Trang 1
PHẦN 1: PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Kế toán trách nhiệm là một nội dung cơ bản của kế toán quản trị. Kế toán
trách nhiệm xuất phát từ sự phân quyền trách nhiệm của nhà quản trị. Cơ sở của sự
phân quyền phụ thuộc vào quyết định của nhà quản trị, thái độ, quy mô, đặc điểm
hoạt động sản xuất kinh doanh và các yếu tố khác. Từ khi được hình thành đến nay,
kế toán trách nhiệm đã được vận dụng và có những đóng góp đáng kể vào sự thành
công của nhiều doanh nghiệp, các tập đoàn kinh tế … trên khắp thế giới. Càng
ngày, kế toán trách nhiệm càng có vai trò và vị trí quan trọng trong quản lý ở các
doanh nghiệp trên thế giới.
Đối với các doanh nghiệp Việt Nam, kế toán quản trị nói chung và kế toán
trách nhiệm nói riêng là một lĩnh vực vẫn còn khá mới mẽ. Tổng công ty xây dựng
là một đơn vị có nhiều công ty thành viên hoạt động trong nhiều lĩnh vực khác
nhau. Phạm vi hoạt động của Tổng công ty xây dựng trải rộng, cơ chế quản lý tài
chính đối với các công ty thành viên cũng khá đa dạng nên việc đánh giá thành quả
quản lý của từng đơn vị, bộ phận, cá nhân ở các công ty và toàn bộ Tổng công ty
vẫn còn nhiều bất cập. Bên cạnh đó, chất lượng các công trình xây dựng hiện nay có
thể nói rất thấp, không đảm bảo đúng thiết kế và thật đáng báo động. Công trình xây
dựng đường mới vừa làm xong chưa bàn giao đã xuống cấp, Công trình Thủy điện
Sông Tranh 2 bị rò rỉ nước ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng 40.000 người
dân sinh sống trong vùng, Công trình Thủy điện Ia Krêl vỡ đập do thấm nước, lỗi
kỹ thuật … những thông tin như vậy tràn lan trên các mặt báo thường ngày. Thực
trạng thất thoát, lãng phí và tiêu cực trong xây dựng cơ bản đã được đăng tải nhiều
trên các phương tiện truyền thông và tại nhiều diễn đàn, gây nhức nhối trong toàn
xã hội. Thi công không đảm bảo khối lượng theo thiết kế được phê duyệt hoặc thi
công không đúng thiết kế dẫn đến phải phá đi làm lại; sử dụng vật liệu không đảm
bảo chất lượng; khai khống khối lượng; ăn bớt vật liệu, chất lượng công trình không
đảm bảo gây lãng phí lớn trong quá trình thi công các công trình xây dựng. Ngoài
ra, công tác tổ chức thi công các công trình xây dựng hiện nay đang gây ra một số
Trang 2
vấn đề tác động đến môi trường và xã hội. Điển hình là các vụ việc người dân bức
xúc vì bụi do các đơn vị thi công gây ra đã chặn đường không cho xe, máy đơn vị
thi công làm chậm trễ tiến độ; không chịu hợp tác di dời… , thậm chí tiêu cực đến
mức đã đập phá trụ sở làm việc của đơn vị thi công. Tuy nhiên, những vấn đề nêu
trên không dễ gì tìm thấy được đối tượng hay bộ phận nào chịu trách nhiệm cũng
như các công ty phải tiêu tốn thêm nhiều chi phí cho việc khắc phục hậu quả.
Cạnh tranh toàn cầu ngày càng diễn ra gay gắt cộng với những thay đổi
không ngừng của khoa học công nghệ, môi trường cạnh tranh dẫn đến các hệ thống
kiểm soát cũ không đủ khả năng đáp ứng nếu không chịu cập nhật, điều chỉnh. Nhu
cầu cung cấp thông tin cho nhà quản lý trong quá trình ra quyết định hiện nay bên
cạnh các chỉ tiêu tài chính còn phải xét đến các chỉ tiêu phi tài chính …Trong báo
cáo quốc gia về Thực hiện phát triển bền vững ở Việt Nam tại Hội nghị cấp cao của
Liên hợp quốc về phát triển bền vững (RIO + 20), mục tiêu tổng quát của Định
hướng chiến lược phát triển bền vững ở Việt Nam là “Đạt được sự đầy đủ về vật
chất, sự giàu có về tinh thần và văn hóa, sự bình đẳng của các công dân và sự đồng
thuận của xã hội, sự hài hòa giữa con người và tự nhiên; phát triển phải kết hợp
chặt chẽ, hợp lý và hài hòa được ba mặt là phát triển kinh tế, phát triển xã hội và
bảo vệ môi trường”. Đây chính là trách nhiệm và thách thức lớn đặt ra cho các
doanh nghiệp trong nước nói chung và các công ty xây dựng nói riêng. Vì vậy,
trong tiến trình phát triển và hội nhập, vấn đề bảo vệ môi trường, nâng cao chất
lượng cuộc sống … đòi hỏi các đơn vị thi công xây lắp phải chủ động quan tâm,
đánh giá trách nhiệm quản lý của các bộ phận có liên quan đến các vấn đề trên.
Để thực hiện được những vấn đề và các yêu cầu nêu trên, cần thiết phải có
một công cụ kiểm soát hữu hiệu giúp cho nhà quản lý thực hiện việc kiểm soát quản
lý trong môi trường cạnh tranh toàn cầu hiện nay; phù hợp với xu thế hội nhập, phát
triển bền vững. Tổ chức hệ thống kế toán trách nhiệm trong các tổng công ty xây
dựng là một trong những công cụ cần thiết có thể đáp ứng được các yêu cầu của
thực tiễn, phù hợp với xu thế hiện nay.
Trang 3
Xuất phát từ những yêu cầu cần thiết, khách quan đã nêu trên, tác giả đã
quyết định chọn đề tài “Tổ chức kế toán trách nhiệm trong các Tổng công ty xây
dựng thuộc Bộ giao thông vận tải” làm đề tài nghiên cứu cho luận án của mình.
2. Tổng quan về tình hình nghiên cứu kế toán trách nhiệm
2.1. Tình hình nghiên cứu ngoài nước
Nhu cầu về thông tin để hoạch định và kiểm soát tài chính hoạt động sản
xuất kinh doanh đã thúc đẩy sự hình thành kế toán trách nhiệm (Responsibility
Accounting). Từ khi Robert Anthony giới thiệu quyển sách kế toán quản trị năm
1956 tập trung vào ba vấn đề chính: giới thiệu kế toán quản trị là gì, làm thế nào có
thể hệ thống và phân tích vấn đề mới để ra quyết định, giới thiệu các công cụ kiểm
soát chi phí thích hợp, các nghiên cứu tiếp theo sau về kế toán quản trị nói chung,
kế toán trách nhiệm nói riêng được nhiều sự quan tâm, nghiên cứu của các chuyên
gia, nhà khoa học.
- Martin N. Kellogg (1962) thông qua công trình “Fundamentals of
Responsibility Accounting” đăng trên tạp chí “National Association of
Accountants” đã trình bày những nghiên cứu về sự phát triển của kế toán trách
nhiệm trong mối quan hệ giữa kế toán trách nhiệm với cơ cấu tổ chức, kế toán trách
nhiệm với kế toán chi phí, kế toán trách nhiệm với ngân sách, kế toán trách nhiệm
với kiểm soát chi phí. Kế toán trách nhiệm có mối quan hệ chặt chẽ với phân cấp
quản lý và với kế toán chi phí. Nguyên tắc để thiết lập một hệ thống kế toán trách
nhiệm là phải phân chia tổ chức thành các bộ phận, đơn vị theo từng chức năng cụ
thể; phân công trách nhiệm cho các bộ phận đã được phân chia; yêu cầu các bộ
phận này phải lập các báo cáo và thực hiện giám sát từng cấp quản lý. Ngoài ra, tác
giả cũng đề cập đến hệ thống kế toán chi phí được sử dụng như là công cụ quản lý,
trước hết phải gán trách nhiệm cho từng khoản chi phí. Để kiểm soát được chi phí
thì cần phải tìm hiểu và xác định được nguồn gốc phát sinh chi phí.
