I. PHẦN MỞ ĐẦU
I.1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Khi xã hội ngày càng phát triển, yêu cầu đối với mỗi cá nhân ngày càng
cao.Vai trò của giáo dục & đào tạo nói chung và đào tạo Bậc tiểu nói riêng có
một ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc cung cấp nguồn nhân lực cho đất
nước, nhất là trong giai đoạn hiện nay khi Việt Nam đã gia nhập WTO và phấn
đấu trở thành đất nước công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Thực hiện chỉ thị 06 -
CT/TW của Bộ chính trị về thực hiện cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh”; chỉ thị 33/2006/CT-TTG của Thủ tướng Chính
phủ về chống tiêu cực và khắc phục bệnh thành tích trong giáo dục thông qua
cuộc vận động “Hai không” của ngành, thực hiện cuộc vận động “ Mỗi thầy cô
giáo là một tấm gương đạo đức tự học và sáng tạo”.
Tôi nhận thức được rằng : Bậc tiểu học là bậc học nền tảng mang tính hội
tụ toàn diện ở cả 9 môn học. Tiếng việt chiếm vị trí đặc biệt quan trọng và
chiếm thời lượng nhiều nhất trong trường Tiểu học hiện nay. Học sinh sau khi
hoàn thành chương trình bậc Tiểu học phải đạt được bốn kĩ năng: Nghe, nói,
đọc, viết. Mỗi môn học giúp các em nẵm vững kiến thức, đặt nền tảng vững
chắc để các em tiếp tục học lên bậc học mới. Làm hành trang cho các em vững
bước trên con đường học tập của mình. Mỗi giáo viên giảng dạy đều phải thực
sự tâm huyết, nhiệt tình trong công tác, không ngừng học hỏi để nâng cao trình
độ chuyên môn nghiệp vụ đáp ứng với nhu cầu giáo dục hóa hiện nay.
Trong quá trình giảng dạy, tôi nhận thấy phân môn Tập làm văn là môn học
khó trong các phân môn của môn Tiếng việt. Do đặc thù của môn học phải hình
thành và rèn cho học sinh khả năng nói và viết một văn bản ở nhiều thể loại
khác nhau. Chính vì vậy, phân môn Tập làm văn ở tiểu học có nhiệm vụ quan
trọng đối với học sinh là rèn kĩ năng nói, viết, giao tiếp, Nói và viết hỗ trợ rất
nhiều cho các môn học khác. Đặc biệt hơn nữa, Ở lớp 2, các em bước đầu làm
quen với môn học này, viết một đoạn văn ngắn từ 3 đến 5 câu qua hình thức
1
quan sát tranh ảnh, nghe chuyện, Nhưng bước sang lớp 3 kỹ năng hình thành
một đoạn văn yêu cầu cao hơn từ 5 đến 7 câu, rồi 7 đến 10 câu. Nhưng thực tế
hiện nay, phần đa học sinh đều không hứng thú học phân môn Tập làm văn vì
các em nghĩ rằng : Mình sẽ không biết nói gì ? viết gì ? để hoàn thành một đoạn
văn ngắn theo yêu câu đề bài. Trực tiếp giảng dạy các lớp 3 qua nhiêu năm, tôi
nhận thấy rằng ở tiết Tập làm văn hầu như các em không thích học, còn lúng
túng khi dùng từ đặt câu, câu văn thường lặp lại, dùng sai từ, cách sử dụng dấu
câu, không đầy đủ ý, …Nhiều em làm theo hình thức trả lời câu hỏi và gạch đầu
dòng của phần gợi ý dẫn đến yêu cầu đề bài không đạt.
Là một giáo viên trực tiếp giảng dạy, tôi rất băn khoăn và trăn trở: Làm thế
nào để kích thích tính tự giác, tích cực, độc lập của học sinh và tạo hứng thú học
tập cho học sinh để giúp các em nói và viết đúng cấu trúc của đoạn văn theo yêu
cầu đề bài của môn học Tập làm văn ? Đây là vấn đề đặt ra cho mỗi giáo viên
trực tiếp giảng dạy phải có tay nghề vững vàng, phải biết yêu nghề, mến trẻ, tức
là phải có năng lực sư phạm, phải biết chọn lựa tự tìm tòi những phương pháp,
hình thức tổ chức thích hợp, biện pháp để nâng cao chất lượng học tập cho học
sinh đạt kết quả cao. Đó cũng chính là lí do chủ yếu mà tôi mạnh dạn tiến hành
nghiên cứu và thực nghiệm đề tài: “Phát huy tính tích cực, chủ động và sáng
tạo cho học sinh Lớp 3 trong phân môn Tập làm văn ”
2. Mục tiêu nhiệm vụ đề tài:
Mục tiêu của sáng kiến kinh nghiệm “Phát huy tính tích cực, chủ động và
sáng tạo cho học sinh Lớp 3 trong phân môn Tập làm văn” đó là giúp giáo
viên có được những kinh nghiệm, biện pháp hữu hiệu nhằm phát huy tính tích
cực, sáng tạo, chủ động trong học tập và rèn kỹ năng diễn đạt theo suy nghĩ của
mình thành ngôn ngữ văn bản. Đồng thời cũng làm nền tảng cho các em nói và
viết theo hiểu biết của chính
mình để hỗ trợ trong việc học tập, góp phần đưa chất lượng “ Dạy - Học ” đạt
hiệu quả tốt hơn.
3. Đối tượng nghiên cứu:
2
- Học sinh Lớp 3A4 năm học: 2010 – 2011
- Học sinh Lớp 3A2 năm học: 2011 – 2012 Trường TH Nguyễn Viết Xuân
- Học sinh Lớp 3A2 năm học: 2012 – 2013
4. Phạm vi nghiên cứu:
Do điều kiện và đặc thù của trường, tôi chỉ áp dụng nghiên cứu học sinh ở
lớp 3, cụ thể trong phân môn tập làm văn với nội dung: Phát huy tính tích cực,
chủ động và sáng tạo cho học sinh Lớp 3.
5.Phương pháp nghiên cứu:
Với đề tài này tôi đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp nắm bắt, khảo sát từng cá nhân học sinh về chất lượng dạy học.
- Phương pháp nghiên cứu văn bản, tài liệu liên quan đến phân môn tập làm
văn.
- Phương pháp phối hợp quan sát và cùng phối hợp kiểm tra đối chứng.
