MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Các loài bạch đàn được nhập vào Việt Nam từ những năm 1930 và đến nay đã trở
thành nhóm cây trồng chủ lực trong các chương trình trồng rừng tập trung và phân tán ở nước
ta. Đến năm 2011, tổng diện tích rừng trồng Bạch đàn ở Việt Nam là 353,000 ha, chiếm 32%
diện tích rừng trồng cả nước (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, 2011). Rừng trồng
bạch đàn đã góp phần đáng kể đáp ứng nhu cầu gỗ nguyên liệu cho công nghiệp giấy, ván
dăm, gỗ trụ mỏ, gỗ xây dựng và đồ gỗ nội thất, góp phần tăng thu nhập của dân ở các nơi
trồng rừng ở nước ta.
Bạch đàn urô (Eucalyptus urophylla S.T. Blake) là loài cây sinh trưởng nhanh, thích
nghi tốt với điều kiện lập địa ở miền Bắc, miền Trung và khu vực Tây Nguyên. Gỗ của
Bạch đàn urô thường được sử dụng làm gỗ nguyên liệu giấy và ván dăm. Trong khi đó,
Bạch đàn pellita (Eucalyptus pellita F.Muel.) tuy mới được nhập vào Việt Nam nhưng cũng
đã thể hiện là loài cây có triển vọng trong trồng rừng, có khả năng chịu hạn và sâu bệnh tốt,
tính chất gỗ rất phù hợp cho đóng đồ mộc cao cấp.
Trong những năm gần đây, chọn tạo các giống bạch đàn lai và sử dụng trong trồng
rừng là hướng đi mới có nhiều triển vọng và góp phần nâng cao năng suất rừng trồng ở Việt
Nam (Lê Đình Khả và Nguyễn Việt Cường, 2000). Trong giai đoạn 2000 - 2005, kết hợp
khảo nghiệm hậu thế thế hệ 1 với xây dựng vườn giống Bạch đàn urô, Trung tâm nghiên
cứu Giống cây rừng (nay là Viện nghiên cứu Giống và Công nghệ sinh học Lâm nghiệp) đã
chọn được một số gia đình và cá thể tốt cho các nghiên cứu cải thiện giống tiếp theo. Tiếp
nối chương trình cải thiện giống, trong giai đoạn 2006 - 2010, Viện đã xây dựng các quần
thể chọn giống thế hệ 2 cho Bạch đàn urô và các quần thể chọn giống thể hệ 1 cho Bạch đàn
pellita, từ đó đã tạo được một số tổ hợp lai giữa hai loài này và đưa vào khảo nghiệm giống
tại Ba Vì - Hà Nội, Nam Đàn - Nghệ An, Đông Hà - Quảng Trị.
Tuy nhiên các nghiên cứu trước đây mới chỉ tập trung tiến hành các nghiên cứu đối
với các khảo nghiệm hậu thế thế hệ 1, còn các khảo nghiệm hậu thế thế hệ 2 và khảo
nghiệm dòng vô tính Bạch đàn lai UP mới nghiên cứu đánh giá về biến dị sinh trưởng. Vì
vậy, việc đi sâu nghiên cứu biến dị di truyền về sinh trưởng và một số tính chất gỗ, nhằm
đẩy nhanh quá trình chọn giống đối với Bạch đàn urô và Bạch đàn lai UP, tạo ra các giống
vừa sinh trưởng nhanh vừa có chất lượng tốt là rất cần thiết. Đề tài “Nghiên cứu đặc điểm
biến dị và khả năng di truyền về sinh trưởng và một số tính chất gỗ của Bạch đàn urô (E.
urophylla ST. Blake) và một số dòng Bạch đàn lai tại Việt Nam” của nghiên cứu sinh là một
phần trong đề tài “Nghiên cứu cải thiện giống nhằm tăng năng suất, chất lượng cho một số loài
cây trồng rừng chủ lực” (giai đoạn 2005 - 2010 và 2011 - 2015), do TS. Hà Huy Thịnh làm chủ
nhiệm, mà nghiên cứu sinh là một trong những cộng tác viên chính của đề tài.
2. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
- Ý nghĩa khoa học của đề tài
Kết quả của luận án là cơ sở khoa học cho cải thiện giống bạch đàn theo hướng nâng
cao năng suất và chất lượng gỗ cho trồng rừng gỗ xẻ.
- Ý nghĩa thực tiễn của đề tài
+ Dựa trên các kết quả nghiên cứu về biến dị và khả năng di truyền về sinh trưởng và
chất lượng gỗ trong các khảo nghiệm hậu thế thế hệ 2 và các khảo nghiệm giống lai UP, đề
tài đã chọn được 11 dòng Bạch đàn urô và Bạch đàn lai UP có sinh trưởng tốt, được Bộ
Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn công nhận là giống Quốc gia và giống tiến bộ kỹ
1
thuật. Tại Ba Vì – Hà Nội trung bình 5 dòng (UP35; UP72, UP95, UP97 và UP99) vượt
PN14 56,3% và vượt 52,5% so với dòng U6 về thể tích thân cây; tại Đông Hà – Quảng Trị
là các dòng UP54, U892 vượt 54,9% tới 127% so với đối chứng sản xuất đại; tại Nam Đàn –
Nghệ An trung bình của 4 dòng (U821, U416, U262 và dòng U1088) vượt 23% so với dòng
U6 về thể tích thân cây.
+ Đã xác định được giai đoạn 3 tuổi là phù hợp để đánh giá sinh trưởng và khối
lượng riêng của gỗ Bạch đàn urô.
+ Kết quả đánh giá về sinh trưởng trong khảo nghiệm hậu thế thế hệ 2 là cơ sở để lựa
chọn được tập đoàn các cây mẹ cung cấp hạt giống xây dựng vườn giống thế hệ kế tiếp,
đồng thời cũng xác định được các cây, các gia đình cần tỉa thưa để chuyển hóa khảo nghiệm
hậu thế thế hệ 2 thành vườn giống có chất lượng.
3. Mục tiêu nghiên cứu
- Mục tiêu chung
Xác định được một số cơ sở khoa học phục vụ chọn giống bạch đàn.
- Mục tiêu cụ thể
+ Xác định được đặc điểm biến dị và khả năng di truyền của một số tính trạng sinh
trưởng, chất lượng thân cây và một số tính chất gỗ.
+ Xác định được một số dòng Bạch đàn urô và Bạch đàn lai UP có năng suất cao và
chất lượng thân cây tốt cho trồng rừng sản xuất
4. Những điểm mới của luận án
- Là lần đầu tiến đánh giá một cách tổng hợp và toàn diện biến dị và khả năng di truyền về
các tính trạng sinh trưởng, chất lượng thân cây, khối lượng riêng của gỗ và hàm lượng cellulose
của các gia đình trong các khảo nghiệm hậu thế thế hệ 2 và dòng vô tính Bạch đàn urô.
- Cung cấp một số cơ sở khoa học cho việc chọn giống Bạch đàn lai UP sinh trưởng
nhanh, có tính chất gỗ tốt và xác định được một số dòng ưu việt Bạch đàn lai UP.
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Trên thế giới
Bạch đàn urô (Eucalyptus urophylla ST. Blake) có nguồn gốc từ Indonesia và Đông
Timor, có sức sinh trưởng nhanh, trên nhiều điều kiện lập địa khác nhau. Do Bạch đàn urô
đóng một vai trò quan trọng trong trồng rừng nên đã có nhiều nghiên cứu về loài cây này,
bao gồm các nghiên cứu về đặc điểm sinh học đến kỹ thuật gây trồng cũng như khả năng sử
dụng.
Biến dị giữa các xuất xứ về sinh trưởng và khối lượng riêng của gỗ Bạch đàn urô đã
được nghiên cứu ở nhiều nước (Eldridge et al., 1993; Hodge et al., 2001; Ngulube, 1989;
Tripiana et al., 2007; vercoe & Clarke, 1994; Wei & Borralho, 1998a). Các nghiên cứu cũng
chỉ ra rằng các xuất xứ ở vùng thấp từ đảo Flores nhìn chung sinh trưởng tốt tại các địa
điểm trồng thuộc vùng thấp. Ngoài ra, biến dị lớn giữa các xuất xứ về khối lượng riêng của
gỗ đã được tìm thấy ở Nam Phi (Darrow & Roeder, 1983) và Malawi (Ngulube, 1989), nơi
có hàng loạt các xuất xứ đã trồng khảo nghiệm. Ngulube (1989) đã phát hiện ra khối lượng
riêng của gỗ ở các xuất xứ có xu hướng giảm khi độ cao phân bố của xuất xứ tăng. Tuy
nhiên sự khác biệt về khối lượng riêng của gỗ không đáng kể giữa các xuất xứ ở vùng thấp
tại các khảo nghiệm ở Trung Quốc (Wei & Borralho, 1997).
2
Các xuất xứ bạch đàn pelita. Kết quả cho thấy ở vùng thấp nhiệt đới các xuất xứ
Bạch đàn pellita từ Papua New Guinea có sinh trưởng nhanh, dạng thân đẹp và khả năng
chống chịu bệnh tốt hơn so với các xuất xứ ở vùng đông bắc Queensland, Australia. Trong
khi đó các xuất xứ ở vùng đông bắc Queensland có sinh trưởng tương đương các xuất xứ tốt
nhất của vùng Papua New Guinea, Pinyopusarerk (1996); Harwood (1998).
Hệ số di truyền theo nghĩa hẹp của các tính trạng sinh trưởng biến động từ 0,10 đến
0,30, với giá trị trung bình là 0,20. Hệ số biến động di truyền lũy tích nằm trong khoảng 7%
đến 13% cho đường kính và chiều cao (Apiolaza et al., 2005; Gapare et al., 2003; Hamilton
& Potts, 2008). Khối lượng riêng của gỗ là một chỉ tiêu ngày càng được quan tâm nghiên cứu
nhiều trong những năm gần đây, vì chúng có liên quan chặt chẽ tới các tính chất cơ lý và hiệu
suất bột giấy (Dinwoodie, 2000). Hệ số di truyền của khối lượng riêng của gỗ bạch đàn
thường biến động trong khoảng 0,29 đến 1,0, với giá trị trung bình 0,67 và giá trị này cũng
hoàn toàn phù hợp với hầu hết các loài cây rừng (Cornelius, 1994). Theo các kết quả nghiên
cứu về bạch đàn của Raymond (2002) thì hệ số di truyền về khối lượng riêng của gỗ cao hơn
hệ số di truyền của hiệu suất bột giấy và chiều dài sợi gỗ trong bạch đàn E. globulus và E.
nitens. Theo Cornelius (1994) khối lượng riêng của gỗ biến động trong phạm vi nhỏ. Cũng
theo Cornelius (1994) thì hệ số biến động di truyền lũy tích cho khối lượng riêng của gỗ là
5,1%. Nghiên cứu tương quan tuổi – tuổi của Marques (1996); Osorio (2003); Wei &
Borralho (1998a) tương quan di truyền của các tính trạng sinh trưởng thường cũng rất chặt
do vậy, công tác chọn giống có thể thực hiện sớm ở độ tuổi 1 đến 3 năm. Sự tương tác kiểu
gen – hoàn cảnh rất mạnh cho tính trạng sinh trưởng như công trình của Mahmood (2003);
Mori (1988); Pinyopusarerk (1996); Raymond (2001); Varghese (2008). Khối lượng riêng
gỗ, hàm lượng cellulose và hiệu suất bột giấy của các tác giả Kube (2001); MacDonald
(1997); Raymond (2002); Raymond (2001); Wei & Borralho (1997) cho thấy có tương quan
rất yếu, hoặc có tương quan nhưng không tồn tại.
Lai giống để tạo ra giống lai có ưu thế lai là hướng đi mà các nhà chọn giống từ lâu đã
rất quan tâm. Các nghiên cứu về lai giống của các tác giả Shelbourne và Danks (1963); Assis
(2000); Martin (1989); Shen, (2000); Rezende & Rezende (2000); Bouvet & Combes (1997);
Eldridge (1993); Verryn (2000); Bauvet (1997). Các kết quả nghiên cứu về phép lai ba cho thấy
sinh trưởng về thể tích ở tuổi 7 của những cá thể lai ba [E. urophylla x (E. camaldulensis x E.
grandis)] là 0,331 m
3
/cây, vượt trội các cây lai tốt nhất của các tổ hợp lai đôi (E. grandis x E.
urophylla, E. grandis x E. camaldulensis, E. urophylla x E. camaldulensis) và loài thuần bạch
đàn urô và grandis, các giá trị tương ứng là 0,290 m
3
/cây, 0,253 m
3
/cây, 0,234 m
3
/cây, 0,229
m
3
/cây, và 0,247 m
3
/cây.Nghiên cứu cải thiện giống cho bạch đàn pelita của Bouvet &
Vigneron, (2009); Harwood (1998) kết quả cho thấy giống lai sinh trưởng nhanh, vượt từ 20 –
25% so với các loài bố mẹ. Nghiên cứu chọn lọc và phát triển rừng tròng dòng vô tính của các
tác giảEldridge, 1993;Turnbull, 1999. Ỏ một số lô thí nghiệm 6 – 8 tuổi, rừng trồng bạch đàn đã
cho tăng trưởng 70 – 90 m
3
/ha/năm. khối lượng riêng gỗ tăng từ 480 lên 490 kg/m
3
, năng suất
bột giấy từ 47% tăng lên 49%, hàm lượng vỏ giảm từ 18% xuống còn 12%.
