1996), lá (Sujatha và cs., 2003), đoạn thân mang chồi ngủ (Bhat và cs., 1992.),
rễ (Bhat và cs., 1995) và hạt (Nair và Gupta, 2006). Các cây con tái sinh từ callus có nguồn
gốc từ cây trồng từ hạt và đỉnh chồi cũng đã được báo cáo, nhưng hầu hết đều không thành
công. Như vậy, loại mẫu cấy rất quan trọng trong việc xác định khả năng nảy mầm và tái sinh
của cây. Hơn nữa, độ tuổi sinh lý mẫu cấy, loại mẫu cấy và kích thước mẫu cấy cũng ảnh
hưởng đến sự hình thành cơ quan in vitro.
Năm 1984, Mathews và cs. tiến hành nghiên cứu in vitro khả năng phát sinh hình thái từ
các loại mẫu vật khác nhau của cây tiêu. Kết quả, tác giả nhận thấy rằng: trừ mô lá và bao phấn,
callus được hình thành từ tất cả các mẫu cấy trên môi trường MS có bổ sung tổ hợp auxin,
cytokinin. Khả năng tái sinh chồi xảy ra khi nuôi cấy đỉnh chồi của cây con trên môi trường MS
có bổ sung IAA 1,0 mg/l và BA 1,0 mg /l. Chồi in vitro đem tạo rễ trên môi trường ½ MS có bổ
sung 0,2 mg/l NAA.
Đến năm 1992, Philip và cs. đã sử dụng nhiều loại môi trường, chất điều hòa sinh
trưởng và các phương pháp khử trùng khác nhau để nghiên cứu vi nhân giống tiêu đen thông
qua nuôi cấy đỉnh chồi. Kết quả cho thấy, hạt giống thường bị nhiễm nấm, vi khuẩn và virus
gây bệnh. Do đó, khử trùng bề mặt lặp đi lặp lại đã ức chế được sự phát triển của vi khuẩn
nhưng không thể loại bỏ nó. BA riêng lẻ hoặc kết hợp với IBA và sulfat adenosine (AdSO
4
)
làm tăng khả năng phát triển của đỉnh chồi nuôi cấy. Đỉnh chồi phát triển tốt nhất trên môi
trường MS có chứa 1,5 mg/l BAP; môi trường thích hợp cho chồi nách sinh trưởng và phát
triển chứa 1,5 mg/l BAP và 3,0 mg/l IBA. Chồi cao 4 - 5 cm được cấy lên môi trường ½ MS
có bổ sung 1,0 mg/l NAA để tạo rễ. Sau khoảng 4 tuần, cây tái sinh hoàn chỉnh được chuyển

sang chậu có chứa compost (than bùn : cát : đất với tỷ lệ 2:1:1), phủ nilon trong hai tuần trước
khi đưa đến nhà kính.
Nghiên cứu khả năng tái sinh cây từ phôi soma tiêu đen, Joseph và cs. (1996) nhận
9
thấy từ lúc hình thành callus, phát triển phôi soma cho đến giai đoạn nảy mầm của phôi mất
khoảng 8 tháng trong môi trường rắn; trong khi chỉ mất 8 tuần trong môi trường bán lỏng.
Đồng thời, nhóm tác giả cũng cho rằng các chất điều hòa sinh trưởng ngoại sinh là không cần
thiết cho sự tăng sinh callus hay sự phát triển của phôi soma.
Hầu hết các thí nghiệm đều sử dụng môi trường MS có bổ sung các chất điều hòa sinh
trưởng thuộc nhóm auxin, cytokinin. Nguồn auxin có thể là IBA, NAA, IAA và nguồn
cytokinin gồm BA, kinetin.
Năm 2003, Sujatha và Babu đã tiến hành nghiên cứu phát sinh hình thái bằng nuôi cấy
mảnh lá cây hồ tiêu trên môi trường MS có bổ sung IAA và BA. Ngoài ra, bạc nitrat (AgNO
3
)
5 - 15 ppm đã được nhóm tác giả sử dụng trong môi trường nhằm làm tăng khả năng tạo chồi.
Tuy nhiên, theo kết quả nghiên cứu của Nair và Gupta (2006) môi trường SH có bổ
sung 3,0 - 4,5% sucrose thuận lợi cho sự phát triển của phôi và ở nồng độ sucrose 4,5% một
số phôi sớm nảy mầm.
Năm 2008, Moura và cs. đã dùng hạt để khảo sát ảnh hưởng cytokinin và than hoạt
tính lên khả năng tạo chồi cây tiêu. Trong môi trường bổ sung 0,2% than hoạt tính, nhóm tác
giả nhận thấy không có sự khác biệt trong cảm ứng chồi với nồng độ BAP sử dụng. Điều này
chỉ ra rằng than hoạt tính làm giảm tác dụng của BAP. Theo Ebert và Taylor (1990), than hoạt
tính có tác dụng hấp phụ cao chất điều hòa sinh trưởng có trong môi trường nuôi cấy. Do đó,
nó giải thích lý do tại sao có sự khác biệt giữa số lượng trung bình của chồi ở cùng nồng độ
BAP có và không có than hoạt tính. Như vậy, than hoạt tính có thể được sử dụng để làm giảm
quá trình oxy hóa của các mô. Than hoạt tính được sử dụng trong giai đoạn cuối cùng của quá
trình vi nhân giống để tạo rễ và huấn luyện cây trước khi đưa ra ngoài.
Năm 2011, Hussain và cs. đã tiến hành nghiên cứu nuôi cấy mô cây tiêu tại Pakistan.
Nhóm tác giả đã sử dụng thân, lá và đỉnh chồi của cây tiêu để nuôi cấy trên môi trường MS có

bổ sung chất điều hòa sinh trưởng thực vật (2,4-D, BA, IBA). Kết quả cho thấy, tỷ lệ callus
hình thành thấp trên môi trường bổ sung 2,4-D hoặc IBA ở các nồng độ (0,5; 1,0; 1,5; 2,0;
2,5; 3,0 và 3,5 mg/l). Trong khi đó, trên môi trường MS có bổ sung BA 1,5 mg/l thì 100%
callus được hình thành từ đỉnh chồi. Tái sinh chồi trên môi trường MS có BA 0,5 mg/l thì
100% chồi hình thành sau 14 ngày nuôi cấy. Rễ bắt đầu xuất hiện sau 8 ngày nuôi cấy trên
môi trường MS bổ sung IBA 1,5 mg/l. Cây con hoàn chỉnh được chuyển vào chậu có chứa
phân, cát, và đất theo tỷ lệ 1:1:1. Sau 2 tuần huấn luyện thích nghi với điều kiện môi trường,
cây được chuyển sang trồng ở nhà kính.
Cũng trong năm này, Ahmad và cs. (2011) đã dùng cuống lá để nghiên cứu khả năng
tái sinh cây tiêu đen trên môi trường MS có bổ sung các chất kích thích sinh trưởng với các
nồng độ khác nhau. Cảm ứng callus tốt nhất (85%) trên môi trường MS bổ sung 0,5 mg/l BA
sau 4 tuần nuôi cấy. Sau đó, nhóm tác giả cấy chuyền các callus sang môi trường tương tự để
tái sinh chồi. Khả năng tái sinh chồi cao nhất (92%) được ghi nhận ở nồng độ BA 0,5 mg/l
sau 5 tuần cấy. Số chồi tạo hình thành là 8,1 chồi/mẫu cấy. Ngoài ra, tỷ lệ tạo rễ cao nhất
(95%) khi sử dụng môi trường có bổ sung 2,0 mg/l IBA.
Năm 2012, Maju và cs. lại cho rằng khi hạt bắt đầu nảy mầm, môi trường cơ bản SH
hoặc MS là tốt hơn so với môi trường cơ bản bổ sung các chất kích thích sinh trưởng. Ngay cả
việc bổ sung nồng độ thấp BA (0,1 - 0,2 mg/l) ảnh hưởng không tốt đến sự nảy mầm và hơn
nữa cũng ảnh hường đến sự phát triển rễ của các cây con. Hạt chín cảm ứng nảy mầm tốt hơn
10
so với hạt chưa chín. Trên môi trường SH bổ sung 2,5 mg/l BA và 0,5 mg/l IAA, chồi phát
triển từ callus đỉnh chồi và đoạn thân với 18 ± 1,7 chồi/mẫu cấy. Các chồi tái sinh cao 2 - 4
cm được tách ra và chuyển đến môi trường ½ SH có chứa 0,5 mg/l IBA để tạo rễ. Cây con
hoàn chỉnh sau đó được đưa đến nhà kính với tỷ lệ sống sót 90%.
Ở Việt nam trong những năm gần đây cũng đã có nhiều công trình nghiên cứu về cây
hồ tiêu. Khác với những nghiên cứu về trồng trọt và bảo vệ thực vật, cây hồ tiêu được thực
hiện nhiều và chi tiết. Tuy nhiên, những nghiên cứu về nhân giống in vitro cây hồ tiêu được
công bố còn tương đối ít.
Kết quả của Đoàn Thị Ái Thuyền và cs. (2005) rất đáng chú ý. Công trình đã nghiên
cứu việc sử dụng kháng sinh trong khử trùng mẫu. Hồ tiêu là cây lâu năm, có nhiều mầm

