Tải bản đầy đủ (.docx) (37 trang)

thiết kếvà sử dụng các trò chơi toán học nhằm nâng cao hiệu quả dạy học toán các lớp đầu cấp tiểu học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (288.92 KB, 37 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1. 1.Việc chuyÓn hoạt động chủ đạo tõ " vui chơi" ở lứa tuổi MÉu giáo
sang" học tập" ở lứa tuổi Tiểu học là bước là ngoặt quan trọng trong đời sống của trẻ
em. Những thay đổi này tạo cho trẻ em những cơ hội phát triển mới đồng thời cũng
gây cho các em nhiều khó khăn.
Để giúp trẻ thích nghi dần với cuộc sống mới ở trường Tiểu học, người giáo
viên cần tìm ra những cách thức, những con đường thích hợp mang lại cho trẻ cảm
nhận "mỗi ngày đến trường là một ngày vui".Làm cho các em thích học, không sợ
học là việc làm cần thiết trong dạy học ở Tiểu học, nhất là các lớp đầu cấp.
1. 2Toán học là môn học chiếm thời lượng đáng kể trong chương trình dạy
học Tiểu học; là môn học được đặc trưng bởi tính chính xác, tường minh, lôgic
chặt chẽ nên toán học dễ mang lại cho học sinh (nhất là học sinh nhá) những căng
thẳng tâm lý. Làm thế nào để giảm bớt những căng thẳng này ? Làm thế nào để
môn toán trở nên sinh động, hấp dẫn, lôi cuốn các em? Trò chơi với tính hấp dẫn tự
thân của nó có tiềm năng lớn để trở thành phương tiện dạy học hiệu quả, kích thích
hứng thú nhận thức, tạo sự tích cực, sáng tạo, niềm say mê học tập ở học sinh. Việc
sử dụng trò chơi trong dạy học toán ở Tiểu học sẽ góp phần giải quyết tốt vấn
đề nêu trên.
1. 3. Đổi mới phương pháp dạy học là cần thiết để nâng cao chất lượng dạy
học. Giúp trẻ học toán qua các trò chơi là mét trong những hướng đổi mới phương
pháp dạy học toán ở Tiểu học.
Những năm gần đây đó có những nghiên cứu về trò chơi học tập nói chung và
trò chơi toán học nói riêng. Tuy nhiên, việc lựa chọn, thiết kế làm phong phó các trò
chơi đó và tìm cách sử dụng chóng sao cho phù hợp với

đối tượng học sinh, với điều kiện thực tế giảng dạy, với năng lực của giáo
viên để dạy học toán có hiệu quả vẫn luôn luôn là một việc làm cần thiết.
1. 4. Trong thực tế dạy học Tiểu học, có những giáo viên tâm huyết đã sử
dụng trò chơi trong dạy học toán. Tuy nhiên, họ gặp khó khăn trong việc tìm chỗ
dựa về lí thuyết hướng dẫn sử dụng và tài liệu tham khảo về trò chơi toán học.


Xuất phát từ các lí do trên, chúng tôi đã lựa chọn đề tài " Thiết kếvà sử
dụng các trò chơi toán học nhằm nâng cao hiệu quả dạy học toán các lớp
đầucấp Tiểu học" mong muốn được góp phần vào quá trình đổi mới phương pháp
dạy học ở trường Tiểu học giai đoạn hiện nay.
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
Đổi mới phương pháp dạy học ở Tiểu học đang trở thành diễn đàn được xã
hội quan tâm sâu sắc, đặc biệt là những người làm công tác giáo dục. Đây là mét
trong những nhân tố cơ bản góp phần nâng cao chất lượng giáo dục nói chung và
giáo dục Tiểu học nói riêng, từng bước đưa giáo dục nước ta theo kịp trình độ phát
triển giáo dục trong khu vực và trên thế giới. Cùng với sự đổi míi giáo dục phổ
thông, giáo dục Tiểu học cũng đang đổi mới về nội dung và phương pháp dạy học
mà trong đó có sử dụng các phương pháp mới vào dạy học.
Tổ chức trò chơi học tập trong dạy học nói chung và trong dạy học môntoán
ở Tiểu học nói riêng là một hình thức dạy học mới đã được các nhà sư phạm trên
thế giới cũng như ở nước ta quan tâm, bởi lẽ họ đã tìm thấy ý nghĩa đích thực của
trò chơi học tập trong việc giáo dục và dạy học cho trẻ. Theo nhà sư phạm nổi
tiếng N. K. Crupxkaia thì “trò chơi học tập không những là phương thức nhận biết
thế giới, là con đường dẫn dắt trẻ đi tìm chân lý mà còn giúp trẻ xích lại gần nhau,
giáo dục cho trẻ tình yêu quê hương, lòng tự hào dân tộc. Trẻ em không chỉ học
trong lúc học mà còn học trong lúc chơi. Chơi với trẻ vừa là học, vừa là lao động,
vừa là

hình thức giáo dục nghiêm túc”. Trong các giáo trình “Giáo dục học”, “Giáo
dục học Tiểu học”, cũng luôn nhấn mạnh việc tổ chức trò chơi học tập chiếm vị trí
quan trọng trong phương pháp dạy học “trò chơi là một hình thức tổ chức dạy học
nhẹ nhàng, hấp dẫn, lôi cuốn học sinh vào học tập tích cực, vừa chơi, vừa học, và
học có kết quả” [7]
Bởi nhận thức được ý nghĩa của trò chơi học tập nên việc tổ chức trò chơi
trong dạy học ỏ Tiểu học đã trở nên khá phổ biến đối với mét sè môn học
như:Tiếng Việt, Tự nhiên Xã hội, Đạo đức, … Nhiều tác giả trong nước đã xuất

bản những tài liệu tham khảo nói về trò chơi học tập như: “Tổ chức hoạt động vui
chơiở Tiểu học nhằm phát triển tâm lực, trí tuệ và thể lực cho học sinh” của Hà
Nhật Thăng, “Trò chơi học tập trong dạy học môn Đạo đức” của Lưu Thu Thuỷ,
“100 trò chơi học toán lớp 1” của Đỗ Tiến Đạt, Trần Ngọc Lan, Phạm Thanh Tâm,
“Hệ thống trò chơi củng cố 5 mạch kiến thức toán ở Tiểu học”của Trần Ngọc
Lan Có thể nói đây là bước khởi đầu cho việc đẩy mạnh tổ chức trò chơi á trường
Tiểu học nói chung và môn toán nói riêng.
Tuy nhiên việc làm phong phó thêm nguồn trò chơi cũng như hướng dẫn sử
dụng các trò chơi đó một cách cụ thể tường minh sẽ mang ý nghĩa cả về lí luận và
thực tiễn đối với việc tổ chức trò chơi toán học ở các lớp đầu bậc Tiểu học. Cần
nhấn mạnh rằng những thành tựu nghiên cứu đã điểm dẫn ở trên chứa đựng những
nội dung quan trọng, trực tiếp góp phần làm cơ sở lí luận cho việc nghiên cứu đề
tài.
3. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của đề tài là nghiên cứu lí luận và thực tiễn để thiết kế mét sè trò chơi
toán học và sử dụng chóng nhằmgóp phần nâng cao hiệu quả dạy học toán ởcác lớp
đầu cấp Tiểu học.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu

- Hệ thống hoá mét sè vấn đề liên quan đến đề tài:Việc dạy học toán ở các
lớp đầu cấp Tiểu học, đặc điểm tâm sinh lí lứa tuổi nhỏ, lí luận về trò chơi, trò chơi
học tập, trò chơi toán học Làm sáng tỏ về vai trò, ý nghĩa tổ chức các trò chơi
trong dạy học toán ở Tiểu học.
- Khảo sát thực trạng việc sử dụng trò chơi toán học trong thực tiễn dạy
họctoán ở các lớp đầu cấp Tiểu học.
- Thiết kế mét sè trò chơi toán học sử dụng trong dạy học toán ở các lớp
đầucấp Tiểu học.
- Đề xuất cách thức sử dụng các trò chơi đã được thiết kế trong dạy học toán
ở Tiểu học.
- Tổ chức thử nghiệm sư phạm để kiểm nghiệm hiệu quả sử dụng của các trò

chơi đó trong dạy học toán ở các lớp đầu cấp Tiểu học.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
5.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: các trò chơi toán học và cách sử dụng chóng trong
dạy học toán ở các lớp đầu cấp Tiểu học.
5.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài giới hạn ở việc nghiên cứu:
- Các trò chơi toán học sử dụng trong dạy học toán các lớp đầu cấp Tiểu học.
- Khảo sát thực trạng sử dụng trò chơi toán học trong dạy học toán ở các lớp
đầu cấp Tiểu học tại mét sè trường Tiểu học thuộc tỉnh Vĩnh Phúc.
- Tổ chức thử nghiệm sử dụng mét sè trò chơi trong các trò chơi đã thiết kế
vào dạy học toán các lớp đầu cấp Tiểu học.
6. Phương pháp nghiên cứu
6.1.Nhóm phương pháp nghiên cứu lí thuyết

Phân tích, so sánh, hệ thống hoá, rút ra kết luận từ các công trình nghiên cứu
có liên quan đến đề tài.
6.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
- Quan sát: Quan sát và ghi chép để nhận xét đánh giá về cách sử dụng trò
chơi toán học của giáo viên lớp 1, 2, 3.
- Điều tra: Điều tra bằng phiếu hỏi đối với giáo viên Tiểu học để tìm hiểu
thực trạng sử dụng trò chơi toán học các lớp 1, 2, 3 hiện nay.Nghiên cứu các giáo
án môn toán có sử dụng trò chơi học tập và giáo án không sử dụng trò chơi học tập
ở lớp 1, 2, 3.
- Đàm thoại: Trao đổi với các giáo viên Tiểu học nhằm tìm hiểu về nhận
thức, thực trạng sử dụng trò chơi toán học, nguyên nhân và những giải pháp cho
thực trạng Êy.
Phỏng vấn học sinh để tìm hiểu sự hứng thú của học sinh đối với trò chơi
học tập nói chung và trò chơi toán học nói riêng.
- Thử nghiệm sư phạm: Thử nghiệm mét sè tiết học có sử dụng trò chơi

theo đúng cách thức đã đề ra để chứng minh tính đúng đắn của giả thuyết khoa
học.
6. 3. Phương pháp thống kê toán học
Sử dụng mét sè công thức thống kê toán học để xử lí kết quả điều tra thực
trạng và kết quả thử nghiệm.
7. Giả thuyết khoa học
Trò chơi học tập là trò chơi có mục đích học tập rõ rệt.Trong khi chơi
các trò chơi này, học sinh sẽ tiếp nhận và thực hiện các nhiệm vụ học tập một
cách nhẹ nhàng, thoải mái. NÕu ta lựa chọn, thiết kế được các trò chơi toán
học hấp dẫn để sử dụng hợp lí trong dạy học

thì sẽ góp phần nâng cao hiệu quả dạy- học môn toán ở các lớp đầu cấp
Tiểu học.
8. Đóng góp của đề tài
ĐÒ tài hoàn thành sẽ có các trò chơi toán học phù hợp với các lớp 1,
2, 3 và đề xuất cách sử dụng chóng, góp phần đổi mới phương pháp dạy học,
nhằm phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh.
9. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo,phụ lục, luận văn gồm 3
chương:
Chương 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn
Chương 2: Cáctrò chơi toán học và phương pháp tổ chức trong dạy
họctoán các lớp đầu cấp Tiểu học
Chương 3:Thửnghiệm sư phạm

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1. CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Đặc điểm phát triển tâm lý lứa tuổitrẻ em
Chuyển tõ cấp Mầm non sang cấp Tiểu học, học sinh các lớp đầu cấp Tiểu
học vẫn có nhu cầu vui chơi rất lớn (mặc dù học tập đã trở thành hoạt động chủ

đạo). Việc tổ chức học tập có yếu tố vui chơi hợp lí là rất cần thiết để giúp trẻ thực
hiện nhiệm vụ học tập một cách nhẹ nhàng, thoải mái, đầy hứng thú. Những hiểu
biết về đặc điểm tâm lý lứa tuổi, về hoạt động học của các em là cơ sở khoa học để
giáo viên thực hiện tốt việc này.
1.1.1. Đặc điểm về phát triển nhận thức