- Phương pháp lập kế hoạch với nội dung cụ thể cho từng tiết dạy.
- Phương pháp thực hành dạy trên lớp.
- Phương pháp kiểm tra, đánh giá sau thực nghiệm.
II. PHẦN NỘI DUNG
II.1. Cơ sở lý luận:
Dạy cho học sinh học tiếng việt chính là dạy học tiếng mẹ đẻ. Khi các học
sinh được đi học lớp mở lòng chính là học sinh đã tiếp cận môn tiếng việt. Vì
vậy, tiếng việt đã giúp các em hình thành 4 kỹ năng cơ bản: nghe, nói, đọc, viết.
Phân môn tập làm văn giúp cá em hội tụ đủ bốn kỹ năng trên. Đối với học sinh
lớp 3 thì đây là một phân môn rất khó. Bởi ở lứa tuổi các em, vốn kiến thức và
hiểu biết còn hạn hẹp. Bên cạnh đó còn một số khó khăn khách quan như: Điều
kiện hoàn cảnh sống của HS, gia đình, việc diễn đạt ngôn ngữ kém, việc tiếp thu
về kiến thức khá chậm, HS nghèo vốn từ ngữ,…điều này ảnh hưởng nhiều đến
việc học tập của học sinh. Trong nhiều năm trực tiếp giảng dạyhọc hỏi đồng
nghiệp. Bản thân tôi nhận thấy rằng học sinh trường của tôi không thích
học phân môn này vì Bài viết của học sinh chưa được hay, nhiều em trình bày
3
chưa đúng câu, lúng túng khi làm bài, thường lặp lại câu, dùng từ sai nghĩa hoặc
không có nghĩa. Có em viết không đúng, bài làm đảm bảo về số câu nhưng
không đủ ý.
II. 2. Thực trạng:
Trong 3 năm gần đây, Tôi được Ban giám hiệu nhà trường phân công giảng
dạy trực tiếp ở khối lớp 3, đồng thời cũng kiêm nhiệm tổ trưởng. Dựa trên tình
hình thực tế của toàn khối III trong 3 năm liền nói chung, cụ thể là các lớp tôi
phụ trách nói riêng, bản thân thấy có những thuận lợi, khó khăn sau:
a. Thuận lợi:
Đơn vị Trường tiểu học Nguyễn Viết Xuân thành lập từ năm 1989 thuộc
trung tâm xã EaTóh, huyện Krông Năng, tỉnh Đăk Lăk. Nhiều năm liền, trường
đã gặt hái rất nhiều thành quả trong nền giáo dục huyện nhà.
- Trường có đội ngũ CBGV đạt chuẩn về trình độ kiến thức, trẻ khỏe và giàu
tâm huyết.
- Học sinh đa số là con em người Kinh, có tinh thần hiếu học cao.
- Được sự quan tâm chỉ đạo của các cấp, Ban giám hiệu nhà trường luôn đi sâu
đi sát và tạo mọi điều kiện tốt cho giáo viên trong công tác giảng dạy.
- Số lượng học sinh được phân bố đều các khối lớp.
- Giáo viên được tập huấn chương trình dạy học theo hướng đổi mới từ nội
dung chương trình đến phương pháp dạy học.
- Cơ sở vật chất ở các lớp tương đối đầy đủ tiện nghi, bàn ghế, phòng học.
- Đời sống của phụ huynh học sinh tương đối ổn định, nền kinh tế vững chắc
nên phụ huynh rất quan tâm tạo mọi điều kiện tốt đến việc học của con em
mình.
- 100 % các Lớp học 2 buổi / ngày.
b. Khó khăn:
Mặc dù, với những thành quả đã được ghi nhận trong nền giáo dục hóa nói
chung, giáo dục xã nhà nói riêng. Nhìn lại những chặng đường thành công ấy,
chúng ta vẫn gặp không ít những khó khăn về công tác giáo dục cũng như:
4
- Hình thức, phương pháp dạy học theo hướng đổi mới làm cho nhiều giáo viên
lúng túng trong quá trình lên lớp, nhiều giáo viên phụ thuộc, rập khuôn theo
sách giáo khoa, hay áp đặt học sinh,…
- Phần cơ sở vật chất về bàn ghế tuy đủ nhưng chưa đúng theo quy định bàn
chuẩn của Bộ GD & ĐT đưa ra giành cho học sinh tiểu học.
- Đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi của các em tiếp thu nhanh nhưng cũng nhanh
quên, mức độ tập trung học tập chưa cao.
- Kiến thức về cuộc sống đối với các em còn hạn chế, vốn từ vựng chưa nhiều.
- Một số học sinh còn phụ thuộc vào bài văn mẫu, áp dụng một cách máy móc,
chưa biết vận dụng bài mẫu để hình thành lối văn của riêng mình.
- Nhiều học sinh thiếu sự quan tâm của một số gia đình, nhiều phụ huynh chưa
thực sự quan tâm đến việc học của các em mà tất cả là phó mặc cho giáo viên.
Dẫn đến các em không hứng thú khi học phân môn này.
*Thành công và hạn chế:
Năm học nào cũng vậy, hầu như các khối lớp ở tiểu học đều có học sinh
đạt tỉ lệ khá giỏi rất nhiều. Tỷ lệ học sinh trung bình, học sinh yếu chiếm một
phần ít. Song vốn ngôn ngữ để hình thành một đoạn văn theo yêu cầu ở lớp 3
trong phân môn Tập làm văn còn gặp nhiều khó khăn đối với học sinh. Bên
cạnh đó, một số giáo viên chưa nhận thức tầm quan trọng của phân dẫn đến quy
trình và phương pháp dạy học chưa thích hợp. Phần thì học sinh hiểu biết chưa
sâu rộng về nghĩa của các từ ngữ và bản chất của câu văn nên khi các em viết
một đoạn văn thường hay mắc lỗi diễn đạt như: từ lặp lại nhiều, câu văn không
rõ nghĩa, ý theo không trình tự rất lộn xộn, nhiều em thì mang tính chất trả lời
câu hỏi gợi ý bằng cách gạch đầu dòng,
Bên cạnh những thuận lợi và khó khăn, kết hợp với việc khảo sát đầu năm
về kỹ năng viết câu, dùng từ, dùng câu để viết một đoạn văn theo yêu cầu bài.
