KINH NGHIỆM RÈN CHỮ ĐẸP - GIỮ VỞ SẠCH
Tiểu học Tiên Cát - Việt Trì – Phú Thọ
KINH NGHIỆM
RÈN CHỮ ĐẸP - GIỮ VỞ SẠCH
ĐẶT VẤN ĐỀ
*) LÝ DO CHỌN SÁNG KIẾN
I. Lý do khách quan:
Như chúng ta đã biết: Tiểu học là bậc học nền tảng của hệ thống giáo
dục. Đã là nền tảng thì nó có vai trò vô cùng quan trọng. Cũng như một ngôi
nhà, nền móng có tốt thì ngôi nhà đó mới vững trãi. Tiểu học cũng vậy, sự
nghiệp giáo dục có phát triển tốt, có thành công lớn thì ngay từ ngày đầu, bậc
học đầu tiên phải làm nền thật tốt. Trong mục tiêu giáo dục Tiểu học có ghi: “
Hình thành cho học sinh cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về
tình cảm, trí tuệ, thể chất và kĩ năng cơ bản để học tiếp trung học và đi vào cuộc
sống lao động”.Một trong những kĩ năng cơ bản của học sinh Tiểu học là viết
chữ.
Cố thủ tướng Phạm Văn Đồng đã nói “Nét chữ cũng là một biểu hiện của
nét người”. Mà nết người là sự hoà hợp giữa tình cảm và trí tuệ. Trong quá trình
dạy học song song với việc rèn các kĩ năng: Nghe, nói, đọc và tính toán. Tôi
luôn luôn chú ý rèn kĩ năng viết chữ cho học sinh. Cùng với việc rèn kĩ năng
viết chữ đúng, đẹp là giữ gìn sách vở gọn ngàng, sạch sẽ. Thực tế tôi cũng rất
tâm huyết với phong trào: “Rèn chữ đẹp - giữ vở sạch” cho học sinh. Vì đó
cũng chính là một trong những nội dung giáo dục quan trọng ở tiểu học. Thông
qua hoạt động đó sẽ hình thành và xây dựng những kĩ năng, thói quen và phẩm
chất tốt cho học sinh.
II. Lý do chủ quan
Thực trạng, qua thăm nắm học sinh trong trường, cũng như một số
trường bạn. Đặc biệt là các trường ngọai vi thành phố, tôi thấy hiện nay học
sinh chưa chú ý vào việc rèn chữ giữ vở. Sách vở còn nhàu nát, quăn góc và rất
bẩn. Chữ viết tuỳ tiện, chẳng theo một cỡ nào, nét cao, nét thấp, viết hoa tuỳ
tiện. Đặc biệt là các luật chính tả nắm rất lơ mơ nên dẫn đến viết sai tiếng Việt.
Thể hiện sự cẩu thả, thiếu khoa học. Nguyên nhân là do giáo viên chưa thật sự
1
KINH NGHIỆM RÈN CHỮ ĐẸP - GIỮ VỞ SẠCH
Tiểu học Tiên Cát - Việt Trì – Phú Thọ
chuẩn mực về viết bảng, thiếu kinh nghiệm trong khi hướng dẫn học sinh học
tập cũng như các thao tác viết. Giáo viên viết bảng hoặc phê vào vở của học
sinh cũng rất tuỳ tiện. Trong các tầng lớp phụ huynh, cũng có những người
nhận thức không đúng đắn về việc rèn chữ cho học sinh. Tôi đã từng được nghe
họ bàn luận trong lúc trò chuyện : “Bây giờ là thời đại của máy vi tính, cho nên
cần gì phải rèn tập viết cho nó khổ trẻ con”. Chính vì lẽ đó mà phần nào học
sinh đã sao nhãng trong việc rèn chữ của mình. Vì thế mà trong quá trình giảng
dạy và giáo dục học sinh bản thân tôi không đồng tình ủng hộ những quan điểm
đó. Cần phải xoá bỏ ngay những tư tưởng như vậy.
Xuất phát từ thực tế, tôi mạnh dạn viết nên sáng kiến. Đó cũng chính là
những việc mà tôi đã làm hàng ngày và có hiệu quả cao. Các bạn đồng nghiệp
chắc sẽ có rất nhiều bạn trùng lặp ý kiến của tôi, nhưng chưa có dịp trao đổi.
Hôm nay tôi viết ra những điều mà chúng ta cũng đã từng làm để ta cùng tham
khảo và cộng đồng trách nhiệm trong giáo dục học sinh nói chung và học sinh
Tiểu học nói riêng.
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. Cơ sở lý luận:
“Rèn chữ đẹp - giữ vở sạch” là hai hoạt động liên kết với nhau, hỗ trợ
cho nhau. Rèn chữ đẹp và phải biết giữ vở sạch. Nếu chỉ có nét chữ đẹp mà vở
không sạch thì có khác nào: một khuôn mặt xinh xắn mà đầy những vết bẩn và
nhọ nhem. Thế nhưng, quyển vở sạch mà nét chữ xấu, nét cao - nét thấp, viết
sai luật chính tả…thì cũng không chiếm được tình cảm của người xem, người
đọc. Chính vì vậy mà rèn chữ đẹp phải đi đôi với việc giữ vở sạch. Tuy nhiên
khi viết về vấn đề này tôi chia ra làm hai mảng.