Ở tuổi học sinh nhá diễn ra sù phát triển toàn diện về các quá trình nhận thức,
trong đó đáng kể nhất là sự phát triển của tri giác, trí nhớ, chú ý, tưởng tượng và tư duy.
Tri giác của học sinh đầu cấp Tiểu học còn mang tính tổng thể, Ýt đi vào chi
tiết. Vào đầu lớp một, trẻ chưa biết phân tích có hệ thống những thuộc tính và
phẩm chất của các đối tượng tri giác. Trình độ tri giác của các em được phát triển
nhờ vào những hành động học tập có mục đích, có kế hoạch được gọi là quan sát.
Trò chơi vốn là một hoạt động thực hành thú vị, hấp dẫn, sống động do đó nó kích
thích tri giác của học sinh. Khi tổ chức trò chơi cho học sinh, giáo viên phải hướng
dẫn cho các em quan sát (ví dụ quan sát mẫu). Vì vậy việc sử dụng phong phó các
trò chơi trong dạy học cũng giúp tính tổng thể của tri giác dần dần nhường chỗ cho
tri giác chính xác, tinh tế dưới sự hướng dẫn của giáo viên.
Ở học sinh đầu cấp Tiểu học, trí nhớ không chủ định còn chiếm ưu thế. Các
em thường ghi nhí những gì chúng thích. Trẻ nhí cái cụ thể, sinh động tốt hơn cái
trừu tượng, trí nhớ hình ảnh tốt hơn trí nhớ ngôn ngữ. Dần dần nhờ những hành
động học tập mà trí nhí có chủ định ở trẻ tăng dần. Mặc dù vậy, trí nhớ không chủ
định vẫn tồn tại và có ý nghĩa nhất định tạo nên hiệu quả trong trí nhớ của trẻ. Dạy
học sẽ đạt hiệu quả tối ưu nếu những tri thức, kĩ năng, kĩ xảo, qui tắc ứng xử được
học sinh lĩnh hội một cách nhẹ nhàng, hấp dẫn. Học tập thông qua trò chơi sẽ giúp
học sinh ghi nhớ dễ dàng và bền vững hơn.
chú ý của học sinh Tiểu học còn nặng tính không chủ định, những kích thích
mạnh và mới lạ dễ thu hút sù chú ý của học sinh. Cùng với sự hoàn thiện hoạt động
học, chú ý có chủ định cũng phát triển ngày càng mạnh hơn. Việc cho trẻ học dưới
hình thức chơi với những trò chơi học tập sôi nổi cũng là một cách để tăng cường
sù chú ý của học sinh.


Tưởng tượng của trẻ trong thời kỳ này chủ yếu là tưởng tượng tái tạo. Để
lĩnh hội tri thức,học sinh phải hình dung được những hình ảnh của hiện thực (Hình
ảnh các nhân vật trong truyện, hình ảnh các cảnh vật chưa từng thấy ), dựa vào
mô hình, tranh vẽ, lời mô tả của giáo viên. Ở lớp 1,2 tưởng tượng tái tạo của học
sinh còn nghèo nàn, tản mạn chưa hợp lí, lên lớp 3, khả năng tưởng tượng của trẻ
tốt hơn. Việc tổ chức trò chơi học tập là mét trong những cách thức kích thích trí
tưởng tượng của các em. Trong khi chơi, tưởng tượng tái tạo và tưởng tượng sáng
tạo của các em đều được phát triển tốt.
Tư duy của trẻ Tiểu học cũng có sự phát triển. Việc giảng dạy ở trường Tiểu
học làm thay đổi cơ bản về nội dung tri thức mà trẻ tiếp thu và phương pháp vận
dụng các tri thức đó của trẻ. Điều này dẫn tới chỗ xây dựng lại hoạt động tư duy của
trẻ. Việc nắm vững kiến thức mẹ đẻ như đọc, viết cũng như việc nắm các chữ số và
các phép tính số học đã có mét vai trò rất to lớn. Các em học sinh lớp 1 làm quen với
các ký hiệu, các tượng trưng, các qui ước: chữ cái - kí hiệu của âm, chữ số - kí hiệu
của số và số lượng những cái gì đó. Tất cả mọi thao tác với các loại ký hiệu Êy
đòi hỏi sù trừu tượng hóa, sù lập luận và khái quát. Trong quá trình lĩnh hội các
qui tắc chính tả và số học luôn luôn diễn ra sù cụ thể hóa các qui tắc đó trong
các ví dụ và các bài tập. Trẻ học lập luận, so sánh, phân tích và rút ra các kết
luận. Trẻ tiểu học đã biết giải quyết các nhiệm vụ đơn giản có nội dung thông
thường ở trong óc nhưng đối với những nhiệm vụ mới lạ thì chúng vẫn phải sử
dụng những hoạt động thực tiễn để giải quyết. Ví dụ để thực hiện phép cộng, trừ,
trẻ làm bằng cách cho đếm đi đếm lại sè que tính, bằng cách thêm bớt một hai
chiếc, bằng cách lấy đi mét sè vật nào đó đã đưa ra, HS lớp 1 tìm thấy sù phụ thuộc
tồn tại giữa các số. Bằng hoạt động của mình, trẻ học cách thay đổi các số lượng
này trên cơ sở thấy trước được kết quả của nã. Qua các thao tác trên, tư duy của
học sinh lớp 1 được phát triển nhanh chóng. Trẻ học cách tư duy trừu tượng bằng
khái niệm " sù

bằng nhau", " sù không bằng nhau", " cộng thêm", " trừ đi" Tuy vậy tư duy

của học sinh đầu Tiểu học vẫn mang nặng tính trực quan cụ thể.
1.1.2. Đặc điểm về nhân cách
Đi học ở trường Tiểu học là bước ngoặt trong đời sống của trẻ. Đến trường,trẻ
em có hoạt động mới giữ vai trò chủ đạo quyết định những biến đổi tâm lý cơ bản
ở lứa tuổi này. Những mối quan hệ mới với thầy cô giáo, với bạn bè cùng tuổi
được hình thành. Trẻ thực hiện một cách tự giác có tổ chức các hoạt động phong
phó đa dạng từ phía nhà trường, gia đình và xã hội. Điều đó tác động đặc biệt đến
sự hình thành và phát triển nhân cách học sinh. Có thể nói học sinh tiểu học là
những nhân cách đang hình thành và có nhiều khả năng phát triển. Một vấn đề nổi
bật nhất trong nhân cách của học sinh tiểu học là đời sống tình cảm của các em.
Trẻ đang ở lứa tuổi ngây thơ, trong trắng, giàu cảm xúc, dễ bị xúc động trước các
hiện tượng xung quanh. Các em dễ vui, dễ buồn, dễ rung cảm… Sự nảy sinh tình
cảm ở học sinh tiểu học gắn liền với những tình huống cụ thể với những hoạt động
của trẻ. Trạng thái tình cảm được bộc lộ khá rõ ràng qua ánh mắt, nét mặt, cử chỉ,
hành vi của các em. Tình cảm củahọc sinh tiểu học đã có nội dung phong phó và
bền vững hơn so với những lứa tuổi trước. Tình cảm trí tuệ đang hình thành và
phát triển, các em dần biết chăm lo cho kết quả học tập, biết thể hiện sự hài lòng
hay không hài lòng với những điểm số của mình. Ở lứa tuổi này trẻ rất ham hiểu
biết, thích khám phá để tìm cái mới lạ trong thế giới tự nhiên và xã hội gần gũi
xung quanh. Các em luôn miệng hỏi người lớn vì sao thế này, tại sao thế kia
v.v Tình cảm đạo đức và tình cảm thẩm mĩ cũng được thể hiện khá rõ nét thông
qua tình cảm bạn bè, tình cảm thầy trò, tình cảm tập thể, tình cảm ham thích cái
đẹp Việc tổ chức tốt đời sống và hoạt động tập thể cho học sinh tiểu học là điều
kiện quan trọng để hình thành và phát triển nhân cách cho các em.