bệnh nội sinh như nấm, khuẩn nằm bên trong mô. Do đó, các phương pháp khử trùng bề mặt
thông thường không thành công trong việc loại bỏ mầm bệnh. Để mẫu cấy được vô trùng
hoàn toàn, nhóm tác giả đã sử dụng cefotaxim (0,5%) kết hợp với phương pháp khử trùng bề
mặt. Kết quả không những loại bỏ được các nguồn lây nhiễm bên ngoài mà còn có tác dụng
diệt được các mầm bệnh nội sinh bên trong. Hơn nữa, để làm giảm sự tái nhiễm khuẩn mẫu
cấy, nhóm tác giả đã bổ sung 0,5% cefotaxim trong môi trường nuôi cấy ban đầu. Sau đó, cấy
chuyền mẫu sang môi trường không có chất kháng sinh để tạo chồi mới. Với phương pháp
khử trùng trên, nhóm tác giả đã nhận được 20 - 30% số mẫu sạch hoàn toàn bệnh nội sinh.
Đồng thời, nhóm tác giả cũng đã nghiên cứu ảnh hưởng của các chất điều hòa sinh trưởng lên
sự sinh trưởng và phát triển của cây hồ tiêu in vitro. Môi trường MS có bổ sung BA 2 mg/l và
IBA 0,5 mg/l thích hợp nhất cho quá trình tạo chồi từ đốt của cây hồ tiêu. Trong đó, khả năng
tạo chồi ở những đốt càng gần gốc càng cao. Điều này chứng tỏ, khi bổ sung một lượng auxin
và cytokinin thích hợp sẽ làm tăng rõ rệt số chồi hình thành ở đốt cấy. Khả năng biệt hóa chồi
từ callus tốt nhất trên môi trường MS có bổ sung BA (5,0 mg/l), IBA (0,5mg/l) và KIN (0,5
mg/l). Khả năng tạo rễ của cây hồ tiêu dễ dàng trên môi trường ½ MS có bổ sung NAA ở
nồng độ thấp (0,1 - 0,2%).
Nghiên cứu của Nguyễn Thị Kim Linh và cs. (2006) cho thấy callus không thể hình
thành trên môi trường không bổ sung auxin. Môi trường chỉ bổ sung auxin (2,4-D) riêng lẻ,
callus hình thành và phát triển chậm, không có khả năng tái sinh chồi nhưng có khuynh hướng
tạo rễ. Môi trường MS bổ sung BA (5 mg/l) phối hợp với 2,4-D (0,5 mg/l) thích hợp nhất để
tạo và nhân callus từ lá tiêu. Việc sử dụng phối hợp 3 mg/l BA và 0,3 mg/l TDZ trong cùng
một môi trường nuôi cấy đã làm tăng nhanh khả năng nhân chồi tiêu in vitro.
Đến năm 2007, Nguyễn Thị Thanh và cs. cũng đã sử dụng cefotaxim 1% kết hợp với
phương pháp khử trùng bề mặt để khử trùng hạt tiêu lột vỏ. Kết quả thu được mẫu vô trùng từ
80 - 90%. Tỷ lệ nảy mầm cao khoảng 57% so với hạt tiêu không lột vỏ. Bên cạnh đó, việc tái
sinh callus từ hạt cũng đã được nghiên cứu. Các hạt tiêu vô trùng được đặt trên môi trường
SH có bổ sung 2,4-D nồng độ từ 0,1-2 mg/l và kinetin 0,l mg/l sau một thời gian nuôi cấy
quan sát thấy callus hình thành từ vị trí mô noãn. Đồng thời, nhóm tác giả cũng tiến hành tạo
callus từ rễ khi nuôi cấy trên môi trường SH có bổ sung 0,5 mg/l 2,4-D. Callus này được cấy
chuyền nhân lên cùng môi trường. Tuy nhiên, hiệu suất hình thành callus sinh phôi cũng như

tốc độ nhân mô phôi trên môi trường không cao. Nghiên cứu tái sinh chồi trực tiếp từ đốt,
lóng, mẫu mô lá hồ tiêu cũng được nhóm tác giả thực hiện.
11
Cũng trong thời gian này, Bùi thị Tường Thu, Trần Văn Minh (2007) đã nghiên cứu
kỹ thuật tái sinh phôi soma cây tiêu (P. nigrum L.) nhằm nâng cao năng suất đồng đều trên
các vườn tiêu trồng thâm canh. Kết quả cho thấy môi trường thích hợp cho việc phát sinh tế
bào soma từ đọt thân chẻ dọc là SH + sucrose 30 (g/l) + 2,4-D (1 mg/l), tăng sinh phôi soma
trên môi trường SH + BA (1 mg/l) + sucrose 45 (g/l), tái sinh phôi soma trên môi trường MS
+ BA (5 mg/l) + KIN (3 mg/l) + NAA (0,5 mg/l), nhân nhanh thể chồi trên môi trường MS +
BA (0,5 mg/l) + nước dừa (10%), nuôi cấy phát sinh rễ trên môi trường MS + NAA (0,1
mg/l). Đây là một hệ thống nhân nhanh công nghiệp hiệu quả.
Mặt khác, khi nghiên cứu sự phát sinh hình thái trong nuôi cấy lớp mỏng tế bào (thin
cell layer) lá ở cây hồ tiêu (Piper nigrum L.), Đỗ Đăng Giáp và cs. (2009) cho thấy mẫu cấy
tTCL mảnh lá dễ dàng hình thành callus trên môi trường MS bổ sung tổ hợp 2,4-D (0,5 mg/l)
và BA (5 mg/l). Đồng thời, môi trường MS bổ sung 5 mg/l BA thích hợp cho sự phát sinh
chồi từ callus .
Ngoài việc nghiên cứu nhân giống in vitro cây hồ tiêu, các nhóm tác giả cũng đã
nghiên cứu khả năng sạch virus của cây tái sinh bằng các kỹ thuật sinh học phân tử. Bằng kỹ
thuật ELISA (Enzyme Linked Immunosorbent Assay), Phan Đức Sơn (2003) đã kết luận có 9
loại virus gây hại trên cây tiêu tại các vùng điều tra: Kiên Giang, Bà Rịa - Vũng Tàu và Bình
Phước. Năm 2005, Đoàn Thị Ái Thuyền và cs. cũng đã sử dụng kỹ thuật ELISA đối với mẫu
trước và sau khi nuôi cấy in vitro để kiểm tra sạch virus đối với các loại virus ToMV
(Tomato Mosaic Virus), PVX (Potato virus X), PVY (Potato virus Y) và CMV (Cucumber
mosaic virus) trên các giống được trồng phổ biến tại các tỉnh miền Đông Nam bộ. Mặt khác,
tác giả Nguyễn Thị Kim Linh và cs. (2006) lại sử dụng kỹ thuật SDS (Sodium Dodecyl
Sulphate) để kiểm tra 4 loại virus: TMV (Tobacco mosaic virus), ToMV, PVX và PVY trên
các chồi tiêu mới tái sinh từ callus. Kết quả cho thấy các chồi tiêu hoàn toàn sạch virus.
1.2.4. Nghiên cứu bệnh chết nhanh ở cây hồ tiêu
Bệnh chết nhanh được ghi nhận đầu tiên ở Kampong Pempen tại Lampung (Sumatera
Island), Indonesia năm 1885. Sau đó, lan rộng đến Kamong Negara Agoeng, Goenoeng Sugih