II. Các biện pháp thực hiện:
1-Giữ vở sạch
Để cho học sinh (nhất là học sinh lớp một, lớp hai) giữ được bộ vở sạch
đẹp, từ đầu năm đến cuối năm học. Và sau này trở thành vật kỉ niệm cho tuổi
thơ đi học của các em là một vấn đề khó. Thế nhưng ta biết cách làm thì cũng
2
KINH NGHIỆM RÈN CHỮ ĐẸP - GIỮ VỞ SẠCH
Tiểu học Tiên Cát - Việt Trì – Phú Thọ
chẳng khó khăn gì. Muốn làm được thì vai trò của giáo viên rất quan trọng.
Trước hết cặp sách vở, bộ hồ sơ của giáo viên phải thật chuẩn mực. Một nhân tố
cũng không kém phần quan trọng đó là: phụ huynh học sinh. Để tất cả học sinh
của lớp mình giữ trọn vẹn bộ vở vừa sạch vừa đẹp, tôi đã phối kết hợp chặt chẽ
với phụ huynh bằng cách: Phiên họp cuối cùng của năm học trước, tôi có đề ra
nhiệm vụ và phương hướng cho năm học sau. Trong đó có đề cập tới việc chuẩn
bị vở viết cho học sinh thật tốt. Được phụ huynh vui vẻ ủng hộ và nhất trí
100%. Nếu không có dịp gặp phụ huynh ở phiên họp đó, thì phiên họp đầu năm
học, ta bàn bạc với phụ huynh cũng không muộn. Cụ thể: Phụ huynh cùng giáo
viên sẽ chọn loại vở kẻ ô ly ( có ly ngang - li dọc ). Giấy không bị nhoè. Hiện
nay cơ chế thị trường sẽ đáp ứng tốt yêu cầu của mình đặt ra. Sau đó hướng dẫn
phụ huynh bao khít mép bìa, dán nhãn vở. Nếu có điều kiện thì bọc thêm một
lượt nilông. Về bút viết: chọn loại bút có nét vừa phải, không to, không bé quá.
Thống nhất một loại mực. Khi học sinh sử dụng bút chì ( Học kỳ I của lớp 1) thì
ngòi chì vừa phải. Trong giai đoạn này bản thân tôi khi lên lớp luôn có sẵn một
cái gọt chì. Nếu em nào bị gãy ngòi là tôi xử lý được ngay. Đến khi học sinh
viết bút mực tôi hướng dẫn các em rất tỉ mỉ về cách sử dụng bút: cách mở nắp
bút, bơm mực. Khi bơm xong dùng giẻ sạch, lau khô rồi nắp bút lại và vặn cho
vừa khít. Tránh vặn chặt quá làm hỏng bút. Khi mở bút viết, tôi hướng dẫn các
em: Nếu thấy thân bút có mực, ta lại dùng giẻ sạch lau khô rồi mới viết, tránh
mực ra tay làm bẩn vở. Nếu ngòi bút bị tắc mực . Các em dùng giẻ sạch vuốt
nhẹ vào ngòi rồi mực sẽ ra. Tuyệt đối không cầm bút vẩy ra lớp, ra vở làm bẩn
lớp. Chính vì thế mà tất cả học sinh trong lớp tôi phụ trách rất ít học sinh có
những vết mực nhỏ trong vở. Một công việc nữa là: Hằng ngày tôi luôn giáo
dục các em giữ gìn, nâng niu và trân trọng quyển vở của mình vì đó chính là
sản phẩm lao động của các em và cũng trong quyển vở này còn thể hiện sự kính
trọng cô giáo và bố mẹ các em nữa. Thế là học sinh rất vui và làm theo lời cô.
Mỗi lần khi mở vở tôi luôn nhắc các em nhẹ nhàng, dùng hai đầu ngón tay lật
từng trang. Khi viết tay trái đặt trên trang vở, giữ cho mặt giấy phẳng, để dễ viết
khuỷu tay đặt xuôi chiều cùng góc vở. Về mùa đông, các em mặc áo ấm, tay áo
thường cộm lên. Tôi h ướng dẫn các em nhấc hẳn tay lên, rồi từ từ đặt tay
3
KINH NGHIỆM RÈN CHỮ ĐẸP - GIỮ VỞ SẠCH
Tiểu học Tiên Cát - Việt Trì – Phú Thọ
xuống trang vở để tránh bị quăn góc. Nếu nhỡ một trang nào đó bị quăn thì nhẹ
nhàng vuốt luôn ra cho phẳng. Khi nào các em viết hết quyển vở, tôi lại cất vào
tủ đựng đồ dùng học tập của lớp. Như vậy cuối năm các em sẽ có một bộ vở rất
đẹp. Khi họp phụ huynh tôi trao trả lại cho bố mẹ các em. Được thấy bộ vở của
con mình sạch sẽ, chữ viết đều và đẹp ai cũng tỏ ra rất vui.
