1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngành công nghiệp ôtô có vị trí hết sức quan trọng trong nền kinh tế quốc
dân của mỗi quốc gia trên thế giới, đặc biệt đối với những nước có nền công
nghiệp phát triển. Đối với một quốc gia đang trên con đường công nghiệp hoá,
hiện đại hoá như nước ta hiện nay thì vai trò của ngành công nghiệp ôtô lại càng
được thể hiện rõ trong chiến lược phát triển kinh tế vì nó phục vụ cho nhu cầu
thiết yếu của xã hội, đó là nhu cầu về giao thông vận tải, an ninh quốc phòng. Mỗi
một quốc gia có hệ thống giao thông hiện đại thì tương ứng thường có một ngành
công nghiệp ôtô phát triển.
Chế tạo, sản xuất ôtô đòi hỏi phải có công nghệ cao và phức tạp song lại
thu hút rất nhiều lao động và phải có sự cung cấp kịp thời về nguyên nhiên, vật
liệu và bán thành phẩm và như vậy nó cũng kéo theo sự phát triển của các ngành
công nghiệp phụ trợ khác. Nhận thức được điều này, trên con đường phát triển
kinh tế, các nước công nghiệp phát triển như: Mỹ, Nhật, Đức, Anh, Pháp… đã đặc
biệt chú trọng phát triển ngành công nghiệp ôtô không những đáp ứng nhu cầu
trong nước mà còn xuất khẩu sản phẩm ra thị trường quốc tế.
Không nằm ngoài xu thế chung của các nước trong khu vực, Việt Nam
cũng đang cố gắng xây dựng cho mình một ngành công nghiệp ôtô cho riêng
mình với mục tiêu cho ra đời những chiếc ôtô mang thương hiệu Việt Nam. Với
hàng loạt các biện pháp như: tăng cường đầu tư vào các dự án xây dựng cơ sở hạ
tầng, đưa ra những chính sách ưu đãi để khuyến khích và thu hút các nhà sản xuất
đầu tư vào sản xuất ôtô - phụ tùng ôtô, hình thành các rào cản thuế quan và phi
thuế quan để hạn chế nhập khẩu ôtô nguyên chiếc, miễn thuế nhập khẩu cho các
doanh nghiệp sản xuất ôtô,… Chính phủ Việt Nam đang tạo điều hết sức thuận lợi
cho ngành công nghiệp ôtô phát triển và Tổng công ty công nghiệp ôtô Việt Nam
là một ví dụ.
Nhanh chóng tiếp thu công nghệ tiên tiến của các nước có nền công nghiệp
ôtô phát triển, hình thành các dây chuyền sản xuất ôtô và nhanh chóng chiếm giữ
2
phần lớn thị phần ôtô phổ thông trong nước. Với những thành tựu đạt được, Tổng
công ty công nghiệp ôtô Việt Nam đã được Chính phủ tin cậy giao trọng trách
phát triển thành tập đoàn ôtô đầu tiên của Việt Nam, góp phần vào công cuộc
công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Trong những năm qua, Tổng công ty công nghiệp ôtô Việt Nam đã cung
cấp cho thị trường cả nước khoảng trên 7.000 xe ôtô chở khách và dẫn đầu thị
phần các Doanh nghiệp sản xuất và lắp ráp ôtô trong nước. Tuy nhiên, trong điều
kiện nền kinh tế mới, xu thế hội nhập là tất yếu, Nhà nước không thể tiếp tục bảo
hộ cho Doanh nghiệp nhà nước sản xuất ôtô, sự xuất hiện của một loạt các đối thủ
cạnh tranh như: các nhà sản xuất ôtô tư nhân trong nước, các tập đoàn sản xuất
ôtô nước ngoài,… Tổng công ty công nghiệp ôtô Việt Nam đang gặp phải rất
nhiều khó khăn và thách thức. “Phải làm gì để có thể tiếp tục tồn tại và phát triển
trong điều kiện nền kinh tế hội nhập?” đang là một câu hỏi được Tổng công ty đặc
biệt quan tâm.
Với tầm quan trọng như vậy, tôi chọn đề tài “Giải pháp nâng cao năng lực
cạnh tranh sản phẩm ôtô chở khách của Tổng công ty công nghiệp ôtô Việt
Nam” để góp phần tìm hiểu thực trạng đồng thời đề xuất một số giải pháp nhằm
nâng cao năng lực cạnh tranh sản phẩm ôtô khách của Tổng công ty trong điều
kiện nền kinh tế hội nhập kinh tế quốc tế.
2. Tình hình nghiên cứu
Trong thời gian qua, đã có những bài báo, đề tài nghiên cứu đưa ra những
kinh nghiệm xây dựng và quản lý nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của nghành
công nghiệp nói chung, những bài viết về vấn đề nâng cao năng lực cạnh tranh
sản phẩm ôtô nhưng chưa có tài liệu nào nghiên cứu về nâng cao năng lực cạnh
tranh sản phẩm ôtô chở khách. Thường thì những tài liệu nghiên cứu mới chỉ
dừng ở góc độ phân tích thực trạng sản xuất của ngành công nghiệp ôtô Việt Nam
như:
- Một số vấn đề của công nghiệp ôtô Việt Nam của tác giả Xuân Hồng trên
Báo Thị trường – giá cả số 129 + 130 ngày 29 + 30/06/2006.
3
- Chiến lược phát triển công nghiệp ôtô Việt Nam đến 2010 của Viện nghiên
cứu chiến lược và chính sách công nghiệp – Bộ Công nghiệp tháng
11/2001….
- Quy hoạch phát triển ngành công nghiệp ôtô Việt Nam đến 2010, tầm nhìn
2020 của Viện nghiên cứu chiến lược và chính sách công nghiệp – Bộ công
nghiệp tháng 08/2003….
- Một số Luận văn viết về nâng cao năng lực cạnh tranh cạnh tranh ngành
công nghiệp ôtô Việt Nam như :
+ Khoá luận tốt nghiệp: „Nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành
công nghiệp ôtô Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế‟ của
sinh viên Đoàn Minh Của Trường Đại học Ngoại thương.
+ Khoá luận tốt nghiệp: „Triển vọng phát triển ngành công nghiệp ôtô
Việt Nam trong thời gian tới‟ của sinh viên Bùi Hữu Biên Trường Đại học
Ngoại thương.
3. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
Nghiên cứu, lựa chọn cơ sở lý thuyết, vận dụng phân tích thực trạng năng
lực cạnh tranh sản phẩm, năng lực cạnh tranh sản phẩm ôtô chở khách của Tổng
công ty công nghiệp ôtô Việt Nam hiện nay, từ đó đề xuất giải pháp nâng cao khả
năng cạnh tranh sản phẩm của Tổng công ty công nghiệp ôtô Việt Nam trong điều
kiện nền kinh tế mới.
4. Phạm vi và đối tƣợng nghiên cứu
*/ Đối tượng nghiên cứu
- Các yếu tố cấu thành năng lực cạnh tranh sản phẩm ôtô.
- Các nhân tố cơ bản tác động đến năng lực cạnh tranh hiện tại và khả năng
nâng cao năng lực cạnh tranh sản phẩm của Tổng công ty công nghiệp ôtô
Việt Nam trong điều kiện mới của nền kinh tế.
*/ Phạm vi nghiên cứu
- Tập trung nghiên cứu cạnh tranh nhóm sản phẩm ôtô chở khách.
4
- Tập trung phân tích các khía cạnh thuộc phạm vi đề tài ở Tổng công ty
công nghiệp ôtô Việt Nam trong thời gian từ 2002 – 2005 và xu hướng phát
triển đến 2010.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu của kinh tế chính trị Mác –
Lênin, kế thừa nghiên cứu của nhiều tác giả trong đó đặc biệt chú ý đến các
phương pháp hệ thống hoá, khái quát hoá, thống kê so sánh, phân tích thực chứng,
mô hình và bảng biểu.