- Tác giả Joseph P. Vogel (1962) cũng đã bàn về kế toán trách nhiệm thông
qua công trình “Rudiments of Responsibility Accounting in Public Utilities” đăng
trên tạp chí “National Association of Accountants”. Kế toán trách nhiệm trước hết
được sử dụng để kiểm soát chi phí. Tác giả đã đề cập đến việc xây dựng và thiết lập
Trang 4
hệ thống kế toán trách nhiệm trong doanh nghiệp. Kế toán trách nhiệm được thiết kế
phù hợp với cơ cấu tổ chức của từng doanh nghiệp, tùy thuộc vào quy mô hoạt động
mà phân cấp quản lý. Kế toán trách nhiệm phải được xây dựng trên cơ sở phân cấp
quản lý nhằm thu thập thông tin cũng như kiểm soát thông tin tại các bộ phận, từ đó
cung cấp thông tin cho nhà quản trị ra quyết định một cách có hiệu quả. Việc làm
này theo tác giả là không hề đơn giản.
- Năm 1963, N.J. Gordon đã thông qua công trình “Toward a Theory of
Responsibility Accounting System” đăng trên tạp chí “National Association of
Accountants” đã trình bày những nghiên cứu về lý thuyết của hệ thống kế toán trách
nhiệm. Cơ sở của hệ thống kế toán trách nhiệm là lý thuyết kinh tế về tổ chức. Kế
toán trách nhiệm chỉ phát huy hiệu quả khi doanh nghiệp có phân cấp quản lý và có
tổ chức. Lý thuyết tổ chức được quan tâm trong mối quan hệ với phân quyền. Vì
vậy, nghiên cứu về kế toán trách nhiệm là nghiên cứu đến vấn đề về kinh tế lẫn xã
hội.
- Tác giả Ahmed Belkaoui (1981) thông qua công trình “The Relationship
between self – disclosure Style and Attitude to Responsibility Accounting” đăng trên
tạp chí “Organization and Society, Vol.6, N4, P 181-189” đã trình bày những
nghiên cứu chuyên sâu về khái niệm, điều kiện thực hiện kế toán trách nhiệm trong
tổ chức với phương pháp nghiên cứu cụ thể. Nhiều khái niệm mới liên quan đến kế
toán trách nhiệm cũng được tác giả làm rõ như trung tâm trách nhiệm, trung tâm chi
phí … Tác giả cũng đã nhấn mạnh rằng nhân tố con người, nhân tố cá nhân đóng
vai trò quan trọng trong sự thành công của hệ thống kế toán trách nhiệm vì nhà quản
lý phải tự chịu trách nhiệm về hiệu quả của đơn vị mình.
- Bên cạnh các nghiên cứu về lý thuyết, các nghiên cứu thực nghiệm về kế
toán trách nhiệm cũng dần dần được triển khai, ứng dụng. Năm 1992, các tác giả
Brian P.Bloomfield Rod Coombs, David J. Cooper, David Rea đã nghiên cứu, phân
tích hệ thống thông tin quản lý trong bệnh viện tại Anh qua công trình “Machines
and Manoeuvres: Responsibility Accounting and the Construction of Hospital
Information Systems”. Năm 1977, tác giả Shih, Michael SH đã thực hiện quá trình
điều tra làm thế nào các công ty thiết kế hệ thống đánh giá hiệu năng cho các nhà
Trang 5
quản lý cây trồng qua công trình “Responsibility Accounting and Controllability:
Determinants of Performance Evaluation Systems for Plant Managers in Canada”
…
- Bổ sung và nhấn mạnh thêm các nghiên cứu về kế toán trách nhiệm, các tác
giả Rick Antle và Joel S. Demski (1998) thông qua công trình “The Controllability
Principle in Responsibility Accounting” đăng trên tạp chí “The Accounting review,
Vol. 63, No 4, P 700-718” đã làm sáng tỏ nguyên tắc có thể kiểm soát được trong
kế toán trách nhiệm là như thế nào. Tác giả Emma I. Okoye (2009) thông qua công
trình “Improvement of Managerial Performance in Manufactoring Organizations:
An Application of Responsibility Accounting” đăng trên tạp chí “Journal of
Management Sciences, Vol.9, No. 1, P 1-17” đã trình bày những nghiên cứu về mối
quan hệ giữa kế toán trách nhiệm và thành quả quản lý trong các doanh nghiệp sản
xuất; kế toán trách nhiệm là công cụ để đánh giá trách nhiệm quản lý…
- Trong hơn một thập niên gần đây, vấn đề về môi trường, trách nhiệm xã
hội, phát triển bền vững được nhiều quốc gia, tổ chức và các nhà khoa học quan tâm
nhiều hơn. Các ấn phẩm, các quy định, luật lệ về môi trường, phát triển bền vững
được công bố ngày càng nhiều hơn như: “Environmental Management Accounting
Procedures and Principles” của UNITED NATIONS (2001); “Sustainability
Report” của European Commission, “Integrated Financial and Sustainability
Reporting in the United States” của IRRC Institute v.v…Các nghiên cứu về kế toán
nói chung và kế toán trách nhiệm nói riêng cũng không nằm ngoài xu thế đó.
Nghiên cứu của Jaroslava HYRŠLOVÁ và Miroslav HÁJEK (2006)
“Environmental Accounting - an Important part of an Information System in the
Conditions when the Company Approach to the Environment Influences its
Prosperity” được đăng trên tạp chí Economics and Management: Ekonomika ir
Vadyba; nghiên cứu của Emma I. Okoye, 2009. “Improvement of Managerial
Performance in Manufactoring Organizations: An Application of Responsibility
Accounting” được đăng trên tạp chí “Journal of Management Sciences, Vol.9, No.
1,P 1-17”; nghiên cứu của Fredrik S. Larsson & Stefan Svensson, 2010 “Does
Corporate Environmentalism have an Influence on Management Accounting
Trang 6
Practices ? A study of companies in environmental-sensitive industries” đăng trên
“School of Business, Economics and Law, University of Gothenburg” là những
nghiên cứu rất có ý nghĩa về việc nghiên cứu và đưa vấn đề môi trường vào trong
kế toán. Thêm vào đó, một trong những nghiên cứu về kế toán trách nhiệm xã hội
cần phải kể đến đó là nghiên cứu của Sajad Gholami và các cộng sự (2012) “Social
Responsibility Accounting: From Theory to Practice” được đăng trên tạp chí
“Journal of Basic and Applied Scientific Research”. Nghiên cứu này đã chỉ ra bên
cạnh các mục tiêu về tài chính, các doanh nghiệp phải chú trọng đến trách nhiệm
đối với xã hội vì những hành vi phi đạo đức sẽ ảnh hưởng lớn đến hiệu quả hoạt
động của đơn vị. Các nghiên cứu về kế toán trách nhiệm cũng không tách rời xu
hướng nêu trên. Nghiên cứu của Simmons, A (2002) “Turf wars at work” đăng trên
tạp chí “Strategic Finance” (August): P.51-55 (Problems with Relationships
between Responsibility Centers, and how to deal with them); nghiên cứu của Lin, Z.
J. and Z. Yu (2002) “Responsibility Cost Control System in China: A Case of
Management Accounting Application” đăng trên tạp chí “Management Accounting
Research” (December): P.447-467; nghiên cứu của Schoute, M (2008)
“Determinants of Responsibility Centre Choices – An Empirical Study at the
Managerial Level” đăng trên tạp chí “Journal of Applied Management Accounting
Research” (Winter): P.47-58; nghiên cứu của Garber, M (2011) “Profit Center
Accounting: Theory and Practice” đăng trên “The CPA Journal” (April): P.6-12…
Đặc biệt là nghiên cứu của Verschoor, C. C (2012) “Responsibility Reporting is
getting more attention” đăng trên tạp chí “Strategic Finance” (December): 12, P.14-
15 nhấn mạnh tầm quan trọng của kế toán trách nhiệm cũng như đề nghị kế toán
trách nhiệm cần phải được quan tâm, chú ý nhiều hơn nữa.