Kết quả chấm vở sạch chữ đẹp của lớp tôi trong năm học 2000 - 2001
như sau:
Học kỳ Tổng số
Xếp loại
A B C
I 30 em 23 em 7 em 0
II 30 em 26 em 4 em 0
Năm học 2000 - 2001 tôi đã làm được điều đó. Tuy nhiên tôi cũng rút ra
bài học kinh nghiệm là; Việc bao vở của một số phụ huynh chưa đúng kỹ thuật
do họ thiếu kinh nghiệm nên mép vở của các em còn bị gập làm cho vở có phần
bị xấu. Đến năm học 2001 - 2002, tôi đã đặt luôn cả tờ bao ngoài cho học sinh.
Nên hiện nay học sinh của lớp tôi có bộ vở rất đều và đẹp. Nét chữ cũng vậy,
chắc chắn sẽ thu hút được người xem. Hàng tháng tôi chấm vở sạch chữ đẹp thì
riêng phần vở sạch 100%, học sinh xếp loại A. Còn chữ viết thì sao? Làm thế
nào để cho học sinh viết đúng? viết đẹp? viết nhanh? Đảm bảo tốc độ theo yêu
cầu về kiến thức và kỹ năng? Sau đây tôi xin nêu những việc mình đã làm để
các bạn tham khảo.
2- Viết chữ đẹp:
Để học sinh viết chữ đẹp thì trước hết cô giáo phải viết đẹp. Nếu bạn nào
cho rằng: “Tại hoa tay ít, chữ mình xấu…” thì bạn hãy cố gắng tập luyện, chữ
sẽ đẹp thôi.
* Về giáo viên: Tôi luôn có ý thức rèn chữ. Mỗi khi viết bảng, khi phê
vào vở của học sinh, kể cả viết bài soạn hay viết một văn bản… tôi luôn luôn
viết cẩn thận, nét chữ rõ ràng, viết đúng luật chính tả để làm gương cho học
sinh noi theo và làm chuẩn cho phụ huynh có thể nhìn vào đó, hướng dẫn các
em tập viết ở nhà và cộng tác cùng tôi giáo dục, rèn thói quen tốt cho các em.
4
KINH NGHIỆM RÈN CHỮ ĐẸP - GIỮ VỞ SẠCH
Tiểu học Tiên Cát - Việt Trì – Phú Thọ
Để có nét chữ đẹp và hấp dẫn người đọc, người xem, tôi chọn phấn viết không
cứng quá (khó chuyển nét) phấn cũng không mềm do bị ướt hoặc chất liệu làm
phấn kém. Như phấn không bụi hiện nay là tốt. Chữ viết trên bảng tôi luôn thể
hiện được nét thanh, nét đậm. Muốn có nét thanh; khi đưa nét chữ lên ta nhẹ tay
một chút. Để có nét đậm khi đưa bút xuống ta lăn phấn có cạnh to hơn. Thế là
ta có ngay nét thanh, nét đậm. Trên bảng cũng phải viết đúng cỡ chữ của học
sinh (Ta nên kẻ bảng cũng có ly như vở học sinh để khi hướng dẫn các em viết
cho tiện lợi). Đối với mỗi giáo viên, ngoài việc rèn chữ để có nét chữ đẹp,
chúng ta cần phải có đức tính cẩn thận, kiên trì… và thật sự yêu thương học
sinh. Gắn bó trách nhiệm của mình với từng học sinh. Mỗi giáo viên không chỉ
là cô giáo mà còn như người mẹ, người chị của các em.
* Về học sinh: Mỗi học sinh cần có đủ đồ dùng học tập (bút, thước, vở
viết….). Có ý thức làm việc học tập khi được cô hướng dẫn.
* Về cơ sở vật chất: Lớp học đủ ánh sáng, bàn ghế đúng quy cách, phù
hợp với lứa tuổi học sinh.
Có đủ điều kiện phục vụ tốt cho việc làm rồi thì giáo viên phải biết cách
làm, cách tổ chức để học sinh học tập. Cụ thể là viết đẹp.