1.2. Ở Việt Nam
Bạch đàn urô là loài cây có thích ứng cao, sinh trưởng nhanh và hiện đang là loài cây
trồng chủ lực trên các lập địa đất đồi trọc, nghèo dinh dưỡng ở vùng Trung tâm miền Bắc,
Bắc Trung Bộ và vùng Tây Nguyên. Các xuất xứ triển vọng của Bạch đàn urô là Lewotobi
Flores, Egon Flores cho vùng trung tâm, xuất xứ Lembata Flores cho vùng Bắc Trung bộ
(Nguyễn Dương Tài, 1994; Lê Đình Khả và cộng sự, 1996; Lê Đình Khả, 2003).
3
Trong các năm 1996 – 1998 dự án FORTIP về cải thiện giống cây rừng do Trung tâm
nghiên cứu giống cây rừng hợp tác với Khoa Lâm nghiệp và sản phẩm rừng của CSIRO đã
xây dựng được 2 khảo nghiệm hậu thế (thế hệ 1) tại Ba Vì – Hà Nội (144 gia đình thuộc 9
xuất xứ) và Vạn Xuân – Phú Thọ (144 gia đình thuộc 9 xuất xứ). Sinh trưởng tại khảo
nghiệm hậu thế Vạn Xuân – Phú Thọ ở giai đoạn 9 năm tuổi (2005) cho thấy đường kính
biến động trong khoảng 8 – 35 cm. Trong 144 gia đình được dùng để xây dựng khảo
nghiệm hậu thế tại Vạn Xuân thì 35 gia đình thuộc xuất xứ Lewotobi Flores, trong đó có
đến 12 trong tổng số 20 gia đình sinh trưởng nhanh nhất đã được chọn từ vườn giống. Xuất
xứ Egon Flores tuy có 36 gia đình được dùng để xây dựng khảo nghiệm hậu thế song chỉ có
2 gia đình sinh trưởng nhanh nhất đã được chọn. Các xuất xứ khác chỉ có thể chọn được 1-2
gia đình. Điều đó chứng tỏ Lewotobi Flores là xuất xứ có triển vọng nhất ở Vạn Xuân. Tại
Ba Vì giai đoạn 8 tuổi (năm 2005) khảo nghiệm có đường kính trung bình là 18 cm, thể tích
trung bình 244 dm
3
/cây. Trong 20 gia đình sinh trưởng nhanh nhất của khảo nghiệm hậu thế
thì đã có 8 gia đình của xuất xứ Lewotobi Flores, 1 gia đình của xuất xứ Egon Flores và 1 gia
đình của xuất xứ Waikui Central Alor. Những gia đình được chọn chỉ là theo kiểu hình về
sinh trưởng đường kính và chiều cao (Hà Huy Thinh và cộng sự, 2006).
Bạch đàn pelita được đưa vào khảo nghiệm ở Việt Nam từ năm 1990 thông qua các
khảo nghiệm xuất xứ ở Ba Vì, Đông Hà và Bầu Bàng. Kết quả nghiên cứu cho thấy các xuất
xứ có triển vọng của loài này cho trồng rừng ở nước ta là Kuranda, Helenvale, Bloomfield
và Kiriwo cho vùng Nam Bộ và duyên hải miền Trung (Lê Đình Khả, 2003).
Giai đoạn 2000-2002, Trung tâm nghiên cứu giống cây rừng đã nhập hơn 100 gia
đình cây trội bạch đàn pellita thuộc 7 xuất xứ tự nhiên ở Papua New Guinea và Indonesia,
và 3 vườn giống thế hệ 1 từ miền bắc Australia. Từ nguồn hạt nhập khẩu này kết hợp với
hạt giống các cây trội thu tại Bầu Bàng, đã xây dựng hai khảo nghiệm hậu thế kết hợp làm
vườn giống tại Bầu Bàng (Bình Dương) và Plâyku (Gia Lai) vào năm 2002. Kết quả đánh
giá sau 3 năm trồng tại Bầu Bàng cho thấy nhóm có triển vọng nhất gồm các xuất xứ lấy từ
vườn giống Cardwell (Qld) và vườn giống Melvile (NT) (Hà Huy Thịnh và cộng sự, 2006).
Hệ số di truyền theo nghĩa hẹp của Bạch đàn urô đã được tính toán cho các tính trạng
sinh trưởng. Các tính trạng sinh trưởng, độ dày vỏ có hệ số di truyền đạt mức trung bình đến
khá (h
2
=0,22 - 0,38). Các tính trạng chất lượng thân cây như độ thẳng thân, độ nhỏ cành có
hệ số di truyền tương đối thấp (0,13 - 0,18), khối lượng riêng gỗ có hệ số di truyền cao (0,52
- 0,57). Hệ số di truyền theo nghĩa hẹp của Bạch đàn pelita về đường kính, chiều cao, thể
tích và pilodyn cho hai lập địa tại Bầu Bàng và Plâyku. Kết quả cho thấy hệ số di truyền của
các tính trạng sinh trưởng ở mức trung bình (0,17 – 0,30) trong khi đó hệ số di truyền của
pilodyn là từ 0,38 – 0,42 (Hà Huy Thịnh và cộng sự, 2010).
Khối lượng riêng gỗ được chú ý trong những năm gần đây, xác định khối lượng riêng
gỗ của bạch đàn urô tại cả hai khảo nghiệm hậu thế cho thấy khối lượng riêng gỗ ở cả hai
vườn về cơ bản là như nhau (khối lượng riêng gỗ trung bình của KNHT Vạn Xuân là 517
kg/m
3
thì trung bình của KNHT Ba Vì là 514 kg/m
3
). Song biến dị về khối lượng riêng giữa
các cây trong từng vườn giống lại rất lớn (từ 390 đến 630 kg/m
3
). Kết quả đánh giá tương tác
giữa xuất xứ và lập địa, giữa gia đình và lập địa của bạch đàn urô cho thấy sự tương tác về các
chỉ tiêu sinh trưởng và khối lượng riêng gỗ không có ý nghĩa giữa hai lập địa (Ba Vì – Hà Nội
và Vạn Xuân – Phú Thọ) (Hà Huy Thịnh và cộng sự, 2010). Mối tương quan giữa hai lập địa
(Bầu Bàng – Bình Dương và Plâyku – Gia Lai) về thể tích thân cây và pilodyn của bạch đàn
pelita. Kết quả phân tích tương tác di truyền hoàn cảnh cho các chỉ tiêu sinh trưởng và
pilodyn cho thấy các chỉ tiêu sinh trưởng bị ảnh hưởng mạnh của tương tác này trong khi trị
4
số pilodyn bị ảnh hưởng ít hơn. Vì vậy cần nghiên cứu chọn giống riêng biệt cho cho hai vùng
Đông Nam Bộ và Gia Lai để thu được tăng thu di truyền tối đa về sinh trưởng.
Từ năm 1991 Trung tâm Nghiên cứu giống cây rừng đã tiến hành chọn lọc cây trội và
ghép cho một số cây Bạch đàn urô, Bạch đàn caman và Bạch đàn liễu, các năm 1996 – 2000,
đã nghiên cứu vật hậu, cất trữ hạt phấn và lai giống cho 3 loài nói trên. Bằng phương pháp thụ
phấn có kiểm soát đã tiến hành lai giống thuận nghịch và tạo ra hơn 70 tổ hợp lai gồm: UC,
CU, UE, EU, CE, EC và UU đã được khảo nghiệm tại các nơi có điều kiện lập địa khác nhau.
Khảo nghiệm các tổ hợp lai giữa các loài Bạch đàn urô, Bạch đàn trắng caman và Bạch đàn
liễu đều sinh trưởng nhanh hơn các loài bố mẹ (Lê Đình Khả, Nguyễn Việt Cường, 2000,
2001, 2003). Ưu thế lai thay đổi theo những điều kiện lập địa khác nhau, cùng hai bố mẹ
tham gia lai giống nhưng lai thuận nghịch (có nghĩa là đổi vị trí làm bố và làm mẹ cho nhau)
đã tạo nên sự thay đổi rất lớn về thể tích thân cây ở các điều kiện lập địa khác nhau. Ưu thế
lai vừa chịu ảnh hưởng của nhân tố di truyền vừa chịu ảnh hưởng của điều kiện ngoại cảnh.
Trong khuôn khổ dự án Sida-SAREC về nghiên cứu cải thiện giống cây rừng, Trung
tâm nghiên cứu giống cây rừng đã tạo ra được hơn 60 tổ hợp lai UP (E. urophylla x E.
pellita) và PU (E. pellita x E. urophylla) (chủ yếu là UP) và một số khảo nghiệm đã được
xây dựng tại Hà Nội, Nghệ An, Quảng Trị và Bình Dương. Kết quả đánh giá ở giai đoạn 30
tháng tuổi có sự khác biệt rất lớn về sinh trưởng của các tổ hợp Bạch đàn lai trên các lập địa.
Kết quả đã xác định được 4 tổ hợp lai có triển vọng bao gồm: U70P28, U87P22 và U87P8
cho lập địa Ba Vì; U87P22 và U70P48 cho lập địa Đông Hà. Đây là những tổ hợp lai có
sinh trưởng tốt hơn rõ rệt so với các giống đối chứng là U6 và PN14, với độ vượt trung bình
về thể tích từ 20 – 50% (Nguyễn Đức Kiên và cộng sự, 2009).
Chọn lọc cây trội Bạch đàn urô (E. urophylla) và khảo nghiệm dòng vô tính đã được
Trung tâm cây nguyên liệu giấy Phù Ninh thực hiện từ năm 1995 đến nay nhằm tạo ra các dòng
có năng suất cao. Từ 1995-1998 có 16 dòng Bạch đàn urô được chọn lọc như PN2, PN3, PN4,
PN14, PN18, PN19, PN231, v.v., và các dòng được chọn từ Trung Quốc: U16, GU, U6 và cây
hạt sản xuất đại trà. Khảo nghiệm tại Sóc Đăng và Gia Thanh sau 39 tháng hai dòng Bạch đàn urô
có năng suất và chất lượng cao nhất là PN2 và PN14 có thể tích thân cây 19,6-22,5 dm
3
/cây (tại
Sóc Đăng) và 22,0-26,6 dm
3
/cây (Gia Thanh) (Trung tâm cây nguyên liệu giấy Phù Ninh, 1998).
Chọn được 30 cây lai tốt nhất thuộc 8 tổ hợp lai khác nhau và khảo nghiệm tại một số
vùng sinh thái cho thấy một số dòng rất có triển vọng. Những dòng sinh trưởng nhanh nhất
là những dòng thuộc tổ hợp lai U29E1, U29E2, U15E4, C2U17 và U29C3 được khảo
nghiệm tại Tam Thanh. Khảo nghiệm giống lai tại một số nơi khác cũng thu được kết quả
tương tự (Nguyễn Việt Cường, 2003).
Theo kết quả nghiên cứu của Phạm Quang Thu (2009) thì mức độ gây hại do nấm
Cryptosporiopsis eucalypti và Cylindrocladium quinqueseptatum gây và nấm
Cylindrocladium quinqueseptatum là như nhau. Các tỉnh miền Bắc dòng PN2 và U6 bị
bệnh rất nặng do nấm gây bệnh hại lá Cryptosporiopsis eucalypti và Cylindrocladium
quinqueseptatum. Các loài Bạch đàn urô (E. urophylla) Bạch đàn pelita (E. pellita) có tỷ lệ
bị bệnh và mức độ thấp hơn so với Bạch đàn Trắng Camal (E. camaldulensis) (Phạm Quang
Thu, 2005). Bạch đàn pelita hầu như không bị bệnh tàn lụi và khô cành do nấm
Cryptosporiopsis eucalypti và Cylindrocladium gây ra. Bạch đàn pelita hầu như cũng không
bị bệnh ung bướu gây ra do loài côn trùng Leptocybe invasa (Phạm Quang Thu, 2009).
5
CHƯƠNG 2
NỘI DUNG, VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Nội dung nghiên cứu
2.1.1. Nghiên cứu biến dị về sinh trưởng và một số tính chất gỗ của Bạch đàn urô (E.
urophylla) và một số giống Bạch đàn lai UP (E. urophylla x E. pellita) trên một số vùng sinh thái.
2.1.2. Nghiên cứu khả năng di truyền và tương tác di truyền hoàn cảnh về sinh trưởng
của Bạch đàn urô và một số giống Bạch đàn lai UP trên một số vùng sinh thái.
2.1.3. Nghiên cứu tương quan giữa các chỉ tiêu sinh trưởng và tính chất gỗ của Bạch đàn urô và
một số giống Bạch đàn lai UP; tương quan tuổi - tuổi của của các tính trạng sinh trưởng của Bạch đàn urô.
2.1.4. Nghiên cứu tương quan di truyền và tương tác di truyền hoàn cảnh về một số
tính chất gỗ (Khối lượng riêng và hàm lượng cellulose) ở Bạch đàn urô và Bạch đàn lai UP.
2.2. Vật liệu nghiên cứu
Vật liệu nghiên cứu của luận án là các gia đình Bạch đàn urô tại hai khảo nghiệm hậu
thế Ba Vì và Đông Hà và các dòng Bạch đàn urô được chọn lọc từ vườn giống thế hệ 1 Ba
Vì và từ khảo nghiệm hậu thế (thế hệ 2) cũng tại Ba Vì Các dòng bạch đàn lai UP được
chọn lọc từ khảo nghiệm giống lai tại Ba Vì
2.3. Phương pháp nghiên cứu
2.3.1. Phương pháp tiếp cận
- Kế thừa và sử dụng số liệu, hiện trường nghiên cứu đã có hoặc các kết quả ở dạng
trung gian và chuyển tiếp của các đề tài; các quần thể chọn giống và rừng trồng thí nghiệm
đã có của các giai đoạn trước do Viện nghiên cứu giống và công nghệ sinh học Lâm nghiệp
thực hiện để triển khai các nội dung nghiên cứu của đề tài.