Ketjil, Djabung và Negara Batin (Rutgers, 1915). Triệu chứng tương tự được ghi nhận tại
Malang (East Java) năm 1905 (Zehtner, 1905), Bangka Island năm 1916 (Soepartono, 1953)
và Aceh năm 1929 (Muller, 1936). Dịch bệnh tại Palembang năm 1918, tại vùng phía Nam và
Đông Kalimantan năm 1930, phía Tây Java năm 1931 và Central Java năm 1933 (Soepartono,
1953). Ngày nay, bệnh chết nhanh được tìm thấy ở hầu hết các vườn tiêu của Indonesia.
Ở Malaysia, bệnh được ghi nhận đầu tiên là “chết nhanh” ở Sri Aman Divsion,
Sarawak. Năm 1940, dịch bệnh bùng phát ở Kuching và Samarahan Division, được xác định
như là bệnh hại rễ mới. Bệnh cây phát sinh hàng loạt, bắt đầu năm 1953, phá hủy khoảng 50%
vườn tiêu ở Kuching-Seria. Dịch bệnh là nguyên nhân gây mất 7.000 tấn tiêu, ước tính
khoảng 1,7 triệu USD.
Ở Ấn Độ, bệnh phát hiện đầu tiên năm 1902 ở vùng Wynad, kế là Madras. In Sarma et
al., (1991) ghi nhận bệnh do Phytophthora spp. ở Kerala, Karmataka và Tamilnadu.
Tại Indonesia, Manohara và Sato (1992) đã thu thập được 168 isolate gây bệnh thối rễ
tiêu. Trong số các isolate này, có 43 isolate được khảo sát các đặc điểm hình thái và sinh lý.
12
Kết quả cho thấy có 1 isolate không phù hợp với đặc điểm của P. palmivora MF4
(P.capsici). Loài này được nghi ngờ thuộc loài P. nicotianae var. parasitica hoặc P.
nicotianae var. nicotianae.
Tại Malaysia, Philippines, Thái Lan đã phát hiện có sự xâm nhập và gây hại của loài
Phytophthora parasitica. Tuy nhiên, loài gây hại phổ biến vẫn là loài Phytophthora capsici.
Tại Ấn Độ, Anandaraj (2000) thấy rằng rễ tơ của cây tiêu phát triển nhiều nhất vào
tháng 7 và tập trung ở tầng 0-40 cm từ gốc tiêu và ở độ sâu 40 cm. Những nghiên cứu ở
Indonesia cũng cho kết quả tương tự, có 63,8% rễ tơ ở tầng 0-50 cm. Các kết quả này cho
thấy, các yếu tố thời tiết trong mùa mưa không chỉ thích hợp cho nấm bệnh phát triển mà còn
giúp cây tiêu tạo ra các bộ phận non mẫn cảm với nấm Phytophthora spp.và rễ tiết ra dịch rễ
hấp dẫn các bào tử động nấm Phytophthora spp.
Đất ẩm ướt, đất nghèo dinh dưỡng, đất có hàm lượng canxi, magiê, kali thấp và hàm
lượng đạm cao cũng tạo điều kiện cho nấm Phytophthora spp. phát triển mạnh (Erwin và
Ribeiro, 2005).
Một trong những vi sinh vật quan trọng sống trong đất gây hại cho cây tiêu là nấm

Phytophthora spp. Nấm gây hiện tượng chết nhanh và phân bố rộng rãi trên thế giới, đặc biệt
là Châu Á, Châu Úc. Ngoài ra, còn có các loài nấm khác gây chết cây như Fusarium spp.,
Sclerotium rolfsii, Rhizoctonia solani (Barbara, Andre, 2001).
Anith et al., (2003) và Tran (2007) đã thành công trong việc phân lập các chủng vi
khuẩn Pseudomonas đối kháng với P. capsici từ vùng rễ cây tiêu có khả năng hạn chế
Phytophthora capsici gây héo cây trong vườn ươm.
Bệnh chết nhanh gây thối rễ do Phytophthoracapsici, điều trị bằng metalaxyl, hoặc
phosphonate, fosetyl-Al rất có hiệu quả (Manohara và Rizal, 2002; Wong, 2004). Trên cây sầu
riêng, Phosphonate được tiêm trực tiếp vào mạch gỗ và libe của cây hạn chế được bệnh do
nấm Phytophthora palmivora gây chảy nhựa thân cây, thối quả, đốm lá và thối rễ. Kinh
nghiệm này được Wong (2004) thử nghiệm thành công trên các gốc tiêu có đường kính rễ 7,5-
10 mm hút trực tiếp dung dịch acid phosphorous 1-2%.
Tình hình nghiên cứu trong nước
Tại Việt Nam, cũng có nhiều ý kiến khác nhau về tác nhân gây bệnh chết nhanh trên
cây tiêu. Kết quả nghiên cứu thành phần sâu bệnh hại hồ tiêu tại Tân Lâm, Quảng Trị của
Nguyễn Ngọc Châu (1995) cho biết tác nhân gây bệnh héo chết nhanh là do nấm
Phytophthora palmivora var. piperis. Từ các mẫu rễ tiêu bị bệnh thu thập được ở Long
Khánh, Đồng Nai, Nguyễn Vĩnh Trường và cs. (2002) đã xác định được nấm gây bệnh cây
tiêu tại các vùng này là Phytophthora capsici bằng phương pháp sinh học phân tử. Kết quả
nghiên cứu của Trần Kim Loang và cs. (2006) cho thấy trên cây tiêu tại Tây Nguyên có 2 loài
Phytophthora spp. gây hại là P. capsici và P. palmivora.
Một số loài nấm thuộc chủng Phytophthora spp. gây thiệt hại ngày càng cao trên một
số cây trồng ở Việt Nam, bao gồm cây ăn quả, rau, cây gia vị, và các cây công nghiệp. Mười
ba loài Phytophthora spp. đã được định danh ở nước ta, trong đó có hai loài gây thiệt hại nặng
là P. infestans trên cây cà chua và P. capsici trên hồ tiêu (Đặng Vũ Thị Thanh cs., 2004).
13
Kết quả nghiên cứu của Trần Thị Thu Hà (2007) cho thấy bệnh chết nhanh do nấm
Phytophthora capsici trên cây tiêu ở Quảng Trị là cản ngại chính cho sản xuất hồ tiêu tại địa
phương thiệt hại năng suất từ 17-18%. Xử lý hom tiêu trước khi trồng với thuốc trừ nấm có
khả năng giảm thiệt hại do nấm Phytophthora spp. gây ra cho vườn tiêu. Kết quả nghiên cứu

của Drenth và Sendal (2004) cũng cho thấy thiệt hại do bệnh chết nhanh gây ra ở Việt Nam là
15-20% do thiếu kinh nghiệm quản lý bệnh hại.
Bệnh hại nghiêm trọng nhất hiện nay đối với hồ tiêu là bệnh chết nhanh, nguyên nhân
gây bệnh là do loài nấm Phytophthora palmivora (Nguyễn Đăng Long, 1987-1988) kí sinh
trên rễ và thân ngầm gây ra. Theo nhận xét của tác giả, bệnh phụ thuộc rất nhiều vào quá trình
tích luỹ của nấm bệnh ở trong đất, nếu có thêm những tác nhân từ bên ngoài tác động vào,
bệnh sẽ dễ dàng phát triển thành dịch. Khi dịch bệnh đã phát sinh, sự lây lan nhanh chóng của
bệnh theo kiểu vết dầu loang do nước mưa chảy tràn. Những công trình nghiên cứu gần đây
nhất cho thấy bệnh chết nhanh trên cây tiêu do loài nấm Phytophthora capsici gây nên
(Nguyễn Vĩnh Trường và cs, 2002, 2004; Bùi Ngọc Thao và cs., 2010; Đoàn Nhân Ái, 2007).
Bệnh chết nhanh trên cây tiêu rất nguy hiểm, nấm gây bệnh tấn công trên tất cả các phần
của cây tiêu, và ở tất cả các thời kỳ sinh trưởng của cây, trường hợp nấm bệnh tấn công vào rễ
hoặc cổ rễ sẽ gây cây chết đột ngột (Phan Quốc Sủng, 2000).
1.2.5. Nghiên cứu thu hoạch, bảo quản và chế biến hồ tiêu
Thời gian thu hoạch hồ tiêu kéo dài 5-6 tháng ở Indonesia và 7-8 tháng ở Ấn Độ
(Dhas, Korrikanthimath, 2003). Thu hoạch hồ tiêu đúng thời điểm đóng vai trò rất quan trọng
để có sản phẩm hồ tiêu tốt và mẫu mã đẹp. Hầu hết hồ tiêu hiện nay được thu hoạch bằng tay.
Tuỳ vào loại hồ tiêu chế biến mà được thu hoạch ở mức độ già và chín khác nhau của quả hồ
tiêu. Theo Natarajan (1981) để chế biến tiêu trắng (sọ) cần thu hoạch khi chín hoàn toàn (fully
ripe); Hồ tiêu đen cần thu hoạch khi gần chín (near ripe), già hoàn toàn (fully mature); Hồ tiêu
đóng hộp thu hoạch giai đoạn 4-5 tháng; Hồ tiêu xanh được khử nước (làm khô bằng hơi) thu
hoạch trước 10-15 ngày trước khi già hoàn toàn; Chế biến Oleoresin và tinh dầu thu hoạch
trước 15-20 ngày trước khi già hoàn toàn; Chế biến bột hồ tiêu thu hoạch già hoàn toàn với
hàm lượng tinh bột cao nhất. Những thay đổi về thành phần hoá học của quả hồ tiêu từ giai
đoạn bắt đầu già (mature) đến chín (ripe) đã được nghiên cứu (Sumathykutty và cs., 1980).
Phơi khô là bước chế biến quan trọng nhất cho tất cả các loại gia vị. Hồ tiêu quả có
hàm lượng nước 60-70% ở giai đoạn thu hoạch. Quả hồ tiêu có màu xanh, khi phơi khô có
màu đen do enzyme và các hợp chất phenol bị oxy hoá bởi không khí và enzyme phenolase
(Mathew, 1994). Phương pháp truyền thống phơi khô hồ tiêu là phơi nắng, sau khi phơi 4
ngày có ẩm độ hạt dưới 10%. Trong quá trình phơi nắng chí ý đảo, tạo độ khô đồng đều trong