Ngay từ buổi đầu gắp gỡ học sinh, tôi đã tạo cho các em một không khí
vui vẻ, thân mật. Bắt tay vào công việc thật nhẹ nhàng và thoải mái. Trước tiên
tôi hướng dẫn các em cách cầm bút bằng ba đầu ngón tay: Ngón cái, ngón trỏ
và ngón giữa. Cầm cách ngòi bút ( ngòi chì) khoảng 3cm. Bằng cách giáo viên
làm mẫu cho học sinh quan sát. Sau đó cho học sinh thực hành. Khi viết, bút có
độ hơi nghiêng về bên phải, phía khuỷu tay. Cần có sự phối hợp của cổ tay,
khuỷu tay và cánh tay. Đưa bút nhẹ nhàng trên trang vở. Không ghì bút làm cho
chữ hằn sang nhiều trang, như vậy thì vở và chữ sẽ xấu. Viết các chữ có nhiều
nét cần đưa bút liền nét và khi nối nét thật kín kẽ. Trong việc này tôi cũng gặp
không ít khó khăn. Bởi lẽ, trước khi vào trường tiểu học các em đã được gia
đình hướng dẫn, làm quen cách cầm bút… Thế nhưng, vì không có kinh nghiệm
cũng như thiếu phương pháp sư phạm nên nhiều em cầm bút không đúng. Các
trường mầm non cho các em viết tự do nhiều… Tôi đã phải kiên trì, gần gũi,
động viên rất kịp thời để các em làm theo cô. Với tâm lý trẻ rất tin cậy vào cô
5
KINH NGHIỆM RÈN CHỮ ĐẸP - GIỮ VỞ SẠCH
Tiểu học Tiên Cát - Việt Trì – Phú Thọ
giáo. Tôi đã tận dụng lòng tin của các em và dần dần các em đã làm được (cầm
bút đúng quy định). Chính vì vậy mà chỉ sau một tháng học, tôi đã uốn nắt được
100% học sinh cầm bút đúng quy định. Với số liệu cụ thể như sau:
Thời gian Chưa đạt Đạt yêu cầu
Khi vào học lớp 1 50 % 50%
Sau 1 tháng học 0 % 100%
Tư thế ngồi viết cũng vậy, đa số các em ngồi chưa đúng tư thế như: Đầu
cúi sát vào vở, dáng không thẳng. Nếu cứ để như vậy thì rất nguy hiểm. Tại sao
vậy?
Nếu cúi sát đầu xuống vở, khoảng cách từ mắt xuống trang vở quá thấp
thì học sinh sẽ nhanh chóng bị cận thị. Dáng ngồi cong vẹo thì sẽ bị vẹo cột
sống, để lại di hại cả đời cho các em.
Trên cơ sở khoa học, nghiên cứu tâm sinh lý của học sinh tiểu học. Ta
biết rằng ở lứa tuổi này độ cong của cột xương sống đang hình thành và phát
triển. Nếu trẻ ở tư thế nào thì cơ thể dễ phát triển theo dáng dấp đó. Các nhà
nghiên cứu sinh lý trẻ cho biết: các đốt ngón tay, cổ tay đến 11; 12 tuổi mới kết
thúc việc cốt hoá. Đó chính là lý do giải thích cho ta biết vì sao trẻ nắm bắt và
thực hành kỹ năng viết chậm, khó. Vì: Viết chữ đòi hỏi phải có tính kiên trì, tỉ
mỉ và khéo léo. Bàn tay của trẻ chóng mỏi, nó không thể viết nhanh và viết
trong thời gian dài. Do đó mà giáo viên không được giao nhiều bài cho học sinh
viết. Các cơ bắp và dây chằng phát triển nhanh chóng. Trẻ dễ dàng thực hiên cử
động mạnh, nhưng lại khó thực hiện những cử động nhỏ. Đòi hỏi tính chính xác
tỉ mỉ như viết các con chữ. Một yếu tố nữa là bàn ghế phải đúng quy cách, vừa
tầm với các em. Tránh ghế quá thấp bàn cao hoặc ngược lại bàn thấp ghế cao
quá. Học sinh khó ngồi dẫn đến ngồi sai tư thế. Lớp học phải rộng rãi và thoáng
mát, đủ ánh sáng. Mùa đông có nhiều hôm tối trời cần có ánh sáng điện để lớp
học sáng sủa.
Với những đặc điểm trên đòi hỏi mỗi giáo viên phải nêu cao tinh thần
trách nhiệm trong công việc. Uốn nắn hàng ngày cho các em. Giáo viên phải có
sự hiểu biết về khoa học để thường xuyên quan tâm đến việc bảo vệ sức khoẻ
cho học sinh. Chính vì vậy mà tôi hướng dẫn học sinh rất tỉ mỉ từ cách ngồi viết
6
KINH NGHIỆM RÈN CHỮ ĐẸP - GIỮ VỞ SẠCH
Tiểu học Tiên Cát - Việt Trì – Phú Thọ
đến cách cầm bút viết. Khi viết phải ngồi thẳng lưng, không tì ngực vào bàn,
đầu hơi cúi. Mặt cách trang vở 25 - 30 em. Tay trái đặt phía trên bên trái quyển
vở. Tay phải cầm bút viết. Khi viết không sê dịch vở ( trừ lúc sang trang). Khảo
sát cách ngồi viết của học sinh với các thời kỳ, tôi có số liệu như sau:
Thời gian Chưa đạt Đạt yêu cầu
Khi vào lớp 1 70% 30%
Sau 1 tháng học 0 % 100%
Khi học sinh đã biết cầm bút đúng quy định, ngồi viết đúng tư thế. Tôi
luôn duy trì thói quen tốt cho các em bằng cách: thường ngày nhắc nhở các em
thực hiện tốt. Khi bắt đầu viết vào vở ô ly tôi giới thiệu cho các em biết: các
dòng kẻ ngang, dòng kẻ dọc để tạo thành các ô ly. Dòng kẻ chính đậm hơn
dòng kẻ ly. Chữ viết phải thể hiện ở dòng kẻ chính. Ta lợi dụng các dòng kẻ ô
ly đó để viết các nét chữ cho thẳng và cân đối. Chẳng hạn các chữ có nét viết
trên: Nét đưa bút lên và nét bút xuống sẽ gặp nhau ở ly thứ hai. Như vậy chữ sẽ
cân đối và đẹp. Tôi xin minh hoạ bằng cở nhỡ như sau:
Để làm nền cho học sinh viết chữ đúng và đẹp, giai đoan học sinh viết
chữ ghi âm ở lớp 1 rất quan trọng. Trong các giờ tập viết, cũng như dạy viết
chữ ghi âm, giáo viên nhất thiết phải có đồ dùng trực quan, đó là chữ viết mẫu,
để cho học sinh quan sát và nhận xét, mô tả con chữ. Sau đó giáo viên viết mẫu.