6. Những đóng góp của luận văn
Phân tích, đánh giá thực trạng năng lực cạnh tranh sản phẩm ôtô chở khách
của Tổng công ty công nghiệp ôtô Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế hiện
nay.
Đề xuất các giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh sản phẩm ôtô chở
khách của Tổng công ty công nghiệp ôtô Việt Nam, kết quả nghiên cứu có thể
dùng làm tài liệu tham khảo nghiên cứu, áp dụng cho các sản phẩm ôtô khác cũng
như của các doanh nghiệp thuộc ngành công nghiệp sản xuất ôtô Việt nam nói
chung.
7. Kết cấu luận văn
Nội dung của luận văn bao gồm 03 chương:
- Chương I: Lý luận cơ bản về năng lực cạnh tranh sản phẩm của các
Doanh nghiệp sản xuất ôtô khách trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc
tế.
- Chương II: Phân tích thực trạng sản xuất kinh doanh và năng lực cạnh
tranh của sản phẩm ôtô chở khách của Tổng công ty công nghiệp ôtô
Việt Nam.
- Chương III: Giải pháp cơ bản nâng cao năng lực cạnh trạnh sản phẩm
ôtô khách của Tổng công ty công nghiệp ôtô Việt Nam.
5
CHƢƠNG 1: MỘT SỐ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ NĂNG LỰC CẠNH
TRANH SẢN PHẨM CỦA DOANH NGHIỆP SẢN XUẤT ÔTÔ TRONG ĐIỀU
KIỆN HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ.
1.1 Hội nhập kinh tế quốc tế và tác động của hội nhập kinh tế quốc tế đến
hoạt động kinh doanh của Doanh nghiệp sản xuất chế tạo ôtô
1.1.1 Hội nhập kinh tế quốc tế và xu hướng vận động của nền kinh tế.
Ngay từ những năm cuối thế kỷ 20, sự phát triển của nền kinh tế đã chịu sự
tác động sâu sắc của một loạt những xu thế mới. Đó là xu thế phát triển của
cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, quốc tế hoá, toàn cầu đời sống kinh tế
thế giới và xu thế chuyển từ đối đầu sang đối thoại giúp cho lực lượng sản xuất
được quốc tế hoá ở mức độ cao. Thương mại quốc tế phát triển mạnh mẽ và
ngày càng giữ vai trò quan trọng trong việc tăng trưởng kinh tế thế giới.
Khi toàn cầu hoá về kinh tế đang trở thành một xu hướng khách quan thì
yêu cầu về hội nhập kinh tế ngày càng trở nên cấp bách. Toàn cầu hoá là một
xu thế mới của quá trình phát triển kinh tế thị trường, phản ánh trình độ phát
triển cao của trình độ sản xuất, phân công lao động quốc tế và quốc tế hoá sản
xuất trở nên phổ biến
Nhìn lại tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của ngành công nghiệp Việt
Nam trong những năm vừa qua chúng ta đã thực hiện hàng loạt biện pháp nhằm
tự do hoá các hoạt động kinh tế, chuyển dần từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập
trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa có sự quản lý của nhà nước, xoá bỏ dần chế độ hai giá từng bước tiến
hành chế độ một giá, mở cửa thị trường đẩy mạnh việc thu hút đầu tư cả trong
và ngoài nước phát triển khu vực kinh tế ngoài quốc doanh tiến hành sửa đổi bổ
xung và điều chỉnh kịp thời các chính sách và các văn bản pháp quy tăng cường
việc mở rộng hợp tác kinh tế, thương mại và đầu tư với nhiều quốc gia và vùng
lãnh thổ trên thế giới.
Trong quá trình này, sự liên kết và phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế
trên thế giới nói chung và các thành phần kinh tế của một quốc gia nói riêng
6
đang ngày một gia tăng, được thể hiện ở xu hướng tăng cường các hoạt động
hợp tác song phương, đa phương và có cấp độ liên kết khu vực.
Không nằm ngoài xu thế chung đó, ngành công nghiệp ôtô Việt Nam cũng
có nhiều cơ hội nhưng cũng phải đương đầu với nhiều thách thức khi nền kinh
tế hội nhập.
1.1.2 Tác động của hội nhập kinh tế quốc tế đến hoạt động kinh doanh của
Doanh nghiệp sản xuất chế tạo ôtô.
Quá trình toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế đã và đang diễn ra
nhanh chóng, quyết liệt và trở thành xu thế phát triển không thể đảo ngược của
nền kinh tế thế giới hiện nay .
Có thể nói rằng cơ hội lớn nhất mà ngành công nghiệp ôtô Việt Nam nói
chung và các Doanh nghiệp chế tạo ôtô khách nói riêng có thể có được trong
quá trình hội nhập kinh tế quốc tế 20 năm qua là đã mở thêm được nhiều thị
trường mới. Với việc ký kết hiệp định tự do ASEAN, Việt nam có cơ hội tiếp
cận với thị trường được đánh giá là năng động nhất thế giới với tốc độ tăng
trưởng kinh tế bình quân hàng năm trên 7%. Thông qua chương trình hợp tác
ASEAN các doanh nghiệp Việt Nam có thể có các ưu đãi về hưởng mức thuế
quan ưu đãi từ 0 – 5% trong việc buôn bán các sản phẩm công nghiệp giữa các
doanh nghiệp tham gia, được công nhận tỷ lệ nội địa hoá trong sản phẩm và
được hưởng các ưu đãi phi thuế quan khác do các nước nội khối quy định. Đặc
biệt sự kiện Việt Nam ký hiệp định với Hoa Kỳ năm 2001 cũng đã đóng góp
một phần tích cực vào việc mở rộng thị trường cho các sản phẩm công nghiệp ở
Việt Nam .
Hội nhập kinh tế quốc tế cũng đã tạo điều kiện cho ngành công nghiệp ôtô
Việt Nam có điều kiện làm quen, tiếp cận và ứng dụng các kỹ thuật công nghệ
cao cũng như phương thức, tác phong công nghiệp của các nước có nền công
nghiệp ôtô phát triển như: Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản, Hàn Quốc nhờ đó mà các
doanh nghiệp chế tạo ôtô của chúng ta có thể nâng cao năng suất lao động tiết
kiệm chi phí và nhân công, rút ngắn chu kỳ sản xuất của sản phẩm đồng thời
7
cũng tạo ra được các sản phẩm mới đáp ứng được các yêu cầu khắt khe về chất
lượng và mẫu mã từ các nhà nhập khẩu, góp phần nâng cao khả năng cạnh
tranh sản phẩm ôtô của công nghiệp Việt Nam. Về vấn đề nhân lực, hội nhập
kinh tế quốc tế cũng mang lại cơ hội nâng cao tay nghề cho người lao động và
trau dồi kiến thức, nâng cao kinh nghiệm cho người quản lý trong quá trình sản
xuất.
Tuy nhiên, công nghiệp ôtô Việt Nam nói chung và các doanh nghiệp sản
xuất ôtô khách nói riêng cũng đang đối mặt với không ít khó khăn, thách thức ở
trong và ngoài nước.