- Các phương pháp nghiên cứu chủ yếu là dựa vào chọn giống truyền thống trên cơ
sở các đặc điểm về di truyền và biến dị của di truyền học số lượng là chủ đạo.
- Luận án không chỉ tập trung nghiên cứu biến dị và khả năng di truyền mà còn nghiên
cứu tương quan di truyền và tương quan kiểu hình của một số tính trạng nghiên cứu.
2.3.2. Phương pháp bố trí thí nghiệm
- Khả nghiệm hậu thế Bạch đàn urô thiết kế thí nghiệm khối ngẫu nhiên không đầy
đủ, hàng - cột (row - column design), bố trí 8 lần lặp, mỗi ô bố trí 4 cây/gia đình, khoảng
cách trồng là 3 x 2m. Trong đó gồm 78 gia đình là 78 cây trội tại vườn giống (thế hệ 1) Ba
Vì, vườn giống (thế hệ 1) Vạn Xuân, từ rừng giống Ba Vì và đối chứng U6, PN14.
- Khảo nghiệm Bạch đàn urô tại Ba Vì bố trí theo khối ngẫu nhiên không đầy đủ, 10
cây/dòng, 70 công thức được lặp lại 5 lần lặp.
- Khảo nghiệm dòng vô tính Bạch đàn urô tại Nam Đàn bố trí theo khối ngẫu nhiên
không đầy đủ, 10 cây/dòng, 50 công thức được lặp lại 4 lần lặp.
- Khảo nghiệm dòng vô tính Bạch đàn lai tại Đông Hà bố trí theo khối ngẫu nhiên
không đầy đủ, 10 cây/dòng, 40 công thức được lặp lại 4 lần lặp.
- Khảo nghiệm dòng vô tính Bạch đàn lai tại Ba Vì bố trí theo khối ngẫu nhiên không
đầy đủ, 10 cây/dòng, 42 công thức được lặp lại 5 lần lặp.
6
2.3.3. Phương pháp thu thập số liệu
2.3.3.1. Điều tra các chỉ tiêu sinh trưởng: điều tra tất cả các cây trong các ô của khu
khảo nghiệm theo phương pháp được trình bày trong giáo trình Điều tra rừng (Vũ Tiến
Hinh, Phạm Ngọc Giao, 1997)
2.3.3.2. Điều tra các chỉ tiêu phản ánh chất lượng thân cây: điều tra tất cả các cây trong các ô
của khu khảo nghiệm (Lê Đình Khả & Dương Mộng Hùng, 2003), trong đó: Độ thẳng thân (Dtt); Độ
nhỏ cành ( ); Chỉ tiêu sức khoẻ (Sk) được xác định bằng mục trắc và cho điểm theo 5 cấp (1 - 5)
2.3.4. Phương pháp xác định khối lượng riêng của gỗ
2.3.4.1. Xác đinh gián tiếp khối lượng riêng của gỗ bằng Pilodyn: Thông qua một chỉ
tiêu gián tiếp có tên là Pilodyn (Greaves et al, 1996; Wang, 1999).
2.3.4.2. Xác định khối lượng riêng của gỗ
Xác định khối lượng riêng của gỗ trực tiếp bằng phương pháp nước chiếm chỗ
(Valencia&Vargas, 1997)
2.3.4.3. Xác định hàm lượng Cellulose
Xác định hàm lượng cellulose cho mẫu nhỏ theo phương pháp Diglyme - HCl của Wallis (1996)
2.3.5. Phương pháp xử lý số liệu
Số liệu được xử lý bằng các phần mềm thống kê thông dụng trong cải thiện giống
bao gồm DATAPLUS 3.0 và Genstat 7.0 (CSIRO), SAS 8.0 (SAS Institute, 2002) và
ASREML 1.0 (VSN International).
CHƯƠNG 3
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
3.1. Biến dị về sinh trưởng và chất lượng thân cây Bạch đàn urô và Bạch đàn lai
Biến dị là cơ sở cho việc lựa chọn xuất xứ, gia đình và cá thể. Tuỳ theo đặc điểm biến
dị và phạm vi phân bố mà loài có biến dị lớn hay nhỏ, nhiều hay ít. Phạm vi biến dị càng lớn
thì tăng thu di truyền nhận được càng cao. Nói cách khác sai khác giữa các xuất xứ và gia
đình của loài càng lớn thì tăng thu di truyền đạt được qua chọn lọc càng cao.
Các chỉ tiêu về sinh trưởng như đường kính, chiều cao, thể tích và một số chỉ tiêu về
hình dạng thân như độ thẳng thân, độ nhỏ cành, góc phân cành , là những tính trạng dễ đo
đếm và có vai trò quan trọng đến năng suất và chất lượng rừng. Vì lẽ đó, trong bất kỳ các
chương trình cải thiện giống nào đều phải xem xét và đánh giá. Do Bạch đàn urô là một loài
cây trồng rừng kinh tế chủ lực, vì vậy việc cải thiện giống ở cường độ cao cần được tiến
hành ở mức độ chọn lọc gia đình và chọn lọc cá thể ưu trội trong gia đình ưu việt.
Nghiên cứu đánh giá biến dị về sinh trưởng và chất lượng thân cây giữa các gia đình
trong luận án này được thực hiện ở hai khảo nghiệm hậu thế thế hệ 2. Đó là khảo nghiệm
hậu thế thế hệ 2 tại Ba Vì và Đông Hà.
3.1.1. Biến dị giữa các nguồn hạt giống Bạch đàn urô
Kết quả cho thấy các nguồn hạt của các cây trội chọn lọc từ vườn giống Vạn Xuân,
vườn giống Ba Vì và rừng giống Ba Vì không có sự phân hóa rõ rệt về các chỉ tiêu sinh
trưởng và chất lượng thân cây, ngoại trừ sinh trưởng về chiều cao tại khảo nghiệm Ba Vì. Ở
cả 2 khảo nghiệm, sinh trưởng đường kính và chiều cao biến động không lớn. Chẳng hạn
đường kính của Bạch đàn urô tại Ba Vì chỉ biến động từ 9,6 cm đến 10,1 cm; chiều cao biến
động từ 12,5 m đến 13,0 m và thể tích thân cây biến động từ 52,6 dm
3
đến 61,1 dm
3
.
7
1.1.2. Biến dị giữa các gia đìnhBạch đàn urô
Tại Ba Vì, ở tuổi 6 các gia đình bạch đàn urô có sự sai khác rất rõ rệt về đường kính, chiều
cao, thể tích và chất lượng thân cây (Fpr<0,001). Biến động về sinh trưởng đường kính, chiều cao và
thể tích của các các gia đình là khá lớn, từ 8,6 đến 13,3 cm về đường kính; từ 9,2 - 14,8 m về chiều
cao, từ 31,5 - 117,2 dm
3
/cây về thể tích, và từ 23,6 - 61,7 điểm về chỉ tiêu chất lượng tổng hợp.
Những gia đình sinh trưởng nhanh nhất có thể tích vượt trội về thể tích so với các gia
đình sinh trưởng kém (vượt 58,5%) và đồng thời cũng vượt hơn thể tích trung bình của toàn vườn
(vượt 50,7%) và dòng tiến bộ kỹ thuật U6 (83,4%) (biểu đồ 1). Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy
chỉ tiêu chất lượng tổng hợp của các gia đinh sinh trưởng nhanh nhất cũng có độ vượt khá lớn so
với trung bình khảo nghiệm và dòng U6, với độ vượt tương ứng là 21,7% và 79,3 %).
Biểu đồ 3.2: Độ vượt (%) về thể tích, đường kính ngang ngực và chỉ tiêu chất lượng thân cây tổng
hợp của 10 gia đình sinh trưởng tốt nhất so với dòng U6 và trung bình toàn khảo nghiệm hậu thế
thế hệ 2 ở Ba Vì
Tại Đông Hà, kết quả phân tích thống kê cho thấy sinh trưởng về đường kính, chiều
cao và thể tích của các gia đình Bạch đàn urô có sự sai khác nhau rất rõ rệt (Fpr.<0,001).
Biến động về sinh trưởng đường kính, chiều cao và thể tích của các các gia đình tại đây từ
7,1 cm đến 12,7 cm về sinh trưởng đường kính, từ 9,9 m - 14,5 m về chiều cao, từ 23,0
dm
3
/cây -113,2 dm
3
/cây về thể tích và từ 17,3-38,5 điểm về chỉ tiêu chất lượng tổng hợp.
Tương tự như tại khảo nghiệm Ba Vì. Xem xét về độ vượt thực tế cho thấy những gia đình
sinh trưởng nhanh nhất có độ vượt trội so với các gia đình sinh trưởng kém là 245,5% về thể
tích và đồng thời vượt hơn 43,8% - 227,6% so với thể tích trung bình của toàn vườn cũng
như dòng U6. Do đó việc sử dụng hạt giống của các cây trội trong vườn giống cũng có thể
đem năng suất rừng trồng cao.
Tương tự như kết quả tại khảo nghiệm ở Ba Vì, các gia đình có sinh trưởng tốt tại
Đông Hà là các gia đình có chất lượng thân cây tốt. Điều này có thể kết luận rằng các tính
trạng sinh trưởng có thể có tương quan với các tính trạng chất lượng thân cây. Như vậy, việc
chọn lọc các gia đình ưu việt Bạch đàn urô trong hai khảo nghiệm hậu thế tại Ba Vì và
Đông Hà chắc chắn sẽ mang lại tăng thu di truyền cao cho các chương trình trồng rừng.
Chọn lọc các cá thể ưu trội trong các gia đình ưu việt từ hai khảo nghiệm này, nhân giống
bằng hữu tính hoặc vô tính cần được thực hiện để xây dựng các vườn giống thế hệ sau và
phát triển trồng rừng dòng vô tính Bạch đàn urô ở nước ta trong thời gian tới.
8
3.1.3. Biến dị giữa các dòng vô tính Bạch đàn urô
Rừng trồng dòng vô tính với việc sử dụng các dòng ưu trội trong trồng rừng là một
loại hình rừng đang được sử dụng rộng rãi trên thế giới và ở Việt Nam. Phát triển rừng trồng
dòng vô tính cũng đòi hỏi sự hiểu biết về biến dị và khả năng di truyền để quyết định chiến
lược cải thiện giống và chọn lọc dòng vô tính, đồng thời dự đoán tăng thu di truyền có thể
nhận được từ việc sử dụng các dòng vô tính ưu trội (White, 1987; Namkoong et al., 1981;
Hodge and White, 1992).
Kết quả đánh giá biến dị về sinh trưởng và chất lượng thân cây của các dòng vô tính
bạch đàn urô ở giai đoạn 4 tuổi tại Ba Vì và 5 tuổi tại Nam Đàn đều cho thấy sinh trưởng và
chất lượng thân cây giữa các dòng vô tính bạch đàn urô đã có sự phân hóa rõ rệt (bảng 3.4).
Tại Ba Vì, biến động về sinh trưởng giữa các dòng là khá lớn, từ 4,6-9,4 cm về đường kính,
từ 7,2-13,9 m về chiều cao, từ 6,4-55,8 dm
3
/cây về thể tích và từ 39,8-191,7 điểm về chỉ tiêu
chất lượng thân cây tổng hợp. Tại Nam Đàn, biến động về đường kính, chiều cao, thể tích
và chỉ tiêu chất lượng tổng hợp giữa các dòng tương ứng là từ 9,3-12,3 cm, 8,9-12,5 m,
32,2-80,0 dm
3
/cây và 81,1-200,3 điểm.
Tại Ba Vì, 5 dòng sinh trưởng nhanh nhất (là các dòng U18, U11, U265, U1, và U4)
có thể tích thân cây trung bình đạt 49,2 dm
3
/cây, vượt 127,4% so với trung bình chung
toàn thí nghiệm. Nếu so sánh với đối chứng U6 (xếp thứ 24 trong bảng xếp hạng) thì 5 dòng
cũng vượt từ 30,1% tới 95,1% về thể tích thân cây. Trong khi đó, 5 dòng ưu việt chọn lọc
tại Nam Đàn (U1088, U821, U416, U262 và U348) chỉ có độ vượt về thể tích thân cây là
23,0% so với thể tích thân cây dòng U6. Do đó cần công nhận các dòng này là các dòng tiến
bộ kỹ thuật để phát triển ngay vào sản xuất.
3.1.4. Biến dị giữa các dòng vô tính Bạch đàn lai UP
Tại khảo nghiệm dòng vô tính ở Đông Hà, kết quả phân tích thống kê cho thấy có sai
khác rõ rệt về sinh trưởng cũng như các chỉ tiêu chất lượng giữa các dòng với nhau sau 5
tuổi. Biến động giữa các dòng Bạch đàn urô và dòng Bạch đàn lai UP là rất lớn, từ 24,4-
114,2 dm
3
/cây về thể tích thân cây, và từ 48,6-143 điểm về chỉ số chất lượng tổng hợp.
Trong khi đó, tại khảo nghiệm dòng vô tính Bạch đàn lai UP tại Ba Vì, biến động giữa các
dòng Bạch đàn lai UP từ 12,1-48,1 dm
3
/cây về thể tích thân cây tại tuổi 4. Năm dòng có sinh
trưởng nhanh nhất tại khảo nghiệm ở Ba Vì vượt hơn dòng U6 và PN14 là các dòng UP72,
UP66, UP99, UP35, và UP23. Thể tích thân cây trung bình của 5 dòng này đạt 40,0
dm
3
/cây, vượt 40,0% tới 56,3% so với dòng PN14, và vượt 52,5% so với dòng U6. Trong
khi, 5 dòng sinh trưởng nhanh nhất (dòng UP54, U892, UU39, UP35, và U1088) tại Đông
Hà có thể tích thân cây trung bình đạt 154,4 dm
3
/cây sau 5 tuổi, vượt 32,1% so với trung
bình toàn thí nghiệm và vượt từ 54,9% tới 127,0% so với đối chứng hạt sản xuất đại trà.