Do tâm lý học sinh tiểu học chủ yếu là tu duy trực quan cụ thể cho nên thao tác
đầu tiên là: Gáo viên phải chấm các điểm chuẩn, phân tích quy trình viết rồi nối
các điểm chuẩn để tạo thành chữ. Sau đó cho học sinh thực hành viết. Đầu tiên
học sinh cũng chấm điểm chuẩn viết theo cô, tiếp đó là viết buông ( Không
chấm điểm chuẩn). Yêu cầu đầu tiên là học sinh viết phải đúng chữ. Biết các cỡ
chữ, khi cô yêu cầu viết cỡ nào thì các em viết cỡ đó. Sau khi các em thực hành
viết trên bảng, trên vở nháp tương đối tốt rồi thì cho các em viết vào vở. Viết
đúng nghĩa là học sinh phải đưa bút đúng quy trình. Lần đầu tiên học sinh lớp 1
viết vào vở là một khó khăn đối với các em cho nên giáo viên cần phải viết mẫu
vào vở học sinh ( nhất là các em thao tác châm). Viết đúng chữ ghi âm. Rồi viết
7
KINH NGHIỆM RÈN CHỮ ĐẸP - GIỮ VỞ SẠCH
Tiểu học Tiên Cát - Việt Trì – Phú Thọ
chữ ghi tiếng. Giáo viên cần rèn cho học sinh thói quen nghe rõ., nghe đúng
tiếng cô phát ra để chọn nét và nét ghi lại cho đúng. Từ chỗ học sinh viết đúng
một chữ ghi tiếng, tiến tới viết đúng từ có hai, ba tiếng hoạc một cụm từ. Học
sinh viết đúng cả từ, cả câu thì mới viết nhanh được. Cùng với kỹ năng viết
đúng, viết đẹp là viết nhanh. Chính vì vậy mà tôi thường cho học sinh thi đua
viết theo khẩu hiệu “ Đúng - Đẹp - Nhanh” Đến mức độ cao hơn dần dần theo
thời gian học và kỹ năng viết của các em tương đối tốt tôi lại chuyển khẩu hiệu
thành : Nhanh - Đúng - Đẹp. Tôi luôn động viên và khích lệ học sinh thi đua
viết đẹp như cô. So với yêu cầu về kiến thức và kỹ năng viết của môn Tiếng
việt do bộ Giáo dục quy định thì tôi thấy học sinh lớp tôi viết đúng và nhanh
hơn nhiều. Chẳng hạn ở chương trình cải cách giáo dục, cuối năm lớp 1 học
sinh lớp 1 viết được 25 tiếng/ 15 phút ( Một bài chính tả) Thì học sinh lớp tôi
chỉ viết trong 10 phút có nhiều em chỉ 7 đến 8 phút là xong mà lại còn viết đúng
và đẹp nữa. Hoặc giữa kỳ II của lớp 2 học sinh viết 30 tiếng / 15 phút thì học
sinh lớp tôi chỉ viết trong 8 phút. Vì tôi hướng dẫn học sinh cách rê bút nhẹ
nhàng, viết liền các nét trong 1 chữ ghi tiếng nên các em viết rất nhanh và đẹp.
Để học sinh viết đúng chính tả, thì việc học luật chính tả ở công nghệ
giáo dục là vô cùng quan trọng. Khi dạy những luật chính tả này, tôi để các em
tự xây dựng nên cách viết rồi giáo viên kết luận và khắc sâu luật chính tả.
Chính vì vậy mà học sinh lớp tôi nắm và vận dụng rất tốt. Hàng ngày các em
đều được luyện và vận dụng khi viết bài. Chẳng hạn như luật e, ê,i: Nói đến luật
e, ê, i là nói đến 3 trường hợp:
- Âm (cờ) đứng trước e, ê, i phải viết bằng con chữ k; Ví dụ: kẹo, kênh,
kình…
- Âm ( gờ) đứng trước e, ê, i phải viết bằng con chữ gh; Ví dụ: ghe, ghê,
ghi…
- Âm (ngh) đứng trước e, ê, i phải viết bằng con chữ ngh; Ví dụ: nghé,
nghệ, nghỉ.