Qua thu thập báo cáo của các đồng chí trong tổ khối và cụ thể tại lớp 3A5 tuần
2, lớp 3A2 tuần 3, lớp 3A4 tuần 6 trường tiểu học Nguyễn Viết Xuân, tôi đã thu
nhập được kết quả như sau:
5
+ Bảng thống kê thực trạng các lớp trong 3 năm học :
Nội dung khảo sát Tổng số học sinh
Năm học
2010- 2011
3a5/ 30em
Năm học
2011- 2012
3a2/ 30em
Năm học
2012- 2013
3a2/ 31em
( HK I )
- Viết đúng câu, dùng từ hợp lý 8 / 30 em 9 / 30 em 12 / 31 em
- Nói và viết thành câu 9 / 30 em 11 / 30 em 10 / 31 em
- Dùng từ ngữ, câu văn có hình ảnh 8 / 30 em 9 / 30 em 14 / 31 em
- Viết và trình bày đoạn văn 8 / 30 em 9 / 30 em 12 / 31 em
- Bài viết đạt từ trung bình trở lên 10 / 30 em 12 / 30 em 14 / 31 em
c. Mặt mạnh, mặt yếu:
- Mặt mạnh: Như chúng ta đã biết, gia đình là môi trường giáo dục ảnh hưởng
trực tiếp tới các em. Giáo dục gia đình là một điểm mạnh, là nhân tố quan trọng
trong sự nghiệp giáo dục cho trẻ. Đợn vị trường được học 2 buổi trên ngày, 9
buổi trên tuần nên giáo viên có nhiều thời gian cung cấp vốn từ vựng, thực hành
những kỹ năng giao tiếp, phát huy cho HS tính tự giác, sáng tạo nhiều vào
những buổi ôn luyện. Cũng như phụ đạo cho học sinh yếu kém.
- Mặt yếu: HS nghèo nàn vốn ngôn ngữ và kỹ năng giao tiếp. Một số phụ
huynh còn quan niệm chưa đúng về tầm quan trọng của phân môn Tập làm văn.
d. Các nguyên nhân, yếu tố tác động:
Nguyên nhân đã dẫn đến thực trạng trên có rất nhiều, song bản thân nhìn
nhận một số nguyên nhân, yếu tố chủ yếu sau:
+ Đối với Ban giám hiệu nhà trường: Công tác quản lý chưa được chặt chẽ,
những buổi sinh hoạt chuyên môn cấp trường, tổ còn mang tính hình thức, chưa
phát huy được tính tự học, tự nghiên cứu, việc đổi mới phương pháp dạy học,…
của đội ngũ giáo viên.
+ Phần cơ sở vật chất : Đồ dùng dạy học và thiết bị dạy học như : Tranh ảnh
minh họa, máy chiếu, video,… còn hạn chế.
6
+ Đối với giáo viên: Chưa mạnh dạn đổi mới phương pháp dạy học. Một số
giáo viên coi nhẹ tầm quan trọng của phân môn Tập làm văn.
+ Đối với Học sinh : Trình độ học sinh không đồng đều, ý thức học tập chưa
cao.
+ Đối với phụ huynh học sinh : Phần thì phụ huynh học sinh chưa thật sự quan
tâm đến việc học của con em mình do điều kiện kinh tế còn nghèo khó nên ít có
thời gian quan tâm thực tế, chuẩn bị đồ dùng học tập cho con em mình.
e. Phân tích, đánh giá các vấn đề thực trạng đã đề ra:
Nhìn nhận thực tế phân môn tập làm văn có phần quan trọng đặc biệt như
ở lớp 2 các em bắt đầu được làm quen và hình thành một đoạn văn ngắn ( từ 3
đến 5 câu ) theo hình thức quan sát tranh, nghe và trả lời câu hỏi. Khi các em
bước sang lớp 3, kỹ năng phát triển cao hơn như: nghe, quan sát , luyện nói,
luyện viết thành một đoạn văn ngắn bằng tư duy của mình. Để đạt những mục
tiêu trên, người giáo viên không phải đòi hỏi ở học sinh những gì mà giáo viên
nêu ra, yêu cầu học sinh đạt được. Giáo viên trực tiếp giảng dạy phải biết học
sinh của mình hiểu bài như thế nào? để các em dễ dàng hơn khi tiếp cận học các
lớp trên. Chính vì vậy, qua khảo sát ta thấy chất lượng phân môn Tập làm văn
không cao, tôi bắt đầu tìm hiểu những nguyên nhân nào dẫn đến học sinh không
hứng thú, tự giác học tập trong phân môn Tập làm văn ?
Bước 1: Tiếp cận với học sinh trong lớp và trong khối:
Trực tiếp nói chuyện tìm hiểu nguyên vì sao các em không thích học phân
môn Tập làm văn ? Tôi bắt đầu tiếp cận với học sinh bằng nhiều hình thức tâm
sự, trò chuyện, chơi chung học cùng, các em rất mạnh dạn trap đổi nhiều vấn
đề xoay quay trong học tập và cuộc sống đó là: Cô ơi ! Làm sao để hcoj giỏi,
đọc đúng và hay, làm toán đúng nhanh, viết chữ đẹp, kể chuyện hay, hát hay
múa dẻo,…Nhưng chẳng em nào đề cập đến phân môn Tập làm văn. Hỏi ra mới
biết vì sao các em không thích và hứng thú học môn Tập làm văn. Phần đa học
sinh đều trả lời em không thích học môn Tập làm văn cô à! vì môn này rất khó,
em nghĩ mãi, mà không làm bài tốt,…
7
Em Trần Như Quỳnh tâm sự: Khi làm bài em trả lời đúng hết câu hỏi gợi ý
mà bài viết nào điểm cũng không cao, rồi dần dần cũng chán không thích học
môn này nữa. Còn em Hiếu thì nói rằng: Có lúc em gặp khó khăn hỏi bố mẹ mà
bố mẹ cũng không hướng dẫn và còn quát em là: “ Tao cho mày ăn học, có cô
giáo dạy tử tế hẳn hoi mà cái gì cũng hỏi, sao mày không hỏi cô giáo ấy ?