Việt Nam đang trong giai đoạn cuối của quá trình đàm phán gia nhập tổ
chức kinh tế thế giới (WTO). Việc gia nhập WTO sẽ làm giảm đáng kể hàng
rào bảo hộ từ phía Chính phủ, tăng áp lực cạnh tranh cho các mặt hàng ngành
hàng và trong đó ôtô khách cũng là mặt hàng bị cạnh tranh khốc liệt bởi các sản
phẩm cùng loại của Trung Quốc, Hàn Quốc, Đức Mặt khác chúng ta sẽ phải
đối mặt với các vụ kiện có thể xảy ra do quy định của WTO về thương mại
hàng hoá, thương mại hoá dịch vụ, đầu tư, sở hữu trí tuệ…
Trên thực tế chúng ta còn thiếu nhiều kiến thức về thông tin về các tiêu
chuẩn quốc tế (chất lượng, quy trình quản lý chất lượng, vấn đề quản lý môi
trường ) cũng như về cách tiếp cận thị trường và các quy định điều chỉnh hoạt
động kinh doanh từ các nước nhập khẩu nên sẽ hạn chế khả năng cạnh tranh
của doanh nghiệp sản xuất ôtô khách Việt Nam
Hạn chế về vốn và công nghệ cũng làm giảm khả năng cạnh tranh của các
mặt hàng ôtô Việt Nam và giảm thiểu khả năng nắm bắt cơ hội thị trường của
doanh nghiệp sản xuất ôtô trong nước. Hệ thống các ngân hàng tài chính của
Việt Nam chưa phát triển đồng bộ và còn tồn tại nhiều yếu kém. Công nghiệp
lắp ráp đang là chủ công của công nghiệp Việt Nam, trong khi công nghiệp chế
tạo còn chưa có quy hoạch phát triển đồng bộ, bên cạnh đó, các sản phẩm ôtô
của Việt Nam còn đang phải cạnh tranh với các sản phẩm cùng loại của các
quốc gia khác không chỉ tại thị trường thứ ba, mà còn ở ngay trong thị trường
nội địa do thua kém về chất lượng và mẫu mã thậm chí cả giá bán. Để có thể
8
tận dụng mọi cơ hội khi tham gia hội nhập kinh tế quốc tế, ngành công nghiệp
ôtô Việt Nam đã, đang và sẽ phát triển theo hướng có chọn lọc, tập trung phát
triển các sản phẩm có khả năng cạnh tranh. Huy động tối đa mọi nguồn lực, đẩy
mạnh đầu tư và đầu tư có trọng điểm, kết hợp đầu tư mới với đầu tư theo chiều
sâu, đổi mới công nghệ, áp dụng rộng rãi các phương pháp quản lý tiên tiến để
tăng năng suất lao động, giảm giá thành, nâng cao chất lượng sản phẩm…
Như vậy, hội nhập kinh tế quốc tế đem lại cho ngành công nghiệp ôtô Việt
Nam nói chung, doanh nghiệp sản xuất ôtô khách nói riêng rất nhiều cơ hội
nhưng bên cạnh đó cũng đi kèm nhiều khó khăn, thách thức tiềm tàng đòi hỏi
các Nhà sản xuất ôtô phải xem xét để có thể nắm bắt cơ hội cũng như đương
đầu với những thách thức để nâng cao năng lực cạnh tranh sản phẩm, duy trì sự
tồn tại và phát triển của doanh nghiệp.
1.2 Năng lực cạnh tranh sản phẩm và vai trò của nâng cao năng lực cạnh
tranh sản phẩm trong hoạt động kinh doanh của Doanh nghiệp sản xuất
chế tạo ôtô
1.2.1 Khái niệm năng lực cạnh tranh sản phẩm
Trước khi đi vào nghiên cứu và phân tích năng lực cạnh tranh sản phẩm cần
tìm hiểu khái niệm về: cạnh tranh, năng lực cạnh tranh, sản phẩm và năng lực
cạnh tranh của sản phẩm.
1.2.1.1. Khái niệm về cạnh tranh
Khái niệm về cạnh tranh được xây dựng theo nhiều quan điểm khác nhau
và chưa có sự nhất trí rộng rãi đối với việc định nghĩa khái niệm này bởi lẽ,
thuật ngữ này được sự dụng để đánh giá trên nhiều phạm vi, lĩnh vực khác nhau
như: một doanh nghiệp, một ngành, một quốc gia thậm trí là một khu vực.
Trong khi đó những mục tiêu cơ bản lại được đặt ra khác nhau tuỳ thuộc vào
góc độ xem xét là của một doanh nghiệp hay một khu vực. Đối với một doanh
nghiệp thì mục tiêu của của cạnh tranh chủ yếu là để tồn tại và tìm kiếm lợi
nhuận trên cơ sở cạnh tranh của quốc gia hoặc quốc tế, còn đối với một quốc
9
gia thì cạnh tranh là để phát triển kinh tế một cách bền vững và đạt thành tựu
hơn các quốc gia khác.
Theo Kalh Marx: “Cạnh tranh là sự ganh đua, sự đấu tranh gay gắt giữa các
nhà tư bản nhằm giành giật những điều kiện thuận lợi trong sản xuất và tiêu thụ
hàng hoá để thu được lợi nhuận siêu ngạch”. Nghiên cứu về sản xuất tư bản chủ
nghĩa, K.Marx đã khẳng định rằng quy luật cơ bản của chủ nghĩa tư bản là quy
luật giá trị thặng dư, đồng thời còn chỉ rõ nhiều quy luật khác của phương thức
sản xuất này trong đó có quy luật cạnh tranh.
Theo Từ điển bách khoa Việt Nam (tập 1): “Cạnh tranh (trong kinh doanh)
là hoạt động ganh đua giữa những người sản xuất hàng hoá, giữa các thương
nhân, các nhà kinh doanh trong nền kinh tế thị trường, chi phối bởi quan hệ
cung – cầu, nhằm giành giật các điều kiện sản xuất, tiêu thụ và thị trường có lợi
nhất.
Tại diễn đàn Liên hợp quốc, báo cáo về cạnh tranh toàn cầu năm 2002 đã
định nghĩa cạnh tranh đối với một quốc gia được hiểu là” Khả năng của nước
đó đạt được những thành quả nhanh và bền vững về mức sống, nghĩa là đạt
được các tỷ lệ tăng trưởng kinh tế cao được xác định bằng các thay đổi của
Tổng sản phẩm quốc nội (GNP) tính trên đầu người theo thời gian”.
Ngoài ra, còn có thể dẫn chiếu nhiều cách diễn đạt khác nhau về khái niệm
cạnh tranh song qua các định nghĩa trên có thể tiếp cận khái niệm cạnh tranh
như sau:
- Thứ nhất: khi nói đến cạnh trạnh là nói đến sự ganh đua nhằm lấy phần
thắng của nhiều chủ thể cùng tham gia.
- Thứ hai: mục đích của cạnh tranh là một số đối tượng cụ thể nào đó mà
các bên đều muốn giành giật (một cơ hội, một sản phẩm, một thị trường…) và
mục đích cuối cùng là kiếm được lợi nhuận.
- Thứ ba: cạnh tranh diễn ra trong một môi trường cụ thể, có các ràng buộc
chung mà các chủ thể tham gia đều phải tuân thủ như: đặc điểm sản phẩm, điều
kiện thị trường, các quy định của pháp luật và thông lệ kinh doanh trên thị
trường…
10
- Thứ tư: trong quá trình cạnh tranh các chủ thể tham gia đều có thể sử
dụng nhiều công cụ khác nhau như: đặc tính – chất lượng sản phẩm, giá bán
sản phẩm, chiến lược tiếp thị, dịch vụ sau bán hàng, hình thức thanh toán…
Với cách tiếp cận trên, khái niệm cạnh tranh có thể hiểu như sau: “Cạnh
tranh là quan hệ kinh tế mà ở đó các chủ thể ganh đua nhau bằng mọi biện pháp
để đạt được mục tiêu của mình mà thông thường đó là: chiếm lĩnh thị trường,
giành giật khách hàng cũng như các điều kiện sản xuất, thị trường có lợi nhất”.
Mục tiêu cuối cùng của các chủ thể kinh tế trong quá trình cạnh tranh là tối đa
hoá lợi ích. Đối với người sản xuất kinh doanh là lợi nhuận, đối với người tiêu
dùng lợi ích tiêu dùng và sự tiện lợi.
Ngày nay, nhiều quốc gia trên thế giới đã thừa nhận vai trò của cạnh tranh
và coi cạnh tranh không chỉ là động lực thúc đẩy nền kinh tế phát triển mà còn
coi là yếu tố quan trọng việc lành mạnh hoá các quan hệ Kinh tế – Xã hội.