Ý chí của học sinh tiểu học cũng đang hình thành và phát triển, tuy nhiên
những phẩm chất ý chí của các em như tính kiềm chế, độc lập, tự chủ, tính kiên trì
còn yếu. Các em chưa đủ khả năng theo đuổi lâu dài mục đích đã đề ra, chưa kiên
trì khắc phục khó khăn và trở ngại. Khi gặp thất bại cho các em có thể mất lòng tin
và sức lực và khả năng của mình.

Tính cách của học sinh đầu cấp Tiểu học mới chỉ được hình thành, ở các em
những nét tính cách tèt như tính ham hiểu biết, tính hồn nhiên, tính chân thực, tính
bắt chước Điểm nổi bật nhất trong tính cách của các em là tính xung đột -
khuynh hướng hành động ngay tức khắc do ảnh hưởng của các kích thích trực tiếp
trong tính cách của các em có nhiều mâu thuẫn và chưa bền vững.
Tóm lại, ở lứa tuổi này dưới ảnh hưởng chủ đạo của việc giảng dạy, việc giáo
dục của nhà trường, gia đình, xã hội và tổ chức đoàn - đội, sự phát triển tâm lí, nhân
cách của các em đang diễn ra mạnh mẽ. Việc tổ chức các trò chơi học tập cho trẻ
cũng là con đường hình thành và phát triển nhân cách của các em.
1.1.3. Hoạt động học tập của học sinh
Theo quy định hiện nay, học sinh tiểu học là những trẻ em học các lớp từ lớp
1 đến lớp 5 (trẻ em tõ độ tuổi 6 đến 14 tuổi).
" Trẻ ở giai đoạn phát triển cấp Tiểu học có thể phân chia thành hai giai đoạn
nhỏ bởi sự khác nhau về trình độ hình thành và hoạt động học và những đặc điểm
tâm sinh lí của học sinh. Đó là giai đoạn Tiểu học bậc 1 đối với trẻ em từ lớp 1 đến
lớp 3 và giai đoạn Tiểu học bậc 2 đối với trẻ em lớp 4 và lớp 5" [11, 27].
Học sinh lớp 1 thực hiện bước chuyển hoạt động chủ đạo: tõ vui chơi sang
học tập.

Học tập là một dạng hoạt động đặc thù được điều khiển bởi mục đích tự giác
là lĩnh hội những tri thức, kĩ năng, kĩ xảo mới để từ đó tạo nên những năng lực
mới. Hoạt động này không tự nhiên mà có, nó được hình thành bằng " phương
pháp nhà trường" dưới tác động sư phạm của giáo viên. Để có hoạt động học theo
đúng nghĩa của nã, khi bước chân đến trường Tiểu học trẻ cần được chuẩn bị
chuyên biệt. Việc chuẩn bị tốt nhất cho bước chuyển này là hình thành và luyện
cho trẻ những qui ước, kí hiệu, các thao tác chân tay cần dùng cho quá trình học
tập về sau. Bước chuyển tiếp này còn được thực hiện bằng những việc làm trên lớp
nhằm hình thành ở trẻ các quá trình tâm lí có chủ định đồng thời hình thành và
phát triển ở trẻ nhu cầu nhận thức, nhu cầu học tập.
Quá trình học tập của học sinh lớp 1 là quá trình hình thành ở các em hoạt

động học đích thực, trong đó việc hình thành cách học, hình thành các thao tác trí
óc nổi lên hàng đầu. Đó là các chất cần đạt được tuy chỉ là những yếu tố ban đầu
rất thô sơ.
Lên lớp 2, trẻ em bước tiếp trên con đường đời của cuộc sống nhà trường với
hành trang cần thiết được nhà trường trang bị một cách tự giác từ lớp 1. lúc này
hoạt động học đích thực được tiếp tục hình thành và định hình tương đối rõ nét,
đồng thời xuất hiện mét sè phẩm chất mới, nét mới trong tâm lí trẻ như tiền đề của
một kiểu tư duy mới (tư duy khoa học), thái độ và cách cư xử kiểu học sinh đối với
thế giới xung quanh.
Đến lớp 3, hoạt động học về cơ bản đã được hình thành ở học sinh, tạo điều
kiện cho các em chuyển sang giai đoạn phát triển cao hơn.
Trẻ em tù sản sinh ra mình bằng hoạt động của chính mình. Trong mỗi hoạt
động học, mỗi em làm việc theo sù tổ chức, hướng dẫn của thầy cô giáo để lĩnh hội
tri thức trên cơ sở đó hình thành kĩ năng, kĩ xảo cần thiết. Nhờ vậy mà trí tuệ của các
em phát triển, tâm hồn của các em phong phó dần lên. Trong hoạt động học, các em
thực hiện nhiệm vụ học tập bằng các hành

động học với các thao tác tương ứng để có được sản phẩm học tập của mình.
Đó cũng chính là quá trình các em tù biến đổi mình (quá trình phát triển).
Hoạt động học ở Tiểu học được cụ thể hóa ở nội dung học tập. Đó là hệ thống
những khái niệm khoa học tuy còn rời rạc ở các môn học song đã được lựa chọn
theo những nguyên tắc nhất định phù hợp với mục tiêu giáo dục. Học sinh lĩnh hội
nội dung học tập bằng hoạt động học với các thành tố như động cơ học, nhiệm vụ
học và các hoạt động học. Động cơ học tập của học sinh là yếu tố tâm lí tạo động
lực thúc đẩy học sinh tích cực học tập. Đó là cái mà vì nó nên trẻ học. Có nhiều
động cơ học tập khác nhau tạo nên hệ thống thứ bậc động cơ của học sinh tiểu
học: Các em có thể học vì muốn được hiểu biết, vì vui, vì muốn được điểm tốt
muốn được cha mẹ khen Trong hệ thống thứ bậc động cơ Êy, những động cơ
mang tính xúc cảm thường có tác dụng mạnh mẽ. Nhiệm vô học tập là hình thức cụ
thể nội dung học thành mục đích và phương tiện đạt mục đích đó trong dòng hoạt