Nhưng hỏi cô thì lại sợ, hỏi các bạn thì sợ cười chê, vì vậy em chỉ cố học giỏi
các phân môn Tập đọc, viết cho đẹp phân môn chính tả, học tốt luyện từ và câu
thì điểm sẽ giỏi thôi mà ! ”, đây là điển hình những em có điểm khá, còn những
em học mức trung bình thì rụt rè lắc đầu. Từ những vấn đề trao đổi ấy, Tôi nhận
thấy rằng học sinh ở lứa tuổi này, vốn ngôn ngữ của các em rất kém, sự tiếp cận
cuộc sống chưa nhiều dẫn đến khi học phân môn này, dù giáo viên có hướng
dẫn nhiều các em cũng mắc lỗi khi viết bài như là: chưa biết cách dùng từ, diễn
đạt câu văn qua lời nói và chuyển ý thành văn bản, quan sát hình ảnh, vốn từ
vựng chưa nhiều, hiểu biết thực tế còn ít, …vì vậy chất lượng bài viết của các
em chưa cao, ý văn nghèo nàn, câu văn lủng củng. Kết quả này, ta thấy rằng
những nguyên nhân, các yếu tố tác động khách quan cũng thể hiện phương pháp
giảng dạy của giáo viên chưa phát huy được tính tích cực, mạnh dạn và sáng tạo
của học sinh trong giờ học.
* Bước 2: Thu thập thông tin
+ Trực tiếp trao đổi giữa giáo viên chủ nhiệm cũ để nắm bắt phân loại học sinh.
+ Nghiên cứu hồ sơ học bạ để nắm bắt những hạn chế của từng học sinh năm
trong năm học trước để trong quá trình áp dụng biện pháp đạt hiệu quả cao hơn.
+ Cùng phối hợp trao đổi với phụ huynh học sinh để thấy được mức độ quan
tâm của phụ huynh về việc học tập của con em mình ở nhà như thế nào ? Cách
quản lí con và giáo dục ra sao ? Từ đó có sự tư vấn, phối hợp giữa giáo viên và
phụ huynh trong việc giáo dục đạo đức, ý thức học tập cho học sinh ở nhà cũng
như ở trường.
8
Từ những nguyên nhân tìm hiểu trên, Tôi có thể khẳng định rằng: Những
nguyên nhân chính dẫn đến học sinh chưa thực sự phát huy được tính tích cực,
chủ động và sáng tạo trong phân môn Tập làm văn đó là:
+ Hoàn cảnh gia đình, lối sống và sinh hoạt trong gia đình đã ảnh hưởng trực
tiếp với các em về ngôn ngữ giao tiếp.
+ Vốn ngôn ngữ của học sinh còn hạn chế.
+ Học sinh thì chưa nhận thức được nhiệm vụ học tập của bản thân như: lười
học, ham chơi, không chăm chỉ, siêng năng, học trước quên sau, học đối phó,…
Từ những nguyên nhân trên đã thúc dục tôi tìm những giải pháp, biện pháp
để tạo cho học sinh có hưng phấn và tíc cực phát huy tính mạnh dạn học tập
trong phân môn Tập làm văn.
II. 3. Giải pháp, biện pháp:
a. Mục tiêu:
Chương trình và sách giáo khoa Tiếng việt lớp 3 nói chung và phân môn Tập
làm văn nói riêng giúp học sinh :
+ Có những kỹ năng : Nghe, nói, đọc, viết.
+ Biết sử dụng ngôn ngữ giao tiếp trong gia đình, nhà trương và xã hội.
+ Trau dồi thái độ ứng xử có văn hóa, có tinh thần trách nhiệm trong học tập,
trong cuộc sống.
+ Rèn tính tự giác, tự tin chủ động, tích cực sáng tạo trong học tập.
b. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp và biện pháp:
Phát huy tính tích cực và nâng cao chất lượng dạy và học, người giáo viên
cần nắm được mục tiêu cơ bản của bài học. Tìm tòi và áp dụng những phương
pháp dạy học sao cho phù hợp với đối tượng của học sinh. Nội dung chính là
nhằm trang bị cho các em một số kiến thức, kĩ năng phục vụ cho học tập, đời
sống hàng ngày.
b.1. Nội dung:
9
Trong chương trình dạy và học Tập làm văn lớp 3, gồm những nội dung cơ
bản sau :
+ Điền vào giấy tờ in sẵn, viết thư, làm đơn, tổ chức họp và phát biểu trong
cuộc họp, giới thiệu hoạt động của tổ, lớp, trường, ghi chép sổ tay,
+ Rèn kĩ năng đọc, nghe, nói, viết thông qua những câu kể chuyện ngắn và
miêu tả như: kể một việc đơn giản, kể về người, cây cối, con vật xung quanh
theo gợi ý bằng tranh hoặc bằng câu hỏi.
+ Các bài tập như: Nghe Nói Tư duy Viết.
b.2.Cách thức thực hiện các giải pháp biện pháp:
Tổ chức thực nghiệm theo hướng đổi mới nhằm pháp huy tính tích cực chủ
động, sáng tạo đối với học sinh.
* Cung cấp kiến thức mới qua nội dung sau:
+ Bài tập quan sát và nghe kể: Học sinh quan sát tranh ảnh minh họa và nghe
kể lại câu chuyện theo yêu cầu đề bài.
+ Bài tập nói: - HS đọc thầm rồi tư duy theo gợi ý yêu cầu bài tập.
- Thực hành theo hình thức nhóm, tổ, cả lớp nhằm phát huy tinh
mạnh dạn chủ động của từng HS trọng phạm vi hẹp đến rộng.
- Tổ chức báo cáo trước lớp theo nhiều hình thức khác nhau.
- Trao đổi, đóng góp bổ sung, hoàn thiện yêu cầu bài.
+ Bài tập tư duy: Hệ thống lại kiến thức, HS sắp xếp theo trình tự yêu cầu bài.
+ Bài tập viết: - HS đọc yêu cầu, trình bày yêu cầu theo hình thức cá nhân.
- GV giảng giải rõ yêu cầu bài tập.
- HS thực hành cá nhân.
- Trình bày, kiểm tra, đánh giá và nhận xét.
Để phát huy tính tích cực, chủ động và sáng tạo cho học sinh Lớp 3, Tôi đã
mạnh áp dụng các nhóm giải pháp bổ trợ trong công tác giảng dạy như:
c. Điều kiện nội dung giải pháp:
10
- Được sự quan tâm tạo điều kiện giúp đỡ của BGH, Tổ chuyên môn cũng như
các đồng chí đồng nghiệp trong trường nói chung và chị em trong tổ khối 3 nói
riêng. Sự hợp tác nhiệt tình của học sinh và phụ huynh trong khối nhất ở lớp tôi
trực tiếp giảng dạy đã giúp tôi hoàn tất những ý tưởng của cá nhân và đạt những
thành quả đáng kể.