Như vậy trong các dòng sinh trưởng nhanh tại 2 khảo nghiệm chỉ duy nhất có một dòng
UP35 là sinh trưởng tốt trên cả 2 lập địa.
3.1.5. Tổng hợp chung các dòng vô tính Bạch urô và Bạch đàn lai UP
Từ kết quả nghiên cứu về biến dị và khả năng di truyền về sinh trưởng các dòng
Bạch đàn urô và Bạch đàn lai UP, đã chọn được 11 dòng gồm 10 dòng được công nhận là
giống tiến bộ kỹ thuật (5 dòng UP35; UP72, UP95, UP97 UP99 ở Ba Vì; 1 dòng UP54 ở
Đông Hà; 3 dòng U821, U416, U262 ở Nam Đàn; 1 dòng U892 ở Đông Hà) và một dòng
được công nhận giống Quốc Gia là U1088 ở Nam Đàn và Đông Hà.
9
3.2. Biến dị về khối lượng riêng và hàm lượng cellulose của Bạch đàn urô và
Bạch đàn lai UP
Cellulose là thành phần chính của gỗ, chiếm từ 40% đến 50% khối lượng gỗ khô kiệt, nằm
chủ yếu ở màng thứ cấp của vách tế bào và là thành phần chính của bột giấy (chiếm từ 74% đến
86%) và có tương quan với hiệu suất bột giấy (Wallis et al. 1996), do đó có thể sử dụng như là
công cụ gián tiếp để đánh giá hiệu suất bột giấy. Hàm lượng cellulose trong luận án này được xác
định từ lõi khoan lấy ở độ cao 1,3 m bằng phương pháp của Wallis et al. (1997).
3.2.1. Biến dị về khối lượng riêng của gỗ
a.Biến dị trị số Pilodyn giữa các gia đình Bạch đàn urô tại Ba Vì và Đông Hà
Trị số pilodyn ở các gia đình trong khảo nghiệm hậu thế thế hệ 2 dao động trong
khoảng 9,6-14,5 mm, và có sự sai khác rõ rệt giữa các gia đình (Fpr <0,001). Các gia đình
77, 34, 74, 84 và 47 có trị số pilodyn thấp nhất, biến động từ 9,6-10,5mm. Tuy nhiên các gia
đình này chỉ là những gia đình có sinh trưởng kém đến trung bình trong khảo nghiệm.
Ngược lại 5 gia đình (gia đình 42, 15, 31, 109, và 23) là những gia đình có sinh trưởng
nhanh nhưng lại có trị số pilodyn cao (khối lượng riêng gỗ thấp).
Các gia đình Bạch đàn urô tại Đông Hà ở tuổi 3 cũng có sự sai khác nhau rõ rệt về trị
số pilodyn. Các gia đình có trị số pilodyn biến động từ 12,3 mm đến 17,0 mm. Những gia
đình sinh trưởng nhanh đồng thời cũng là những gia đình có trị số pilodyn cao, và ngược lại
những gia đình có trị số pilodyn thấp thì sinh trưởng từ thấp đến trung bình (gia đình số 77,
18, 74, 34 và 104). Kết quả nghiên cứu biến dị về chị số pilodyn ở Ba Vì và Đông Hà cũng
cho thấy các gia đình 77, 74 và 34 ở cả 2 khảo nghiệm đều thuộc nhóm gia đình có trị số
pilodyn thấp, mặc dù hai lập địa này có sự khác biệt về tính chất đất và điều kiện khí hậu.
b.Biến dị trị số Pilodyn và khối lượng riêng của gỗ giữa các dòng Bạch đàn urô tại
Ba Vì và Nam Đàn
Tại Ba Vì, ở tuổi 4, kết quả đánh giá biến dị về khối lượng riêng của gỗ và trị số pilodyn
của các dòng Bạch đàn urô có sự sai khác rõ rệt (Fpr <0,001). Khối lượng riêng gỗ của các
dòng vô tính trong khảo nghiệm này dao động trong khoảng 0,43 - 0,59 g/cm
3
và trị số pilodyn
của các dòng biến động từ 11,2 - 17,6 mm. Những dòng có khối lượng riêng của gỗ cao nhất
cũng là những dòng có trị số Pilodyn thấp nhất. Tính toán tương quan giữa khối lượng riêng của
gỗ và trị số pilodyn cho thấy tương quan giữa chúng là tương quan âm và chặt (r = - 0,80). Các
dòng có khối lượng riêng cao nhất tại khảo nghiệm Ba Vì là các dòng U951, U295, U992, U14
và U883, với khối lượng riêng biến động trong khoảng 0,54 - 0,59 g/cm
3
.
Tương tự như tại Ba Vì, kết quả đánh giá biến dị về trị số pilodyn của các dòng Bạch
đàn urô 5 tuổi tại Nam Đàn cho thấy các dòng Bạch đàn urô đã có sự sai khác rõ rệt về trị số
pilodyn (Fpr <0,001). Các dòng Bạch đàn urô có trị số pilodyn biến động lớn, từ 9,7 - 15,4
mm. Đứng đầu danh sách xếp hạng là các dòng U646, U951, U1025, U955 và U416, với giá
trị pilodyn thấp nhất, trị số này biến động trong khoảng 9,7 - 10,5 mm. Kém nhất trong khảo
nghiệm là các dòng U417, U1028, U891, U821 và U267 với giá trị pilodyn cao nhất với trị số
biến động trong khoảng 14,0 - 15,4mm.
c.Biến dị về khối lượng riêng của gỗ giữa các dòng Bạch đàn lai UP tại Ba Vì và Đông Hà
Tại Ba Vì ở tuổi 4 song khối lượng riêng của gỗ và trị số pilodyn của các dòng Bạch
đàn lai UP cho thấy có sự sai khác rõ rệt giữa các dòng về khối lượng riêng của gỗ và trị số
pilodyn (Fpr <0,001). Các dòng vô tính có khối lượng riêng của gỗ biến động 0,41 -
10
0,60g/cm
3
và trị số pilodyn biến động 10,6 - 18,1 mm. Những dòng có khối lượng riêng của
gỗ cao nhất cũng là những dòng có trị số pilodyn thấp nhất. Các dòng UP26, UP23, UP47,
UP22 và UP12 là những dòng có khối lượng riêng của gỗ cao (0,53 - 0,60 g/cm
3
). Dòng
Bạch đàn lai UP23 vừa có sinh trưởng nhanh vừa có khối lượng riêng của gỗ cao.
Tại Đông Hà kết qua cũng cho thấy khối lượng riêng của gỗ của các dòng Bạch đàn
lai khác nhau rõ rệt (Fpr <0,001). Khối lượng riêng của các dòng Bạch đàn lai cũng có biến
động lớn, từ 0,41 - 0,63g/cm
3
. Các dòng UP26, UU42 và UP47 có khối lượng riêng của gỗ
cao. Các dòng này đều thuộc nhóm sinh trưởng trung bình đến sinh trưởng tốt.
Như vậy phát triển rừng trồng gỗ xẻ bằng sử dụng dòng UP23 tại Ba Vì và UP26,
UU42, UP47 tại Đông Hà sẽ đem lại lợi ích vô cùng to lớn cho người trồng rừng và đặc biệt
sẽ khắc phục được điểm yếu của gỗ bạch đàn thường có khối lượng riêng thấp.
3.2.2. Biến dị về hàm lượng cellulose giữa các dòng Bạch đàn urô và Bạch đàn lai UP
Hàm lượng cellulose các dòng Bạch đàn urô tại Ba Vì ở giai đoạn 4 tuổi có sự sai
khác rõ rệt giữa các dòng (Fpr <0,001), biến động lớn từ 40,0 - 46,7%. Năm dòng có hàm
lượng cellulose cao là U3, UU78, U894 và UU6. Trong đó các dòng UU78, U894 và UU6
là những dòng có sinh trưởng khá nhanh tại Ba Vì.
Hàm lượng cellulose của các dòng Bạch đàn lai UP tại Ba Vì cũng có sự sai khác nhau rất
rõ rệt giữa các dòng (Fpr <0,001). Các dòng bạch đàn lai có hàm lượng cellulose biến động 41,6 -
47,1%. Năm dòng có hàm lượng cellulose cao (UP72, UP47, UP26, UP35 và UP23) thì 3 dòng
thuộc nhóm sinh trưởng nhanh, 1 dòng thuộc nhóm sinh trưởng trung bình và 1 dòng thuộc nhóm
sinh trưởng kém. Các dòng UP72, UP35 và UP23 cần được nhân giống phục vụ cho sản xuất.
Giống như khảo nghiệm tại Ba Vì, sinh trưởng của các dòng vô tính bạch đàn lai tại Đồng
Hà ở tuổi 5 cũng có sự sai khác rõ rệt về hàm lượng cellulose giữa các dòng. Các dòng có hàm
lượng cellulose biến động 39,8 - 45,5%. Bốn dòng bạch đàn lai có hàm lượng cellulose cao (dòng
UP23, UP47, UP48 và UP51) đều thuộc những dòng có sinh trưởng từ trung bình đến khá cao.
Như vậy có thể chọn được một số dòng vừa có sinh trưởng nhanh và hàm lượng cellulose cao.
3.3. Khả năng di truyền của các tính trạng sinh trưởng, độ thẳng thân, khối lượng
riêng và hàm lượng cellulose ở các gia đình và dòng vô tính Bạch đàn urô và Bạch đàn lai UP
Các thông tin về biến dị và khả năng di truyền là cơ sở khoa học để thực hiện các chương
trình chọn giống. Biến dị kiểu hình và biến dị di truyền trong một loài cây thường xuất hiện ở các
mức độ khác nhau: như trong quần thể và giữa các quần thể (Zobel & Talbert, 1984). Các thông
tin di truyền sẽ được phục vụ để trả lời các câu hỏi đặt ra trong các chương trình chọn giống: (1)
Tính trạng nghiên cứu có thể cả thiện được không? Hiệu quả chọn lọc tính trạng này chỉ đạt được
khi hệ số biến động di truyền lũy tích của tính trạng này đủ lớn. Do đó để trả lời câu hỏi này thì hệ
số biến động di truyền lũy tích cần được xác định. Hệ số di truyền lũy tích (CV
A
- Coefficient of
Additive genetic Variance) là số đo của biến động kiểu gene, nó được xác định bằng tỷ số giữa
căn bậc 2 của tỷ số biến động kiểu gen với giá trị trung bình của kiểu hình. (2) Biểu hiện của kiểu
gen như thế nào trong khảo nghiệm? Để dự đoán giá trị kiểu gen và xếp hạng chúng thì các kiểu
gen phải được khảo nghiệm trong các lập địa khác nhau. Hệ số di truyền thể hiện giá trị di truyền
được phát hiện trong kiểu hình. Hệ số di truyền nói lên khả năng di truyền của một tính trạng từ
đời bố mẹ đến hậu thế. Hệ số di truyền cao tức là khả năng truyền đặc điểm của tính trạng đó ở
đời bố mẹ sang hậu thế cao (Falconer & Mackay, 1996). Nếu kiểu gen tương tác với điều kiện
môi trường thì một số khảo nghiệm cần được bố trí ở các lập địa khác nhau. Tương tác di truyền
– hoàn cảnh lớn sẽ tạo ra những khó khăn cho chương trình cải thiện giống, vì phải xây dựng các
quần thể chọn giống và chọn lọc các kiểu gen riêng phù hợp với từng dạng lập địa (Bulmer,
1980). (3) Chọn lọc một tính trạng sẽ ảnh hưởng thế nào tới các tính trạng khác? Làm thể nào để
11
chương trình cải thiện giống đạt được giá trị kinh tế cao nhất? Trong chọn giống, một vài tính
trạng được chọn lọc đồng thời. Tương quan di truyền giữa các tính trạng sẽ giúp trả lời các câu
hỏi trên. Ngoài ra, tăng thu di truyền là phần tăng thêm đạt được nhờ áp dụng các phương pháp
chọn giống. Nhưng tăng thu di truyền chỉ có thể được thực hiện trên cơ sở biến dị giữa các xuất
xứ, gia đình và cá thể trong khảo nghiệm, vườn giống. Nhờ biến dị di truyền mà chúng ta có thể
tiến hành chọn lọc những biến dị có lợi nhất làm cơ sở cho các bước chọn giống tiếp theo. Mặt
khác biến dị được thể hiện mới là kiểu hình phải thông qua khảo nghiệm mới đánh giá đựơc thực
tế tăng thu của chúng. Các phương pháp để thu nhận tăng thu chính là chọn lọc, lai giống, khảo
nghiệm để xác định đúng chỉ tiêu chọn lọc có hệ số di truyền cao. Đồng thời kết hợp chặt chẽ với
các biện pháp kỹ thuật thâm canh thích hợp sẽ tạo ra tăng thu mong muốn cho đời sau, góp phần
từng bước nâng cao năng suất và chất lượng rừng trồng.
3.3.1. Khả năng di truyền ở các gia đinh Bạch đàn urô
Hệ số di truyền và hệ số biến động di truyền của các tính trạng sinh trưởng, chất lượng thân cây
và trị số pilodyn trong khảo nghiệm hậu thế thế hệ 2 Bạch đàn urô tại Ba Vì và Đông Hà được thể hiện
tại bảng 3.11. Kết quả ở bảng 3.11 cho thấy hệ số di truyền của các tính trạng sinh trưởng đạt trung bình
(h
2
= 0,19-0,23 ở tuổi 6). Nhưng hệ số di truyền của trị số pilodyn là khá cao, với h
2
= 0,42.