Tuy nhiên, bên cạnh những lợi ích đem lại thì cạnh tranh cũng có những
khuyết tật cố hữu mang đặc trưng của cơ chế thị trường. Một mặt nó thúc đẩy
phát triển sản xuất kinh doanh, mặt khác cũng dẫn đến tình trạng phân hoá,
cạnh tranh không lành mạnh hoặc phân hoá thị trường. Chính điều này đòi hỏi
phải có sự quản lý vĩ mô của Nhà nước, trong đó có việc tạo môi trường cạnh
tranh lành mạnh cho các Doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả, góp phần thúc
đẩy phát triển kinh tế xã hội.
1.2.1.2 Khái niệm về năng lực cạnh tranh
Năng lực cạnh tranh được xem xét ở ba cấp độ khác nhau: Năng lực cạnh
tranh quốc gia, năng lực cạnh tranh Doanh nghiệp và năng lực cạnh tranh của
sản phẩm, dịch vụ.
*/ Năng lực cạnh tranh quốc gia
Theo định nghĩa của Diễn đàn kinh tế thế giới (WEF – World Economic
Forum) thì “Năng lực cạnh tranh quốc gia là khả năng đạt và duy trì được mức
tăng trưởng cao trên cơ sở các chính sách, thể chế vững chắc và các đặc trưng
kinh tế khác”
11
Năng lực cạnh tranh quốc gia có ý nghĩa rất lớn đối với việc thúc đẩy quá
trình tự điều chỉnh, lựa chọn của các nhà kinh doanh và các doanh nghiệp theo
các tín hiệu thị trường được thông tin đầy đủ; ngược lại, sự dịch chuyển cơ cấu
ngành theo hướng ngày càng có hiệu quả hơn, tốc độ tăng trưởng, sự phồn
thịnh kinh tế lại phụ thuộc vào sự phát triển năng động của doanh nghiệp.
Theo VEF, năng lực cạnh tranh quốc gia được xác định bởi các nhân tố
gồm:
+ Mức độ hội nhập: mức độ hội nhập của một nước và nền kinh tế thế giới
xét về mặt định hướng và mức độ thuận lợi trong khuôn khổ pháp luật về chính
sách để mở rộng trương thương mại quốc tế và chế độ đầu tư.
+ Chính phủ: vai trò của chính phủ, tác động của chính sách tài khoá (thu
thuế và chi tiêu ngân sách), mức độ can thiệp của Chính phủ vào hoạt động của
doanh nghiệp và chất lượng các dịch vụ của Chính phủ.
+ Tài chính, tiền tệ: trình độ phát triển, vai trò của thị trường tài chính –
tiền tệ trong việc điều chỉnh tương quan tối ưu giữa tiêu dùng, tiết kiệm và hiệu
quả của cơ quan trung gian tài chính trong việc đưa tiết kiệm vào đầu tư sản
xuất.
+ Công nghệ: mức độ đầu tư cho nghiên cứu và phát triển (R&D), trình độ
công nghệ và tích luỹ kiến thức công nghệ.
+ Cơ sở hạ tầng: số lượng và chất lượng của hệ thống giao thông, mạng
viễn thông, cung cấp điện nước, kho tàng và các phương tiện vật chất – cơ sở
hạ tầng nâng cao hiệu quả đầu tư.
+ Quản lý kinh doanh: chất lượng quản lý nói chung (của quá trình sản
xuất, quản lý chất lượng, toàn diện, tiếp thị, xu hướng khách hàng, kinh doanh)
bao gồm chiến lược cạnh tranh, phát triển sản phẩm, kiểm tra chất lượng, hiệu
quả của các tổ chức tài chính, nguồn nhân lực và tiếp thị.
+ Lao động: số lượng và chất lượng lao động, hiệu lực và tính linh hoạt của
thị trường lao động.
12
+ Thể chế: hiệu lực của pháp luật và thể chế xã hội đặt nền móng cho nền
kinh tế hiện đại mang tính cạnh tranh, bao gồm quy định của pháp luật và đảm
bảo quyền sở hữu.
Năng lực cạnh tranh của một quốc gia có ảnh hưởng rất lớn đến khả năng
cạnh tranh của doanh nghiệp, đến thu hút đầu tư nước ngoài. Việc nâng cao và
duy trì khả năng cạnh tranh quốc gia là một yêu cầu cấp bách với mỗi nền kinh
tế trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế.
*/ Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là khả năng vượt qua đối thủ cạnh
tranh để duy trì và phát triển doanh nghiệp.
Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp được hiểu là tổng hợp các khả năng
và nguồn lực: tài chính, kỹ thuật công nghệ, marketing, tổ chức quản lý, đội
ngũ lao động của doanh nghiệp … để duy trì và phát triển thị phần, lợi nhuận
và định vị những ưu thế của doanh nghiệp trong môi trường cạnh tranh trong
nước và nước ngoài.
Có nội lực là điều kiện hết sức cần thiết, tuy nhiên doanh nghiệp còn phải
biết cách sử dụng và phát huy tất cả các nội lực đó để phục vụ cho tạo ra các lợi
thế hơn hẳn các đối thủ cạnh tranh khác. Như vậy, năng lực cạnh tranh của
doanh nghiệp là toàn bộ năng lực nội tại của doanh nghiệp và việc sử dụng các
năng lực đó để tạo ra lợi thế của doanh nghiệp so với đối thủ cạnh tranh khác
nhằm thoả mãn đến mức tối đa các nhu cầu của thị trường.
Có nhiều phương pháp khác nhau phân tích khả năng cạnh tranh của doanh
nghiệp nhưng thông thường người ta phân tích theo ba cách sau đây:
Thứ nhất: phân tích theo cấu trúc thị trường. Theo cách phân tích này, khả
năng cạnh tranh của doanh nghiệp được xem xét theo các nhân tố như sau:
- Sự tham gia của các công ty mới vào lĩnh vực kinh doanh
- Các sản phẩm hay dich vụ thay thế.
- Sức mạnh của doanh nghiệp cung ứng sản phẩm dịch vụ trên thị trường.
- Mức độ cạnh tranh giữa các doanh nghiệp.
13
Thứ hai: phân tích lợi thế cạnh tranh trên cơ sở đánh giá lợi thế so sánh về
chi phí hay khả năng sinh lợi trên một đơn vị sản phẩm. Các chỉ số chi phí
(theo giá so sánh quốc tế) cho phép xác định được mức độ đóng góp của doanh
nghiệp vào nền kinh tế. Các chỉ số đó cho biết khả năng cạnh tranh, duy trì sự
tồn tại và phát triển doanh nghiệp trong môi trường mà giá cả xác định.
Phân tích truyền thống lợi thế so sánh là phân tích tĩnh trong khi khả năng
cạnh tranh là một khái niệm động. Hiện nay phương pháp phân tích theo lợi thế
so sánh được bổ xung bằng phương pháp phân tích theo khả năng cạnh tranh
động. Khi phân tích khả năng cạnh tranh động cần chú ý đến những dự báo về:
- Biến động chu kỳ sản phẩm
- Mức độ phổ biến công nghệ và tích luỹ kinh nghiệm
- Chi phí đầu vào.
- Những thay đổi về đặc điểm dân số và xu hướng nhu cầu
- Vai trò sản phẩm thay thế và sản phẩm bổ sung
- Những thay đổi trong chính sách của Chính phủ
Chi phí thấp mới chỉ là một yếu tố khởi đầu để có thể cạnh tranh. Sự phát
triển kinh doanh năng động sẽ tận dụng được lợi thế so sánh về chi phí từ đó
nâng cao thêm khả năng cạnh tranh về chất. Các kỹ năng tổ chức, quản lý của
nhà kinh doanh trong chu trình sản xuất kinh doanh, từ giai đoạn trước sản
xuất, trong quá trình sản xuất và sau quá trình sản xuất cũng là các yếu tố quan
trọng góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp.