Như vậy, trong những năm gần đây, kế toán nói chung và kế toán trách
nhiệm nói riêng đã đi sâu vào những vấn đề về môi trường, trách nhiệm xã hội và
phát triển bền vững. Để đánh giá thành quả của các bộ phận, các mô hình đánh giá
thành quả đã được các nhà khoa học nghiên cứu, đề xuất thực hiện. Một trong
những mô hình đánh giá kết hợp cả 3 vấn đề kinh tế (tài chính), môi trường và xã
hội phục vụ phát triển bền vững đó là mô hình Knowledge Management Star (KM
Trang 7
Star) do Nirmal Pal và các cộng sự công bố năm 2004 qua nghiên cứu “Knowledge
Quoitient
TM
(KQ): A way to Measure the Knowledge Intensity of your Team” của
đại học Penn State. Cụ thể mô hình này đánh giá thành quả của bộ phận dựa trên 5
khía cạnh: tài chính, tính bền vững, khách hàng, quy trình và nhận thức. Đây chính
là tài liệu mà tác giả đã nghiên cứu và kết hợp với lý thuyết về kế toán trách nhiệm
(Responsibility Accounting) để vận dụng, triển khai các ý tưởng xây dựng việc
đánh giá trách nhiệm quản lý của các bộ phận trong chương 3 của luận án. Đây
cũng chính là điểm mới mà chưa có tác giả nào trong nước công bố.
Tóm lại, kế toán trách nhiệm là công cụ kiểm soát rất hiệu quả đã được các
tác giả ngoài nước nghiên cứu dưới các góc độ khác nhau. Đây là những nội dung
rất bổ ích cho việc kế thừa để vận dụng tổ chức hệ thống kế toán trách nhiệm trong
điều kiện thực tiễn ở Việt Nam. Tuy nhiên, có thể nói các công trình nghiên cứu
được giới thiệu, trình bày trên đây tập trung chủ yếu ở tầm vĩ mô, hoặc có tính khái
quát mà chưa đưa ra cụ thể về tổ chức kế toán trách nhiệm trong loại hình công ty
xây dựng, trong xu thế hội nhập, phát triển bền vững. Đây chính là “lổ hổng” trong
nghiên cứu mà tác giả đã phát hiện ra để tiếp tục nghiên cứu.
2.2. Tình hình nghiên cứu trong nước
Việc nghiên cứu kế toán trách nhiệm nói chung và tổ chức kế toán trách
nhiệm trong các tổng công ty nói riêng trong thời gian qua đã có một số cơ quan,
tác giả đã đề cập và nghiên cứu. Ngoài ra, một số công trình đăng tải trên các tạp
chí, sách, báo … về vấn đề này cũng được công bố. Tuy vậy, có thể nói mảng đề tài
kế toán trách nhiệm nói chung hay kế toán trách nhiệm trong các tổng công ty nói
riêng hiện nay trong nước có rất ít tài liệu cũng như tác giả nghiên cứu, trình bày.
Có thể điểm sơ về tình hình nghiên cứu kế toán quản trị nói chung, kế toán trách
nhiệm nói riêng trong nước thời gian qua như sau:
Kế toán quản trị được các nhà nghiên cứu ở Việt Nam bắt đầu nghiên cứu từ
đầu những năm 1990. Tác giả Nguyễn Việt (1995) trong Luận án “Vấn đề hoàn
thiện kế toán Việt Nam” đã trình bày phương hướng và giải pháp xây dựng hệ thống
kế toán tài chính và kế toán quản trị trong các doanh nghiệp Việt Nam. Đây là
những đề xuất mang tính sơ khai trong bối cảnh kế toán quản trị bắt đầu được
Trang 8
nghiên cứu. Do đó, những nội dung về kế toán quản trị được trình bày mang tính cơ
bản. Năm 1997, tác giả Phạm Văn Dược đã nghiên cứu về “Phương hướng xây
dựng nội dung và tổ chức vận dụng kế toán quản trị vào doanh nghiệp Việt Nam”
trong đó so sánh về mặt lý luận sự giống và khác nhau giữa kế toán quản trị và kế
toán tài chính; vai trò, nội dung và các nghiệp vụ của kế toán quản trị. Tác giả đã có
những nghiên cứu cụ thể và đề xuất các biện pháp ứng dụng kế toán quản trị vào
thực tiễn trong các doanh nghiệp Việt Nam với 5 giải pháp vĩ mô và 6 giải pháp vi
mô. Đây chính là bước khởi xướng cho những nghiên cứu tiếp nối về kế toán quản
trị sau này. Tuy nhiên, do tính mới mẻ của kế toán quản trị và điều kiện nền kinh tế
lúc bấy giờ nên những nghiên cứu này mang tính đính hướng, chung chung cho tất
cả các loại hình doanh nghiệp chứ chưa đi vào cụ thể từng ngành nghề.
Từ đầu những năm 2000, yêu cầu cấp thiết của xã hội đặt ra là phải xây dựng
mô hình kế toán quản trị theo từng ngành kinh doanh để các doanh nghiệp trong
ngành làm cơ sở xây dựng riêng cho mình. Do đó, đã xuất hiện một số nghiên cứu
về các vấn đề cụ thể của kế toán quản trị áp dụng riêng cho các loại hình doanh
nghiệp. Luận án “Kế toán quản trị và phân tích chi phí sản xuất trong ngành sản
xuất công nghiệp” của Tiến sĩ Lê Đức Toàn, Luận án “Phương hướng xây dựng hệ
thống báo cáo kế toán quản trị và tổ chức vận dụng vào các doanh nghiệp Việt
Nam” của Tiến sĩ Phạm Quang, Luận án “Tổ chức kế toán quản trị chi phí và giá
thành trong doanh nghiệp sản xuất ở Việt Nam” của Tiến sĩ Trần Văn Dung…đã đi
theo xu hướng trên. Nhìn chung, các nghiên cứu lúc này chỉ mới đi sâu vào nội
dung kế toán quản trị chứ chưa đề cập hoặc chỉ mới đề cập sơ khai về kế toán trách
nhiệm. Tuy vậy, kế toán trách nhiệm đã có những manh nha ban đầu như việc tổ
chức các trung tâm trách nhiệm, các công cụ sử dụng để đánh giá trách nhiệm quản
lý về chi phí, đầu tư …
Năm 2010, tác giả Phạm Văn Dược đã thực hiện đề tài nghiên cứu khoa học
“Tổ chức hệ thống báo cáo kế toán đánh giá trách nhiệm bộ phận trong doanh
nghiệp thương mại tại Việt Nam” tại Trường ĐH kinh tế Tp Hồ Chí Minh. Đây là
một trong những tài liệu rất có giá trị cho việc nghiên cứu về kế toán trách nhiệm.
Tài liệu này đã hệ thống hóa được cơ sở lý luận về kế toán trách nhiệm, kinh
Trang 9
nghiệm nước ngoài rất cụ thể và đầy đủ. Tài liệu đã trình bày được một hệ thống
báo cáo đánh giá trách nhiệm quản trị được thiết lập phù hợp với cơ cấu tổ chức
trong doanh nghiệp thương mại; xác lập các trung tâm trách nhiệm nhằm cung cấp
thông tin phục vụ kiểm soát, và đánh giá trách nhiệm quản trị của các cấp quản lý
khác nhau. Mặc khác, để công tác xây dựng hệ thống báo cáo đánh giá trách nhiệm
quản trị có thể áp dụng cho loại hình doanh nghiệp thương mại mang tính khả thi
cao, nghiên cứu đã xác định một số điều kiện để thực hiện quy trình xây dựng hệ
thống báo cáo đánh giá trách nhiệm quản trị trong các doanh nghiệp thương mại.