động học của học sinh từng lớp. Nhờ có động cơ học tập trẻ mới giải quyết được
các nhiệm vụ học tập dưới sự tổ chức hướng dẫn của thầy cô bằng các hành động
học. Việc dạy học chính là làm cho học sinh hiểu nhiệm vụ học tập và biết cách
dùng hành động học để giải quyết các nhiệm vụ Êy. Để học sinh học tập có hiệu
quả, cần hình thành và phát triển hoạt động học với cả ba thành tố trên trong đó
động cơ tạo nên động lực học là một thành tố quan trọng trong cấu tróc hoạt động
học của trẻ. Như vậy ở Tiểu học điều quan trọng đầu tiên là làm thế nào để phát
triển ở trẻ hứng thú nhận thức bền vững, trẻ ham thích say mê học tập? Con đường
hình thành động cơ học tập đúng đắn nhất là con đường xuất phát từ việc dạy học
không áp đặt, dưới hình thức vui vẻ, nhÑ nhàng, biến những yêu cầu học tập thành
động cơ chơi là cách thức giúp trẻ có được niềm vui học được nhiều mới lạ và bổ
Ých tránh được những căng thẳng không cần thiết trong học tập, để các em thấy
được " mỗi ngày đến trường là một ngày vui".
1.2. Đặc điểm môn toán các lớp đầu cấp Tiểu học

1.2.1. Mục tiêu môntoán ở trườngTiểu học
Dạy học toán ở trường Tiểu học nhằm giúp học sinh có những kiến thức cơ
bản ban đầu về số học các số tự nhiên, phân số, thập phân; các đại lượng thông
dụng; mét sè yếu tố hình học và thống kê đơn giản. Hình thành các kĩ năng thực
hành tính, đo lường, giải bài toán có nhiều ứng dụng thiết thực trong đời sống
đồng thời góp phần bước đầu phát triển năng lực tư duy, khả năng suy luận hợp
lý và diễn đạt đúng (nói và viết), cách phát hiện và cách giải quyết các vấn đề đơn
giản, gần gũi trong cuộc sống, kích thích trí tưởng tượng, gây hứng thú học tập
toán, góp phần hình thành bước đầu phương pháp tự học và làm việc có kế hoạch
khoa học, chủ động, linh hoạt, sáng tạo.
1.2.2. Nội dung chương trình môn toán ở các lớp đầu cấp Tiểu học
Để đáp ứng được mục tiêu chung của môn toán ở trường Tiểu học, ở các lớp
đầu cấp Tiểu học, nội dung chương trình môn toán hiện nay đã có những thay đổi
so với chương trình cò (chương trình cải cách giáo dục). So với chương trình trước,
chương trình mới đã có những điểm thay đổi trong nội dung chương trình như sau:

Cấu trúc lại nội dung các lớp.
Lược bá mét sè nội dung ở chương trình lớp 1 không cần thiết.
Tăng thời lượng thực hành cho học sinh, mở rộng kênh hình thêm phong phó,
đa dạng, xây dựng các bài toán mở.
Chương trình môn toán ở các lớp đầu cấp Tiểu học dạy cho học sinh những
kiến thức sơ giản, đơn giản ban đầu về các phép toán phổ thông. Có thể tổng hợp
toàn bộ nội dung môn toán ở các lớp đầu cấp Tiểu học theo 5 mạch kiến thức sau
đây:

1. số học
2. Đại lượng và phép đo đại lượng
3. Yếu tố hình học
4. Giải toán có lời văn

5. Các yếu tố thống kê
1.2.2.1. số học
*Lớp 1:
- Nhận biết quan hệ số lượng (nhiều hơn, Ýt hơn, bằng nhau).
- Đọc, đếm, viết, so sánh các số đến 100; giới thiệu hàng chục, hàng đơn vị;
giới thiệu tia sè.
- Giới thiệu khái niệm ban đầu về phép cộng, phép trừ và mối quan hệ giữa
chúng; dạy bảng cộng, bảng trừ trong phạm vi 10; sử dụng bảng cộng, trừ trong
phạm vi 10 để thực hành cộng, trừ không nhí trong phạm vi 100 (tính nhẩm và tính
viết).
- Tính giá trị biểu thức sè có đến hai dấu phép tính cộng, trừ (các trường hợp
đơn giản).
*Lớp 2:
- Đọc, đếm, viết, so, sánh các số có 3 chữ số; giới thiệu hàng đơn vị, hàng
chục, hàng trăm
- Dạy bảng cộng và bảng trừ trong phạm vi 20. Thực hành phép cộng, trừ có

nhí một lần trong phạm vi 100 và cộng trừ không nhớ các số có đến 3 chữ số (tính
nhẩm và tính viết); giới thiệu tên gọi thành phần và kết quả của phép cộng, phép
trừ.
- Giới thiệu khái niệm ban đầu về phép nhân, phép chia; thừa số và tích; số bị
chia, số chia và thương.
- Lập bảng nhân, chia 2, 3, 4, 5. Nhân, chia nhẩm trong phạm vi các bảng
tính. Nhân, chia có đến 2 chữ số với số có 1 chữ số không nhí.
- Tính giá trị biểu thức số có đến 2 dấu phép tính cộng, trừ hoặc nhân, chia.
- Giải bài tập dạng tìm x bằng phép cộng, trừ, nhân, chia (trong bảng) và sử
dụng mối quan hệ giữa thành phần và kết quả của phép tính.
*Lớp 3:
- Củng cố các bảng nhân, chia 2,3, 4,5. Bổ xung cộng, trừ các số có 3 chữ số
có nhớ không quá 1 lần.