Bảng 3.11. Hệ số di truyền (h
2
)và hệ số biến động di truyền lũy tích (CV
a
) của các tính trạng
sinh trưởng và chất lượng ở các gia đình Bạch đàn urô tại Ba Vì (6 tuổi) và Đông Hà (6 tuổi)
Ba Vì - Hà Nội (6 tuổi)
D1,3 cm 3,5 2 0,14 0,04 12,4
6,5 3 0,17 0,04 12,1
7,0 5 0,17 0,04 13,0
9,9 6 0,22 0,05 16,3
H m 4,4 2 0,15 0,04 8,9
7,8 3 0,17 0,04 11,4
9,3 5 0,19 0,05 11,5
12,8 6 0,22 0,05 12,5
Đtt điểm 2,8 2 0,05 0,03 19,8
3,3 5 0,15 0,04 29,9
3,5 6 0,20 0,05 10,7
Pilodyn mm 12,3 3 0,42 0,09 9,6
Đông Hà - Quảng Trị (6 tuổi)
D1,3 cm 6,9 2 0,15 0,04 9,5
8,9 3 0,17 0,04 10,4
9,8 5 0,17 0,05 12,5
11,1 6 0,19 0,05 12,6
H m 9,5 2 0,17 0,05 8,6
10,1 3 0,21 0,05 8,4
11,1 5 0,22 0,05 8,7
12,5 6 0,23 0,05 9,1
Đtt điểm 4,0 2 0,05 0,03 11,8
3,4 3 0,12 0,04 20,2
4,0 5 0,14 0,04 23,6
3,1 6 0,15 0,04 9,5
Pilodyn mm 14,9 4 0,48 0,10 9,7
12
Chú dẫn:
2
ˆ
h
là hệ số di truyền theo nghĩa hẹp; CV
a
là hệ số biến động di truyền lũy tích;
Hệ số di truyền của các tính trạng sinh trưởng, độ thẳng thân và trị số pilodyn trong khảo
nghiệm hậu thế bạch đàn urô tại Ba Vì và Đông Hà đều tăng theo tuổi. Chẳng hạn như, tại Ba Vì,
hệ số di truyền về đường kính tại tuổi 2 là 0,14, và tăng lên 0,17, 0,17 và 0,22 ở các tuổi 3, 5 và 6.
Tương ứng với hệ số di truyền, hệ số biến động di truyền lũy tích (CV
a
) cũng tăng lên theo cấp tuổi.
Hệ số biến động di truyền lũy tích của các trính trạng sinh trưởng đạt từ 8,9 -16,3%. Độ thẳng thân
cây có hệ số biến động di truyền lũy tích cao nhất, nhưng lại có hệ số di truyền nhỏ nhất nếu so với
các hệ số này của tính trạng sinh trưởng và trị số pilodyn. Ở giai đoạn 2 đến 3 năm tuổi chiều cao có
hệ số di truyền của chiều cao (h
2
= 0,14 – 0,17) tương đương với hệ số di truyền của đường kính.
Nhưng ở giai đoạn 5 đến 6 năm tuổi, hệ số di truyền của chiều cao đã vượt hơn so
với của đường kính (bảng 3.11). Hệ số di truyền của độ thẳng thân cây tăng khá mạnh từ
0,05 ở tuổi 2 đến 0,15-0,20 ở tuổi 6. (bảng 3.11). Nhìn chung, hệ số di truyền cũng như hệ
số biến động di truyền lũy tích của các tính trạng nghiên cứu của các gia đình Bạch đàn urô
tại Ba Vì cao hơn so với tại Đông Hà. Chứng tỏ, lựa chọn các gia đình tốt và cá thể tốt trong
khảo nghiệm tại Ba Vì sẽ mang lại tăng thu di truyền cao hơn khi phát triển chúng cho sản
xuất. Như vậy, có thể khẳng định các tính trạng sinh trưởng có khả năng di truyền cho đời
sau ở mức trung bình nhưng do hệ số biến động di truyền lũy tích của các tính trạng này là
tương đối cao nên khả năng cải thiện giống cho các tính trạng này vẫn hoàn toàn đạt được
tăng thu di truyền cao cho hậu thế.
3.3.2. Khả năng di truyền ở các dòng vô tính Bạch đàn urô
Rừng trồng dòng vô tính, một loại hình rừng đang được sử dụng rộng rãi trên thế giới
và ở Việt Nam, với việc sử dụng các dòng ưu trội trong trồng rừng. Phát triển rừng trồng
dòng vô tính cũng đòi hỏi sự hiểu biết về biến di di truyền để quyết định chiến lược cải thiện
giống và chọn lọc dòng vô tính, đồng thời dự đoán tăng thu di truyền có thể nhận được từ
việc sử dụng các dòng vô tính ưu trội.
Bảng 3.12. Hệ số di truyền (H
2
) và hệ số biến động kiểu gen (CV
G
) của các tính trạng sinh
trưởng và chất lượng của các dòng vô tính Bạch đàn urô tại khảo nghiệm Ba Vì và Nam Đàn
Địa
điểm
Tuổi
Tính
trạng
Đơn vị
tính
Trung
bình
Hệ số di
truyền
(H
2
)
Sai số
của H
2
CV
G
(%)
Ba Vì
4 D1.3 cm 7,3 0,30 0,04 13,1
4 H m 10,5 0,46 0,05 14,2
4 V dm
3
25,4 0,31 0,04 36,0
4 Đtt điểm 3,3 0,28 0,04 9,9
4 Pilodyn mm 13,9 0,65 0,04 10,0
4 DEN g/cm
3
0,49 0,68 0,05 7,1
4 Cellulose % 43,5 0,37 0,07 2,5
Nam
Đàn
5 D1.3 cm 10,9 0,20 0,04 8,6
5 H m 11,0 0,41 0,05 9,7
5 V dm
3
55,8 0,27 0,05 24,6
5 Đtt điểm 3,3 0,30 0,05 10,6
5 Pilodyn mm 12,3 0,62 0,05 10,4
Số liệu tại bảng 3.12 cho thấy, ở hệ số biến động kiểu gen (CV
G
) biến động từ 8,6%
đến 14,2% cho các tính trạng sinh trưởng. Hệ số này là khoảng 7,1-10,4% cho khối lượng
riêng gỗ ở các khảo nghiệm khác nhau và 9,9-10,6% cho độ thẳng thân. Hệ số di truyền theo
13
nghĩa rộng của các tính trạng sinh trưởng và độ thẳng thân ở mức trung bình tới cao (biến
động từ 0,20 – 0,46). Khối lượng riêng gỗ có hệ số di truyền cá thể cao hơn (0,68) các tính
trạng sinh trưởng (bảng 3.12). Tại Ba Vì, ở giai đoạn 4 năm tuổi các tính trạng nghiên cứu
có hệ số di truyền và hệ số biến động kiểu gen cao hơn so với tại Nam Đàn. Điều này có thể
là do ảnh hưởng của yếu tố lập địa. Lập địa tại Ba Vì có đất bị đá ong hóa mạnh, pH thấp và
lượng cation nhôm trao đổi (Al
+3
) cao nên có thể ảnh hưởng tới sinh trưởng một số dòng
Bạch đàn urô trong khi tại Nam Đàn đất tốt hơn Ba Vì nên các dòng sinh trưởng đồng đều
hơn. Do đó sự phân hóa giữa các dòng Bạch đàn urô ở Nam Đàn không lớn như ở Ba Vì.
3.3.3 Khả năng di truyền ở các dòng vô tính Bạch đàn lai UP
Xác đinh hệ số di truyền theo nghĩa rộng và hệ số biến động kiểu gen của các tính trạng
sinh trưởng, độ thẳng thân, pilodyn, khối lượng riêng của gỗ và hàm lượng cellulose của các
dòng Bạch đàn lai UP được trình bày tại bảng 3.13. Kết quả cho thấy hệ số di truyền và hệ
số biến động kiểu gen của các tính trạng sinh trưởng, độ thẳng thân, khối lượng riêng của
gỗ, và hàm lượng cellulose trong các dòng Bạch đàn lai UP biến động ở mức từ trung bình
tới cao. Hệ số di truyền theo nghĩa rộng của các tính trạng sinh trưởng của các dòng Bạch đàn
lai ở mức cao (biến động từ 0,34 - 0,46) tại Đông Hà, nhưng chỉ ở mức độ trung bình tại Ba
Vì (0,18 - 0,31).
Bảng 3.13. Hệ số di truyền (H
2
) và hệ số biến động kiểu gen (CV
G
) của các tính trạng sinh
trưởng và chất lượng của các dòng vô tính Bạch đàn lai UP trong các khảo nghiệm tại Ba
Vì (4 tuổi) và Quảng Trị (5 tuổi)
Địa
điểm
Tuổi
Tính
trạng
Đơn vị
tính
Trung
bình
Hệ số di
truyền
(H
2
)
Sai số
của H
2
CV
G
(%)
Ba Vì
(BĐ lai
UP)
4 D1.3 cm 7,9 0,18 0,04 10,6
4 H m 11,5 0,31 0,05 9,6
4 V dm
3
31,8 0,20 0,04 14,7
4 Đtt điểm 3,5 0,27 0,05 14,2
4 Pilodyn mm 15,2 0,56 0,06 10,4
4 DEN g/cm
3
0,47 0,71 0,06 9,1
4 Cellulose % 44,5 0,25 0,09 1,8
Quảng
Trị (B
đàn lai
5 D1.3 cm 10,8 0,34 0,06 10,9
5 H m 11,9 0,46 0,06 9,6
5 V dm
3
58,8 0,40 0,06 29,5
5 Đtt điểm 3,4 0,19 0,04 23,3
5 DEN g/cm
3
0,48 0,76 0,05 9,5
5 Cellulose % 42,6 0,31 0,09 2,6
Cũng giống như các dòng Bạch đàn urô, khối lượng riêng của gỗ vẫn có hệ số di truyền
rất cao (0,71 - 0,78). Trong khi hàm lượng cellulose chỉ có hệ số di truyền ở mức trung bình
(0,25 - 0,31). Hệ số biến động kiểu gen (CV
G
) của các tính trạng sinh trưởng và khối lượng
riêng biến động xung quanh 9 – 10% (bảng 3.13). Độ thẳng thân có hệ số biến động kiểu gen
cao hơn so với các tính trạng sinh trưởng (>14%). Nhưng hàm lượng cellulose có hệ số biến
động kiểu gen lại rất thấp, từ 1,8 đến 2,6%. Đánh giá tổng hợp cả hệ số di truyền và hệ số
biến động kiểu gen cho thấy tăng thu di truyền trong việc chọn lọc từng tính trạng nghiên
cứu sẽ chắc chắn đạt được khi chọn lọc các dòng Bạch đàn lai UP cho chương trình trồng
rừng ở Việt Nam.
14
3.4. Tương quan tính trạng – tính trạng của Bạch đàn urô và Bạch đàn lai UP
3.4.1 Tương quan tính trạng – tính trạng của các gia đình Bạch đàn urô
Nghiên cứu tương quan giữa các tính trạng phản ánh mối quan hệ kiểu hình hoặc di
truyền giữa các tính trạng. Xác định được tương quan giữa các tính trạng giúp nhà chọn
giống dự đoán được ảnh hưởng của việc chọn lọc theo một tính trạng này sẽ ảnh hưởng đến
tính trạng khác như thế nào để từ đó đưa ra phương pháp chọn lọc tối ưu nhất. Việc xác định
tương quan giữa các tính trạng đồng thời giúp tìm ra các phương pháp gián tiếp có thể xác
định một cách đơn giản cho các tính trạng đòi hỏi công nghệ cao và tốn nhiều thời gian
công sức như hiệu suất bột giấy và khối lượng riêng gỗ.
Bảng 3.14. Hệ số tương quan di truyền giữa đường kính và chiều cao với
trị số pilodyn của các gia đình Bạch đàn urô tại Ba Vì và Đông Hà (3 tuổi)
Tính trạng D H Pilodyn
1.Tại Ba Vì
D 0,82±0,06 0,46±0,15
H 0,21±0,17
2.Tại Đông Hà
D 0,96±0,03 0,26±0,18
H 0,05±0,17
Đường kính và chiều cao thể hiện tương quan di truyền dương và ở mức yếu và vừa phải
với trị số pilodyn. Tại Ba Vì, tương quan giữa đường kính (D
1.3
) với trị số Pilodyn là 0,46 và
tương quan giữa chiều cao (H) với trị số Pilodyn là 0,21. Tương tự, tại Đông Hà, tương quan giữa
đường kính (D
1.3
) với trị số Pilodyn chỉ là 0,26 và tương quan giữa chiều cao (H) với trị số
Pilodyn là 0,05 (bảng 3.14). Các hệ số tương quan này đều có sai số khá lớn và khi kiểm tra sự
tồn tại của chúng khẳng định các hệ số tương quan đều không tồn tại. Như vậy kết quả này cho
thấy việc chọn lọc về sinh trưởng hầu như không có ảnh hưởng tới khối lượng riêng của gỗ.
3.4.2 Tương quan tính trạng – tính trạng của các dòng Bạch đàn urô
Tương tự như ở các gia đình Bạch đàn urô trong các khảo nghiệm hậu thế thế hệ 2,
đánh giá tương quan giữa các tính trạng sinh trưởng, pilodyn, khối lượng riêng và hàm
lượng cellulose của các dòng vô tính Bạch đàn urô trong các khảo nghiệm dòng vô tính
cũng cho thấy đường kính và chiều cao đều có tương quan dương và ở mức yếu tới tương
đối chặt với trị số pilodyn (bảng 3.15).