Ngoài ra, để hệ thống báo cáo đánh giá trách nhiệm quản trị được xây dựng có thể
vận dụng thành công trong loại hình doanh nghiệp thương mại, nghiên cứu cũng đã
nêu lên một số giải pháp hỗ trợ từ phía Nhà nước và doanh nghiệp. Cũng trong năm
này, Luận án của Tiến sĩ Hoàng Văn Tưởng “Tổ chức kế toán quản trị với việc tăng
cường quản lý hoạt động kinh doanh trong các doanh nghiệp xây lắp Việt Nam” đã
nghiên cứu đến việc tổ chức các trung tâm trách nhiệm trong các doanh nghiệp xây
lắp. Tuy nhiên, đây chỉ là giải pháp nhỏ và chỉ được trình bày ở góc độ phân công,
phân nhiệm chứ chưa đi vào cụ thể, chi tiết và đầy đủ mà một hệ thống kế toán
trách nhiệm trong doanh nghiệp xây lắp cần phải xây dựng. Luận án của Tiến sĩ
Trần Văn Tùng (2010) ““Xây dựng hệ thống báo cáo đánh giá trách nhiệm quản trị
trong công ty niêm yết ở Việt Nam” đã trình bày những nghiên cứu về mặt lý luận
của hệ thống báo cáo kế toán trách nhiệm nói chung, đặc thù kế toán trách nhiệm
trong các công ty cổ phần và mô hình tổ chức kế toán trách nhiệm trong công ty cổ
phần của một số quốc gia phát triển trên thế giới. Nhằm cung cấp thông tin phục vụ
kiểm soát, và đánh giá trách nhiệm quản trị của các cấp quản lý khác nhau, luận án
này cũng đã đưa ra mô hình cơ cấu tổ chức mang tính phổ biến trong công ty niêm
yết, với cơ chế quản lý theo mô hình Tổng công ty có sự phân cấp và hoạt động
trong lĩnh vực sản xuất, từ đó đề nghị mô hình chung về xây dựng hệ thống báo cáo
đánh giá trách nhiệm quản trị cho Tổng công ty. Luận án cũng đã xác định được
một số điều kiện để thực hiện quy trình xây dựng hệ thống báo cáo đánh giá trách
nhiệm quản trị trong các công ty niêm yết, như công ty phải xây dựng rõ động cơ,
mục tiêu chung và lựa chọn mô hình tổ chức quản lý phù hợp, phân cấp quản lý rõ
Trang 10
ràng, trên cơ sở đó xác lập cơ chế quản lý thành những trung tâm trách nhiệm cụ
thể; xây dựng hệ thống định mức – tiêu chuẩn liên quan đến các chỉ tiêu của các báo
cáo trách nhiệm; xác lập các phương pháp phân bổ chi phí gián tiếp và phân tích
báo cáo bộ phận; định giá sản phẩm, dịch vụ chuyển giao nội bộ. Năm 2013, Luận
án “Xây dựng mô hình kế toán trách nhiệm trong các doanh nghiệp sản xuất Sữa
Việt Nam” của Tiến sĩ Nguyễn Thị Minh Phương đã nghiên cứu việc tổ chức hệ
thống kế toán trách nhiệm nhằm cung cấp các thông tin hữu ích cho các nhà quản trị
đánh giá hiệu quả kinh doanh và trách nhiệm quản lý của từng bộ phận trong đặc
thù loại hình doanh nghiệp sản xuất Sữa tại Việt Nam. Đây là một trong những tài
liệu có giá trị về nghiên cứu và tổ chức hệ thống kế toán trách nhiệm trong doanh
nghiệp đặc thù. Như vậy, có thể nói, các nghiên cứu trong nước về tổ chức kế toán
trách nhiệm trong những năm gần đây bắt đầu đã đi vào cụ thể một số loại hình
doanh nghiệp. Đã hệ thống hóa được những lý luận cơ bản về tổ chức kế toán trách
nhiệm trong doanh nghiệp và đã đề cập đến các mô hình tổ chức kế toán trách
nhiệm phù hợp với loại hình doanh nghiệp như tổng công ty, công ty cổ phần. Đây
cũng chính là những nội dung mà luận án kế thừa và tham khảo trong quá trình thực
hiện nghiên cứu.
Tóm lại, thông qua nghiên cứu tổng quan các công trình nghiên cứu liên
quan đến kế toán trách nhiệm trong nước cũng như ngoài nước, tác giả thấy rằng
các công trình nghiên cứu được giới thiệu, trình bày trên đây chưa thực hiện nghiên
cứu cụ thể về tổ chức kế toán trách nhiệm trong loại hình công ty xây dựng, trong
xu thế hội nhập, phát triển bền vững. Mảng nghiên cứu đề tài tổ chức hệ thống kế
toán trách nhiệm tại các Tổng công ty xây dựng cho đến nay chưa có tác giả nào
thực hiện. Nói cách khác, các nghiên cứu trong và ngoài nước cho đến thời điểm
này vẫn chưa đề cập đến các nội dung:
- Tổ chức hệ thống kế toán trách nhiệm cho các doanh nghiệp đặc thù ngành
xây dựng nói chung và các Tổng công ty xây dựng nói riêng.
- Đánh giá thành quả quản lý các trung tâm trách nhiệm một cách toàn diện
(trên cả phương diện định tính và định lượng).
Trang 11
- Yêu cầu đặt ra cho việc đánh giá thành quả quản lý các trung tâm trách
nhiệm trong tổng công ty xây dựng trong xu thế hội nhập, phát triển bền vững.
Do đó, việc nghiên cứu đề tài tổ chức kế toán trách nhiệm tại các Tổng công
ty xây dựng là cần thiết tiếp tục kế thừa các công trình trên và đề xuất tổ chức hệ
thống kế toán trách nhiệm phù hợp với đặc thù doanh nghiệp xây dựng, phù hợp với
xu thế hội nhập, phát triển bền vững.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Để tìm hiểu và làm sáng tỏ thực trạng tổ chức hệ thống kế toán trách nhiệm ở
các tổng công ty xây dựng trong thời gian để từ đó nhận diện được những nguyên
nhân, ảnh hưởng cũng như sự cần thiết phải tổ chức hệ thống kế toán trách nhiệm
cho các tổng công ty xây dựng trong thời gian đến, luận án đã tiến hành khảo sát
thực tế về kế toán trách nhiệm đang được áp dụng trong các tổng công ty xây dựng.
Phạm vi khảo sát là 7 Tổng công ty xây dựng thuộc Bộ GTVT:
- Tổng công ty xây dựng Thăng Long;
- Tổng công ty xây dựng Đường thủy;
- Tổng công ty xây dựng Công trình giao thông 1;
- Tổng công ty xây dựng Công trình giao thông 4;
- Tổng công ty xây dựng Công trình giao thông 5;
- Tổng công ty xây dựng Công trình giao thông 6;
- Tổng công ty xây dựng Công trình giao thông 8.
4. Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu chính của luận án nhằm đề xuất tổ chức hệ thống kế toán trách
nhiệm cho các tổng công ty xây dựng trong xu thế hội nhập, phát triển bền vững. Vì
vậy, mục tiêu cụ thể được đặt ra là:
- Tổng kết những lý luận cơ bản về kế toán trách nhiệm, các tiếp cận về tổ
chức kế toán trách nhiệm trên thế giới nhằm xây dựng những luận cứ khoa học về tổ
chức kế toán trách nhiệm trong các tổng công ty xây dựng.
- Đánh giá thực trạng tổ chức kế toán trách nhiệm trong các tổng công ty xây
dựng thuộc Bộ giao thông vận tải quản lý trong những năm qua.
Trang 12
- Xác lập mô hình tổ chức kế toán trách nhiệm cho các tổng công ty xây
dựng trong thời gian đến.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Đề tài vận dụng những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lenin, các
quan điểm của Đảng, Chính phủ và các chính sách của Nhà nước.
- Để đạt được mục tiêu nghiên cứu và nhiệm vụ đặt ra, đề tài sử dụng
phương pháp nghiên cứu hỗn hợp. Trong phương pháp này, tác giả đã sử dụng
phương pháp nghiên cứu định tính (Qualitative approach) mà cụ thể là phương pháp
tình huống (case study research) làm phương pháp nghiên cứu chính; sử dụng
phương pháp định lượng hỗ trợ thêm để làm sáng tỏ thêm vấn đề cần nghiên cứu.
Đây chính là dạng thiết kế hỗn hợp gắn kết. “Thiết kế hỗn hợp gắn kết là dạng thiết
kế trong đó một phương pháp (định tính hoặc định lượng) là chính và phương pháp
còn lại gắn vào với phương pháp chính. Như vậy, phương pháp gắn kết (phụ) này
đóng vai trò hỗ trợ thêm dữ liệu cho phương pháp chính” (Nguyễn Đình Thọ, 2011,
trang 198).
Trong phương pháp tình huống (case study research), công cụ tác giả lựa
chọn sử dụng để thu thập dữ liệu đó chính là khảo sát và quan sát (observation).
“Phân tích dữ liệu định tính là quá trình đi tìm ý nghĩa của dữ liệu” (Nguyễn Đình
Thọ, 2011, trang 130). Vì vậy, tác giả tiến hành khảo sát các nhà khoa học, các
chuyên gia trong lĩnh vực kế toán và các cấp quản lý trong tổng công ty từ Hội đồng
thành viên, Tổng (phó) tổng giám đốc, ban giám đốc các công ty thành viên, các
trưởng, phó phòng kế toán; các đội trưởng, tổ trưởng tổ thi công các công trình xây
dựng. và quan sát đối tượng nghiên cứu (những vấn đề về tổ chức hệ thống kế toán
trách nhiệm trong các tổng công ty xây dựng) để thu thập và phân tích dữ liệu.