- Lập bảng nhân, chia 6, 7,8 ,9. Hoàn thiện các bảng nhân và các bảng chia.
- Giới thiệu các sè trong phạm vi 100.000; các hàng đơn vị, hàng chục, hàng
trăm, hàng nghìn, hàng chục nghìn, hàng trăm nghìn; đọc, viết, so sánh các số có
đến 5 chữ số.
- Thực hành phép cộng và phép trừ có nhớ (không liên tiếp và không quá 2
lần) trong phạm vi 100.000; phép nhân có đến 5 chữ số với số có 1 chữ số có nhớ
(không liên tiếp và không quá 2 lần), tích không quá 100.000. Phép chia có đến 5
chữ số cho sè có 1 chữ số (chia hết và chia có dư).
- Làm quen với biểu thức số và giá trị của biểu thức. Giới thiệu thứ tự thực
hiện các phép tính trong biểu thức số có đến 2 dấu phép tính, có hoặc không có dấu
ngoặc.
- Giải các bài tập dạng “tìm x, biết a : x = b (với a, b là sè trong phạm vi đã
học)”.
- Thực hành nhận biết các phần bằng nhau của đơn vị trên hình vẽ trong
trường hợp đơn giản.
- Giới thiệu bước đầu về chữ số La Mã.

1.2.2.2. Đại lượng và phép đo đại lượng
*Lớp 1:
- Giới thiệu đơn vị đo độ dài xăngtimet. Đọc, viết, thực hiện phép tính với các
số đo theo đơn vị xăngtimet. Tập đo và ước lượng độ dài.
- Giới thiệu đơn vị đo thời gian: tuần lễ , ngày trong tuần. Làm quen với đọc
lịch (lịch hàng ngày), đọc giờ đúng trên đồng hồ.
*Lớp 2:
- Giới thiệu đơn vị đo độ dài (đêximet, mét, kilômet, milimet); đơn vị đo dung
tích (lít); đơn vịđo khối lượng (kilôgam); đơn vị đo thời gian (giờ, tháng); thực
hành đọc lịch hàng ngày, đọc giờ đúng và đọc giờ khi kim phút chỉ vào sè 3 và sè
6; giới thiệu tiền Việt Nam.

- Trò chơi học tập. Loại trò chơi này thuộc nhóm trò chơi có luật và sẽ được
trình bày cụ thể ở phần sau.
Trên đây là 5 loại trò chơi cơ bản của trẻ em. Tuy nhiên sự phân loại chỉ mang
tính chất tương đối. Trong thực tế có những loại trò chơi hỗn hợp, tổng hợp của hai
loại hoặc nhiều loại trò chơi trên.
1.3.2. Trò chơi học tập
1.3.2.1. Quan niệm về trò chơi học tập
Chơi là một hoạt động không thể thiếu được của con người ở mọi lứa tuổi.
Chơi giúp cho trẻ phát triển. Trò chơi học tập là loại trò chơi có nội dung tri thức
gắn với hoạt động học tập của học sinh và gắn với nội dung bài học. Trò chơi học
tập giúp học sinh khai thác vốn kinh nghiệm của bản thân để chơi và để học. Trò
chơi học tập có tác dụng cả về mặt rèn luyện trí tuệ lẫn thể chất và các phẩm chất
đạo đức.
* Trò chơi học tập có những đặc điểm sau:
- Trò chơi học tập được quy định rõ ràng bởi luật chơi, do người lớn nghĩ ra
và nhằm mục đích giáo dục, phát triển trí tuệ, nhân cách.
- Tên gọi của mỗi trò chơi học tập thường phản ánh nội dung chơi và khơi dậy
hứng thú của trẻ với trò chơi.

- Trong trò chơi học tập, vị thế của mọi trẻ tham gia trò chơi đều nh nhau.
- Các hoạt động và mối quan hệ của những người chơi được chỉ đạo bởi các
luật lệ của trò chơi học tập.
- Trò chơi học tập được tổ chức để dạy học và nhằm mục đích huy động trí óc
của trẻ làm việc thực sự trong khi giải quyết nhiệm vụ nhận thức, phát triển trí
thông minh tư duy của trẻ.
- Trò chơi học tập có cấu trúc chặt chẽ gồm những yếu tố: Nhiệm vụ chơi,
hành động chơi, luật chơi.

VÝ dô:



- Cách chơi: Tổ chức nhóm chơi 15 người, mỗi bạn sẽ nhận mét trong các
thẻ trên để đeo vào cổ mình. Các em đọc kĩ thẻ đã nhận. Khi giáo viên hô " kết
nhóm" thì những bạn có thẻ sè,thẻ từ hoặc thẻ hình tương ứng sẽ kết lại một
nhóm.Những bạn tìm đúng nhóm của mình thì sẽ được khen.Bạn nào bị " lạc
nhóm" sẽ bị nhảy lò cò mét vòng. Cả lớp vỗ tay kết thúc lượt chơi. Giáo viên cho
tiếp nhóm khác lên chơi tiếp tục với cách chơi như vậy và có thể đổi hiệu lệnh là "
nhóm bèn" hoặc " nhóm bảy",… các em đeo thẻ thuộc nhóm được hô phải nhanh
nhẹn chạy lại kết nhóm với nhau. Cả lớp cùng vui.
4. Trò chơi " Đổ hạt"
- Mục đích: Củng cố phép cộng các sè trong phạm vi 10.
- Chuẩn bị: Các bộ trò chơi, mỗi bộ gồm: 10 hình tròn nhálàm bằng bìa
cứng được tô màu một mặt, 1 bảng con, mét tờ giấy và bút.







- Cách chơi: Giáo viên tổ chức cho học sinh chơi cặp đôi. Từng em cho
10hình tròn vào lòng 2 bàn tay óp lại rồi lắc đều rồi đổ xuống bảng