Thứ ba: phân tích theo quan điểm tổng thể yêu cầu giải đáp 3 vấn đề cơ bản
khi nhiên cứu tính cạnh tranh của một doanh nghiệp, đó là:
- Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
- Những nhân tố thúc đẩy và những nhân tố hạn chế việc nâng cao năng lực
cạnh tranh của doanh nghiệp
- Những tiêu chí đặt ra cho chính sách nâng cao năng lực cạnh tranh của
doanh nghiệp, những chính sách, chương trình và công cụ của Chính phủ để
đáp ứng các tiêu chí đó.
14
Để nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp cần phải nỗ lực tăng
cường năng lực cạnh tranh của chính mình bằng cách thúc đẩy công tác nghiên
cứu và thực hiện các biện pháp nâng cao trình độ quản lý kinh doanh, đa dạng
hoá nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng hiệu quả hoạt động tài chính của doanh
nghiệp, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nâng cao mặt bằng công nghệ tri
thức nhất là đối với nghiên cứu và phát triển công nghệ… tạo điều kiện hạ giá
thành sản phẩm từ đó hình thành nên năng lực cạnh tranh của sản phẩm
1.2.1.3 Khái niệm sản phẩm
Hiểu và mô tả đúng được sản phẩm của doanh nghiệp đưa ra bán trên thị
trường là một trong những nhiệm vụ hết sức quan trọng của doanh nghiệp trong
quá trình sản xuất kinh doanh. Xác định được đúng sản phẩm có ảnh hưởng rất
lớn đến khả năng tiêu thụ, khai thác thị trường và tăng khả năng cạnh tranh của
sản phẩm trên thị trường.
Để mô tả sản phẩm của mình, doanh nghiệp có thể lựa chọn nhiều cách tiếp
cận khác nhau. Ở đây, xin được tiếp cận và mô tả sản phẩm trên quan điểm
marketing từ góc độ người tiêu dùng.
Tiếp cận và mô tả sản phẩm từ cách nhìn của người tiêu dùng là một tiến bộ
và là một bước hoàn thiện hơn trong việc mô tả sản phẩm của doanh nghiệp khi
doanh nghiệp muốn tăng cường khả năng cạnh tranh và thúc đẩy tiêu thụ sản
phẩm trong điều kiện của nền kinh tế thị trường hiện đại.
Tiếp cận, mô tả sản phẩm theo quan điểm của khách hàng xuất phát từ việc
phân tích nhu cầu, cách thức thoả mãn nhu cầu đó và có thể thấy rõ qua các
khía cạnh sau:
- Mục đích mua một sản phẩm phẩm của khách hàng là để thoả mãn một
nhu cầu nào đó. Họ mua sản phẩm chính là mua sự thoả mãn, do đó, nên hiểu
“sản phẩm là sự thoả mãn nhu cầu nào đó của khách hàng”. Trong trường hợp
này, sản phẩm không chỉ là hiện vật (hàng hoá cứng) thuần tuý mà nó còn đi
kèm theo đó là các dịch vụ (hàng hoá mềm).
15
- Nhu cầu của khách hàng được đòi hỏi thoả mãn ở nhiều mức độ khác
nhau từ đơn giản cho đến mức độ cao và hoàn thiện. Một sản phẩm được xác
định từ góc độ nhà sản xuất chưa hẳn đã là một sản phẩm được khách hàng
mong đợi. Một sản phẩm tốt theo khách hàng chưa hẳn đã là một sản phẩm có
chất lượng “cực tốt” mà là một sản phẩm có chất lượng “vừa đủ” đáp ứng được
những mong muốn của họ khi sở hữu sản phẩm. Điều này đặc biệt quan trọng
khi lựa chọn khả năng đáp ứng, chủng loại sản phẩm của doanh nghiệp cho
khách hàng.
- Khách hàng khi mua sản phẩm họ không chỉ quan tâm tới công dụng, đặc
tính vật chất - kỹ thuật của sản phẩm mà họ quan tâm và mong muốn được thoả
mãn toàn bộ nhu cầu. Theo khách hàng sản phẩm của doanh nghiệp bao gồm
tất cả các yếu tố vật chất (hàng hoá cứng), phi vật chất (hàng hoá mềm) và các
yếu tố khác có liên quan mà doanh nghiệp đã đưa ra để thoả mãn nhu cầu của
họ.
Như vậy để bán được hàng và nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm,
doanh nghiệp phải thích ứng với quan điểm nhìn nhận sản phẩm từ góc độ
khách hàng. Trong trường hợp này, khái niệm sản phẩm có thể được hiểu là:
“Sản phẩm của doanh nghiệp là một hệ thống thống nhất các yếu tố có liên hệ
chặt chẽ với nhau nhằm thoả mãn đồng bộ nhu cầu của khách hàng bao gồm
sản phẩm vật chất (hiện vật), bao bì, nhãn hiệu hàng hoá, cách thức bán hàng,
cách thức phân phối, dịch vụ sau bán hàng…”. Ở đây, sản phẩm của doanh
nghiệp phải thoả mãn đồng bộ nhu cầu khách hàng từ nhu cầu cơ bản đến các
nhu cầu bổ sung ở các thứ bậc khác nhau của nhu cầu.
1.2.1.4 Khái niệm năng lực cạnh tranh sản phẩm
Một sản phẩm muốn có vị trí vững chắc trên thị trường và ngày càng được
khẳng định và mở rộng độ bao phủ thì tất yếu phải có điểm mạnh và có khả
năng cạnh tranh.
Xuất phát từ góc độ người tiêu dùng, từ khái niệm cạnh tranh, năng lực
cạnh tranh, khái niệm sản phẩm thì năng lực cạnh tranh sản phẩm có thể được
16
hiểu như sau: “Năng lực cạnh tranh sản phẩm là tất cả các yếu tố gồm sản
phẩm cơ bản (hàng hoá cứng: đặc tính vật chất - kỹ thuật, công năng của hàng
hoá) với chất lượng mong đợi của khách hàng và các yếu tố xoay quanh sản
phẩm cơ bản (hàng hoá mềm: nhãn hiệu hàng hoá, phương thức bán hàng,
cách thức phân phối, dịch vụ sau bán hàng…) mà doanh nghiệp cố gắng tạo ra
để thoả mãn tối đa nhu cầu của khách hàng nhằm ganh đua với doanh nghiệp
khác, giành lấy các lợi thế về khách hàng, thị trường và duy trì, phát triển vị trí
của mình trên thị trường đó”
Năng lực cạnh tranh của sản phẩm thường được đo bằng thị phần của sản
phẩm trên thị trường. Đó là khả năng chiếm lĩnh thị trường của sản phẩm, là
khả năng mà doanh nghiệp có thể đạt được những điều kiện thuận lợi trong tiêu
thụ hàng hoá.
Năng lực cạnh tranh của sản phẩm được quyết định bởi công nghệ sản xuất,
chất lượng, nhãn hiệu hàng hoá, phương thức bán hàng (giá cả, cách thức bán
hàng, phương thức thanh toán, thời hạn thanh toán), cách thức phân phối (thời
gian giao hàng, địa điểm giao hàng), độ tin cậy, tính độc đáo của sản phẩm, tính
kịp thời của các dịch vụ sau bán hàng (bảo hành, bảo dưỡng, bảo trì, cung cấp
phụ tùng), …của doanh nghiệp so với các đối thủ khác. Năng lực cạnh tranh
sản phẩm còn phụ thuộc rất nhiều vào nhịp độ đổi mới công nghệ, đổi mới sản
phẩm so với các đối thủ cạnh tranh, phụ thuộc vào sự chuyên môn hoá, mức độ
chuyên nghiệp của doanh nghiệp về sản phẩm.