Ngoài phương pháp chủ đạo nêu trên, luận án còn sử dụng các phương pháp khác
như phương pháp tổng hợp, phương pháp điều tra, phỏng vấn sâu … để nghiên cứu
và trình bày các vấn đề lý luận và thực tiễn.
Quy trình áp dụng phương pháp nghiên cứu hỗn hợp trải qua 7 bước:
Trang 13
Cụ thể:
- Bước 1: Phát hiện lỗ hổng nghiên cứu
Qua tham khảo các công trình nghiên cứu trong và ngoài nước về tổ chức hệ
thống kế toán trách nhiệm trong doanh nghiệp, một số vấn đề mà các tác giả đã
chưa đề cập đến là:
+ Việc tổ chức hệ thống kế toán trách nhiệm cho các doanh nghiệp đặc thù
ngành xây dựng nói chung và các Tổng công ty xây dựng nói riêng.
+ Việc đánh giá thành quả quản lý các trung tâm trách nhiệm trên cả phương
diện định tính và định lượng.
+ Yêu cầu đặt ra cho việc đánh giá thành quả quản lý các trung tâm trách
nhiệm trong tổng công ty xây dựng trong xu thế hội nhập, phát triển bền vững.
- Bước 2: Xác định câu hỏi nghiên cứu.
Để đạt được các mục tiêu mà đề tài đã đặt ra, cần phải trả lời một cách thỏa
đáng một số vấn đề nghiên cứu sau:
Bước 1: Phát hiện lỗ hổng nghiên cứu
Bước 2: Xác định câu hỏi nghiên cứu
Bước 3: Chọn tình huống
Bước 4: Chọn phương pháp thu thập dữ liệu
Bước 5: Thu thập dữ liệu
Bước 6: Phân tích dữ liệu
Bước 7: Xây dựng mô hình
Trang 14
1. Kế toán trách nhiệm là gì? Tình hình nghiên cứu và ứng dụng kế toán
trách nhiệm trong và ngoài nước đã được giải quyết như thế nào?
2. Tình hình tổ chức hệ thống kế toán trách nhiệm trong các tổng công ty xây
dựng thuộc Bộ giao thông vận tải quản lý trong thời gian qua đã được thực hiện như
thế nào? Những hạn chế và nguyên nhân?
3. Tổ chức hệ thống kế toán trách nhiệm cho các doanh nghiệp ngành xây
dựng nói chung và các Tổng công ty xây dựng thuộc Bộ giao thông vận tải quản lý
nói riêng có những điểm đặc thù gì ? và cần phải giải quyết như thế nào để phù hợp
các yêu cầu tăng cao chất lượng và hiệu quả về mặt kinh tế - môi trường - xã hội ?
4. Trong xu thế hội nhập, phát triển bền vững, yêu cầu đặt ra cho việc đánh
giá thành quả quản lý các trung tâm trách nhiệm trong tổng công ty xây dựng như
thế nào? Các chỉ tiêu sử dụng để đánh giá thành quả quản lý của các trung tâm trách
nhiệm trên cả phương diện định tính và định lượng là các chỉ tiêu gì?
- Bước 3: Chọn tình huống.
Từ những câu hỏi được xác định như phần trên, tình huống mà luận án lựa
chọn đó chính là những vấn đề về tổ chức hệ thống kế toán trách nhiệm trong các
tổng công ty xây dựng thuộc Bộ giao thông vận tải quản lý. Cụ thể là tập trung về
công tác xây dựng tầm nhìn chiến lược của các tổng công ty; công tác tổ chức bộ
máy và phân cấp quản lý; hệ thống các báo cáo và các công cụ được sử dụng để
đánh giá trách nhiệm quản lý cũng như những yêu cầu cấp thiết của xu thế hội nhập,
phát triển bền vững đối với các doanh nghiệp xây lắp.
- Bước 4. Chọn phương pháp thu thập dữ liệu.
Để có được thông tin về những vấn đề tổ chức hệ thống kế toán trách nhiệm
trong các tổng công ty xây dựng thuộc Bộ giao thông vận tải quản lý, phương pháp
được tác giả lựa chọn sử dụng để thu thập dữ liệu chính là phương pháp khảo sát,
phỏng vấn sâu kết hợp với tìm hiểu và nghiên cứu trực tiếp trên cơ sở quan sát
(observation) và một số phương pháp khác như thống kê, tổng hợp …
Cụ thể, tác giả khảo sát, phỏng vấn sâu các nhà khoa học, các chuyên gia
trong lĩnh vực kế toán và các cấp quản lý trong tổng công ty từ Hội đồng thành
viên, Tổng (phó) tổng giám đốc, ban giám đốc các công ty thành viên, các trưởng,
Trang 15
phó phòng kế toán; các đội trưởng, tổ trưởng tổ thi công các công trình xây dựng để
khảo sát và phỏng vấn trực tiếp các nội dung xoay quanh các câu hỏi nghiên cứu
như phân cấp quản lý, cơ cấu tổ chức, tổ chức hệ thống kế toán trách nhiệm, các
thông tin quá trình hoạt động và đánh giá trách nhiệm quản lý trong việc thực hiện
nhiệm vụ của các bộ phận … kết hợp với quan sát, điều tra nghiên cứu, ghi chép tại
các tổng công ty xây dựng, các công ty thành viên. Ngoài ra, tác giả cũng tiến hành
thu thập các thông tin về tác động của hoạt động xây dựng đến môi trường, xã hội
cũng như thái độ của người dân, của xã hội liên quan đến hoạt động xây dựng và
yêu cầu của xu thế hội nhập, phát triển bền vững … với vai trò là người quan sát
hoàn toàn (The complete observer). Tuy số lượng mẫu khảo sát chưa lớn do đặc thù
đối tượng khảo sát hạn chế nhưng vẫn đảm bảo được trên mức tối thiểu trong
nghiên cứu thống kê.
- Bước 5. Thu thập dữ liệu.
Số liệu thứ cấp: Tìm hiểu và nghiên cứu các Nghị định của chính phủ, các
Quyết định của Bộ xây dựng, các Quy chế, Điều lệ tổ chức của các tổng công ty xây
dựng, các báo cáo của các công ty xây dựng, các sách tham khảo, tài liệu nghiên
cứu về kế toán trách nhiệm trong và ngoài nước…
Số liệu sơ cấp: tác giả sử dụng bảng câu hỏi và điện thoại để tiến hành phỏng
vấn sâu các nhà quản lý; trực tiếp khảo sát và quan sát thực tiễn về tổ chức hệ thống
kế toán trách nhiệm trong các tổng công ty xây dựng tại các Tổng công ty xây dựng
do Bộ giao thông vận tải làm chủ sở hữu. Ngoài ra, tác giả còn tham khảo các bài
báo, các đánh giá về chất lượng công trình xây dựng, những rào cản trong quá trình
thi công xây dựng; thái độ của người dân, của xã hội liên quan đến hoạt động xây
dựng và yêu cầu của xu thế hội nhập, phát triển bền vững hiện nay.
- Bước 6. Phân tích dữ liệu.
Dựa trên số liệu sơ cấp và thứ cấp được thu thập, tác giả tiến hành phân tích,
đánh giá giữa thực trạng với các thách thức, cơ hội, xu thế phát triển; nhận diện
những hạn chế và nguyên nhân ảnh hưởng của công tác phân cấp quản lý, công tác
lập kế hoạch, dự toán, hệ thống thông tin báo cáo, đánh giá trách nhiệm quản lý …
Trang 16
trong các tổng công ty xây dựng. Tác giả sử dụng phầm mềm SPSS để hỗ trợ trình
bày thống kê mô tả và kiểm định sau.