gắn đúng các ô sè " đi vắng" sẽ là đội thắng trong trò chơi và được nhận quà.Trọng
tài là giáo viên và học sinh cả lớp.
chú ý: - Trò chơi diễn ra trong khoảng tõ 5 đến 7 phút.
- Trò chơi có thể sử dụng trong những bài về số có 3 chữ số bằng cách thay
đổi bảng số.
4. Trò chơi“Ai nhận được điểm 20”
- Mục đích: củng cố về phép cộng có nhí trong phạm vi 20.
- Chuẩn bị: bé thẻ tre có ghi các sè :1; 2; 3; 4; 5; 6; 7; 8; 9; 10; vá hộp sữa
bò; mét sè lá cờ.
- Cách chơi: cứ một bàn hoặc hai bàn là một nhóm chơi, mỗi nhóm có mét
bé thẻ tre ghi sè và 1 vá hộp sữa bò. Lá cờ, thẻ tre được để vào 2 hộp sữa bò, lần
lượt các thành viên trong nhóm xóc hộp thẻ để cho 2 hoặc 3 thẻ rơi ra khái hộp rồi
nhẩm tính xem mình đạt được bao nhiêu điểm. Ai nhận được số điểm 20 sau lần
xóc thẻ của mình là người đạt giải nhận cờ. Nếu số thẻ xóc ra quá 20 thì người chơi
phải thực hiện lại. Cùng chơi có thể có nhiều bạn đạt 20 điểm. Kết thúc trò chơi
học sinh sẽ giơ cao cờ để giáo viên tổng kết cú bao nhiêu bạn đạt điểm 20.
5. Trò chơi“Ai biết cứ đếm tiếp”
- Mục đích: biết đọc các số có 3 chữ số từ 111 đến 200.
- Cách chơi: Tổ chức chơi tập thể. Giáo viên đưa ra mét sè bất kỳ trong
phạm vi tõ 111 đến 200 và đưa ra lệnh " đếm 10 sè tiếp theo sè vừa nêu". Học sinh
cả lớp sẽ đếm tiếp số cô giáo vừa đưa ra thêm 10 sè nữa thì dừng lại. Ví dụ: cô đưa
ra sè 111 thì hs phải đếm tiếp các số là: 112; 113; 114; 115; 116; 117; 118;
119;120; 121; Ai chưa đọc được các số đó thì dõng đọc và nhẩm theo bạn. Ai biết
đếm thì cứ đếm tiếp, ai đếm quá thì phạm quy và bị loại ra khái cuộc chơi. Các
lượt tiếp theo, mét học sinh nào đó sẽ đưa ra sè bất kỳ và lệnh cho các bạn đếm
tiếp. Có thể cho đếm xuôi



- Cách chơi: Giáo viên lấy ra 2 đội chơi, mỗi đội 5 em, 1 em làm thư ký ghi điểm
của 2 đội. Hai đội sẽ câu cá trong hồ(hồ là chiếc bàn để các con cá). Những con cá
được câu lên phải là những con cá có phép tính khi thực hiện sẽ có kết quả tổng
hoặc hiệu theo quy định của cô giáo (ví dụ tổng và hiệu là 54;45 ). Lần lượt từng
em trong đội thực hiện câu cá. Học sinh dưới lớp sẽ đếm chậm tõ 1 đến 10, sau 2
lượt đếm mà không câu được thì bị mất lượt, lượt câu đúng sẽ được 10 điểm, lượt
câu sai sẽ bị trừ 5 điểm. Kết thúc trò chơi đội nào giành điểm cao hơn sẽ thắng. Trò
chơi có thể thực hiện trong khoảng tõ 5 đến 7 phút.
chú ý: Giáo viên có thể tăng độ khó bằng cách cho nhiều phép tính cộng,
trừ, có thể là tõ 2 đến 3 phép tính.
13. Trò chơi " Hãy tìm đúng chỗ của mình"
- Mục đích: Luyện tập bảng nhân (hoặc chia)
- Chuẩn bị: 10 mảnh bìa cứng (6x3 cm) có ghi 10 phép tính nhân (chia)
trong phạm vi bài học.
- Cách chơi: Mỗi lượt chơi có tõ 3 đến 4 em. Các học sinh này được gọi
lên chỗ bàn giáo viên, sẽ lựa chọn mét trong các tấm bìa cứng có ghi phép tính phù
hợp với đáp số đã ghi sẵn ở trên bảng lớp theo nhịp đếm tõ 1 đến 10. Theo hiệu
lệnh của người chủ trò " bắt đầu" mỗi học sinh sẽ cầm mảnh bìa mình chọn đứng
vào cạnh đáp số phù hợp với phép tính. Dưới lớp quan sát và phát hiện ra người
đúng sai chỗ nếu có. Ai đứng sai sẽ bị nhảy lò cò. Lượt chơi kết thúc, giáo viên lại
xóa đáp số cò và ghi đáp số mới vào. Trò chơi lại tiếp tục cho đến hết bảng nhân
(chia).
chú ý: Trò chơi này có thể dùng cả trong phép cộng, phép trừ, hoặc bài
dạy về hình học.
14. Trò chơi " Đoán xem bạn tính như thế nào"

mình đặt vào mét ô sè trong bảng nếu sè trong ô chia được cho sè trên mặt xúc xắc
vừa tung được.

Ví dụ: người chơi thứ nhất tung xúc xắc (giả định là xuất hiện mặt sè
5).Người chơi có thể đặt ngôi sao vào mét trong các ô sau:50; 10; 30; 20; 40; 25;
15; 45; 35; 5 vì 50 : 5 = 10; 25 : 5 = 5; …Tiếp theo người thứ hai chơi tương tự.
Người chơi không thể đặt các ngôi sao vào những ô đã có ngôi sao rồi,
nếu bị trùng như vậy sẽ mất lượt. Người thắng cuộc là người đặt được nhiều ngôi
sao nhất.
30. " Ai giành điểm mười"
- Mục đích: Rèn khả năng tư duy cho học sinh.
- Chuẩn bị: Mét băng giấy gồm 15 ô, ô cuối ghi sè 10; mét quân cờ.
10

- Cách chơi: Giáo viên học sinh chơi nhóm đôi. Hai người oẳn tù tì để chọn
người đi trước. Mỗi lượt đi được di chuyển quân cờ tõ 1 đến 3 ô, quân cờ di
chuyển từ trái qua phải. Ai là người đi đến ô có ghi sè 10 trước tiên là người thắng
trong cuộc chơi.
31. Trò chơi " Bánh xe sè"
- Mục đích: Củng cố về bảng nhân hoặc chia trong phạm vi đã học.
- Chuẩn bị: Mét hình tròn có đường kính 20 cm được gắn vào một cái
đinh trên bảng theo hình sau:




6 giê 12 phót

2 giê 10 phót

4 giê 38 phót

10 giê 8 phót


3 giê 27 phót

9 giê 55 phót

3 giê kÐm 18
phót


7 giê kÐm 5 phót

11 giê kÐm 20 phót

5

12 giê 30 phót

1 giê kÐm 15 phót

4 giê

10 giê
- Cách chơi
Giáo viên phát cho mỗi nhóm mét bé đô mi nô,các nhóm chơi sẽ chia đều
quân cho mỗi người chơi, các quân được chia óp xuống.Người có quân cái(quân có
màu xanh) là người ra quân đầu tiên (đặt quân cái ra