khi phới. Nếu phơi không khô đảm bảo độ ẩm hạt dưới 10% thì dễ nhiễm các loại nấm mốc
làm cho chất lượng sản phẩm bị kém, mẫu mã xấu (Govindarajan, 1977). Để đảm bảo chất
lượng hồ tiêu khô tốt, cần phơi trên các bề mặt sạch. Nghiên cứu do Krishnamoorthy và
Zachariah (1992) và Rajagopalan et al. (1999) về các loại bề mặt để phơi hồ tiêu, kết quả cho
thấy không có sự khác nhau.
Một kỹ thuật mới liên quan làm trắng (Blanching) các chùm tiêu xanh trong nước sôi
trong một phút đã được tiêu chuẩn hoá bởi Viện nghiên cứu Công nghệ Thực phẩm Trung
tâm (CFTRI, Central Food Technological Research Institute) ở Karnataka (Pruthi, 1993). Ưu
14
điểm của phương pháp này là làm thúc đẩy nhanh quá trình khô, màu sắc đồng nhất và giảm
nhiễm tạp chất và vi sinh vật. Tăng cường oxy hoá phenol của các enzyme pheloase trong quá
trình làm trắng và có màu sắc đen đồng đều (Mathew, 1994). Risfaheri, Hidayat (1993) cho
rằng làm trắng quả hồ tiêu trong nước nóng 80
o
C trong 1,5-5 phút trước khi phơi nắng. Tuy
nhiên kéo dài thời gian trong nước nóng có thể làm bất hoạt các enzyme và làm mất màu của
quả hồ tiêu. Kết quả của Viện Nghiên cứu Cây gia vị Ấn Độ (IISR) cho biết phương pháp xử
lý nước nóng làm giảm mức độ nhiễm vi sinh vật 75-90%.
Máy sấy bằng năng lượng mặt trời đã được phát triển bởi Trung tâm Viện Kỹ thuật
Năng lượng (CIAE, Central Institute of Agricultural Engineering) ở Tamil Nadu và được thử
nghiệm sấy các nông sản trong đó có hồ tiêu (Joy et al., 1999; Pittappillil, 2000). Ngoài ra có
nhiều loại máy sấy được thiết kế để sấy nông sản và hồ tiêu với các công suất khác nhau như
máy sấy ASTRA ở Ấn Độ (Anonymous, 1998), máy sấy khay ở Indonesia (Nurdjannah,
Hidayat, 1996).
Nhiệt độ cao trong quá trình sấy làm cho hạt hồ tiêu có màu đen bóng loáng và có thể
bán với giá cao (Patil, 1989). Các kết quả nghiên cứu của Viện nghiên cứu Cây gia vị Ấn độ
(IISR) cho biết sấy hồ tiêu ở nhiệt độ 60-65
o
C thì cũng loại trừ được tất cả vi sinh vật.
Làm sạch và phân loại là các bước thực hiện cơ bản để làm tăng giá trị của sản phẩm

hồ tiêu. Ở các qui mô nhỏ, hầu hết làm sạch bằng sàng sẩy và bằng tay hoặc sử dụng quạt sẩy.
Một số thiết bị rây sàng quay và các thiết bị khác được thiết kế để làm sạch và phân loại hồ
tiêu (Madasamy, Gothandapani, 1995; 1996; Varadharaju, Sreenarayanan, 1992; Natarajan,
1981; Pruthi, 1992). Sử dụng rây làm sạch và phân loại hồ tiêu chủ yếu dựa vào kích thước
hạt, các tiêu chuẩn được áp dụng ở Ấn Độ cho hồ tiêu xuất khẩu (Pruthi, 1993).
Hồ tiêu có thể được chế biến ở các dạng sau để làm tăng giá trị sản phẩm:
Hồ tiêu xanh khô: Thomas và Gopalakrishnan (1992) phát triển một quy trình chế biến
liên quan đến làm trắng hồ tiêu (Blanching) và sunphite kết hợp với kiểm soát sấy và giảm ẩm
độ để đảm bảo màu xanh của hồ tiêu.
Hồ tiêu xanh đóng hộp: Thu hoạch quả hồ tiêu 1 tháng trước khi già là lý tưởng cho
sản xuất tiêu xanh đóng hộp (Narayanan et al., 2000).
Hồ tiêu xanh đóng chai: Quá trình sản xuất bao gồm thu hoạch quả hồ tiêu già, đồng
nhất về kích thước. Rửa, làm sạch và nhúng vào dung dịch acid citric 20% trong 3-4 tuần. Sau
đó quả hồ tiêu được ngâm trong dung dịch, đóng chai và bảo quản tránh ánh sáng mặt trời
(Pruthi 1997a).
Hồ tiêu trắng: Được chế biến loại bỏ lớp thịt quả bên ngoài. Các bước sản xuất tiêu
trắng có thể thưc hiện theo mô tả của Pruthi (1980). Hiện nay cũng có nhiều phương pháp để
sản xuất tiêu trắng bằng nhiều phương pháp khác nhau Purseglove và cs. (1981), Anonymous
(2001).
Ngoài ra hiện nay còn có các sản phẩm tách chiết tinh dầu hồ tiêu (Pruthi, 1977b;
Narayanan cs., 2000); sản phẩm oleoresin (Risfaherin, Nurdjannah, 2000; Narayanan, 2000).
Bảo quản hồ tiêu cần được bảo vệ chống ẩm độ, ánh sáng, nhiệt và hương thơm, mùi
vị trong quá trình bảo quản. Ẩm độ hạt trước khi bảo quản dưới 10%. Các loại nấm mộc, côn
trùng cần được loại trừ trong quá trình làm sạch, phơi sấy.
Chất lượng của hồ tiêu phần lớn quyết định bởi phương pháp phơi, sấy. Mẫu mã, mức
độ nhiễm vi sinh vật, nấm mốc và côn trùng phụ thuộc trong suốt quá trình phơi, sấy
15
(Pursegolve và cs., 1981). Nếu phơi, sấy không đảm bảo thì nấm mốc sẽ phát triển trên sản
phẩm làm ảnh hưởng đến mẫu mã, chất lượng và giá trị. Để bảo quản tốt hồ tiêu thì ẩm độ hạt
là 8,20% và bảo quản ở nhiệt độ 25-28