- Nội dung giải pháp chung:
+ Nhóm giải pháp 1. Nâng cao nhận thức của giáo viên:
Vào đầu năm học, Ban giám hiệu nhà trường cần kết hợp tổ chức những
buổi sinh hoạt chuyên đề nhằm giúp giáo viên nhận thức những mục tiêu giáo
dục trong việc dạy học nói chung, mục tiêu dạy học phân môn Tập làm văn lớp
3 nói riêng. Chỉ đạo tốt các buổi sinh hoạt chuyên môn cấp trường, qua những
buổi sinh hoạt chuyên môn, tổ khối giúp cho giáo viên học tập, thảo luận về
mục tiêu dạy học ở các phân môn nói chung và phân môn Tập làm văn nói
riêng.
Mỗi GV cần phải tự học và nâng cao tay nghề, nâng cao nhận thức về mục
tiêu môn học, đối chiếu, so sánh thực tiễn về trình độ nhận thức học sinh địa
phương trong việc thực hiện mục tiêu môn học. Tham khảo nghiên cứu các văn
bản, tài liệu liên quan đến mục tiêu dạy học phân môn Tập làm văn lớp 3 như: (
Tham khảo sách giáo khoa, sách giáo viên, sách thiết kế, tài liệu liên quan đến
phân môn, Kỹ năng sống, chuẩn kiến thức kỹ năng các môn học, điều chỉnh nội
dung dạy học,…)
Khi giáo viên đã xác định đúng mục tiêu chính của phân môn Tập làm văn
lớp 3, những phương pháp giáo dục, giảng dạy phù hợp với đối tượng từng học
sinh nhằm chủ động phát huy tính tích cực và sáng tạo trong học tập của học
sinh là giúp HS đạt được các lĩnh vực về: “ Kiến thức - Kỹ năng - Thái độ ”
trong cuộc sống.
+ Nhóm giải pháp 2. Công tác thực hiện nội dung, chương trình phân môn
Tập làm văn lớp 3:
11
- Với chức trách là tổ trưởng, cùng phối hợp với chuyên môn, giáo viên trong
khối. Tổ chức những buổi sinh hoạt chuyên đề về phương pháp dạy học đổi
mới, thảo luận phương pháp dạy học theo hướng chủ động tích cực,…
- Giáo viên trực tiếp giảng dạy tự nghiên cứu, học tập nội dung cụ thể về
chương trình phân môn Tập làm văn ở lớp 3, nắm được những điểm đổi mới và
những vấn đề khó của nội dung chương trình giảng dạy.
- Giáo viên thực hiện đúng nội dung chương trình giáo dục do Bộ GD&ĐT quy
định.
+ Nhóm giải pháp 3. Phân tích phương pháp dạy học cũ và mới:
- Dạy học theo phương pháp truyền thống: Trước đây giáo viên thường dạy
học bằng cách thuyết trình. Giáo viên làm việc là chính, còn học sinh nghe và
chép lại một cách thụ động, cả một giai đoạn học tập chỉ là dạy đơn điệu, các
phương tiện máy chiếu băng hình, đồ dùng dạy học hiện có chưa thường xuyên
và thiếu hiệu quả. Chủ yếu là sử dụng sách giáo khoa nên phương pháp dạy cũ
đạt kết quả chưa cao.
- Dạy học theo phương pháp đổi mới: Từ khi được đổi mới chương trình dạy
học, giáo viên dạy trên lớp thấy các bài tập thiết thực hơn về nội dung, đa dạng
phong phú về kiểu loại, được bố trí xen kẻ gắn kết với nhau làm nổi rõ chủ điểm
dạy học. Việc giáo viên dạy trên lớp đưa ra các câu hỏi hướng dẫn, chia nhóm
học sinh tự quan sát thực hành. Về thiết bị dạy học công nghệ hóa như: Máy
chiếu, băng hình, nên tôi thấy rằng việc đổi mới phương pháp có nhiều hiệu
quả thiết thực.
- Dạy học theo hướng tích cực hóa : Mục đích đổi mới phương pháp dạy học
ở các trường Tiểu học là thay đổi lối dạy truyền thụ một chiều sang dạy theo
“ Phương pháp dạy học tích cực” nhằm giúp học sinh phát huy tính tích cực,
tự giác, chủ động, sáng tạo trong học tập, rèn thói quen khả năng tự học,
tinh thần hợp tác, kỹ năng vận dụng kiến thức vào các tình huống trong học
tập và trong thực tiễn, tạo niềm tin, hứng thú trong học tập. Học sinh tìm tòi
khám phá, phát hiện, khai thác và xử lý thông tin…hình thành hiểu biết,
12
năng lực và phẩm chất đạo đức. Tổ chức quá trình nhận thức cho học sinh
là giúp học sinh cách phát hiện và tìm ra kiến thức mới, chú trọng hình
thành các năng lực (tự học, sáng tạo, hợp tác,…) Được như vậy các em nhớ
lâu về kiến thức mà mình đã lĩnh hội được.
- Phối hợp và vận dụng các phương pháp dạy học nhằm pháp huy tính tích
cực của học sinh như:
- Phương pháp quan sát hỏi đáp, đàm thoại.
- Phương pháp phát hiện và giải quyết vấn đề.
- Phương pháp thực hành giao tiếp.
- Phương pháp phân tích đề bài bằng ngôn ngữ nói, viết.
- Phương pháp hợp tác trong nhóm.
- Phương pháp tự tìm hiểu, khám phá về tranh ảnh, các câu hỏi
gợi mở.
- Phương pháp tưởng tượng, liên kết.
- Phương pháp tích cực chủ động sáng tạo của người học.
d. Thực hiện các giải pháp, biện pháp cụ thể:
Nhằm giúp học sinh phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo
trong học tập, rèn khả năng tự học, tinh thần hợp tác, kỹ năng vận dụng kiến
thức vào các tình huống trong học tập và trong thực tiễn, tạo niềm tin, hứng
thú trong học tập.