- Bước 7. Xây dựng mô hình
Qua phân tích các dữ liệu kết hợp với những lý luận về tổ chức kế toán trách
nhiệm trong doanh nghiệp, tác giả tiến hành xác lập mô hình tổ chức kế toán trách
nhiệm trong các tổng công ty xây dựng thuộc Bộ giao thông vận tải quản lý.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án
Các nghiên cứu cho thấy kế toán quản trị xuất hiện đầu tiên ở Mỹ vào những
năm đầu của thế kỉ XIX. Tuy nhiên, ở Việt Nam hiện nay, kế toán quản trị vẫn là
một lĩnh vực tương đối mới mẻ đặc biệt là vận hành, ứng dụng trong từng lĩnh vực
hoặc đối tượng cụ thể. Vì vậy, luận án là một tài liệu bổ ích cho việc nghiên cứu và
vận dụng kế toán quản trị nói chung, kế toán trách nhiệm nói riêng vào các doanh
nghiệp có quy mô lớn, hoạt động trong lĩnh vực xây dựng. Những nội dung được
trình bày trong luận án là sự tổng kết các quan điểm của nhiều tác giả, kinh nghiệm
của các số nước cũng như những đề xuất mới mẻ gửi cho các Tổng công ty xây
dựng thuộc Bộ giao thông vận tải quản lý nhằm từ đó góp phần làm sáng tỏ hơn bản
chất và nội dung của kế toán quản trị cũng như những điều kiện cấp thiết cho việc
tổ chức, thực hiện kế toán trách nhiệm cho các tổng công ty xây dựng ở Việt Nam.
Mặc dù Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư 53/2006/TT-BTC về việc hướng
dẫn áp dụng Kế toán quản trị trong doanh nghiệp, nhưng việc nghiên cứu, vận dụng
kế toán quản trị nói chung và kế toán trách nhiệm nói riêng cho các doanh nghiệp ở
Việt Nam là một việc không hề đơn giản và cho đến nay Thông tư này gần như đã
đi vào quên lãng. Thực tế ở nước ta, việc sử dụng các thông tin do kế toán cung cấp
cho quản trị doanh nghiệp còn hạn chế. Kế toán quản trị ở vẫn chưa được quan tâm
đầy đủ tương xứng với vị trí và vai trò của nó trong quản trị doanh nghiệp. Từ thực
tế này, kết quả nghiên cứu của luận án sẽ góp phần vào quá trình hoàn thiện nội
dung tổ chức kế toán quản trị nói chung và kế toán trách nhiệm nói riêng để phục vụ
cho việc quản lý và điều hành sản xuất kinh doanh trong các tổng công ty, đặc biệt
là các tổng công ty xây dựng. Ngoài ra, nội dung tổ chức kế toán trách nhiệm được
xác lập trong luận án cần được dựa trên tiến trình phát triển và hội nhập theo mục
Trang 17
tiêu phát triển bền vững. Đây chính là điểm mới mà chưa có tác giả nào trong nước
đã công bố.
7. Kết cấu của luận án
Kết cấu của luận án bao gồm các phần và chương sau:
- Phần 1: Phần mở đầu;
- Phần 2: Nội dung nghiên cứu: (được trình bày trong 3 chương)
Chương 1: Lý thuyết về kế toán trách nhiệm và việc áp dụng kế toán trách
nhiệm ở các doanh nghiệp
+ Lược sử phát triển của kế toán trách nhiệm;
+ Nội dung kế toán trách nhiệm và những vấn đề liên quan đến việc
áp dụng được và có hiệu quả kế toán trách nhiệm vào hoạt động thực
tiễn ở các doanh nghiệp;
+ Tổ chức kế toán trách nhiệm ở một số quốc gia và những bài học
kinh nghiệm cho Việt Nam;
+ Đặc điểm mô hình tổ chức tổng công ty xây dựng và những ảnh
hưởng của nó đến việc tổ chức thực hiện hệ thống kế toán trách
nhiệm;
Chương 2: Thực trạng tổ chức hệ thống kế toán trách nhiệm trong các
Tổng công ty xây dựng thuộc Bộ giao thông vận tải quản lý
+ Đặc điểm hoạt động xây dựng và tổ chức hoạt động xây dựng chi
phối đến tổ chức kế toán trách nhiệm.
+ Thực trạng tổ chức hệ thống kế toán trách nhiệm ở các tổng công ty
xây dựng thuộc Bộ giao thông vận tải quản lý.
Chương 3: Xác lập mô hình tổ chức kế toán trách nhiệm cho các Tổng công
ty xây dựng thuộc Bộ giao thông vận tải quản lý
+ Quan điểm và định hướng;
+ Xác lập điều kiện vận hành cho mô hình được thiết kế;
+ Xây dựng hệ thống các báo cáo;
+ Vận dụng mô hình KM Star trong việc đánh giá trách nhiệm quản lý
các trung tâm trách nhiệm.
Trang 18
- Phần 3: Kết luận và kiến nghị.
- Danh mục các công trình công bố kết quả nghiên cứu
- Danh mục tài liệu tham khảo
- Phụ lục.
Trang 19
PHẦN 2: NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
CHƯƠNG 1:
LÝ THUYẾT VỀ KẾ TOÁN TRÁCH NHIỆM VÀ VIỆC ỨNG
DỤNG KẾ TOÁN TRÁCH NHIỆM Ở CÁC DOANH NGHIỆP
1.1. LƯỢC SỬ PHÁT TRIỂN CỦA KẾ TOÁN TRÁCH NHIỆM
Theo quan điểm quản trị, kế toán là một bộ phận cấu thành quan trọng của hệ
công cụ quản lý kinh tế, tài chính và có vai trò quản lý, điều hành và kiểm soát các
hoạt động kinh tế, tài chính trong doanh nghiệp, đồng thời cung cấp thông tin để
thực hiện mục tiêu quản trị doanh nghiệp nhằm đạt được hiệu quả cao nhất. Ngày
nay, kế toán quản trị là bộ phận không thể tách rời của hệ thống kế toán doanh
nghiệp. Ngoài thông tin kế toán tài chính cung cấp, các nhà quản lý vẫn đòi hỏi có
thêm thông tin mang tính kiểm soát và dự báo, chẳng hạn như doanh thu và chi phí
phân chia theo bộ phận. Như vậy, kế toán quản trị biểu hiện trách nhiệm của các
nhà quản lý các cấp bên trong doanh nghiệp trong khi kế toán tài chính biểu hiện
trách nhiệm của nhà quản trị cấp cao. Để hỗ trợ cho công tác quản lý đo lường,
kiểm soát, đánh giá kết quả hoạt động của từng cấp cá nhân, từng bộ phận và từng
cấp quản lý, kế toán quản trị vận dụng hệ thống kế toán trách nhiệm để phân loại
cấu trúc tổ chức thành các trung tâm trách nhiệm, trên cơ sở đó đánh giá kết quả của
từng bộ phận dựa trên trách nhiệm được giao cho bộ phận đó. Như vậy, kế toán
trách nhiệm là hệ thống thu thập, xử lý và truyền đạt thông tin có thể kiểm soát theo
phạm vi trách nhiệm của từng nhà quản trị nhằm đạt được mục tiêu chung của tổ
chức. Thông tin có thể kiểm soát của một bộ phận là những thông tin về doanh thu,
chi phí, vốn đầu tư và các thông tin phi tài chính khác mà nhà quản trị bộ phận đó
có thể đưa ra các quyết định tác động lên nó. Thông tin có thể kiểm soát cụ thể đối
với từng nhà quản trị phụ thuộc vào trách nhiệm quản lý của nhà quản trị đó.
Kế toán trách nhiệm là một nội dung cơ bản của kế toán quản trị do vậy quá
trình hình thành và phát triển của kế toán trách nhiệm gắn liền với quá trình hình
Trang 20
thành và phát triển của kế toán quản trị. Năm 1989, Liên đoàn kế toán quốc tế
(IFAC) đã ban hành một bản báo cáo tóm tắt về phạm vi, mục đích của kế toán
quản trị và các khái niệm cơ bản của kế toán quản trị qua ấn phẩm “Management
Accounting Concepts”. Một trong những nội dung quan trọng được trình bày trong
ấn phẩm này là sự phân chia tiến trình phát triển của Kế toán quản trị thành 4 giai
đoạn. Việc phân chia quá trình hình thành và phát triển của kế toán quản trị thành 4
giai đoạn như vậy dựa trên trọng tâm thông tin mà Kế toán quản trị cung cấp trong
từng thời kỳ.
+ Giai đoạn 1 (Trước năm 1956): Thông tin để kiếm soát và định hướng chi
phí, sản xuất;
+ Giai đoạn 2 (Từ năm 1956 đến cuối năm 1980): Thông tin để hoạch định
và kiểm soát tài chính hoạt động sản xuất kinh doanh;
+ Giai đoạn 3 (Từ năm 1980 đến cuối năm 1995): Thông tin để giảm những
tổn thất nguồn lực kinh tế sử dụng của quy trình sản xuất kinh doanh;
+ Giai đoạn 4 (Từ 1995 đến nay): Thông tin để sử dụng có hiệu quả các
nguồn lực kinh tế tạo ra giá trị.