1.2.2 Các yếu tố cấu thành năng lực cạnh tranh sản phẩm
1.2.2.1 Các yếu tố mô tả cạnh trạnh sản phẩm
Như đã đề cập ở phần trước, năng lực cạnh tranh của sản phẩm được đánh
giá qua rất nhiều tham số cấu thành lên sản phẩm như: chất lượng sản phẩm,
giá bán sản phẩm, hệ thống phân phối, nguồn nhân lực, quảng bá - xúc tiến bán
hàng…
- Chất lượng sản phẩm và thị trường: là một trong các chỉ tiêu quan
trọng phản ánh năng lực cạnh tranh của sản phẩm. Khả năng sản xuất ra
17
những sản phẩm có chất lượng “vừa đủ” tương ứng mức giá bán hợp lý để
đáp ứng tốt từng mức nhu cầu của khách hàng. Với từng tập khách hàng mục
tiêu thì sản phẩm sản xuất ra phải được tập khách hàng đó đánh giá là tốt.
Hiểu theo một góc độ khác thì đây chính là sự đa dạng về chủng loại sản
phẩm mà doanh nghiệp có thể đáp ứng cho từng đối tượng khách hàng cụ
thể.
- Giá bán sản phẩm cũng là chỉ tiêu quan trọng đánh giá năng lực cạnh
tranh của sản phẩm. Một sản phẩm có tính cạnh tranh cao là một sản phẩm
có lượng chi phí sản xuất trên một đơn vị sản phẩm thấp hơn so với sản
phẩm cùng loại của đối thủ cạnh tranh. Doanh nghiệp phải biết tổ chức sản
xuất kinh doanh tốt để giảm thiểu các chi phí, từ đó đưa ra được giá bán hợp
lý nhất tương ứng với từng mức chất lượng và thoả mãn hơn đối thủ cạnh
tranh về sự mong muốn của khách hàng khi họ sở hữu sản phẩm với mức chi
phí mà họ bỏ ra.
- Hệ thống phân phối: khả năng giao hàng đáp ứng được tốt nhất các yêu
cầu của khách hàng về địa điểm giao hàng, thời hạn giao hàng, vận chuyển
đáp ứng tốt nhất các phương thức tiếp cận sản phẩm của khách hàng mục
tiêu thông qua hệ thống phân phối. Bên cạnh đó, khả năng phân phối các
dịch vụ sau bán hàng (bảo hành – bảo dưỡng, bảo trì và cung cấp phụ tùng
thay thế) đối với sản phẩm cũng phải được tổ chức hợp lý, thuận lợi khi
khách hàng sử dụng sản phẩm.
- Quảng bá sản phẩm và xúc tiến bán hàng: các thông tin về sản phẩm
phải đến người tiêu dùng qua nhiều hình thức giới thiệu, quảng bá đáp ứng
được nhu cầu hiểu biết về sản phẩm của khách hàng. Bên cạnh đó các
phương thức bán hàng hàng cũng phải được đa dạng hoá về hình thức và ưu
thế hơn đối thủ cạnh tranh như: bán trả góp, cho thuê tài chính, hàng đổi
hàng… phù hợp với nhu cầu và mong muốn của khách hàng mục tiêu.
- Nguồn nhân lực: tiêu chí này được đánh giá thông qua sự phát triển
trình độ người lao động và năng suất lao động.
18
+ Sự phát triển về trình độ người lao động là sự phát triển về tri thức
và tay nghề của người lao động theo thời gian. Biểu hiện cụ thể cho sự
phát triển này là số lượng lao động có trình độ chuyên môn hay số lượng
lao động lành nghề chiếm tỷ lệ như thế nào trong toàn doanh nghiệp và
phát triển ra sao theo từng năm.
+ Năng suất lao động: là khả năng tăng trưởng số lượng sản phẩm sản
xuất theo đơn vị thời gian. Trong doanh nghiệp sản xuất ôtô tiêu thức
được đánh giá qua chỉ số: sản lượng/tháng (quý, năm).
Ngoài ra, khả năng cạnh tranh qua yếu tố nhân lực tham gia vào sản xuất
sản phẩm còn thể hiện qua: kế hoạch tuyển dụng- đào tạo, điều kiện làm việc
- tinh thần lao động và cũng không ngoại trừ yếu tố văn hoá doanh nghiệp.
- Trình độ công nghệ – kỹ thuật: Tiêu thức trình độ trang thiết bị kỹ thuật
công nghệ được đánh giá bằng các yếu tố như: trình độ tiên tiến hiện đại và
mức vốn đầu tư trang thiết bị, công nghệ.
+ Trình độ tiên tiến hiện đại của trang thiết bị, công nghệ được xác
định qua số lượng, tính đồng bộ, tính hiệu quả, cơ cấu hệ thống máy móc
thiết bị và việc ứng dụng công nghệ mới, tiên tiến mà doanh nghiệp sản
xuất ôtô sử dụng và đầu tư để sản xuất sản phẩm.
+ Mức vốn đầu tư cho công nghệ: thông qua yếu tố này có thể xác
định mức độ quan tâm của doanh nghiệp đến việc cập nhật, áp dựng công
nghệ chế tạo mới.
- Năng lực tổ chức, quản lý: Khả năng sắp xếp tổ chức bộ máy, xác định
chính sách, xây dựng chiến lược kinh doanh và tổ chức sản xuất của doanh
nghiệp. Đối với một sản phẩm cụ thể, năng lực tổ chức, quản lý và trình độ
công nghệ kỹ thuật của doanh nhiệp có ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng
giảm chi phí sản xuất trên một đơn vị sản phẩm để tạo khả năng cạnh tranh
so với sản phẩm cùng loại của đối thủ
- Năng lực nghiên cứu và phát triển (R&D): Khả năng về hoạt động
nghiên cứu và phát triển bao gồm: cân nhắc về các thành tựu đổi mới để triển
khai các sản phẩm mới đáp ứng tốt các nhu cầu đa đạng của khách hàng,
19
ngân quỹ giành cho công tác này, các phát minh, sáng chế áp dụng vào sản
xuất sản phẩm Năng lực nghiên cứu và phát triển có ảnh hưởng trực tiếp
đến việc nâng cao năng lực cạnh tranh sản phẩm thông qua việc tạo ra các
khác biệt cho sản phẩm của doanh nghiệp. Sự khác biệt sản phẩm có thể là:
tính năng vượt trội của sản phẩm hoặc công nghệ chế tạo sản phẩm…
- Năng lực duy trì nguồn cung cấp hàng hoá: khả năng tổ chức tốt và ổn
định mạng lưới các nhà cung cấp nguyên vật liệu, linh kiện bán thành phẩm
cũng được xem như một yếu tố quan trọng để nâng cao năng lực cạnh tranh
của sản phẩm…
- Thương hiệu của sản phẩm: Đây là một tiêu chí quan trọng trong việc
đánh giá năng lực cạnh tranh của sản phẩm. Thương hiệu của sản phẩm
không chỉ ở chất lượng sản phẩm của doanh nghiệp sản xuất ra, mà nó phải
kèm theo rất nhiều các yếu tố khác xoay quanh sản phẩm đáp ứng các mong
muốn của khách hàng và phải được cảm nhận từ phía khách hàng chứ không
phải từ phía doanh nghiệp. Thương hiệu của sản phẩm thường được đánh giá
thông qua sự nhận biết và mức độ tin cậy của khách hàng.
1.2.2.2 Các chỉ tiêu hiện hữu của năng lực cạnh tranh sản phẩm
Thông thường người ta hay đánh giá năng lực cạnh tranh của sản phẩm qua
các tiêu thức sau:
- Thị phần: được xác định thông qua tỷ lệ % giữa doanh số sản phẩm bán
ra của doanh nghiệp so với doanh số của toàn ngành và danh số bán của đối
thủ cạnh tranh. Bên cạnh đó, người ta có thể xác định thị phần của sản phẩm
trên phân khúc thị trường mà doanh nghiệp tham gia (tỷ lệ % giữa doanh số
của doanh nghiệp trên toàn bộ phân khúc). Hay nói một cách khác đó chính
là việc xác định tỷ lệ tương đối giữa doanh số bán sản phẩm của doanh
nghiệp so với các đối thủ cạnh tranh khác trên cùng một phân đoạn thị
trường.