Phân môn tập làm văn là một phân môn cần vốn kiến thức sâu rộng về
cuộc sống. Trong quá trình tham gia vào các hoạt động học tập của học sinh
thì vốn kiến thức của HS còn hạn chế, phạm vi giao tiếp còn hẹp dẫn đến các
em còn sợ, rút rè, nhút nhát trong giao tiếp. Để khắc phục và phát huy tính
tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo. Người GV cần thực hiện những nhiệm
vụ sau:
Một là : Tạo niềm say mê khám phá kiến thức, tạo không khí vui vẽ, sôi
động, hào hứng trong tiết học: Dạy học là truyền thụ kiến thức cho người
học, để chuẩn bị cho một tiết dạy, GV cần kết hợp các phương pháp giảng dạy
13
phù hợp, sinh động, sáng tạo trong mỗi tiết học. Để tạo nên một không khí sinh
động và lôi cuốn HS thì không dễ dàng. Nhưng làm được điều đó GV không chỉ
làm chủ kiến thức trong lĩnh vực dạy học của mình mà cần có phương pháp sư
phạm thích hợp để phát huy tính chủ động của HS. Tôi nghĩ rằng, Là một GV
có trình độ chuyên môn, nhưng bên cạnh đó phải có tay nghề vững vàng, phải
biết yêu nghề, mến trẻ, phải có năng lực sư phạm. Năng lực về khoa học; hiểu
biết ngôn ngữ diễn đạt, cách tổ chức, trình bày bài giảng,…Đổi mới phương
pháp là đổi mới hình thức tổ chức dạy học để tạo một sự tương ứng cần thiết.
Mỗi hình thức tổ chức dạy học đều có tác dụng tích cực để phát triển học sinh ở
một khía cạnh nào đó. Vì vậy mỗi GV cần biết kết hợp nhiều hình thức tổ chức
để phát huy thế mạnh của từng học sinh. Phương pháp dạy học mới, đòi hỏi
phải có hình thức tổ chức dạy học tạo cơ hội cho học sinh suy nghĩ làm việc,
trao đổi thảo luận với nhau nhiều hơn… nhằm phát huy tính tích cực, tự giác,
độc lập của học sinh. Khi dạy bài Tập làm văn Nghe - kể: Dại gì mà đổi
Tuần 4. Tiết : Tập làm văn
Bài : Nghe - kể: Dại gì mà đổi
Ở tiết Tập làm văn này, GV cần kể đúng nội dung câu chuyện, thể hiện
được điệu bộ, cử chỉ hấp dẫn lôi cuốn học sinh ngay từ phát ban đầu: Thể
hiện được giọng kể lời nói nghiêm khắc của người mẹ, lời nói vô tư ngộ
nghỉnh của cậu bé 4 tuổi khi trả lời câu nói của người mẹ.
- Lập kế hoạch cho hình thức dạy học, GV chọn hình thức dạy học phù hợp
nhằm lôi cuốn HS vào các hoạt động học tập tích cực, chủ động và sáng tạo.
Tạo cho học sinh không khí thoải mái, mạnh dạn tự tin khi thảo luận, đàm thoại
một cách tự nhiên đúng chủ điểm trọng tâm của bài học.Từ đó rèn cho học sinh
khả năng diễn đạt những ý kiến theo lối suy nghĩ, cảm xúc của mình, thể hiện
thái độ yêu ghét, trân trọng , thẳn thắn phê phán… Thực hiện được những biện
pháp trên là giáo viên đã thành công một
phần trong phương pháp đổi mới dạy học. Học sinh trở nên mạnh dạn tự tin và
có nhiều hứng thú trong học tập.
14
Hai là: Sử dụng tranh ảnh và dụng cụ học tập trong tiết dạy :
Tranh ảnh và đồ dùng dạy học rất quan trọng không thể thiếu được trong
việc dạy học nhất là ở phân môn tập làm văn. Càng có tranh ảnh, đồ dùng thì
càng tạo nên sự tích cực của học sinh trong tiết học. Chính vì vậy, mỗi tiết học,
giáo viên cần chuẩn bị đầy đuur đồ dùng, năm được mục tiêu của từng bức
tranh, cách sử dụng đồ dùng,…
Khi dạy Tập làm văn ở lớp 3, Có những tiết cần tranh ảnh để hình thành nội
dung bài như : Tuần 3 và tuần 5 học sinh được kể về gia đình minh và gia đình
bạn.
Sự chuẩn bị của các em cần có tranh hoặc hình ảnh minh họa để kể cho bạn
nghe về gia đình mình. Đồng Thời có thể cho các em quan sát một số bức tranh,
hình ảnh có thật liên quan đến bài dạy để các em có thêm vốn sống tạo cho bài
văn thêm sinh động
Tuần 4. Hãy Kể về gia đình em với một người ban mới quen.
Ở bài tập này mỗi em đều có sự chuẩn bị một bức tranh hoặc hình ảnh về
gia đình mình để kể trước lớp. Khi thực nghiệm ở bài tập này, lúc đầu các em
còn rụt rè, ngại ngùng khi đưa hình hoặc tranh ảnh về gia đình mình cho các
bạn trong lớp quan sát và
thảo luận. Từ những câu hỏi gợi ý như :
- Gia đình em gồm có những ai ?
- Những người trong gia đình em làm công việc gì ?
- Tình cảm của em và những người trong gia đình như thế nào ?
- Em sẽ làm gì để đền đáp lại sự quan tâm của người ấy dành cho em?
* Hình ảnh về gia đình:
.
15
Ở tiết dạy này, GV cũng có hình về gia đình của chính mình. Dựa vào câu
hỏi gợi ý, tôi đã thực hành như một người bạn cùng tham gia học với các em
giới thiệu về gia đình mình. Những tràn vỗ tay, những tiếng cười ngộ nghĩnh
của các em làm tôi cảm thấy rất vui, tăng thêm sự hứng thú trong tiết dạy. Quy
trình thực hành trước lớp đó đã tạo cho các em mạnh dạn, tự tin trong tiết học.
16
Lúc đầu các em hoạt động nhóm 4, sau đó đại diện cá nhân từng nhóm lên giới
thiệu. Tiết học diễn ra thật sôi nổi, hào hứng. Kết quả thu thập được chính là thể
hiện tiết thực hành viết.
Tuần 12. Nói viết về cảnh đẹp đất nước.
Đối với yêu cầu bài này, Giáo viên và học sinh cần có sự chuẩn bị trước về
tranh, ảnh về cảnh đẹp ở nước ta.
+ Cảnh hoàng hôn xuống ở hồ Lắc, tỉnh Đắk Lắk.