0
C (Kachru cs., 1990).
Hợp chất alkaloid piperine là thành phần chủ yếu tạo nên vị cay của hạt hồ tiêu và các
hợp chất alkaloid khác là chavicine, piperidine và piperattine (Zachariah, 1998). Thành phần
piperine trong hồ tiêu khoảng 4-10% nhưng ở dạng thô, ở dạng tinh khiết thì thấp hơn (Pruthi,
1993). Tuy nhiên tinh bột là thành phần chủ yếu trong hạt hồ tiêu 35-40% ở tiêu đen và 53-
58% ở tiêu trắng (Govindarajan, 1977).
Chất lượng của hồ tiêu phần lớn được quyết định bởi kích thước quả, màu sắc, các
thành phần hợp chất, ẩm độ, sự hiện diện của vi sinh vật và vật ngoại lai những yếu tố này lại
được quyết định bởi quá trình thu hoạch, chế biến, bảo quản ở nông hộ và doanh nghiệp thu
mua để xuất khẩu. Trên thị trường quốc tế, các chỉ tiêu chất lượng cho thương mại hồ tiêu do
các nước nhập khẩu và sản xuất hồ tiêu đưa ra.
Tình hình nghiên cứu trong nước
Ở Việt Nam thời gian thu hoạch hồ tiêu diễn ra 2-3 tháng ở vùng Tây nguyên và Đông
Nam Bộ và 4-5 tháng ở vùng Bắc Trung bộ và Duyên hải Trung bộ. Tiêu được hái bằng tay
và thu hoạch 2-3 đợt trong một vụ (Tôn Nữ Tuấn Nam cs., 2008). Ở nước ta hiện nay tiêu chủ
yếu được chế biến ở dạng tiêu đen và tiêu trắng. Theo Tôn Nữ Tuấn Nam và cs (2008) 1 tấn
tiêu đen loại tốt sau khi chế biến thành tiêu trắng, giá trị tăng lên 5 -6 triệu đồng/tấn. Chế biến
tiêu trắng ở mức nông hộ và đại lý thu mua giúp tăng thêm giá trị gia tăng khoảng 300-500
nghìn đồng cho mỗi tấn tiêu tuỳ thời điểm (Nguyễn Tăng Tôn, 2005). Tuy nhiên việc sản xuất
tiêu trắng chưa có qui hoạch và còn gặp vấn đề về môi trường trong quá trình sản xuất có thể
gây ô nhiễm môi trường mùi hôi thối bốc lên trong quá trình ủ ngâm và lên men.
Để đánh giá chất lượng hồ tiêu Việt Nam, Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng
kết hợp với Hiệp hội Hồ tiêu Việt Nam đã xây dựng và ban hành bộ tiêu chuẩn chất lượng hồ
tiêu bao gồm: TCVN7036-2002 tiêu đen và TCVN7037-2002 tiêu trắng. Bên cạch đó hồ tiêu
Việt Nam hiện nay được chủ yếu xuất khẩu ở dạng nguyên liệu và theo các tiêu chuẩn như
FAQ (Fair Acceptable Quality) và ASTA (American Spice Trades Association) (Tôn Nữ
Tuấn Nam và cs., 2008).
1.2.6. Hiệu quả kinh tế
Tổng quan về hiệu quả kinh tế

Trong nền kinh tế thị trường, hiệu quả kinh tế là mối quan tâm hàng đầu của các nhà
sản xuất kinh doanh có thực hiện hạch toán kinh tế, là động lực, thước đo của mọi hoạt động.
Nâng cao hiệu quả kinh tế là nhiệm vụ cuối cùng của mọi nỗ lực sản xuất kinh doanh.
Hiệu quả kinh tế là phạm trù kinh tế mà trong đó sản xuất đạt cả hiệu quả kỹ thuật và
hiệu quả phân phối. Điều đó có nghĩa là cả hai yếu tố hiện vật và giá trị đều tính đến việc xem
xét sử dụng các nguồn lực trong nông nghiệp. Nếu đạt được hoặc là hiệu quả kỹ thuật hoặc là
hiệu quả phân phối thì mới chỉ là điều kiện cần chứ chưa phải là điều kiện đủ để đạt được hiệu
quả kinh tế. Chỉ khi nào việc sử dụng nguồn lực đạt tiêu chuẩn về cả hiệu quả kỹ thuật và hiệu
quả phân phối thì khi đó mới đạt hiệu quả kinh tế.
16
Có hai phương pháp kinh tế lượng được sử dụng rộng rãi trong đo lường hiệu quả kinh
tế là phân tích phi tham số màng bao dữ liệu (DEA) và phân tích biên ngẫu nhiên (SFA). Hai
phương pháp thường được ước lượng bằng bình phương bé nhất (OLS) hoặc tối đa hóa xác
suất (Maximum Livelihood) với hàm điều kiện dựa trên giá trị trung bình. Chẳng hạn như
nghiên cứu của Rosli và cs (2013) về hiệu quả kinh tế của cây hồ tiêu ở Malaysia, nghiên cứu
của Thái Thanh Hà về hiệu quả sản xuất của cao su tiểu điền ở Kon Tum, hay nghiên cứu của
Nchare (2007) về các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả kĩ thuật của hộ trồng cà phê ở
Camarun, và phân tích hiệu quả kinh tế trong sản xuất cacao ở Ghana của Aneani và cs
(2011).
Cả hai phương pháp này tuy được sử dụng rộng rãi nhưng vẫn bộc lộ những hạn chế
nhất định. Cụ thể như mức độ tin cậy của phương pháp DEA có thể bị tác động mạnh khi tồn
tại biến động ngẫu nhiên trong dữ liệu; trong khi đó phương pháp SFA lại nhạy cảm với giá
trị ngoại lai và gặp khó khăn trong xác định dạng hàm phù hợp.
Trong nhiều nghiên cứu gần đây phương pháp hồi quy phân vị (Quantile Regression)
được xem là một phương pháp tiềm năng trong đánh giá hiệu quả sản xuất nông nghiệp
với khả năng đưa ra kết quả ước lượng chính xác và toàn diện hơn. Nghiên cứu của
Shaik (2014) đã cho thấy áp dụng phương pháp hồi quy phân vị trong phân tích lại hàm
sản xuất, chi phí và hàm lợi nhuận trong ngành nông nghiệp Mỹ đưa đến những kết luận
mới, toàn diện hơn. Ở Việt nam, với đặc trưng là sản xuất nông nghiệp qui mô nhỏ và
có biến động lớn về đặc điểm nông hộ, mực độ sử dụng các đầu vào và đầu ra, việc

đánh giá hiệu quả sản xuất sử dụng hồi qui phân vị có khă năng đưa ra tham số ước
lượng chính xác hơn, đồng thời khái quát tốt hơn đặc điểm phân phối giữa các biến
trong mô hình.
Thực trạng sản xuất và tiêu thụ hồ tiêu của thế giới
Hồ tiêu là một loại nông sản có giá trị kinh tế và giá trị xuất khẩu cao. Trên thị trường thế
giới, các sản phẩm hồ tiêu được giao dịch dưới các dạng sau: tiêu đen, tiêu trắng (tiêu sọ), tiêu
xanh, nhựa dầu tiêu. Nhu cầu tiêu thụ hồ tiêu trên thế giới không ngừng gia tăng, trong khi đó
hồ tiêu chỉ trồng thích hợp ở vùng nhiệt đới nên hồ tiêu là mặt hàng nông sản xuất khẩu quan
trọng của một số nước Châu Á và Châu Phi.
Về diện tích trồng, Ấn Độ hiện có đến 231 ngàn ha hồ tiêu, đứng đầu thế giới về diện tích
tiêu. Indonesia là nước có truyển thống trồng và xuất khẩu hồ tiêu cũng có diện tích trồng lớn
là 171 ngàn ha. Việt Nam là nước thứ 3 trên thế giới về diện tích trồng hồ tiêu. Các nước còn
lại đều có diện tích tích trồng hồ tiêu không quá 50 ngàn ha như: Malaisia, Srilanka, Thái Lan,
Trung Quốc, Madagascar (Bảng 1.1)
17
Bảng 1.1. Sản lượng hồ tiêu của các nước sản xuất chính trên thế giới
ĐVT: Tấn
Quốc gia 2010 2011 2012
Việt Nam 100,000 105,000 100,000
India 50,000 40,000 40,000
Indonesia 59,000 33,000 41,000
Malaysia 24,220 27,000 28,000
Sri Lanka 17,330 13,000 13,000
Brazil 28,000 35,000 35,000
China, PR. 24,800 27,000 27,000
Thailand 20,350 10,000 11,000
Madagascar 10,321 2,500 2,500
(Nguồn: IPC, 2012)
Hồ tiêu được tiêu dùng trên hầu hết các châu lục của Thế giới bao gồm : Châu Âu, Châu
Á, Châu Mỹ, Châu Phi. Trong đó, thị phần của thị trường nhập khẩu hồ tiêu cao nhất là Châu