+ Luật chính tả ghi âm đệm: âm (cờ) đứng trước âm đệm phải viết bằng
con chữ q ( cu), âm đệm viết bằng chữ u; Ví dụ: quả, quế, quanh…
8
KINH NGHIỆM RÈN CHỮ ĐẸP - GIỮ VỞ SẠCH
Tiểu học Tiên Cát - Việt Trì – Phú Thọ
+Luật chính tả về âm đôi: âm đôi uô và ươ đều có hai cách viết. Khi kết
hợp với âm cuối thì hai âm đôi này thể hiện nguyên hình của nó. Trong những
vần không có âm cuối thì cả hai âm đôi này đều bị biến âm. Cụ thể như sau:
Âm đôi uô:
- Có âm cuối viết bằng uô; ví dụ: luôn, muốn, chuông, khuông,
nuông, muốt…
- Không có âm cuối viết bằng ua; ví dụ: mua, lúa, chua, khua, tua
tủa,…
Âm đôi ươ:
- Có âm cuối viết bằng ươ; ví dụ: lướt thướt, thương, lương, mườn
mượt, sườn sượt,…
- Không có âm cuối viết bằng ưa; ví dụ: mưa, trưa, lưa thưa, cưa,
xưa,…
+ Âm đôi iê có 4 cách viêt:
-Viết bằng: iê khi vần không có âm đệm, không có âm cuối ( giữ
nguyên hình của nó); ví dụ : liên miên, tiên tiến,…
-Viết bằng yê khi vần có âm đệm có âm cuối; ví dụ: tuyên truyền,
khuyên, luyến, chuyến,…
-Viết bằng ya khi vần có âm đệm, không có âm cuối; ví dụ: khuya,
luya…
- Viết bằng ia: khi vần không có âm đệm, không có âm cuối; ví dụ:
mía, bia, tia, đĩa, nghĩa,…
Để viết đúng luật chính tả học sinh cần nắm vững bản chất ngữ âm tiếng
Việt, phân biệt vị trí các âm để viết cho đúng.
Chẳng hạn phân biệt: của/quả: của và quả đều có phụ âm đầu là âm (cờ)
nhưng chữ (của) âm đầu viết bằng con chữ (cờ) vì chữ u trong vần ua không
phải là âm đệm mà nó kết hợp với a để tạo thành âm đôi ua.
Chữ quả thì âm đầu phải viết bằng con chữ q vì chữ u trong trường hợp
này nó là âm đệm. Chính vì vậy mà ta phải biết phân biệt cho đúng để viết các
trường hợp dễ bị lẫn:
Ví dụ: của chua - quả chua
9
KINH NGHIỆM RÈN CHỮ ĐẸP - GIỮ VỞ SẠCH
Tiểu học Tiên Cát - Việt Trì – Phú Thọ
cua bể - qua bể.
Phân biệt bản chất của các chữ (a); ( ă) trong các trường hợp: hai- hay;
sai- say; khai - khay. Bản chất của chữ a trong các chữ: hay, say, khay… là chữ
(ă). Vì âm (ă) kết hợp với âm i thì chữ (ă) không viết dấu phụ mà viết như chữ
a. Còn âm i thì khi viết thể hiện bằng chữ y chính vì vậy mà ta viết các vần đó
là: ai - ay.
Khi viết chữ tôi còn hướng dẫn các em ghi dấu thanh cho đúng vị trí
( dấu thanh phải ghi ở trên hoặc dưới âm chính); Ví dụ: học hành…
Học sinh nắm vững luật chính tả thì vận dụng vào viết bài rất tốt trẻ tự tin
vào mình. Bài viết chính tả của lớp tôi các em viết rất ít sai lỗi. Vì sao? Trước
hết giáo viên phải phát âm thật chuẩn. Giọng đọc rõ ràng, dứt khoát. Học sinh
nghe rõ phân tích tiếng thành các phần, chọn con chữ để viết và viết đúng luật.
Tôi thường hướng dẫn học sinh cách tự kiểm tra bài viết của mình bằng cách:
mỗi lần viết xong một cụm từ, một câu (do cô đọc). Các em đưa mắt nhìn lại
chữ đã viết. Như vậy học sinh dễ dàng nhận ra sự sai sót của mình. Chẳng hạn
khi viết thiếu dấu thanh là các em có thể thêm được ngay. Hay trong một chữ
ghi tiếng nào đó mà bị sai một con chữ thì các em dùng bút gạch đúng vào con
chữ viết sai đó rồi viết sang bên cạnh. Thực tế tôi thấy có những giáo viên để
cho học sinh chữa đè lên chữ viết sai. Nét bút di đi di lại làm cho vở bẩn hay
gạch một nét dài nhìn rất xấu. Tôi xin minh hoạ cách chữa của tôi như sau:
Ví dụ: Nhữnh những nụ mai không phô hồng mà ngời xanh màu ngọc
bých bích.