- Tốc độ tăng trưởng của thị phần: thể hiện ở khả năng tăng trưởng thị
phần sản phẩm của doanh nghiệp so với đối thủ cạnh tranh. Thị phần sản
20
phẩm có mối liên hệ chặt chẽ với doanh số nên việc tăng trưởng thị phần
cũng đồng nghĩa với việc tăng trưởng doanh số bán cho khách hàng.
- Chi phí sản xuất trên một đơn vị sản phẩm: được xác định trên cơ sở
tổng cộng các chi phí để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm. Một sản phẩm của
doanh nhiệp có chi phí sản xuất trên một đơn vị thấp hơn của sản phẩm của
đối thủ thì có khả năng cạnh tranh cao hơn. Chi phí sản xuất trên một đơn vị
sản phẩm cao hay thấp hơn đối thủ cạnh tranh phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố
như: nguyên nhiên vật liệu đầu vào, trình độ tổ chức quản lý, chi phí khấu
hao, trình độ công nghệ chế tạo sản xuất, năng lực nghiên cứu và phát triển
sản phẩm, khả năng duy trì ổn định nguồn cung cấp hàng hoá…
1.2.3 Nâng cao năng lực cạnh tranh sản phẩm - điều kiện cần để tồn tại và
phát triển của Doanh nghiệp chế tạo ôtô trên thị trường
Như phần trước đã đề cập, khi tham gia vào tiến trình hội nhập kinh tế, các
doanh nghiệp sản xuất ôtô chở khách cùng lúc phải đối mặt với hàng loạt
những khó khăn, thách thức trong và ngoài nước. Cụ thể:
- Thứ nhất: Việt Nam sắp ra nhập WTO, bên cạnh thuận lợi, sức ép lên
công nghiệp ôtô trong những năm tới sẽ rất lớn, đó là: thay đổi đi đến
xoá bỏ thuế tiêu thụ đặc biệt, bỏ chỉ tiêu về số lượng nhập khẩu xe
nguyên chiếc, kể cả nhập xe đã qua sử dụng; Trung Quốc đề nghị cho
phép doanh nghiệp của họ đầu tư vào sản xuất ngay. Sự có mặt của nhà
sản xuất Trung Quốc dưới bất kỳ hình thức nào có thể sẽ tạo ra những
thay đổi lớn bởi giá xe rất cạnh tranh, giá thành sản phẩm rẻ hơn so với
các doanh nghiệp sản xuất ôtô trong nước. Mặt khác, nếu so sánh giá xe
hiện nay với các nước trong khối ASEAN và thế giới thì giá xe ôtô ở
Việt Nam luôn ở mức cao nhất. Theo Báo “Thị trường – giá cả vật tư số
129 + 130 ngày 29 + 30/06/2006 cho thấy: chỉ tính trong bốn nước tại
khu vực là Việt Nam, Malaixia, Phillippin, Thái Lan thì Việt Nam có
chi phí cao nhất, tiếp theo đến Malaixia, Phillppin có chi phí thấp bằng
một nửa Việt Nam và so với Thái Lan (nhà sản xuất xe lớn nhất
21
ASEAN), chi phí của Việt Nam cao hơn đến 48%. Đây chính là một trở
ngại lớn nhất cho ngành công nghiệp ôtô Việt Nam tồn tại và phát triển
khi nền kinh tế hội nhập.
- Thứ hai: Quy mô thị trường ôtô Việt Nam quá nhỏ bé. Theo Báo “Thị
trường – giá cả vật tư số 129 + 130 ngày 29 + 30/06/2006 cho thấy: trên
thực tế, thị trường trong nước chỉ tiêu thụ trung bình khoảng 56.000
xe/năm. Như vậy, tiêu dùng nội địa chỉ chiếm khoảng 20 – 25% tổng
công suất chế tạo và quy mô thị trường tiếp tục co hẹp do thuế cao, gian
lận chuyển giá của các liên doanh, gian lận thương mại Điều này đã
khiến hầu hết các doanh nghiệp sản xuất ôtô trong nước phải đương đầu
trong chiến lược phát triển của mình, do vậy phải chiếm lĩnh thị trường
bằng mọi cách.
- Thứ ba: Trong một thị trường nội địa nhỏ bé, cùng một lúc đã tồn tại
nhiều nhà sản xuất ôtô và tiếp tục xuất hiện các doanh nghiệp mới tham
gia sản xuất, lắp ráp ôtô. Tính đến đến ngày 30 tháng 06 năm 2006, trên
cả nước Việt Nam đã có tới 90 doanh nghiệp đang sản xuất, lắp ráp ôtô
các loại, nếu tính cả các cơ sở sửa chữa và tham gia chế tạo phụ tùng thì
có trên 200 doanh nghiệp. Với mức tiêu thụ trung bình là 56.000xe/năm
và chỉ chiếm khoảng từ 20 – 25% tổng công suất sản xuất của các doanh
nghiệp thì sự cạnh tranh trên thị trường trong nước ngày càng trở lên
khốc liệt hơn bao giờ hết. Nó đòi hỏi các doanh nghiệp sản xuất ôtô phải
triển khai đồng thời nhiều biện pháp để đương đầu với sự cạnh tranh
khốc liệt này để duy trì, tồn tại và phát triển
Xuất phát từ những áp lực trên, có thể thấy: yêu cầu phải nâng cao năng lực
cạnh tranh của Doanh nghiệp nói chung và của các nhóm sản phẩm chủ lực, sản
phẩm cụ thể nói riêng như là một tất yếu để tồn tại và phát triển.
1.3 Các định hƣớng cơ bản nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh sản phẩm
của Doanh nghiệp chế tạo ôtô
1.3.1 Nâng cao chất lượng, sản lượng và giảm giá thành sản phẩm
22
1.3.1.1 Nâng cao chất lượng và sản lượng của sản phẩm: Để nâng cao được chất
lượng và sản lượng sản phẩm có 2 vấn đề cần giải quyết là:
*/ Nâng cao chất lượng sản phẩm và sản lượng bằng các giải pháp kỹ thuật và
công nghệ.
Biện pháp tổ chức quản lý là bước cần thiết trước mắt nhưng biện pháp về
kỹ thuật và công nghệ mới là lâu dài và các khả năng tăng sản lượng và chất
lượng tuỳ thuộc vào phương hướng và quy mô đầu tư. Tuỳ thuộc vào từng
trường hợp cụ thể, nội dung đầu tư có thể là cải tiến cơ giới hoá hiện đại hoá
hoặc thay đổi mở rộng quy mô sản xuất.
Cải tiến là: trên cơ sở những quy trình sản xuất đang hoạt động chỉ cần thay
đổi vài chi tiết sắp xếp lại một cách hợp lý quy trình làm việc là có thể đạt năng
suất cao hơn cũ.
Cơ giới hoá, hiện đại hoá : Trên cơ sở những quy trình sản xuất đang hoạt
động cần cải tạo cơ bản những khâu sản xuất thủ công, thay đổi một số thiết bị
và áp dụng những quy trình sản xuát tiên tiến sẽ cho chất lượng sản phẩm cao
hơn và năng suất cao hơn rất nhiều so với trước.
Thay đổi và mở rộng quy mô sản xuất: biện pháp này chỉ áp dụng khi các
biện pháp cải tiến hiện đại hoá và cơ giới hoá không đáp ứng được nhu cầu
tăng sản lượng hàng hoá phục vụ cho xã hội.