Bảng 3.15. Tương quan giữa các tính trạng sinh trưởng, khối lượng riêng gỗ và hàm lượng
cellulose ở các dòng Bạch đàn urô tại khảo nghiệm Ba Vì (4 tuổi) và Nam Đàn (5 tuổi)
Tính trạng D
1,3
H V Pilodyn DEN Cellulose
Tại Ba Vì
D
1,3
0,84±0,04 0,95±0,01 0,66±0,08 -0,31±0,12 0,44±0,13
H 0,93±0,02 0,30±0,11 0,12±0,15 0,40±0,14
V 0,55±0,09 -0,21±0,13 0,40±0,14
Pilodyn -0,80±0,05 0,30±0,14
DEN 0,60±0,16
Tại Nam Đàn
D
1,3
0,82±0,05 0,98±0,01 0,46±0,13
H 0,91±0,03 0,15±0,15
V 0,36±0,13
15
Hệ số tương quan này biến động từ 0,15 đến 0,66. Tuy nhiên các tính trạng sinh
trưởng lại có tương quan cả dương lẫn âm với khối lượng riêng của gỗ, nhưng chỉ tương
quan ở mức độ yếu (-0,31 - 0,12) và được xác định là không có ý nghĩa. Như vậy sinh trưởng
có mối quan hệ độc lập với khối lượng riêng của gỗ và cải thiện giống theo các chỉ tiêu sinh
trưởng hoặc khối lượng riêng đều không ảnh hưởng đáng kể đến nhau.
Kết quả ở bảng 3.15 cũng cho thấy tương quan giữa Pilodyn với khối lượng riêng của
gỗ là tương quan âm từ chặt cho đến rất chặt (r = -0,80 tới -0,92). Chứng tỏ có thể dùng
Pilodyn để đánh giá nhanh và xếp hạng những gia đình/dòng có khối lượng riêng của gỗ cao
trong chương trình cải thiện giống Bạch đàn urô và Bạch đàn lai UP ở Việt Nam.
Tương quan di truyền giữa cellulose với các tính trạng sinh trưởng là tương quan
dương, có ý nghĩa và ở mức vừa phải, trong khi tương quan dương giữa cellulose với khối
lượng riêng của gỗ ở mức tương đối chặt. Tương quan trung bình giữa hàm lượng cellulose
với các chỉ tiêu sinh trưởng cho thấy việc chọn giống theo sinh trưởng cũng có thể góp phần
làm tăng hàm lượng cellulose ở Bạch đàn urô, qua đó làm tăng hiệu suất bột giấy. Như vậy,
trong chiến lược chọn giống tiếp theo cho Bạch đàn urô ở nước ta nên kết hợp chọn lọc các
tính trạng một cách đồng thời bằng việc sử dụng chỉ số chọn lọc (selection index) nhằm đạt
được tăng thu di truyền một cách thỏa đáng cho các tính trạng.
3.4.3 Tương quan tính trạng – tính trạng của các dòng Bạch đàn lai UP
Trong loài Bạch đàn lai UP, tương quan khối lượng riêng của gỗ với cellulose là
tương quan dương ở mức độ tương đối chặt đến chặt (r = 0,57 đến 0,77). Nhưng đường kính
và chiều cao thể hiện tương quan di truyền dương và yếu với pilodyn và hàm lượng
cellulose. Trong khi đó tương quan giữa đường kính và chiều cao với khối lượng riêng của
gỗ lại thể hiện cả tương quan âm và dương. Tuy nhiên đây là những tương quan không có
sự tồn tại với hệ số sai khác lớn (bảng 3.16). Kết quả này khẳng định các tính trạng sinh
trưởng, khối lượng riêng và hàm lượng cellulose ở Bạch đàn lai UP là những tính trạng độc lập.
Do vậy cải thiện giống theo các chỉ tiêu sinh trưởng hoặc khối lượng riêng hay hàm lượng
cellulose đều không ảnh hưởng đáng kể đến các tính trạng khác.
Bảng 3.16. Tương quan giữa các tính trạng sinh trưởng, khối lượng riêng gỗ và hàm lượng
cellulose ở các dòng Bạch đàn lai UP tại khảo nghiệm Ba Vì (4 tuổi) và Đông Hà (5 tuổi)
Tính
trạng
D
1,3
H V Pilodyn DEN Cellulose
Tại Ba Vì (4 tuổi)
D
1,3
0,88±0,04 0,98±0,01 0,22±0,16 -0,03±0,17 0,32±0,21
H 0,94±0,02 0,03±0,16 0,24±0,16 0,24±0,21
V 0,17±0,16 0,04±0,17 0,30±0,21
Pilodyn -0,92±0,03 -0,55±0,17
DEN 0,77±0,15
Tại Quản Trị (5 tuổi)
D
1,3
0,78±0,07 0,97±0,01 -0,12±0,17 0,11±0,21
H 0,89±0,04 0,12±0,17 0,40±0,18
V -0,13±0,17 0,13±0,21
DEN 0,57±0,16
3.5. Tương quan tuổi – tuổi của các tính trạng sinh trưởng trong các khảo
nghiệm hậu thế thế hệ 2 Bạch đàn urô
Xác định tương quan di truyền tuổi - tuổi của một tính trạng được thực hiện bằng
việc xác định tương quan di truyền của tính trạng đó ở các cấp tuổi khác nhau, đặc biệt giữa
tuổi non và tuổi gần thành thục.
16
Bảng 3.17. Hệ số tương quan kiểu gen (Rg) và kiểu hình (Rp) của các tính trạng sinh trưởng giữa
các độ tuổi khác nhau trong khảo nghiệm hậu thế Bạch đàn urô tại Ba Vì và Đông Hà (6 tuổi)
Tính trạng
Ba Vì Đông Hà
Rg Rp Rg Rp
D
1,3
(2-3) 0,95±0,03 0,78±0,01 0,98±0,01 0,95±0,01
D
1,3
(2-5) 0,93±0,04 0,74±0,02 0,93±0,01 0,91±0,01
D
1,3
(2-6) 0,83±0,08 0,58±0,02 0,91±0,04 0,88±0,01
D
1,3
(3-5) 0,98±0,01 0,95±0,01 0,99±0,01 0,97±0,01
D
1,3
(3-6) 0,90±0,04 0,86±0,01 0,98±0,01 0,95±0,01
D
1,3
(5-6) 0,95±0,02 0,93±0,01 0,99±0,01 0,98±0,01
H (2-3) 0,95±0,06 0,79±0,01 0,99±0,01 0,94±0,01
H (2-5) 0,92±0,04 0,75±0,01 0,99±0,01 0,91±0,01
H (2-6) 0,81±0,07 0,61±0,02 0,99±0,02 0,87±0,01
H (3-5) 0,95±0,02 0,89±0,01 0,99±0,01 0,96±0,01
H (3-6) 0,88±0,05 0,78±0,01 0,99±0,01 0,93±0,01
H (5-6) 0,94±0,03 0,89±0,01 0,99±0,01 0,96±0,01
Số liệu tại bảng 3.17 cho thấy tương quan tuổi - tuổi của đường kính và chiều cao ở các
độ tuổi 2, 3, 5 và 6 từ chặt tới rất chặt. Kết quả này khẳng định các tính trạng sinh trưởng ở tuổi
non (2 - 3 tuổi) có thể là những tính trạng thay thế tốt về mặt di truyền cho các nghiên cứu
những tính trạng này ở tuổi 5 - 6 năm. Tăng thu di truyền theo đơn vị thời gian (gain per unit
time) trong việc cải thiện giống Bạch đàn urô sẽ cao hơn ở khi tiến hành chọn lọc ở độ tuổi non.
Đánh giá hệ số tương quan di truyền giữa các cặp tuổi 2 - 6 và 3 - 6 hoặc 2 - 5 và 2 -
6 cho thấy hệ số tương quan di truyền ở cặp tuổi 3 - 6 cao hơn so với hệ số tương quan ở
cặp 2 - 6. Rừng trồng các loài keo và bạch đàn cung cấp gỗ giấy thường có luân kỳ từ 5 - 7
năm. Do đó, tuổi 6 là tuổi gần thành thục của rừng trồng bạch đàn cung cấp gỗ giấy. Như
vậy có thể khẳng định rằng ở độ tuổi 3 chúng ta có thể tiến hành chọn lọc các gia đình sinh
trưởng nhanh và sẽ đảm bảo độ tin cậy cao. Trên thực tế tại tuổi 3 đường kính của Bạch đàn
urô tại Ba Vì và Đông Hà đã đạt tương ứng 6,5 cm và 8,9 cm (bảng 3.11). Với cấp kính này,
chúng ta cũng có thể nghiên cứu thêm các tính trạng về gỗ.
3.6. Tương tác di truyền – hoàn cảnh ở Bạch đàn urô và Bạch đàn lai UP
Điều kiện tự nhiên có ảnh hưởng rất lớn đến quá trình sinh trưởng của cây rừng. Không
những ở mức độ loài mà ngay ở các đơn vị phân loại dưới loài như xuất xứ và gia đình. Một
kiểu gen tốt chỉ thích hợp cho một biên độ sinh thái nhất định. Trong nghiên cứu cải thiện giống
cây rừng, việc đánh giá tương tác kiểu gen - hoàn cảnh là một nội dung hết sức quan trọng
nhằm quy hoạch và thiết lập các quần thể chọn giống.
3.6.1. Tương tác gia đình – hoàn cảnh ở Bạch đàn urô
Trong số 80 gia đình của khảo nghiệm hậu thế Ba Vì – Hà Nội và Đông Hà – Quảng Trị có
76 gia đình trùng lặp ở cả hai lập địa, nên việc đánh giá tương tác kiểu gen hoàn cảnh chỉ được
tiến hành cho 76 gia đình này và kết quả được trình bày ở bảng 3.18. Kết quả phân tích cho các
chỉ tiêu sinh trưởng đường kính, chiều cao, thể tích, độ thẳng thân và trị số pilodyn của các gia
đình bạch đàn urô ở hai lập địa có tương quan thấp, biến động từ 0,27 tời 0,35. Phân tích sự sai
khác của hệ số tương quan bằng phương pháp “Log-Likelihood-RatioTest” (Gilmour et al., 2006)
cho thấy hệ số tương quan di truyền của các tính trạng sinh trưởng ở hai lập địa hoàn toàn sai
khác.
Bảng 3.18. Tương tác gia đình – hoàn cảnh ở Bạch đàn urô giữa khảo nghiệm hậu thế thế hệ
2 tại Ba Vì và Đông Hà
Tính trạng Ba Vì – Đông Hà Sai khác LogL
D
1,3
0,27±0,20 <0.05
17
H 0,33±0,18 <0.001
V 0,35±0,20 <0.001
Dtt 0,54±0,28 <0.05
Pilodyn 0,96±0,08 <0.05
Tương quan di truyền giữa các gia đình về chi tiêu độ thẳng thân (Dtt) và trị số Pilodyn ở
hai lập địa lại đạt mức vừa phải tới rất chặt, với hệ số tương quan tương ứng là 0,54 và 0,96.
Như vậy chứng tỏ gia đình có khối lượng riêng của gỗ cao tại Ba Vì thì cũng đồng thời có khối
lượng riêng của gỗ cao ở Đông Hà. Kết quả phân tích đã khẳng định tương tác gia đình – hoàn
cảnh có ảnh hưởng tới sinh trưởng của Bạch đàn urô giữa hai lập địa Ba Vì và Đông Hà. Kết
quả này cũng được khẳng định qua sự hiện diện của các gia đình trong nhóm 5 gia đình sinh
trưởng nhanh nhất tại khảo nghiệm hậu thế Ba Vì và Đông Hà (bảng 3.2). Trong nhóm 5 gia
đình sinh trưởng nhanh ở hai lập địa không có gia đình nào trùng lặp. Đánh giá về giá trị chọn
giống của 76 gia đình Bạch đàn urô có mặt ở cả 2 khảo nghiệm hậu thế thế hệ 2 tại Ba Vì và
Đông Hà thì tất cả các gia đình đều chịu ảnh hưởng của tương tác gia đình – hoàn cảnh về sinh
trưởng giữa 2 lập địa này (biểu đồ 3.7). Ảnh hưởng lớn của tương tác di truyền hoàn - cảnh giữa
hai lập địa có thể được giải thích bằng sự khác biệt về điều kiện đất đai và khí hậu giữa hai lập
địa này. Đông Hà có dạng đất đặc trưng đất ferralit đỏ vàng phát triển trên phiến thạc sét, phấn
sa với độ pHKCL = 4,12, có tầng đất khá dày (>50cm) ít bị đá ong hóa, còn Ba Vì là đất ferralit
nâu vàng phát triển trên các loại đá phấn sa, phiến sét, sỏi sạn kết, chua mạnh (pHKCL = 3,6),
tầng đất mỏng (<50cm), có nhiều kết von. Ngoài ra, đất ở Ba Vì còn bị thái hóa mạnh và có
hiện tượng đá ong hóa chính vì thế hàm lượng các chất dinh dưỡng thiếu, làm ảnh hưởng đến
cây trồng. Mặt khác, điều kiện khí hậu ở hai địa điểm cũng khác xa nhau rất nhiều.