Như vậy thì vở sẽ không bị bẩn. Điều cần thiết nữa là tôi hướng dẫn học
sinh cách trình bày bài sao cho khoa học. Tên môn viết sát vào lề, rồi viết tên
bài. Nếu tên bài dài (tuỳ theo) thực tế để tôi hướng dẫn các em trình bày.
Khoảng cách giữa các chữ ghi tiếng là một thân chữ ( o). Các chữ luôn cách đều
nhau. Mỗi lần viết bài dùng thước gạch một đoạn ngắn giữa trang vở. Hết ngày
các em gạch từ lề vở cho hết trang và hết tuần là gạch một đoạn thẳng cả trang
vở. ở lớp 1 việc học sinh kẻ hết bài, hết ngày nhiều em không làm được (dòng
kẻ chưa thẳng). Biết điều đó tôi lại hướng dẫn các em rất cụ thể: đặt thước
thẳng cách bài viết một dòng, khi thước đã thẳng các em dùng 1 hoăch 2 ngón
10
KINH NGHIỆM RÈN CHỮ ĐẸP - GIỮ VỞ SẠCH
Tiểu học Tiên Cát - Việt Trì – Phú Thọ
tay trái đặt giữa thước giữ chặt rồi tay phải cầm bút và kẻ theo quy định. Không
di bút lại làm bẩn vở. Tuyệt đối không cho học sinh dùng thước có độ dẹt
(mỏng) để kẻ. Vì thước không có độ dày, sau khi kẻ xong các em rê thước một
tí là vở dễ bị bẩn. Cho nên tôi thường nhắc nhở các em dùng thước kẻ có 4 mặt
để sử dụng cho dễ dàng.
Việc rèn chữ cho học sinh, giáo viên không chỉ chú ý luyện trong các giờ
tập viết hay chính tả mà mỗi khi học sinh cầm bút viết bài là giáo viên phải uốn
nắn. Kể cả khi học sinh viết vào vở nháp cũng vậy. Tôi biết có những giáo viên
con xem nhẹ khi học sinh viết trong vở nháp. Để cho học sinh viết cẩu thả vì
cho rằng vở nháp không phải là vở viết chính. Nhưng đối với tôi trong vở nháp
cũng như vở viết phải viết cho đẹp. Và phải viết cho tới dòng kẻ cuối cùng mới
được sang trang. Tránh bỏ lãng phí giấy. ở lớp tôi mỗi khi học sinh cầm bút viết
bài ở tất cả các bộ môn là tôi liền nhắc nhở và luôn uốn nắn cho các em. Có thể
nhắc trực tiếp: “ Tất cả lớp ngồi đúng tư thế, viết cẩn thận và nối các nét cho
đẹp”. Hoặc tôi đưa ra một số câu hỏi để học sinh tự điều chỉnh mình.
Ví dụ: Khi viết bài ta ngồi thế nào nhỉ? lưu ý cách cầm bút và viết cho
đẹp nhé! thế là các em sẽ tự trả lời và chấn chỉnh mình luôn. Trong khi viết bài
có những em từ từ cúi thấp xuống. Tôi nhẹ nhàng nâng đầu em đó lên. Hoặc
ghé sát vào tai và nói nhỏ: “Ngồi cho đúng tư thế!” lập tức em đó điều chỉnh
ngay. Tránh khi cả lớp đang chăm chú viết, mà cô lại nói thật to: “ Ngồi cho
đúng tư thế!” Như vậy sẽ làm mất sụ tập trung của các em và dẫn đến học sinh
sẽ viết sai. Để động viên các em, trong các thao tác học tập và viết bài, tôi luôn
khích lệ cho học sinh thi đua lẫn nhau. Chúng ta không nên “tiết kiệm” lời khen
với học sinh tiểu học. nhất là học sinh lớp 1, lớp 2 chính vì vậy mà khi học sinh
viết sai, viết chưa đẹp. Tôi chê học sinh đấy nhưng cũng lựa lấy một lời tỏ ra
thông cảm và mong muốn em đó sẽ cố gắng. Chẳng hạn: khi học sinh viết sai,
tôi thường nói: em viết như vậy là chưa đúng. Hãy viết lại nào! và viết đẹp nhé.
Hay: Một học sinh viết còn xấu tôi chỉ vào chữ và nói : “ Em viết cũng được
đấy nhưng còn hơi xấu ở những nét này này. Lần sau cố gắng viết đẹp hơn nữa
nhé.”