Từ sau cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất vào cuối thế kỷ 18 đến đầu
thế kỷ 19 đã đặt ra nhiều thách thức lớn đối với những người hành nghề kế toán.
Vào thời điểm này, nhờ có sự phát triển của khoa học kỹ thuật, các xưởng dệt thủ
công chuyển sang nhà máy dệt, hình thành ngành công nghiệp sợi, dệt. Và khi có sự
xuất hiện của ngành giao thông đường sắt thì hầu hết tất cả các hoạt động kinh
doanh trong lĩnh vực dệt, luyện kim, đường sắt đều trở nên phức tạp, khối lượng
nghiệp vụ kế toán bùng nổ đáng kể. Lúc này, nhiệm vụ của nhân viên kế toán không
còn là việc ghi bút toán kép một cách đơn thuần nữa mà họ được yêu cầu phải làm
sao đơn giản hóa thông tin, cung cấp thông tin có thể kiểm soát được chi phí và định
giá bán sản phẩm. Cũng vào thời điểm này, thuật ngữ “kế toán quản trị” tuy chưa
xuất hiện trong hệ thống kế toán Anglo – Saxon nhưng thay vào đó, thuật ngữ “kế
toán chi phí” đã xuất hiện để định nghĩa quy trình tính toán chi phí, xác định giá
thành, kiểm soát tình hình tài chính của doanh nghiệp. Mặc dù kế toán quản trị chưa
được ghi nhận đến thời điểm trước thế kỷ 19, nhưng công việc thu thập, xử lý các
Trang 21
thông tin kinh tế tài chính đã có và những người chủ kinh doanh đã biết sử dụng
những số liệu thông tin kinh tế trong quá khứ để lập dự toán cho kỳ hoạt động kế
tiếp. Đỉnh cao là vào năm 1920, ông Donaldson Brown, giám đốc tài chính công ty
Dupont đã giới thiệu công thức tính toán ROI. Sau đó, các công ty Dupont và
General Motor đã tuyên bố là người tiên phong trong việc áp dụng một thông số kỹ
thuật phân tích trong công tác quản trị của mình. Tuy nhiên, trong thời kỳ này dù có
nhiều bằng chứng chứng minh cho sự xuất hiện của lĩnh vực kế toán quản trị nhưng
trong xã hội bấy giờ kế toán quản trị chưa xuất hiện nổi bật, mà tìm ẩn dưới dạng kế
toán chi phí như là một hoạt động kỹ thuật cần thiết để đảm bảo đạt được mục tiêu
của doanh nghiệp (Đoàn Ngọc Quế và cộng sự, 2011).
Dấu mốc quan trọng cho sự ra đời của kế toán quản trị là quyển sách đầu tiên
về kế toán quản trị của Robert Anthony được xuất bản vào năm 1956. Quyển sách
này tập trung vào ba vấn đề chính: Giới thiệu kế toán quản trị là gì, làm thế nào có
thể hệ thống và phân tích vấn đề mới để ra quyết định, giới thiệu các công cụ kiểm
soát chi phí thích hợp. Từ sau khi có sự giới thiệu về kế toán quản trị của Robert
Anthony thì nhiều công cụ kế toán quản trị đã được phát triển trong suốt giai đoạn
này. Sự quan tâm của kế toán quản trị đã chuyển biến mạnh mẻ vào việc cung cấp
thông tin cho hoạt động lập kế hoạch và kiểm soát của nhà quản trị, thông qua việc
sử dụng các kỹ thuật như phân tích để ra quyết định và kế toán trách nhiệm (Đoàn
Ngọc Quế và cộng sự, 2011).
Như vậy, kế toán trách nhiệm đã được hình thành trong giai đoạn trọng tâm
của kế toán quản trị đã chuyển sang cung cấp các thông tin cho mục đích lập kế
hoạch và kiểm soát. Kiểm soát quản lý trong giai đoạn này được định hướng theo
quản trị nội bộ, quản trị sản xuất hơn là cân nhắc theo môi trường, chiến lược. Kế
toán quản trị có khuynh hướng xác định các vấn đề khi có độ lệch từ kế hoạch kinh
doanh với thực tế hoạt động diễn ra. Chính vì vậy, kế toán quản trị trong giai đoạn
này thường tập trung vào các chủ đề như: khái niệm và phân loại chi phí, kế toán
chi phí và tính giá thành sản phẩm theo công việc hoặc theo quy trình sản xuất,
nhận thức cách ứng xử chi phí và phân tích biến động chi phí, phân tích mối quan
hệ chi phí - khối lượng - lợi nhuận, ảnh hưởng phương pháp chi phí toàn bộ và
Trang 22
phương pháp chi phí trực tiếp trong thiết lập công cụ quản lý, dự toán hoạt động sản
xuất kinh doanh, chi phí tiêu chuẩn và sự cân bằng các nguồn lực kinh tế, dự toán
linh hoạt và phân tích biến động chi phí sản xuất chung, báo cáo bộ phận và các sự
phân quyền trong một tổ chức, chi phí thích hợp cho quyết định kinh doanh ngắn
hạn, dự toán vốn đầu tư dài hạn, phân bổ chi phí bộ phận trên cơ sở hoạt động, định
giá sản phẩm dịch vụ, phân tích báo cáo tài chính.
Kế toán trách nhiệm là nội dung cơ bản của kế toán quản trị. Kế toán trách
nhiệm cung cấp thông tin có thể kiểm soát của từng bộ phận mà được nhà quản tri
phân quyền trách nhiệm. Từ đó đến nay, vấn đề kế toán trách nhiệm được quan tâm
nhiều với những quan điểm khác nhau, bởi những tác giả khác nhau ở nhiều quốc
gia trên thế giới như Atkinson; R.D Banker; R.S Kaplan; S.M. Young; James
R.Martin …
1.2. NỘI DUNG KẾ TOÁN TRÁCH NHIỆM VÀ CÁC VẤN ĐỀ LIÊN QUAN
ĐẾN VIỆC ÁP DỤNG ĐƯỢC VÀ CÓ HIỆU QUẢ VÀO HOẠT ĐỘNG THỰC
TIỄN Ở CÁC DOANH NGHIỆP
1.2.1. Định nghĩa và mục tiêu của Kế toán trách nhiệm
a. Định nghĩa
Kế toán trách nhiệm là hệ thống thông tin của kế toán quản trị; xử lý, phân
loại các thông tin có thể kiểm soát để lập các báo cáo trách nhiệm cho các cấp độ
quản trị đánh giá và ra các quyết định trong hoạt động kinh doanh.
- Kế toán trách nhiệm là một bộ phận của kế toán quản trị và chúng phát sinh từ nhu
cầu thông tin của nhà quản trị vể kiểm soát đánh giá, các bộ phận hay các cấp độ
quản trị. Do đó, kế toán trách nhiệm phải sử dụng thông tin của kế toán quản trị.
- Báo cáo kế toán là sản phẩm cao nhất của quá trình kế toán. Do đó, các báo cáo
trách nhiệm bộ phận quản trị cũng sẽ là sản phẩm cao nhất của kế toán trách nhiệm.
Thông tin trên các báo cáo này phải hữu ích thích hợp cho các cấp độ quản trị.
b. Mục tiêu chung
Xây dựng và thiết lập các báo cáo cho các bộ phận trách nhiệm nhà quản trị,
được phân quyền quản lý.
Mục tiêu cụ thể:
- Quan điểm về phân quyền trách nhiệm phải cụ thề và rõ ràng.
Trang 23
- Nhận diện và thấu hiểu các cách phân loại chi phí, đặc biệt là chi phí kiểm
soát được và chi phí không kiểm soát đươc đối với bộ phận phân quyền.
- Xây dựng hệ thống báo cáo hữu ích cho các bộ phận.
1.2.2. Nội dung kế toán trách nhiệm
Từ khi Robert Anthony đã công bố những nghiên cứu của mình về kế toán
trách nhiệm vào năm 1956 đến nay, kế toán trách nhiệm đã được nghiên cứu và vận
dụng trên khắp thế giới. Tuy vậy, cho đến thời điểm hiện nay vẫn chưa có một khái
niệm chuẩn, thống nhất về kế toán trách nhiệm.