-30 -20 -10 0 10 20 30
-30
-20
-10
0
10
20
30
Biểu đồ 3.7: Giá trị chọn giống về thể tích thân cây của 76 gia đình Bạch đàn urô tại Ba Vì và Đông Hà
3.6.2. Tương tác dòng - hoàn cảnh ở Bạch đàn urô và Bạch đàn lai UP
Trong nghiên cứu chọn lọc dòng vô tính Bạch đàn urô cho trồng rừng, các thí nghiệm
được xây dựng trên các địa điểm khác nhau với điều kiện khí hậu và đất đai tương đối khác
nhau. Do đó việc đánh giá tương quan giữa các lập địa là một yêu cầu cần nghiên cứu để
định hướng cho công tác giống. Do các khảo nghiệm được xây dựng vào các thời điểm khác
nhau nên số lượng và thành phần dòng không giống nhau giữa các lập địa, do đó chỉ phân
tích tương quan giữa các cặp lập địa dựa trên số dòng chung giữa 2 cặp lập địa là Ba Vì –
Nam Đàn và Ba Vì – Đông Hà. Kết quả tính toán được thể hiện tại bảng 3.19 và 3.20.
18
Giá trị chọn giống về thể tích của các gia đình
tại Đông Hà
Giá trị chọn giống về thể tích của các gia đình tại Ba Vì
Bảng 3.19. Tương tác dòng – hoàn cảnh ở Bạch đàn urô giữa hai lập địa Ba Vì và Nam Đàn (6
tuổi)
Tính trạng Ba Vì – Nam Đàn Sai khác LogL
D
1,3
0,30±0,21 <0.05
H 0,38±0,19 <0.001
V 0,32±0,21 <0.001
Dtt 0,63±0,14 ns
Pilodyn 0,66±0,12 ns
Chú dẫn : ns là không sai khác
Kết quả phân tích cho các chỉ tiêu sinh trưởng đường kính, chiều cao, và thể tích cho
các dòng Bạch đàn urô giữa 2 cặp lập địa Ba Vì – Nam Đàn cho thấy hệ số tương quan giữa
các tính trạng sinh trưởng của các dòng ở 2 lập địa biến động từ 0,3 tới 0,38. Phân tích sự sai
khác của hệ số tương quan cũng cho thấy hệ số tương quan di truyền của các tính trạng sinh
trưởng ở hai lập địa là hoàn toàn sai khác. Ngược lại, tương quan di truyền giữa các dòng về
chi tiêu độ thẳng thân (Dtt) và trị số pilodyn ở hai lập địa lại tương đối chặt, nhưng lại không
có sự sai khác rõ ràng. Biểu đồ 3.8 thể hiện giá trị chọn giống về thể tích thân cây của 24
dòng Bạch đàn urô tại Ba Vì và Nam Đàn và cho thấy trong 24 dòng Bạch đàn urô có mặt ở
cả 2 khảo nghiệm dòng vô tính tại Ba Vì và Nam Đàn thì có tới 22 dòng chịu ảnh hưởng của
tương tác dòng – hoàn cảnh về sinh trưởng giữa 2 lập địa này. Chỉ có 2 dòng (U838 và U267)
là những dòng không bị ảnh hưởng bởi tương tác này. Như vậy, có thể khẳng định rằng tương
tác dòng – hoàn cảnh có ảnh hưởng tới sinh trưởng, nhưng không ảnh hưởng tới độ thẳng thân
và khối lượng riêng của các dòng bạch đàn urô giữa hai lập địa Ba Vì và Nam Đàn.
4.0 4.5 5.0 5.5 6.0 6. 5 7.0
2.2
2.4
2.6
2.8
3.0
3.2
Biểu đồ 3.8: Giá trị chọn giống về thể tích thân cây của 24 dòng Bạch đàn urô ở Ba Vì và Nam Đàn
Cũng tương tự như trong các khảo nghiệm dòng vô tính của Bạch đàn urô giữa Ba Vì
và Nam Đàn, kết quả tính toán tương tác dòng - hoàn cảnh cho các chỉ tiêu sinh trưởng và
hàm lượng cellulose của các dòng Bạch đàn lai UP giữa 2 cặp lập địa Ba Vì và Đông Hà là
yếu, nhưng lại có sự sai khác rõ ràng, nghĩa là dùy hệ số tương tác nhỏ nhưng vẫn là tồn tại
tương tác giữa chúng (LogL <0,001- bảng 3.20). Ngược lại, tương quan di truyền giữa các
dòng về chỉ tiêu độ thẳng thân (Dtt) và khối lượng riêng của gỗ ở hai lập địa lại khá chặt,
nhưng không có sự sai khác rõ ràng. Đánh giá về giá trị chọn giống của 28 dòng Bạch đàn
19
Giá trị chọn giống về thể tích của các dòng tại Ba Vì
Giá trị chọn gióng thể tích của các dòng tại Nam Đàn
lai UP tham gia cả 2 khảo nghiệm dòng vô tính tại Ba Vì và Đông Hà thì chỉ có 1 dòng
không bị ảnh hưởng bởi tương tác dòng – hoàn cảnh về sinh trưởng giữa 2 lập địa này (biểu
đồ 3.9). Đây chính là dòng UP35 có sinh trưởng nhanh nhất ở cả hai lập địa. Kết quả này có
thể khẳng định tương tác dòng – hoàn cảnh có ảnh hưởng tới sinh trưởng và hàm lượng
cellulose, nhưng không ảnh hưởng tới độ thẳng thân và khối lượng riêng của các dòng bạch
đàn lai UP giữa hai lập địa Ba Vì và Đông Hà. Do đó, nếu chọn các dòng sinh trưởng nhanh
và/hoặc có hàm lượng cellulose cao cho chương trình trồng rừng dòng vô tính ở 2 lập địa
này cần phải lực chọn các dòng riêng biệt cho cả hai lập địa.
Bảng 3.20. Tương tác dòng – hoàn cảnh ở Bạch đàn lai UP (5 tuổi)
Tính trạng Ba Vì – Đông Hà Sai khác LogL
D
1,3
0,07±0,20 <0.001
H 0,28±0,18 <0.001
V 0,11±0,20 <0.001
Dtt 0,61±0,15 ns
Khối lượng riêng 0,71±0,16 ns
Cellulose 0,39±0,22 <0.001
Chú dẫn : ns là không sai khác
-40 -20 0 20 40 60
-20
-10
0
10
20
30
Biểu đồ 3.9: Giá trị chọn giống về thể tích thân cây của 28 dòng Bạch đàn lai UP
ở Ba Vì và Đông Hà
3.7. Một số đề xuất cho cải thiện giống Bạch đàn urô và Bạch đàn lai UP
3.7.1. Cải thiện các tính trạng sinh trưởng và tính chất gỗ ở các chương trình cải
thiện Bạch đàn urô
Trong các khảo nghiệm hậu thế thế hệ 2 và khảo nghiệm dòng vô tính tại tuổi 6, hệ
số di truyền theo nghĩa hẹp cũng nhưn hệ số di truyền nghĩa rộng của các gia đình và dòng
vô tính Bạch đàn urô biến động từ 0,19 – 0,25 cho chỉ tiêu sinh trưởng, 0,62 - 0,68 cho khối
lượng riêng của gỗ và 0,30 - 0,46 cho hàm lượng cellulose. Hệ số biến động di truyền lũy
tích hoặc hệ số biến động kiểu gen của các tính trạng này cũng biến động khá lớn, từ 7 -
16,3%. Như vậy có thể khẳng định có thể tiếp tục cải thiện năng suất, khối lượng riêng của
gỗ và hàm lượng cellulose của Bạch đàn urô ở các thế hệ tiếp theo. Nếu chỉ chọn các cá thể
tốt trong các gia đình tốt trong khảo nghiệm hậu thế thế hệ 2 hoặc chọn lọc các dòng ưu việt
20
Giá trị chọn giống về thể tích của các dòng
tại Đông Hà
Giá trị chọn giống về thể tích của các dòng tại Ba Vì
trong các khảo nghiệm dòng vô tính Bạch đàn urô tại Ba Vì và Nam Đàn và sử dụng chúng
vào sản xuất chắc chắn sẽ đem lại tăng thu di truyền cao cho rừng trồng tương lai.
Kết quả nghiên cứu của luận án cũng cho thấy khối lượng riêng của gỗ và hàm lượng
cellulose của loài cây này biến động khá lớn, tương ứng từ 0,41 -0,63g/cm
3
và 40,0 - 46,7% .
Như vậy loài này khá phù hợp cho trồng rừng làm nguyên liệu giấy ở Việt Nam. Tuy nhiên, cải
thiện hàm lượng cellulose hay khối lượng riêng của gỗ ở Bạch đàn urô nhằm tăng chuỗi giá trị
rừng trồng vẫn là công việc cấp thiết cần thực hiện. Khối lượng riêng của gỗ và hàm lượng
cellulose có mối quan hệ rất chặt, với hệ số tương quan di truyền biến động từ 0,57 - 0,77. Do
vậy, nếu cải thiện khối lượng riêng của gỗ thì sẽ cải thiện cả hàm lượng cellulose ở Bạch đàn
urô. Vì vậy chương trình cải thiện giống của Bạch đàn urô cần tập trung vào cải thiện sinh
trưởng và khối lượng riêng của gỗ nhằm chọn lọc ra các dòng ưu việt hơn cho chương trình
trồng rừng tương lai. Không nên tập trung vào cải thiện hàm lượng cellulose trong chương trình
vì chúng có tương quan chặt với khối lượng riêng của gỗ và hơn thế nữa việc xác định hàm
lượng cellulose khá phức tạp và tốn kém thời gian và kinh phí. Mặt khác, các nghiên cứu về
tương quan di truyền giữa pilodyn với khối lượng riêng của gỗ trong luận án cũng đã chỉ ra đây
là tương quan âm và biến động từ chặt cho đến rất chặt (r = - 0,80 tới - 0,92). Dùng pilodyn để
đánh giá nhanh và xếp hạng các gia đình có khối lượng riêng của gỗ cao trong các nghiên cứu
cải thiện giống Bạch đàn urô. Pilodyn không phải là khối lượng riêng của gỗ, nhưng nó được sử
dụng để chọn lọc ra các cá thể, các dòng có khối lượng riêng của gỗ cao.
Tương quan giữa các chỉ tiêu sinh trưởng đường kính, chiều cao với khối lượng riêng của
gỗ là tương quan âm hoặc dương, song mức độ tương quan yếu và không có ý nghĩa (r = - 0,31
đến 0,04). Do đó chọn giống theo các chỉ tiêu sinh trưởng sẽ không ảnh hưởng nhiều đến khối
lượng riêng trong Bạch đàn urô. Chọn lọc được những cá thể có sinh nhanh nhất và khối lượng
riêng của gỗ cao nhất, từ đó nhân giống vô tính và khảo nghiệm lại để xác định được những
dòng ưu việt phát triển cho sản xuất trồng rừng.
Bởi vì số lượng gia đình trong các quần thể chọn giống Bạch đàn urô ở các hiện
trường nghiên cứu của luận án còn hạn chế (chỉ có 80 gia đình hoặc từ 40 -70 dòng/khảo
nghiệm), trong đó không có các gia đình mới nhập từ các quần thể tự nhiên và/hoặc quần
thể chọn giống của các nước khác, nên cần nhập thêm các gia đình mới khác biệt so với các
gia đình đã có trong quần thể thế hệ 1 và 2 ở nước ta để đảm bảo duy trì tính đa dạng di
truyền cao cho các quần thể chọn giống tiếp theo phục vụ mục tiêu chiến lược chọn giống
lâu dài cho Bạch đàn urô. Hơn nữa, nhằm hạn chế tương tác di truyền – hoàn cảnh đã được
xác nhận trong nghiên cứu của luận án này, các quần thể chọn giống phải được xây dựng
tách biệt nhằm tối ưu hóa các tính trạng đặc biệt, chẳng hạn như thể tích và/hoặc các tính
chất gỗ ở các vùng sinh thái chính ở Việt Nam.
Một sự lựa chọn khác là Bạch đàn urô chỉ phù hợp cho miền Bắc và miền Trung và
cũng đã xuất hiện nhiều loại bệnh hại rừng trồng (Phạm Quang Thu et al., 2000). Trong khi
Bạch đàn pellita lại chỉ phù hợp cho miền Nam (Lê Đình Khả, 2003), nhưng gỗ lại khá phù
hợp cho gỗ xẻ và rất ít bị bệnh hại (Harwood, 1980; Phạm Quang Thu et al., 2009). Do đó
chương trình cải thiện giống sử dụng các cá thể Bạch đàn urô ưu việt có năng suất cao ở cả
loài bố và mẹ trong việc lai giống với các cá thể ưu việt của Bạch đàn pellita cho tính chất
gỗ tốt có thể sẽ trở nên rất hữu ích nhằm tạo ra các dòng bạch đàn lai mới có năng suất cao
và chất lượng gỗ tốt và đặc biệt có khả năng gây trồng ở tất cả các miền ở nước ta.
3.7.2. Độ tuổi trong nghiên cứu chọn giống Bạch đàn urô
Hệ số tương quan di truyền (Rg) và hệ số tương quan kiểu hình (Rp) của các tính trạng đường
kính và chiều cao của các gia đình Bạch đàn urô tại các độ tuổi 2, 3, 5 và 6 là từ chặt tới rất chặt. Kết
21
quả nghiên cứu của luận án này cũng khẳng định các tính trạng sinh trưởng ở tuổi non (2 - 3 tuổi) có
thể là những tính trạng thay thế tốt về mặt di truyền cho các nghiên cứu những tính trạng này ở tuổi 5
- 6 năm. Chính vì vậy, tăng thu di truyền theo đơn vị thời gian (gain per unit time) trong việc cải thiện
giống Bạch đàn urô sẽ cao hơn ở khi tiến hành chọn lọc ở độ tuổi non. Như vậy có thể khẳng định
rằng ở độ tuổi 3 chúng ta có thể tiến hành chọn lọc các gia đình sinh trưởng nhanh và sẽ đảm bảo độ
tin cậy cao. Trên thực tế, tại tuổi 3, đường kính của bạch đàn urô tại Ba Vì và Đông Hà đã đạt tương
ứng 6,5 cm và 8,9 cm (bảng 3.11). Với cấp kính này, chúng ta cũng có thể nghiên cứu thêm các tính
trạng về gỗ Nguyễn Tử Kim (2012).