11
KINH NGHIỆM RÈN CHỮ ĐẸP - GIỮ VỞ SẠCH
Tiểu học Tiên Cát - Việt Trì – Phú Thọ
Những em viết chưa đẹp, tôi sắp xếp những em đó ngồi cạnh bạn viết
đẹp. Cho quan sát vở sạch chữ đẹp của các bạn được cô khen. Mỗi tháng tôi cho
học sinh thi viết chữ đẹp một lần. Bài viết nào đẹp thì được treo lên: “ Bài hay -
điểm giỏi” trước lớp. Như vậy em nào muốn được treo bài lên thì phải viết đúng
và đẹp. Mà học sinh thì rất thích được khen nên các em thường thi đua lẫn
nhau. Hằng tháng, tôi chấm vở sạch chữ đẹp cho các em. Hiện nay là tháng thứ
4 của năm học. Tôi đã chấm vở cho các em 3 lần. Kết quả cụ thể như sau:
Tổng số
học sinh
Tháng
Xếp loại
A B C
30 9 24 em 6 em không
30 10 27 em 3 em không
30 11 28 em 2 em không
Như vậy là không có vở xếp loại C. Tiêu chuẩn xếp loại tôi căn cứ vào
cách đánh giá mà chuyên môn nhà trường đã hướng dẫn. Những em xếp loại B
là do nét chữ chưa được cẩn thận. Còn vở sạch là 100% được xếp loại A.
Mỗi lần chấm vở xong tôi luôn nhận xét và chỉ rõ cho những em xếp loại
B lý do vì sao còn chưa đạt loại A. Động viên các em đó hãy cố gắng hoan nữa.
Những em được xếp loại A tôi tuyên dương và mong muốn các em phát huy
mãi mãi. Vì thế cuối tháng là các em rất thích được cô chấm vở. Sau mỗi lần cô
trả vở cho xem, các em có sự có gắng hẳn lên và thi đua viết chữ đẹp - Giữ vở
sạch.
III. Kết luận:
“ Chữ viết cũng là sự biểu hiện của nết người”.
Đúng là vậy, bởi lẽ: con người ta có tính cẩn thận thì nét chữ cũng mới rõ
ràng. Con người ta có chăm chỉ, kiên trì, rèn luyện thì chữ viết mới đẹp được.
Điều này càng có ý nghĩa sâu sắc và tầm quan trọng đối với bậc tiểu học. Đối
với các thầy cô giáo, những người hằng ngày trực tiếp hình thành và uốn nắn
những thói quen và kỹ năng tốt cho học sinh.
IV. Bài học kinh nghiệm
12
KINH NGHIỆM RÈN CHỮ ĐẸP - GIỮ VỞ SẠCH
Tiểu học Tiên Cát - Việt Trì – Phú Thọ
Trên đây là những cách thức mà tôi đã làm trong quá trình giảng dạy và
giáo dục học sinh. Những việc làm đó đã đem lại một hiệu quả tương đối tốt.
Bản thân tôi đã rút ra những bài học kinh nghiệm như sau:
+ Với giáo viên:
-Nét chữ phải đẹp.
- Cần rèn luyện chữ viết thường xuyên.
-Gương mẫu khi viết bảng, chấm điểm cho học sinh và lời phê phải
đúng đẹp.
- Các thao tác khi hướng dẫn học sinh viết phải rõ ràng, chuẩn
mực.
- Có đồ dùng trực quan ( chữ viết mẫu).
- Nắm vững đặc điểm tâm sinh lý học sinh. Quan tâm uốn nắn các
thao tác, các hoạt động học tập của học sinh.
- Động viên học sinh kịp thời.
+ Với phụ huynh:
-Chuẩn bị chu đáo đồ dùng học tập cho các em.
- Phối kết hợp thường xuyên với giáo viên.
- Kiểm tra ở nhà, động viên học sinh tham gia học tập tốt.
V. Những kiến nghị:
+ Các cấp quản lý cần quan tâm hơn nữa đến phong trào: “Rèn chữ - giữ
vở” cho học sinh tiểu học.
+ Mở chuyên đề: Rèn chữ - giữ vở ở mỗi trường tiểu học.
+ Các trường có kế hoạch rèn chữ cho giáo viên.
+ Bản thân mỗi giáo viên phải có ý thức tự rèn chữ viết. Khi viết bảng,
trình bày bài phải đẹp và khoa học.
- Giáo viên phải học tập, nâng cao hiểu biết khoa học để uốn nắn
tư thế ngồi viết cho học sinh.
- Giáo viên phải thực sự yêu nghề - mến trẻ.
- Giáo viên cần tích cực cộng tác với phụ huynh.
13
KINH NGHIỆM RÈN CHỮ ĐẸP - GIỮ VỞ SẠCH
Tiểu học Tiên Cát - Việt Trì – Phú Thọ
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Mục tiêu giáo dục tiểu học
2. Phương pháp dạy tiếng Việt ở trường tiểu học.
3. Tư liệu tự học, tự bồi dưỡng của bản thân
4. Tiêu chuẩn rèn chữ giữ vở đối với giáo viên và học sinh của
trường tiểu học thọ sơn.
14
KINH NGHIỆM RÈN CHỮ ĐẸP - GIỮ VỞ SẠCH
Tiểu học Tiên Cát - Việt Trì – Phú Thọ
MỤC LỤC
I. Phần mở đầu ( Đặt vấn đề)
II. Phần nội dung ( Giải quyết vấn đề)
III. Kết luận
IV. Bài học kinh nghiệm
V. Những kiến nghị
VI. Tài liệu tham khảo
15