Hệ thống kế toán trách nhiệm được thiết lập để ghi nhận, đo lường kết quả
hoạt động của từng bộ phận trong tổ chức, trên cơ sở đó lập các báo cáo thực hiện
nhằm phục vụ cho các nhà quản lý kiểm soát được hoạt động và chi phí của họ. Nói
cách khác, kế toán trách nhiệm là một phương pháp kế toán thu thập và báo cáo các
thông tin dự toán và thực tế về các “đầu vào” và “đầu ra” của các trung tâm trách
nhiệm. Như vậy, vấn đề đặt ra là phải lượng hóa được “đầu vào” và “đầu ra” của
các trung tâm trách nhiệm. Trên sơ sở đó, xác định các chỉ tiêu cụ thể để đánh giá
kết quả hoạt động của từng trung tâm. Việc đo lường thành quả hoạt động của các
trung tâm trách nhiệm sẽ tạo điều kiện cho việc đánh giá chất lượng hoạt động của
nhà quản trị các trung tâm, đồng thời khích lệ họ điều khiển hoạt động của trung
tâm mình phù hợp với mục tiêu cơ bản của toàn đơn vị.
Một số quan điểm nổi bậc:
Theo Anthony A. Atkinson và cộng sự (2001) thì kế toán trách nhiệm là:
- Một hệ thống kế toán có chức năng thu thập, tổng hợp và báo cáo các dữ liệu
kế toán có liên quan đến trách nhiệm của từng nhà quản lý riêng biệt trong một tổ
chức, thông qua các báo cáo liên quan đến chi phí, thu nhập và các số liệu hoạt
động bởi từng khu vực trách nhiệm hoặc đơn vị trong tổ chức.
- Một hệ thống cung cấp thông tin nhằm đánh giá trách nhiệm và thành quả
của mỗi nhà quản lý, chủ yếu ở khía cạnh thu nhập và những khoản chi phí mà họ
có quyền kiểm soát đầu tiên (quyền ảnh hưởng).
- Một hệ thống kế toán tạo ra các báo cáo chứa cả những đối tượng có thể
kiểm soát và không thể kiểm soát đối với một cấp quản lý. Theo đó, những đối
tượng có thể kiểm soát và không thể kiểm soát được phân tách rõ ràng, và có sự
Trang 24
nhận diện những đối tượng có thể kiểm soát được là một nhiệm vụ cơ bản trong kế
toán trách nhiệm và báo cáo trách nhiệm.
Theo Weygandt và cộng sự (2002) thì kế toán trách nhiệm là một bộ phận
của kế toán quản trị mà liên quan đến việc kiểm soát, báo cáo về thu nhập và chi
phí, trên cơ sở nhà quản lý có quyền đưa ra các quyết định trong hoạt động hàng
ngày về các vấn đề đó.
Theo Clive Emmanuel và cộng sự (1990) thì kế toán trách nhiệm là sự thu
thập tổng hợp và báo cáo những thông tin tài chính về những trung tâm khác nhau
trong một tổ chức (những trung tâm trách nhiệm), cũng còn được gọi là kế toán hoạt
động hay kế toán khả năng sinh lợi. Nó lần theo các chi phí, thu nhập hay lợi nhuận
đến những nhà quản lý riêng biệt, những người chịu trách nhiệm cho việc đưa ra các
quyết định về chi phí, thu nhập hay lợi nhuận đang được nói đến, và thực thi những
hành động về chúng. Kế toán trách nhiệm tỏ ra phù hợp ở những tổ chức mà ở đó
nhà quản lý cấp cao thực hiện chuyển giao quyền ra quyết định cho các cấp thuộc
quyền. Theo đó, ý tưởng đằng sau kế toán trách nhiệm là kết quả hoạt động của mỗi
nhà quản lý, nên được đánh giá bởi việc họ đã quản lý những công việc được giao
nằm trong sự ảnh hưởng của họ tốt hoặc xấu như thế nào.
Theo James R. Martin (2012), kế toán trách nhiệm là một hệ thống kế toán
cung cấp thông tin về kết quả, hiệu quả hoạt động của các bộ phận, các đơn vị trong
một doanh nghiệp. Đó là công cụ đo lường, đánh giá hoạt động của những bộ phận
liên quan đến đầu tư, lợi nhuận, doanh thu và chi phí mà mỗi bộ phận có quyền
kiểm soát và chịu trách nhiệm tương ứng.
Đối David F.Hawkins và cộng sự (2004), thì kế toán trách nhiệm là một hệ
thống tạo ra những thông tin tài chính và phi tài chính có liên quan, về những hoạt
động thực tế và được lập kế hoạch của những trung tâm trách nhiệm trong một công
ty – những đơn vị trong tổ chức được đứng đầu bởi những nhà quản lý có trách
nhiệm cho kết quả hoạt động của đơn vị họ quản lý. Những bộ phận chủ yếu bao
gồm: hệ thống dự toán ngân sách, các báo cáo kết quả hoạt động, các báo cáo về sự
biến động và những mức giá chuyển nhượng sản phẩm, dịch vụ nội bộ giữa các bộ
phận trong công ty. Theo đó, kế toán trách nhiệm đi sâu vào việc so sánh kết quả
hoạt động thực tế của trung tâm trách nhiệm với kế hoạch (được dự toán) được giao,
Trang 25
và những nguồn lực được chuyển nhượng từ trung tâm này đến trung tâm khác như
thế nào. Đồng thời, kế toán trách nhiệm cũng lý giải việc lập kế hoạch quản lý và
quá trình kiểm soát.
Hai tác giả B.Venkatrathnam và Raji Reddy (2008) đã trình bày quan điểm
của mình về kế toán trách nhiệm như sau: kế toán trách nhiệm là một hệ thống kiểm
soát của nhà quản lý được dựa trên những nguyên tắc về ủy quyền và xác định trách
nhiệm. Quyền lực (sự ủy nhiệm) được giao phó theo trung tâm trách nhiệm và tính
toán cẩn thận cho trung tâm trách nhiệm. Theo hệ thống này, các nhà quản lý phải
chịu trách nhiệm cho những hoạt động của các phân khu trong tổ chức. Các phân
khu này được goi là các bộ phận, chi nhánh hay khu vực, … Theo tác giả, một trong
những mục đích sử dụng của kế toán trách nhiệm chính là nhằm thực hiện sự kiểm
soát của nhà quản lý. Trong những kỹ thuật quản lý, kế toán trách nhiệm được cho
là có rất nhiều ý nghĩa, trong khi những phương cách kiểm soát khác có thể được áp
dụng trong toàn bộ tổ chức, kế toán trách nhiệm đại diện một phương pháp đo
lường, đánh giá biểu hiện của những khu vực khác nhau của một tổ chức. Thuật ngữ
“khu vực” có liên quan đến kế toán trách nhiệm được sử dụng với ý nghĩa tổng
quát, để bao gồm bất kỳ phân khu theo hệ thống, bộ phận nào của một tổ chức.
Theo cách hiểu này “khu vực” có thể là một quyết định, một phòng ban, một văn
phòng chi nhánh, một trung tâm dịch vụ, một kênh phân phối, … với kết quả hoạt
động kinh doanh có thể được xác định và đo lường một cách tách biệt, và điều này
rất có ý nghĩa và cần thiết đối với nhà quản lý.
Theo Đào Văn Tài và cộng sự (2003, trang 88) cho rằng “Kế toán trách
nhiệm là một phương pháp kế toán thu thập và báo cáo các thông tin dự toán và
thực tế về các “đầu vào” và “đầu ra” của các trung tâm trách nhiệm”.
Theo Đoàn Ngọc Quế và cộng sự (2011, trang 196) “Kế toán trách nhiệm là
hệ thống thu thập, xử lý và truyền đạt thông tin có thể kiểm soát theo phạm vi trách
nhiệm của từng nhà quản trị nhằm đạt được mục tiêu chung của tổ chức”.
Hiện có nhiều quan điểm khác nhau về kế toán trách nhiệm, tuy nhiên, có thể
thấy rằng sự khác nhau giữa các quan điểm trên được thể hiện ở cách thức nhìn
nhận của mỗi tác giả về đặc điểm, ý nghĩa và cơ chế tổ chức kế toán trách nhiệm ở