17
Nắng chiều rực rỡ trên cánh đồng quê.
• Quy trình thực hiện trên lớp:
+ HS giới thiệu về tranh ảnh của mình và cho biết bức tranh đó là cảnh đẹp ở
đâu?
+ Học sinh quan sát tổng thể về từng bức tranh của bạn đã sưu tầm được, Mỗi
học sinh nói về bức tranh là cảnh đẹp ở đâu ? Tranh vẽ những gì ? …
+ GV hướng dẫn học sinh làm và trả lời từng câu hỏi theo hình thức Hỏi - Đáp.
Gợi ý cho học sinh trả lời bằng nhiều ý kiến khác nhau.
+ Nhận xét, sửa chữa những câu trả lời chưa đúng, câu văn còn lặp lại từ, lủng
củng,…Từ đó cung cấp và gợi ý cho các em có thể chọn từ đồng nghĩa thay thế
cho từ cũ, có thể hướng dẫn mẫu các câu văn có hình ảnh nhân hóa hoặc so sánh
để bài văn sinh động hơn. Bên cạnh đó, khuyến khích những học sinh khá, giỏi
vận dụng, thực hiện trong đoạn văn.
18
+ Hướng dẫn sắp xếp các câu trả lời đó theo một trật tự hợp lý để hoàn chỉnh
bài làm miệng.
+ Cho một số học sinh làm miệng cả bài. Sau đó hướng dẫn học sinh viết liền
mạch các câu trả lời thành một đoạn văn.
+ Giới thiệu những bài văn hay của học sinh ở năm học trước nhằm kích thích
tinh thần học tập của học sinh.
Từ các bước thực hiện trên, đã giúp các em biết cách quan sat, trả lời câu
hỏi, và biết hình thành một đoạn văn ngắn theo đúng logich của đoạn văn hay.
Ba là: Lồng ghép các phương pháp dạy học ở nhiều phân môn:
Trong quá trình đổi mới phương pháp dạy học. Muốn học sinh chủ động
trong học tập, GV không dạy học theo lối rập khuôn mà cần người GV phải linh
động trong tiết dạy, tạo không khí lành mạnh trong lớp, cần phải sử dụng các
phương pháp đa dạng: nêu vấn đề, thí nghiệm, thực hành, so sánh, đàm thoại và
thảo luận, cùng phối hợp nhịp nhàng tạo không khí hứng thú, kích thích trí tò
mò của học sinh. Chính vì vậy, khi dạy phân môn này, người giáo viên cần lồng
ghép giữa các phân môn trong môn Tiếng Việt như: Tập đọc, kể chuyện, Chính
tả, luyện từ và câu, tập viết để giảng dạy và tạo đà cho học sinh học tập tốt phân
môn Tập làm văn. Mối quan hệ này thể hiện rõ trong cấu trúc của sách giáo
khoa: Các bài học được biên soạn theo chủ đề, chủ điểm, hai đơn vị học xoay
quanh một chủ điẻm ở tất các các phân môn. Khi dạy ở các tuần, mỗi chủ điểm
của từng tuần có sự liên kết với nhau giữa các phân môn trong môn Tiếng việt.
Bốn là: Phương pháp thực hành theo nhóm và cá nhân.
Dạy học nhằm phát huy tinh thần tự học và sáng tạo của học sinh là tập
trung vào học sinh không phải chỉ tìm ra một câu trả lời có sẵn mà học sinh phải
đưa ra được câu trả lời trên cơ sở suy nghĩ và hiểu biết của chính mình. Quá
trình tư duy đó đòi hỏi học sinh phải vận dụng những vốn tri thức, hiểu biết phù
hợp với vấn đề đặt ra trong câu hỏi; phân tích, sắp xếp những tri thức đưa ra với
vấn đề trong câu hỏi trả lời, kết luận và chọn phương án trả lời tốt nhất. Tóm
19
lại, học sinh tự tìm ra câu trả lời qua việc thu thập, sàng lọc thông tin và phân
tích dữ liệu.
Hình ảnh các em đang hoạt động Nhóm trong tiết Tập làm văn
Hình ảnh các em đang thực hành cá nhân trong tiết Tập làm văn
20
Tuần 22. Tập làm văn
Bài : Nói,viết về người lao động trí óc
Bài 1: Kể về người lao động trí óc mà em biết .
- Giáo viên cho học sinh suy nghĩ làm việc cá nhân trong vở nháp.
- Trao đổi nhóm, kể cho nhau nghe về người lao động trí óc mà em biết.
- Sau khi hoàn thành trong nhóm cử đại diện trình bày trước nhóm, lớp.
- Cả lớp cùng nghe, cùng nhận xét, bổ sung.
- GV là người chỉnh sữa câu, từ, bố cục của đoạn văn.
- Đánh giá và động viên kịp thời.
Bài 2: Viết những điều em vừa kể thành đoạn văn ngắn ( từ 5 đến 7 câu ).
- Học sinh phải biết viết những điều em vừa kể thành đoạn văn với câu văn
đúng, hay, biết sử dụng hình ảnh, từ ngữ phù hợp.
Bài viết của học sinh: Nguyễn Văn Hiếu - lớp 3a5 – Năm học 2010- 2011
đã đạt kết quả cao:
21
Bài viết : Giới thiệu về gia đình em với một bạn mới quen.
Học sinh : Lê Thị Trà My – Lớp 3a2 - Năm học: 2011 – 2012
Vậy trong một tiết học, học sinh vừa luyện kể (luyện nói), vừa luyện viết
đoạn văn, học sinh tự tìm ra câu trả lời qua việc thu thập, sàng lọc thông tin và
phân tích dữ liệu. Nên giáo viên cần vận dụng một cách linh hoạt các hình thức
dạy học trong dạy Tập làm văn để đạt hiệu quả cao.