3.7.3. Phát triển các dòng Bạch đàn urô và Bạch đàn lai UP ưu việt
Kết quả nghiên cứu của luận án đã chỉ rõ 10 gia đình sinh trưởng nhanh nhất tại 2 khảo
nghiệm hậu thế thế hệ 2 có thể tích vượt trội về thể tích so với các gia đình sinh trưởng kém
(vượt 58,5 - 245,5%) và đồng thời cũng vượt hơn dòng U6 (60,4 - 83,4%). Ngoài ra, chỉ tiêu
chất lượng tổng hợp, khối lượng riêng của gỗ, hàm lượng cellulose của các gia đình này cũng
có độ vượt khá lớn so với dòng U6. Do đó việc chọn lọc các cá thể tốt trong các gia đình này,
nhân giống và khảo nghiệm dòng vô tính sẽ chắc chắn tìm ra được các dòng ưu việt vượt trội
hơn dòng U6 là giống tiên bộ kỹ thuật đang sử dụng rộng rãi trong sản xuất.
Đánh giá biến dị giữa các gia đình Bạch đàn urô trong khảo nghiệm hậu thế thế hệ 2 và
các dòng vô tính Bạch đàn urô và Bạch đàn lai trong các khảo nghiệm dòng vô tính ở luận án này
cho thấy một số dòng thể hiện khả năng sinh trưởng nhanh nhưng lại vẫn có khối lượng riêng và
hàm lượng cellulose cao. Các gia đình và dòng này cần được phát triển cho sản xuất trong thời
gian tới. Đó là gia đình 18 tại Ba Vì; các dòng U18, UP72, UP66, UP99, UP35 và UP23 tại Ba
Vì; các dòng U821, U1088, U416 và U262 tại Nam Đàn; các dòng UP54, U892, UP35 tại Đông
Hà. Một số dòng khác, tuy có sinh trưởng chậm hơn nhưng chúng lại có khối lượng riêng và hàm
lượng cellulose cao cũng cần được xem xét trong tương lai để phát triển cho sản xuất.
KẾT LUẬN, TỒN TẠI VÀ KHUYẾN NGHỊ
4.1.1. Biến dị về sinh trưởng và một số tính chất gỗ của Bạch đàn urô và một số
giống Bạch đàn lai UP
1. Có sự phân hóa rõ rệt giữa các gia đình về sinh trưởng, chất lượng và trị số pilodyn.
Nhóm 10 gia đình tốt nhất có thể tích trung bình vượt 50,7% so với trung bình khảo
nghiệm và vượt 158,5% so với 10 gia đình sinh trưởng kém nhất, dòng U6 (83,4%) và
trị số pilodyn biến động trong khoảng 9,6 - 14,5 mm tại Ba Vì; Vượt 43,8 – 245,5% so
với 10 gia đình kém nhất và 227,6% so với giống U6 và 12,3 - 17,0 mm tại Đông Hà.
2. Có sự khác nhau rõ rệt giữa các dòng vô tính Bạch đàn urô về sinh trưởng, chất lượng
thân cây, trị số pilodyn, khối lượng riêng của gỗ và hàm lượng cellulose. Năm dòng (U18,
U11, U265, U1 và U4) tốt nhất vượt 127,4% so với trung bình khảo nghiệm và vượt U6
từ 30,1 - 95,1% về thể tích thân cây, trị số pilodyn biến động trong khoảng 11,2 - 17,6
mm, khối lượng riêng của gỗ biến động trong khoảng 0,43 - 0,59 g/cm
3
, 5 dòng (U951,
U295, U992, U14 và U833) có khối lượng riêng của gỗ cao, hàm lượng cellulose của
Bạch đàn urô biến động trong khoảng 40 - 46,7%, 4 dòng (U3, UU78, U894 và UU6) có
hàm lượng cellulose cao tại Ba Vì. Trong khi đó, 5 dòng (U1088, U821, U416, U262 và
U348) ưu việt tại Nam Đàn chỉ có độ vượt về thể tích thân cây là 23,0% so với thể tích
thân cây dòng U6 và trị số pilodyn biến động trong khoảng 9,7 - 15,4 mm.
3. Có sự phân hóa rõ rệt giữa các dòng vô tính bạch đàn lai UP về sinh trưởng, chất lượng
thân cây, pilodyn, khối lượng riêng của gỗ và hàm lượng cellulose. Nhóm 5 dòng
(UP72, UP66, UP99, UP35 và UP23) tốt nhất vượt 40% so với trung bình khảo nghiệm
22
và vượt PN14 56,3%, vượt 52,5% so với dòng U6, trị số pilodyn biến động trong
khoảng 10,6 - 18,1 mm; khối lượng riêng của gỗ biến động trong khoảng 0,41 - 0,60
g/cm
3
, 5 dòng (UP26, UP23, UP47, UP22 và UP12) có khối lượng riêng của gỗ cao,
hàm lượng cellulose biến động trong khoảng 41,6 - 47,1%, 5 dòng (UP72, UP47, UP26,
UP35 và UP23) có hàm lượng cellulose cao
tại Ba Vì. Ba dòng (UP54, UU39, UP35)
sinh trưởng nhanh tại Đông Hà có thể tích thân cây trung bình đạt 154,4 dm
3
/cây, vượt
32,1% so với trung bình khảo nghiệm và vượt từ 54,9 - 127,0% so với đối chứng hạt sản
xuất đại trà, khối lượng riêng của gỗ 0,41 - 0,63g/cm
3
, 3 dòng (UP26, UU42 và UP47)
có khối lượng riêng của gỗ cao và hàm lượng cellulose 39,8 – 45,5 %, 4 dòng (UP23,
UP47, UP48 và UP51) có hàm lượng cellulose cao tại Đông Hà.
4. Có 11 dòng gồm 10 dòng được công nhận là giống tiến bộ kỹ thuật (5 dòng UP35;
UP72, UP95, UP97 UP99 ở Ba Vì; 1 dòng UP54 ở Đông Hà; 3 dòng U821, U416,
U262 ở Nam Đàn; 1 dòng U892 ở Đông Hà và một dòng được công nhận giống
Quốc Gia là U1088 ở Nam Đàn và Đông Hà.
4.1.2. Khả năng di truyền và tương tác di truyền hoàn cảnh về sinh trưởng của
Bạch đàn urô và Bạch đàn lai UP
1. Hệ số di truyền theo nghĩa hẹp cho các tính trạng sinh trưởng của Bạch đàn urô biến
động từ mức thấp đến trung bình (h
2
= 0,19 - 0,23 ở tuổi 6) và tăng dần theo tuổi. Hệ
số di truyền của trị số pilodyn là khá cao, với h
2
= 0,42 – 0,48.
2. Hệ số di truyền theo nghĩa rộng cho các tính trạng sinh trưởng và độ thẳng thân của các
dòng Bạch đàn urô của ở mức trung bình tới cao (biến động từ H
2
: 0,20 – 0,46). Trong khi
khối lượng riêng của gỗ có hệ số di truyền cao hơn (H
2
: 0,68) các tính trạng sinh trưởng.
3. Hệ số di truyền theo nghĩa rộng cho các tính trạng sinh trưởng của các dòng Bạch đàn
lai UP ở mức cao (biến động từ H
2
: 0,34 - 0,46) tại Đông Hà, Ba Vì ở mức trung bình
(H
2
: 0,18 - 0,31); Khối lượng riêng của gỗ có hệ số di truyền cao (H
2
: 0,71 - 0,78);
Hàm lượng cellulose có hệ số di truyền ở mức trung bình (H
2
: 0,25 - 0,31).
4. Hệ số biến động di truyền lũy tích của các tính trạng sinh trưởng trong khảo nghiệm
hậu thế thế hệ 2 Bạch đàn urô biến động từ 8,9 - 16,3% và cũng tăng lên theo cấp tuổi.
5. Hệ số biến động di truyền lũy tích cho các tính trạng sinh trưởng của các dòng vô
tính bạch đàn urô biến động 8,6 - 14,2% . Cho khối lượng riêng 7,1 - 10,4% và 9,9 -
10,6% cho độ thẳng thân.
6. Hệ số biến động di truyền lũy tích cho các tính trạng sinh trưởng và khối lượng riêng của
gỗ của các dòng vô tính bạch đàn lai UP biến động 9 - 10%, Độ thẳng thân có hệ số biến
động cao hơn so với các tính trạng sinh trưởng (>14%). Hàm lượng cellulose 1,8 - 2,6%.
4.1.3. Tương quan giữa các chỉ tiêu sinh trưởng và tính chất gỗ của Bạch đàn urô
và một số giống Bạch đàn lai UP; tương quan tuổi – tuổi của các tính trạng sinh trưởng
của Bạch đàn urô
1. Tương quan giữa chỉ tiêu sinh trưởng và tính chất gỗ từ yếu đến vừa phải và không
có ý nghĩa do đó việc chọn lọc theo sinh trưởng sẽ không ảnh hưởng đến khối lượng
riêng của gỗ.
2. Các dòng vô tính Bạch đàn urô và bạch đàn lai UP đều có tương quan giữa khối
lượng riêng của gỗ với cellulose ở mức tương đối chặt đến chặt (r = 0,57 - 0,77).
Trong khi tương quan giữa cellulose với các tính trạng sinh trưởng là tương quan
dương và ở mức từ yếu đến vừa phải (r = 0,11 - 0,40).
23
3. Tương quan giữa khối lượng riêng của gỗ với trị số pilodyn đối với dòng vô tính từ
chặt tới rất chặt với r = - 0,80 tới - 0,92. Vì vậy, có thể dùng Pilodyn để xác định
nhanh ở mức độ dòng vô tính.
4. Tương quan tuổi – tuổi: tính trạng đường kính và chiều cao có tương quan với nhau ở
các độ tuổi 2, 3, 5 và 6 từ chặt tới rất chặt. Nhưng hệ số tương quan di truyền ở cặp
tuổi 3 - 6 cao nhất. Do vậy có thể khẳng định rằng ở độ tuổi 3 chúng ta có thể tiến
hành chọn lọc các gia đình sinh trưởng nhanh và sẽ đảm bảo độ tin cậy cao.
4.1.4. Tương tác di truyền – hoàn cảnh ở Bạch đàn urô và Bạch đàn lai UP
1. Tương quan của các chỉ tiêu về sinh trưởng giữa các lập địa Ba Vì – Hà Nội, Nam
Đàn – Nghệ An và Đông Hà – Quảng Trị ở mức yếu đến vừa phải với hệ số tương
quan r = 0,25 - 0,38. Do đó cần xây dựng các quần thể chọn giống riêng biệt cho
từng vùng để tối đa hóa tăng thu di truyền cho các chỉ tiêu sinh trưởng.
2. Tương quan của trị số Pilodyn (khối lượng riêng của gỗ) giữa Ba Vì và Đông Hà ở mức
tương đối chặt đến rất chặt với hệ số tương quan r = 0,66 - 0,96, điều đó chứng tỏ các gia
đình và các dòng vô tính có khối lượng riêng của gỗ cao tại Ba Vì thì cũng có thể có
khối lượng riêng của gỗ cao tại Đông Hà.
4.2. Tồn tại
1. Tỷ lệ sống của một số gia đình và dòng vô tính thấp (do trâu, bò giẫm đạp làm chết và
một số cây do bão làm đổ). Chính vì vậy, có thể làm giảm sự sai khác giữa các gia đình,
dòng vô tính và đồng thời cũng làm giảm biến động giữa các cá thể trong một gia đình
hay trong một dòng, do đó có thể có ảnh hưởng đến kết quả tính toán hệ số di truyền.
2. Do kinh phí có hạn nên số lượng mẫu chưa đủ lớn (chỉ bao gồm 612 cây cá thể của 152
công thức thí nghiệm tương đương với 4 cây/dòng) để thực hiện các nghiên cứu khối
lượng riêng và hàm lượng cellulose đã phần nào ảnh hưởng đến kết quả nghiên cứu
4.3. Khuyến nghị
1. Đưa 11 dòng Bạch đàn urô và Bạch đàn lai UP (E. urophylla x E. pellita) của đề tài
đã được Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn công nhận là giống Quốc gia và
giống tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất thử để có cơ sở phát triển trồng rừng trên diện
rộng. Cụ thể các dòng được công nhận là: tại Ba Vì - Hà Nội là dòng UP35; UP72,
UP95, UP97 và UP99; tại Nam Đàn – Nghệ An là các dòng U821, U416, U262 và
dòng U1088; tại Đông Hà – Quảng Trị là các dòng UP54, U892, U1088.
2. Từ 10 gia đình sinh trưởng tốt nhất và 10 gia đình có trị số pilodyn cao ở khảo
nghiệm hậu thế thế hệ 2 chọn lọc các cây trội và nhập nội thêm các gia đình nguyên
sản từ đó xây dựng các khảo nghiệm hậu thế thế hệ thứ 3 cho mỗi vùng sinh thái
3. Tiếp tục nghiên cứu tính chất cơ lý và hóa học gỗ ở các tuổi cao hơn từ đó sẽ xác định được
tuổi chọn lọc các tính trạng chính xác, phù hợp nhất để tiết kiệm về mặt thời gian và kính phí.
4. Từ 11 dòng Bạch đàn urô và Bạch đàn lai UP được công nhận giống cho từng vùng
sinh thái xây dựng các vườn cây đầu dòng để phục vụ nhân giống cho sản xuất.
24