Âu đạt 26,506 tấn chiếm tỷ trọng 38,6% vào năm 2011 và tăng lên vào năm 2012 với 28,252
tấn tiêu nhập khẩu, chiếm 40,6%. Kế đến là Châu Á và Châu Mỹ. Châu Á năm 2011 nhập
khẩu 23,356 tấn tiêu chiếm tỉ trọng 34% và nhu cầu nhập khẩu tiếp tục tăng vào năm 2012 với
25,258 tấn tiêu nhập khẩu đạt 36,2% tổng hồ tiêu nhập khẩu trên Thế giới. Châu Phi là nước
nhập khẩu ít hồ tiêu, tỉ trọng nhập khẩu hồ tiêu thấp, đạt 8,7% với 5,937 tấn năm 2011 và 9%
với 6,251 tấn năm 2012.
Bảng 1.2. Thị trường tiêu thụ hồ tiêu năm 2011 – 2012
Thị trường
Năm 2011 Năm 2012
Số lượng
(tấn)
Tỷ trọng
(%)
Số lượng
(tấn)
Tỷ trọng
(%)
Tổng số 68,619 100 69,620 100
Châu Âu 26,506 38,6 28,252 40,6
Châu Á 23,356 34,0 25,258 36,2
Châu Mỹ 12,820 18,7 9,857 14,2
Châu Phi 5,937 8,7 6,251 9,0
( Nguồn : ICP , 2012)
Thực trạng sản xuất và tiêu thụ tiêu của Việt Nam
Tại Việt Nam, trong khoảng từ năm 1975-1981 diện tích trồng tiêu dao động từ 530 ha
đến 900 ha và sản lượng còn thấp (530 tấn/năm – 850 tấn/năm). Đến năm 1983 diện tích đạt
18
1583 ha, sản lượng 1.013 tấn/năm, đánh dấu sự phát triển đáng kể. Từ năm 1983-1995 diện
tích trồng tiêu đã không ngừng tăng lên, song những biến động của thiên tai, sâu bệnh đã làm
cho cây hồ tiêu chết hàng loạt. Tuy nhiên ở những năm đầu thế kỉ 21 diện tích cũng như sản

lượng hồ tiêu Việt Nam không ngừng tăng lên, năm 2010 tổng diện tích hồ tiêu trong cả nước
ổn định ở 51,5 ngàn ha, sản lượng lến đến 110.000 tấn. Từ năm 2003 thì Việt Nam vượt qua
Ấn Độ và trở thành nước số một về sản xuất và xuất khẩu hồ tiêu.
Tiêu Việt Nam hiện nay được trồng chủ yếu ở các tỉnh Đông Nam Bộ, tập trung nhiều
nhất ở hai tỉnh Bình Phước và Bà Rịa - Vũng Tàu, và Đồng Nai, chủ yếu trên nền đất đỏ.
Vùng trồng tiêu tập trung thứ hai là Tây Nguyên, phân bố chủ yếu ở hai tỉnh Đak Lak và Gia
Lai. Trong đó, tiêu Chư sê ở Gia Lai có năng suất rất cao, trên dưới 4 tấn/ha, Mặc dù vậy,
diện tích trồng tiêu ở Đak Lak cũng khá lớn, chiếm đến 11 ngàn ha, chỉ sau tỉnh Bình Phước
với diện tích 13,500 ha, cao nhất nước (Bảng 1.3).
Bảng 1.3. Các vùng trồng tiêu trọng điểm của Việt Nam
Thực hiện năm 2011
Vùng trồng tiêu DT Trồng DT Thu hoạch NS /BQ SL
Cả nước 52,17 46,15 23,8 110,03
6 tỉnh trọng điểm 42,17 37,15 24,6 91,53
Các tỉnh khác 10,00 9,00 20,5 18,50
Thực hiện năm 2011
DT Trồng DT Thu hoạch NS /BQ SL
Tổng 6 tỉnh điểm 42,17 37,15 24,6 91,53
Gia Lai 5,83 4,88 32,2 15,73
Đăk Lắk 4,89 4,38 26,7 11,71
Đăk Nông 7,91 6,13 21,5 13,09
Bình Phước 9,56 9,18 28,5 26,15
Đồng Nai 7,02 6,27 20,9 13,11
Bà Rịa Vũng Tàu 6,93 6,30 18,6 11,72
( Nguồn: Báo cáo ngành hàng 2011, Hiệp hội Hồ tiêu Việt Nam)
Thị trường xuất khẩu hồ tiêu của nước ta chủ yếu là ở các nước khu vực Châu Âu,
Châu Á, Châu Mỹ và một phần rất nhỏ sang Châu Phi (Bảng 1.4).
Bảng 1.4. Thị trường xuất khẩu hồ tiêu của nước ta năm 2010 - 2011
Thị trường
Năm 2010 Năm 2011

Số lượng Tỷ trọng Số lượng Tỷ trọng
(tấn) (%) (tấn) (%)
19
Tổng số 116.861 100 118.416 100
Châu Âu 47.848 41 43.134 37
Châu Á 44.843 38 41.553 35
Châu Mỹ 17.410 15 23.984 20
Châu Phi 6.760 6 9.745 8
(Nguồn: Hiệp hội hồ tiêu, 2012)
Theo Tổng cục Thống kê và Tổng cục Hải quan, năm 2008 Việt Nam xuất 89.705 tấn,
năm 2009 xuất khẩu 134.261 tấn và năm 2010 xuất khẩu 116.861 tấn với tổng kim ngạch xuất
khẩu là 311,5 triệu đô la, 348,1 triệu đô la và 421 triệu đô la. Năm 2011, Việt Nam đã xuất
khẩu đạt 118.416 tấn với tổng kim ngạch đạt 693 triệu USD tương ứng tăng 6,9% và 65% so
với năm 2010, là năm ngành hồ tiêu đạt số lượng và giá trị xuất khẩu cao nhất từ trước đến
nay.
Hồ tiêu Việt Nam đã có mặt trên 73 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới. Việt Nam
tiếp tục giữ vững kỷ lục là quốc gia sản xuất và xuất khẩu tiêu số một thế giới.
So với nhiều nước xuất khẩu tiêu khá lớn trên thế giới với cùng loại tiêu, giá trị xuất khẩu
của tiêu Việt Nam luôn ở mức thấp do một lượng lớn tiêu xuất khẩu của Việt Nam được bán
qua thị trường trung gian và chất lượng không đạt tiêu chuẩn vì phần lớn hạt tiêu Việt Nam
được chế biến thủ công là chủ yếu.
Thực trạng sản xuất và tiêu thụ tiêu của Quảng Trị
Hiệp hội Hồ tiêu Việt Nam đã công nhận Quảng Trị là một trong hai địa phương trên
cả nước (cùng với Phú Quốc) có chất lượng hồ tiêu tốt nhất, thuộc mặt hàng đặc chủng. Theo
các nhà khoa học, thời tiết khắc nghiệt đã làm cho hạt tiêu Quảng Trị săn chắc, cay hơn và
thơm hơn những nơi khác, được mua với giá cao hơn các nơi khác 1,5 lần.
Diện tích cây tiêu của Quảng Trị năm 2001 là 2.025 ha, hàng năm có bổ sung thêm
diện tích trồng mới tuy nhiên, việc tăng diện tích của các vùng không lớn, chỉ khoảng 100-
200 ha/năm. Quy mô diện tích chủ yếu tập trung ở Vĩnh Linh, Cam Lộ, Gio Linh; số còn lại
được trồng rải rác ở một số nơi khác như Hướng Hoá, Triệu Phong, Hải Lăng. Tuy nhiên, những