Nguyên tắc thứ nhất: Cần làm cho học sinh hiểu rõ yêu cầu, nội dung và
thực hiện tổ chức trò chơi.
Yêu cầu đối với trò chơi có tác dụng định hướng toàn bộ quá trình chơi tổ

chức trò chơi để thực hiện mục tiêu dạy học.
Nội dung trò chơi cho học sinh biết mình cần làm những gì và làm nhưthế
nào trong khi chơi. Yêu cầu nội dung cách thức chơi được quy định rõ trong luật
chơi. Giáo viên cần giúp học sinh hiểu rõ luật chơi để trò chơi được thực hiện theo
đúng hướng. Muốn trò chơi luôn hấp dẫn thì nội dung, hành động chơi cần được
phức tạp dần.
Nguyên tắc thứ hai: Đảm bảo các biện pháp tổ chức sẽ phát huy tính tích
cực, độc lập sáng tạo của từng học sinh trong quá trình chơi.
Học sinh không những là đối tượng của hoạt động dạy còng nh của hoạt
động giáo dục mà điều quan trọng hơn, các em là chủ thể nhận thức, chủ thể tự
giáo dục. Vì vậy, trong quá trình tổ chức trò chơi, giáo viên cần quan tâm đến các
mức độ tham gia của học sinh một cách linh hoạt nhằm hướng tới sự tích cực và
khả năng độc lập sáng tạo của các em.Đảm bảo mọi học sinh đều tham gia chơi
tích cực.
Nguyên tắc thứ ba: Đảm bảo tổ chức trò chơi một cách tự nhiên không gò
Ðp. Học sinh tham gia một cách tự nguyện và chơi một cách thoải mái.
Nguyên tắc thứ tư: Đảm bảo luân phiên các trò chơi một cách hợp
lý.Nguyên tắc này yêu cầu giáo viên phải sử dụng đa dạng, phong phó các trò chơi
khác nhau để kích thích sự hứng thú của trẻ.
Nguyên tắc thứ năm: Đảm bảo tổ chức trò chơi với tinh thần " thi đua"
đồng đội. Trong quá trình tổ chức chơi các trò chơi có tính chất đồng đội, giáo viên
cần chú ý đến yếu tố " thi đua". Có chuẩn và thang đánh giá thành tích cá nhân còng
như thành tích chung của đồng đội. Có nh vậy

lại, nó tạo điều kiện cho các em phát huy được tính tích cực của mình trong khi
chơi.
Tạo những tình huống chơi mang tính có vấn đề, kích thích sự tìm kiếm
cũng là một cách thúc đẩy tính độc lập sáng tạo của trẻ, bắt buộc trẻ phải suy nghĩ,
phải sử dụng những thao tác tư duy : so sánh, phân tích, hệ thống, huy động vốn tri
thức của mình để tìm ra lời giải đáp. Việc tạo ra yếu tố thi đua trong quá trình chơi

cũng phát huy được tính tích cực hoạt động của học sinh. Bởi không có “ganh đua"
trẻ không còn hứng thú nữa.
Biện pháp 3: Phát triển kỹ năng chơi
Làm mẫu, giải thích: Đối với những trò chơi có cách thức mới và khó thì
giáo viên cần làm mẫu, giải thích để học sinh nắm được cách chơi. Giáo viên sử
dụng lời nói một cách ngắn gọn rõ ràng kết hợp với minh họa bằng hành động cho
học sinh xem để cuốn hút sù chú ý, tập trung của các em, giúp các em lĩnh hội, tiếp
nhận được nhiệm vụ nhận thức, luật chơi, hành động chơi.
Kiểm tra: Đối với những trò chơi mà học sinh đã được làm quen với cách
chơi, giáo viên có thể kiểm tra mức độ ghi nhớ, tính linh hoạt, sáng tạo khi chơitrò
chơi. Có thể cho mét nhóm học sinh thực hiện lại cách chơi.
Theo dõi và sửa sai: Trong quá trình chơi, học sinh thường xuyên theo dõi
và kịp thời sửa sai khi các em chơi chưa đúng. Khi học sinh đã nắm được nội dung
và cách chơi, cô giáo có thể thay đổi hình thức thi đua toàn thể - phân nhóm - cá
nhân để trẻ thực sự khẳng định vai trò của mình vào trò chơi học tập.
Biện pháp 4: Tạo mối quan hệ của học sinh trong quá trình chơi
Giáo viên giúp học sinh thiết lập mối quan hệ bạn bè thân ái, biết phối hợp
cùng nhau trong trò chơi. Việc phân nhóm chơi một cách linh hoạt, hợp lý, sẽ giúp
học sinh có nhiều cơ hội để giao tiếp với các bạn. Giáo viên phải






Lớp 1 Lớp
2 Líp 2





Lớp 3
Biểu đồ 1: Đánh giá kết quả tri thức
Nhận xét: Qua bảng 14,15,16 và biểu đồ 1 cho ta thấy:
+ Khối 1: Trung bình tỷ lệ % điểm giỏi của lớp thử nghiệm là 20,2% (tăng
7% so với lớp đối chứng).
* Trung bình tỷ lệ % điểm khá của lớp thử nghiệm là 44,6% (tăng 7,95%
so với lớp đối chứng.
* Trong khi đó tỷ lệ % điểm trung bình của lớp thử nghiệm là 35,2%
(giảm 14,95% so với lớp đối chứng).
+ Khối 2: Trung bình tỷ lệ % điểm giỏi của lớp thử nghiệm là 18,7%
(tăng 7,4% so với lớp đối chứng).
Trung bình tỷ lệ % điểm khá của lớp thử nghiệm là 47,8% (tăng 9,0% so
với lớp đối chứng).

Hơn nữa lớp thử nghiệm không có tỷ lệ % điểm yếucòn lớp đối chứng tỷ
lệ % điểm yếu vẫn còn 2,9%.
+ Khối 3: Trung bình tỷ lệ % điểm giỏi của lớp thử nghiệm là 21,8%
(tăng 8,15% so với lớp đối chứng).
Trung bình tỷ lệ % điểm khá của lớp thử nghiệm là 57,0% (tăng 11,5% so
với lớp đối chứng).
Trung bình tỷ lệ % điểm trung bình của lớp thử nghiệm là 21,2% (giảm
19,65% so với lớp đối chứng).
Kết quả trên đã cho thấy việc tổ chức trò chơi học tập đã đem lại hiệu quả
cao hơnđó là giúp học sinh tiếp thu tri thức tốt hơn so với dạy học thông thường
trên lớp.



Bảng 17: Kết quả đánh giá kỹ năng của học sinh lớp 1:

Lớp thực nghiệm

×