22
e. Kết quả khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu:
Sau một năm tiếp theo, tôi đã mạnh dạn áp dụng các biện pháp trên vào quá
trình giảng dạy, tôi thấy học sinh đã đạt được những kết quả đáng khích lệ. Hiệu
quả giờ dạy được nâng lên rõ rệt. Học sinh chủ động hứng thú học tập, hoạt
động tích cực hơn, mạnh dạn, tự tin hơn trong giờ học. Kết quả học tập phân
môn tập làm văn của lớp tôi có tiến bộ trong từng học kỳ như :
Năm học Trước khi thực nghiệm Sau khi thực nghiệm
Đơn vị
Sĩ
số
HS
Tích cực,hứng
thú, say mê
sáng tạo học
môn TLV
Không tích
cực, hứng thú,
say mê sáng
tạo học môn
TLV
Tích cực,hứng
thú, say mê,
sáng tạo học
môn TLV
Không tích
cực, hứng
thú, say mê
sáng tạo học
môn TLV
2010- 2011
LỚP 3a5 30 8 em 22 em 26 em 4 em
2011- 2012
LỚP 3a2 30 9 em 21 em 27 em 3 em
2012- 2013
LỚP 3a2
(KQ HK I )
31 12 em 19 em 27 em 4 em
II. 4. Kết quả thu được qua khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề
nghiên cứu
Qua quá trình chỉ đạo và áp dụng các nhóm giải pháp, biện pháp thực hiện
nhằm nâng cao tính tích cực hóa cho học sinh trong phân môn Tập làm văn lớp
3 ở trường chúng tôiđã đạt hiệu quả cụ thể sau:
Nội dung khảo sát So sánh số học sinh
Chưa thực nghiệm và thực nghiệm.
Năm học
2010- 2011
3a5 / 30em
Năm học
2011- 2012
3a2 / 30em
Năm học
2012- 2013
3a2 / 31em
( KQ HK I )
CTN TN CTN TN CTN TN
23
- Viết đúng câu, đúng đúng từ. 8 25 9 26 12 26
- Nói và viết thành câu 9 26 11 25 10 27
- Dùng từ ngữ, câu văn có hình ảnh 8 25 9 27 14 28
- Viết và trình bày đoạn văn 8 26 9 26 12 26
- Bài viết đạt từ trung bình trở lên 10 26 12 26 14 27
Từ biện pháp mà tôi đã sử dụng đã thu được kết quả thật khả quan. Nhìn vào
bảng khảo sát trong 3 năm có sự chuyển biến rất rõ rệt. Tỉ lệ học sinh biết dùng
đúng từ câu, viết theo hình thức câu dài so sánh nhân hóa câu văn chuyển ý
thành một đoạn văn ngắn theo đúng trọng tấm của bài học. Từ hiểu biết thực tế
trong cuộc sống, quan sát tranh ảnh,…Các em tự nhận thấy không còn sợ phân
môn này nữa vì bản thân các em đã được đóng vai trò chủ đạo trong tiết học.
Học sinh đã tạo cho chính mình sử dụng một cách tự tin về sử dụng câu từ và
mạnh dạn phát huy ưu điểm chính mình tạo cho lớp học vui vẽ, sôi nổi và hứng
thú hơn. Thiết nghĩ, nếu giáo viên áp dụng các biện pháp này một cách thường
xuyên ở lớp thì chắc chắn chất lượng dạy học môn Tiếng Việt cho học sinh
trong lớp sẽ được cải thiện.
III. Phần kết luận, kiến nghị:
1.Kết luận:
Qua việc thực hiện nội dung nghiên cứu trên, cho chúng ta thấy được việc
Phát huy tính tích cực, chủ động và sáng tạo cho học sinh Lớp 3 trong phân
môn Tập làm văn đó là một việc đòi hỏi người giáo viên chủ nhiệm cần phải
sáng tạo và linh hoạt trong các tiết dạy. Để có được kết quả trên, Người giáo
viên đã biết áp dụng nhiều phương pháp dạy học một cách linh hoạt và khéo
léo. Như chúng ta đã biết, không có phương pháp dạy học nào là vạn năng. Vì
vậy, trong dạy học, mỗi giáo viên phải linh hoạt phối hợp các phương pháp dạy
học và các hình thức tổ chức sao cho nhịp nhàng, lô-gic để tiết dạy theo phong
phú, tự nhiên, sinh động và đem lại niềm vui cho các em trong việc học tập.
24
Tôi nghĩ những biện pháp nêu trên có thể áp dụng rộng rãi ở các lớp đó là
những yếu tố không thể thiếu được để nâng cao chất lượng dạy học. Tôi mong
rằng kinh nghiệm này sẽ được nhân rộng ra ở các khối lớp ở bậc tiểu học nói
chung và đặc biệt là ở lớp 2,3 nói riêng để tạo cho các em có một hành trang
đầy tự tin khi học phân môn này. Là GV ở bậc tiểu học. Tôi nghĩ rằng, người
GV cần phải : Tăng cường sử dụng các phương tiện, đồ dùng dạy học, đổi mới
cách đánh giá, kiểm tra. Bên cạnh đó người giáo viên phải có lòng nhiệt
tình,tâm huyết trong việc giảng dạy.
- Dành thời gian để nghiên cứu bài, lập kế hoạch bài dạy, dự kiến trước những
tình huống có thể xảy ra để đề ra những biện pháp khắc phục kịp thời.
- Theo dõi, quan tâm, giúp đỡ mọi đối tượng học sinh. Tạo điều kiện để tất cả
các em đều được hoạt động. Tổ chức cho các em tự phát hiện, tìm tòi ra kiến
thức mới từ đó sẽ phát huy được óc tư duy sáng tạo, tính độc lập, tự giác cho
các em.
- Cùng với học sinh xây dựng môi trường học tập thân thiện; giáo dục học sinh
tính trung thực, khiêm tốn, vượt khó trong học tập. Đây chính là việc làm góp
phần xây dựng phong trào “Trường học thân thiện, học sinh tích cực” trong giai
đoạn hiện nay.
- Trong quá trình dạy học, nếu giáo viên phát hiện được những sai lầm của học
sinh, tìm hiểu nguyên nhân của những sai lầm đó và tìm ra những biện pháp
khắc phục kịp thời thì hiệu quả các tiết học chắc chắn sẽ được nâng cao.
2. Kiến nghị:
Dựa trên tình hình thực tế ở địa phương, trình độ học sinh, qua trải nghiệm
việc dạy - học ở trường, tôi có một số kiến nghị với quí cấp nhằm nâng cao chất
lượng dạy - học ở phân môn Tập làm văn.
- Bộ Giáo dục, Sở giáo dục trang bị thêm cho trảnh ảnh, mẫu vật bằng mô hình
có nội dung theo các bài học để tiết dạy đạt hiểu quả cao.
- Phòng giáo dục nên tổ chức các buổi tập huấn chuyên đề, trao đổi kinh nghiệm
để giúp giáo viên nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ.
25