năm gần đây mức độ tăng diện tích chậm lại do ảnh hưởng của giá hồ tiêu bấp bênh, không ổn
định mặt khác do các đối tượng sâu bệnh đã làm ảnh hưởng khá lớn đến việc phát triển hồ tiêu
của nông dân toàn tỉnh.
Năng suất hồ tiêu của Quảng Trị rất thấp và không ổn định so với những vùng trồng
tiêu khác trong cả nước. Theo số liệu thống kê, vụ tiêu năm 2009 toàn tỉnh thu được gần 440
tấn hạt tiêu khô, dù là năm được mùa nhưng sản lượng vẫn giảm so với năm 2008 là 13,2%,
bình quân chỉ đạt trên dưới 1 tấn/ha mà nguyên nhân chủ yếu do trình độ canh tác, chế độ đầu
tư của nông dân còn rất hạn chế, và ảnh hưởng không thuận lợi của khí hậu thời tiết. Biến
động diện tích hồ tiêu ở Quản trị thể hiện ở bảng 1.5.
Bảng 1.5. Biến động diện tích trồng hồ tiêu qua một số năm ở các vùng tại Quảng Trị
(ĐVT: ha)
20
Phân bố 2006 2007 2008 2009 2010 2011
%
2011/2006
Thị xã Đông Hà 2,0 2,0 2,1 1,5 1,0 1,0 -50
Thị xã Quảng Trị 1,0 1,0 8,8 8,4 6,2 6,2 520
Huyện Vĩnh Linh 735,0 765,0 795,0 825,0 856,0 881,0 19,9
Huyện Gio Linh 412,8 415,6 431,92 417,8 426,8 422,3 2,3
Huyện Cam Lộ 522,8 556,8 562,1 572,1 297,6 307,7 -41,1
Huyện Triệu Phong 32,7 33,8 34,4 34,4 34,6 34,60 5,8
Huyện Hải Lăng 73,5 73,5 73,5 73,0 72 68,0 -7,5
Huyện Hướng Hóa 248,0 251,0 245,9 251,6 250,6 237,60 -3,8
Huyện Đakrông 66,0 36,2 36,2 36,5 37,0 37,0 - 44,70
Tổng cộng 2093,8 2134,9 2189,92 2220,3 1981,8 1995,4 - 4,7
(Nguồn: Niên giám thống kê Quảng Trị năm 2011)
Trong giai đoạn từ năm 2006-2011 diện tích hồ tiêu có sự biến động khá lớn, tổng
diện tich trên toàn tỉnh Quảng Trị năm 2006 là 2.093,8 ha nhưng đến năm 2011 tổng diện tích
là 1995,4 ha, giảm 4,7%. Diện tích hồ tiêu tăng giảm không đều giữa các huyện trong tỉnh.
1.2.7. Chuỗi cung và cách tiếp cận trong phân tích chuỗi cung

Khái niệm chuỗi cung (chuỗi giá trị)
“Chuỗi giá trị” là một khái niệm xuất hiện và phát triển trong quản lý kinh tế vào
những năm cuối thế kỷ XX và đầu thế kỷ XXI. Khái niệm này được đề cập đến lần đầu tiên
bởi Micheal Porter vào năm 1985 trong cuốn sách “Lợi thế cạnh tranh” (Competitive
Advantage). Trong đó, giá trị của sản phẩm của một doanh nghiệp được tạo ra bởi các yếu tố
như: cơ sở hạ tầng, quản trị nhân lực, nghiên cứu và phát triển (R&D), quản trị đầu vào,
logistic đầu vào, logistic đầu ra, quản trị vận hành, marketing, bán hàng và dịch. Các tác giả
sau này như Lambert (1998), Spekman (1998) mở rộng khái niệm này ra ngoài phạm vi của
một doanh nghiệp và đưa ra khái niệm chuỗi giá trị trong đó có sự tham gia của nhiều doanh
nghiệp (hoặc người tham gia). Theo các tác giả này, để đưa sản phẩm tới tay của người tiêu
dùng, cần có sự tham gia của nhiều người đảm nhận những vai trò khác nhau như: người thu
gom, người bán buôn, người bán lẻ, người chế biến Qua mỗi khâu như vậy, giá trị của sản
phẩm sẽ thay đổi.
Không chỉ cải thiện khả năng cạnh tranh cho các doanh nghiệp lớn, nâng cao khả năng
tham gia vào chuỗi giá trị cũng mang lại cơ hội cải thiện sinh kế và xóa đói giảm nghèo cho
người nông dân. Nếu xem mỗi người nông dân là một doanh nghiệp nhỏ, việc tham gia tốt
hơn vào các chuỗi giá trị sẽ giúp họ tăng thu nhập, có cuộc sống ổn định hơn cũng như các
điều kiện làm việc tốt hơn (Berg và cs. 2007).
21
Nguồn: Lambert và cs (1998)
Hình 1.1. Cấu trúc chuỗi cung
Cách tiếp cận trong phân tích chuỗi cung
Thông qua tổng hợp tài liệu, Trần Tiến Khai (2011) đã đưa ra ba hướng nghiên cứu
chính về chuỗi giá trị gồm (1) Khung khái niệm của Porter (1985); (2) Tiếp cận “filière”
(phân tích ngành hàng - CCA); (3) tiếp cận toàn cầu của Kaplinsky (1999), Gereffi (1994;
1999; 2003) và Korzeniewicz (1994). Trong khuôn khổ của chuyên đề, chúng tôi sử dụng
cách tiếp cận phân tích ngành hàng. Phân tích ngành hàng mang những đặc điểm sau: (1)
nhấn mạnh mối quan hệ định lượng và vật chất trong chuỗi; (2) sơ đồ hóa các dòng chảy của
hàng hóa vật chất; (3) sơ đồ hóa các quan hệ chuyển dạng sản phẩm.
Kênh tiêu thụ hồ tiêu Việt Nam

Hồ tiêu Việt Nam xuất khẩu chủ yếu theo tiêu chuẩn FAQ (Fair Acceptable Quality)
sang thị trường chính là Châu Á (40,9%), Châu Âu (36,7%), Châu Mỹ và Châu Đại Dương
(14,9%), và Châu Phi (7,5%), phần còn lại xuất đi nơi khác. Hồ tiêu Việt Nam đã có mặt trên
73 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới. Hiện nay tiêu đen xuất khẩu của Việt Nam chiếm
gần 43% thị phần thế giới. Những năm gần đây Việt Nam đã xuất khẩu một lượng tiêu trắng
đáng kể, năm 2004 chiếm 23% thị phần tiêu trắng của thế giới.
So với nhiều nước xuất khẩu tiêu khá lớn trên thế giới với cùng loại tiêu, giá trị xuất
khẩu của tiêu Việt Nam luôn ở mức thấp do một lượng lớn tiêu xuất khẩu của Việt Nam được
bán qua thị trường trung gian và chất lượng không đạt tiêu chuẩn vì phần lớn hạt tiêu Việt Nam
được chế biến thủ công là chủ yếu.
Kênh tiêu thụ hồ tiêu có bốn thành phần tham gia với 2 kênh tiêu thụ, trong đó kênh
tiêu thụ (1) tiêu thụ phần lớn lượng tiêu sản xuất ra.
(1) Người trồng tiêu-Người thu gom-Đại lý thu mua-Doanh nghiệp chế biến hồ tiêu
xuất khẩu (theo tiêu chuẩn FAQ/ASTA)-Xuất khẩu/Tiêu thụ trong nước.
22
(2) Người trồng tiêu-Đại lý thu mua-Doanh nghiệp chế biến hồ tiêu (theo tiêu chuẩn
FAQ/ASTA)-Xuất khẩu/Tiêu thụ trong nước.
Mối liên kết người bán - người mua
a. Phân loại và đặc điểm mối liên kết người bán – người mua
Mối liên kết giữa người nông dân và người thu mua nông sản chính là mối liên kết
người bán – người mua (seller-buyer relationship). Chất lượng của loại liên kết này được
chia làm 4 cấp độ khác nhau từ yếu đến mạnh bao gồm: trao đổi (transactional hoặc arm’s-
length relationship), hợp tác (co-operation), phối hợp (coordination) và cộng tác
(collaboration) (Duffy và Fearne, 2004) (Hình1.2).
Trong cấp độ trao đổi, cả người mua và người bán đều chỉ quan tâm đến giá cả với
những giao dịch ngắn hạn (thường là hằng năm hoặc hàng vụ). Trong cấp độ này, giá cả là
yếu tố cạnh tranh duy nhất giữa những người bán. Đây là cấp độ liên kết thường thấy trong
các cuộc bán đấu giá. Hợp tác là cấp độ mà sự trao đổi thông tin bắt đầu xuất hiện đồng thời
các hợp đồng dài hạn hơn bắt đầu được ký kết. Tuy nhiên, mức độ thông tin được trao đổi vẫn
còn ở mức độ yếu. Cao hơn, phối hợp là cấp độ mà thông tin giữa người bán và người mua

được trao đổi nhiều hơn và sự đối thoại giữa người bán với người mua được thực hiện một
cách thường xuyên hơn. Hay nói cách khác, ở cấp độ này, đã bắt đầu xuất hiện sự phối hợp
trong hành động của người bán và người mua. Trong thực tế, để phân biệt rạch ròi giữa hai
cấp độ hợp tác và phối hợp là không dễ dàng. Ở cấp độ cao nhất, cộng tác, ngoài việc trao đổi
thông tin được đẩy lên mức mạnh nhất, người bán và người mua còn tham gia vào việc lập kế
hoạch chung cũng như chia sẻ công nghệ và chiến lược phát triển. Tuy nhiên, thực tế không
thường xuyên ghi nhận được các trường hợp đạt được cấp độ liên kết này, kể cả đối với các
công ty lớn.
Nguồn: Spekman et al. (1998)
Hình 1.2. Các cấp độ liên kết người bán – người mua
Duffy và Fearne (2004) đã mô tả các đặc trưng của 2 mức độ liên kết ở 2 cực đối lập
là trao đổi và cộng tác như bảng 1.6 dưới đây.
Bảng 1.6. Các đặc điểm của liên kết trao đổi và liên kết cộng tác
Liên kết trao đổi
Ngắn hạn và các cuộc trao đổi diễn ra tách
biệt
Liên kết cộng tác
Cam kết dài hạn
23
Một người mua có nhiều người bán
Mối tương tác giữa người mua và người bán
kém
Không có kế hoạch sản xuất và kinh doanh
rõ ràng
Không có sự phối hợp về quá trình làm việc
Không đầu tư cho mối quan hệ
Thiếu thông tin
Ranh giới giữa người mua và người bán rõ
rệt
Sử dụng sự đe dọa để giải quyết mâu thuẫn

Không có động lực cải thiện mối quan hệ
Các hành động của 2 bên bị tách rời nhau
Tâm lý cơ hội (thắng – thua)
Các mục tiêu của 2 bên mâu thuẫn nhau
Hành động một cách cơ hội dựa trên lợi ích
cá nhận
Có ít người bán được lựa chọn
Người mua và người bán phụ thuộc lẫn
nhau
Sản xuất và kinh doanh theo đơn đặt hàng
trước
Làm việc một cách phối hợp
Đầu tư cải thiện cho mối quan hệ
Thông tin được chia sẻ
Hoạt động trong các đội vững chắc
Chung tay giải quyết mâu thuẫn
Cùng nhau tìm kiếm các giải pháp tiến bộ
Cả 2 bên cùng ra quyết định chung
Tâm lý hợp tác (thắng – thắng)
Mục tiêu phù hợp với mục tiêu của đối tác
Hành động dựa trên lợi ích của cả nhóm
(bao gồm cả đối tác)
Nguồn: Duffy và Fearne (2004)
b. Các yếu tố đo lường chất lượng của mối liên kết giữa người bán và người mua
Để đo lường chất lượng của mối liên kết giữa người bán và người mua trong chuỗi giá
trị, Fischer và Reynolds (2010) đã đưa ra sáu thành tố bao gồm: độ tin cậy, sự cam kết, sự
thỏa mãn, sự cân bằng sức mạnh, khả năng giải quyết mâu thuẫn và lịch sử cộng tác.
- Sự tin cậy
Morgant và Hunt (1994) giải thích độ tin cậy trong mối liên kết người bán và người
mua là sự tự tin của người tham gia (người bán, người mua) về uy tín và tính chính trực của

đối tác. Hay nói cách khác, độ tin cậy thể hiện mức độ tin tưởng của một bên (người bán
/người mua) đối với bên còn lại (người mua/người bán) rằng bên còn lại sẽ không làm ảnh
hưởng đến lợi ích chính đáng của họ. Tuy nhiên, độ tin cậy không chỉ bao hàm sự đảm bảo lợi
ích mà còn cả sự chấp nhận và chia sẻ rủi ro (Kwon và Suh, 2005).
Sự tin cậy của một người tham gia trong mối liên kết mua-bán được xuất phát từ nhiều
yếu tố cả từ bên ngoài và bên trong. Yếu tố bên ngoài bao gồm: sự ổn định, trung thực, công
bằng, trách nhiệm, sự tử tế của đối tác. Yếu tố bên trong bao gồm: khả năng tính toán, dự
đoán, nhận biết rủi ro và hoàn thành trách nhiệm của người tham gia.
Sự tin cậy được xem là nhân tố trung tâm của mối liên kết giữa người mua và người
bán. Nó là chìa khóa để mở ra sự cam kết lâu dài giữa hai bên (Morgant và Hunt, 1994, Duffy
và Fearne, 2004).
- Sự cam kết
24
Sự cam kết là sự sẵn lòng duy trì mối quan hệ giữa người mua và người bán. Có 2
hình thức cam kết giữa người mua và người bán: cam kết ý thức và cam kết hành vi (Fischer
và Reynolds, 2010). Cam kết ý thức là hình thức mà 2 bên muốn duy trì mối liên kết vì nghĩ
rằng mối liên kết này là quan trọng đối với họ. Cam kết hành vi là hình thức duy trì mối liên
kết do ràng buộc của các hợp đồng hoặc thỏa thuận. Một biểu hiện rõ nhất của một mối liên
kết có tính cam kết cao đó là các bên tham gia sẵn sàng hy sinh lợi ích ngắn hạn để duy trì
mối quan hệ trong dài hạn.
Sự cam kết là cơ sở của mối liên kết song phương giữa các mắt xích trong chuỗi giá
trị. Không có cam kết thì không thể gọi là liên kết, mối quan hệ giữa 2 bên chỉ là mối quan hệ
trao đổi thuần túy (Bonney cs., 2007).
- Sự thỏa mãn
Khi tham gia vào một mối liên kết, dù là người mua hay người bán đều kỳ vọng vào
lợi ích mà họ thu được từ mối liên kết này. Cho dù lợi ích đó là gì: lợi nhuận, việc sử dụng
nguồn lực hiệu quả hay uy tín tăng thêm thì các lợi ích này đều phản ánh sự thỏa mãn của
các bên. Như vậy, sự thỏa mãn của người bán (hoặc người mua) được định nghĩa là mức độ
mà lợi ích của mối liên kết đáp ứng được kỳ vọng của họ. Trong liên kết giữa người mua và
người bán, sự thỏa mãn đến từ rất nhiều yếu tố như: sự công bằng trong trao đổi, sự phân chia

quyền lực trong vấn đề thương lượng, việc giải quyết mâu thuẫn (Batt, 2010).
- Sự cân bằng sức mạnh
Sức mạnh của bên A trong mối liên kết với bên B được đo lường bằng độ phụ thuộc
của bên B vào bên A. Sự phụ thuộc này chính là tầm quan trọng của bên A đối với mục tiêu
của bên B. Sự phụ thuộc này càng tăng, sức mạnh của bên A trong liên kết càng tăng. Có 3
hình thái có thể xảy ra về cán cân sức mạnh giữa người mua và người bán: người bán chiếm
ưu thế (supplier dominance), người mua chiếm ưu thế (buyer dominance) và sức mạnh cân
bằng (inter-dependence).
Sự cân bằng về mức mạnh quyết định rất lớn đến việc người mua và người bán lựa
chọn mức độ liên kết nào. Barratt (2004) và Cox (2004) đã chỉ ra rằng trường hợp người bán
chiếm ưu thế sẽ dẫn đến mức độ liên kết cộng tác trong khi trường hợp người mua chiếm ưu
thế sẽ dẫn đến mức độ liên kết trao đổi. Theo Cox, sự cân bằng sức mạnh sẽ tác động rất lớn
đến cách mà người mua và người bán làm việc, trao đổi cũng như giải quyết các mâu thuẫn
chung.
- Khả năng giải quyết mâu thuẫn
Mâu thuẫn được định nghĩa là sự bất đồng giữa các đối tác mà có thể dẫn đến việc phá
vỡ mối liên kết.Hiển nhiên, mâu thuẫn là không thể tránh khỏi trong bất cứ mối quan hệ nào
kể cả quan hệ mua – bán. Mâu thuẫn có thể chia làm 2 loại: mâu thuẫn có lợi và mâu thuẫn có
hại. Vấn đề được xem xét ở đây là cách thức giải quyết các mâu thuẫn này như thế nào và mối
quan hệ sẽ đi về đâu sau khi có mâu thuẫn xảy ra. Một chiến lược giải quyết mâu thuẫn tốt
giữa hai bên sẽ mang lại rất nhiều lợi ích như: thông tin được trao đổi thường xuyên và hiệu
quả, cán cân sức mạnh sẽ cân bằng hơn và cơ chế hợp tác sẽ bền vững hơn.
- Lịch sử cộng tác
25

×