Như vậy câu hỏi đặt ra cho Doanh nghiệp là phải tăng sản lượng ở những
mặt hàng nào và phải tăng sản lượng tới mức nào. Sản phẩm nào còn kém hay
sai sót ở chỗ nào. Để giải quyết vấn đề này Doanh nghiệp phải nghiên cứu thị
trường tiêu thụ sản phẩm và đánh giá của khách hàng về chất lượng của sản
phẩm một cách chi tiết và đúng đắn. Đồng thời một trong những vấn đề quan
trọng liên quan đến vấn đề đầu tư là cần nghiên cứu kỹ tình hình sản xuất của
các doanh nghiệp trong nước cũng như các ngành sản xuất công công nghiệp ô
tô trên thế giới.
*/ Nâng cao chất lượng sản phẩm và sản lượng bằng biện pháp quản lý
23
Nâng cao trình độ quản lý cho cán bộ nghiệp vụ, cụ thể các công việc như
đánh giá đúng chất lượng hàng hoá công tác giao nhận kiểm soát số lượng vật
tư, nguyên liệu nhập về để đánh giá đúng tình trạng hao hụt vật tư do hệ thống.
Nâng cao trình độ của công nhân kỹ thuật trong công ty nhằm khai thác tối
đa khả năng từng cá nhân để đạt được hiệu quả tối ưu trong sản xuất cũng như
kinh doanh.
Kiện toàn công tác vận chuyển: đối với các nguyên vật liệu nhập ngoại
hoặc mua tại nơi sản xuất.
Sắp xếp lại hệ thống kho cho hợp lý và tránh tình trạng hao mòn suy giảm
về chất lượng sản phẩm.
Kiện toàn lại khâu cấp phát nguyên vật liệu theo định mức và tiến độ sản
xuất của từng bộ phận ở các đơn vị thành viên.
Ngoài ra doanh nghiệp phải không ngừng tăng cường công tác nghiên cứu
và phát triển sản phẩm như: thiết kế mẫu mã mới theo nhu cầu thị trường, tiến
hành các thí nghiệm lý hoá để tìm ra nguyên vật liệu mới phù hợp cho quá trình
đổi mới tăng chất lượng sản phẩm.
1.3.1.2 Giảm giá thành sản phẩm
Để giảm giá thành sản phẩm thì vấn đề đặt ra là phải giảm được chi phí sản
xuất, giảm chi phí kinh doanh và giảm thiểu các chi phí phụ khác mà không ảnh
hưởng đến chất lượng sản phẩm.
*/ Giảm chi phí sản xuất:
Tinh giảm nhân lực và khai thác được tối đa khả năng sản suất của từng
bộ phận trong dây chuyền sản xuất. Cắt giảm nhân sự không cần thiết và có
trình độ chuyên môn yếu kém, tuyển dụng nhân viên thực sự có năng lực làm
việc.
Nâng cao hiệu quả sản xuất: như đã trình bày ở mục trên.
*/ Giảm chi phí kinh doanh
24
Giảm giá thành đầu vào của nguyên vật liệu: Tìm kiếm nguồn cung cấp
nguyên vật liệu mới có chất lượng tốt và giá thành thấp hơn những nguồn cung
cấp đang sử dụng.
Tăng cường quản lý nhằm giảm thiểu tối đa sự thất thoát nguyên vật liệu
trong quá trình vận chuyển và sản xuất.
Giảm thiểu các chi phí phát sinh trong quá trình sản xuất và kinh doanh
Nâng cao hoạt động hiệu quả bán hàng: thành lập bộ phận marketing
chuyên trách, tạo điều kiện cho đội ngũ tiếp thị bán hàng để lực lượng này có
thể thâm nhập vào thị trường, nắm bắt được thông tin về khách hàng và đối thủ
cạnh tranh để đề xuất ra những giải pháp kinh doanh mới. Thực hiện tốt các
dịch vụ bán hàng và chăm sóc khách hàng .
1.3.2 Đẩy mạnh nghiên cứu, dự báo thị trường cải tiến mẫu mã đáp ứng nhu
cầu thị trường
Thường xuyên tìm hiểu, nghiên cứu thị trường nhằm kịp thời đưa ra thị
trường những sản phẩm mới. Sản phẩm cần phải có những điểm khác biệt so
với đối thủ cạnh tranh nhằm hấp dẫn người tiêu dùng. Đặc biệt, cần phân đoạn
thị trường để có những sản phẩm phù hợp với các phân khúc thị trường đó.
Nhìn chung ôtô khách sản xuất trong nước vẫn chưa có nhũng sản phẩm đáp
ứng được nhu cầu của nhiều đối tượng khách hàng. Các sản phẩm còn ít chủng
loại và chất lượng chưa thực sự tốt để đủ sức thu hút khách hàng trong nước.
Tùy thuộc vào từng đối tượng khách hàng mà công ty có những thiết kế cho
phù hợp về kiểu dáng, màu sắc, tên gọi… của sản phẩm sao cho hiệu quả mang
lại là tối ưu. Bên cạnh đó, chất lượng của sản phẩm cũng cần phải được đảm
bảo. Đây là một mắt xích quan trọng trong quá trình nâng cao năng lực cạnh
tranh của xe ôtô khách sản xuất trong nước nói chung trong quá trình hội nhập
kinh tế quốc tế với thị trường xe rộng lớn với các hãng ôtô đã có uy tín trên thị
trường thế giới.
1.3.3 Đào tạo nguồn nhân lực
Nhân lực là yếu tố rất quan trọng đối với mỗi doanh nghiệp , có thể chia nó
thành các cấp: quản trị viên cấp cao, quản trị viên cấp trung gian và đội ngũ
25
công nhân. Các quản trị viên có ảnh hưởng lớn đến các quyết định quản lý của
doanh nghiệp. Nếu họ có trình độ quản ký cao, nhiều kinh nghiệm kinh doanh
trên thương trường, khả năng đánh giá và có mối quan hệ đối ngoại tốt thì
doanh nghiệp đó sẽ có khả năng cạnh tranh lớn. Đội ngũ công nhân ảnh hưởng
tới khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp thông qua các yếu tố về năng suất lao
động, trình độ tay nghề, ý thức trách nhiệm, kỷ luật lao động và sự sáng tạo của
họ bởi vì các yếu tố này ảnh hưởng tới việc nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ
giá thành cũng như tạo thêm tính mới lạ, độc đáo của sản phẩm. Vì vậy vấn đề
đào tạo nguồn nhân lực cũng không kém phần quan trọng trong công cuộc nâng
cao năng lực cạnh tranh sản phẩm của doanh nghiệp.
1.3.4 Tăng cường các hoạt động xúc tiến thương mại và hỗ trợ đầu tư
Theo quan niệm của marketing, đây là một trong 4 nhóm công cụ chủ yếu
của marketing - mix mà doanh nghiệp có thể sử dụng để tác động vào thị
trường mục tiêu nhằm đạt được mục tiêu kinh doanh của công ty. Xúc tiến bán
hàng được hiểu là: các hoạt động có chủ đích trong lĩnh vực marketing của các
doanh nghiệp nhằm tìm kiếm, thúc đẩy cơ hội bán hàng hoá và cung ứng dịch
vụ. Nội dung của xúc tiến bán hàng được xác định bao gồm các nội dung chủ
yếu: quảng cáo bán hàng, khuyến mại, tham gia hội chợ triển lãm, bán hàng
trực tiếp và quan hệ công chúng.
Xúc tiến bán hàng là công cụ hữu hiệu trong việc chiếm lĩnh thị trường và
tăng tính cạnh tranh của hàng hoá, dịch vụ của các doanh nghiệp trên thị
trường. Thông qua xúc tiến, công ty sẽ tiếp cận được với thị trường tiềm năng
của mình, cung cấp cho khách hàng tiềm năng những thông tin cần thiết, những
dịch vụ ưu đãi để tiếp tục chinh phục khách hàng của mình và lôi kéo khách
hàng của đối thủ cạnh tranh. Hoạt động xúc tiến sẽ tạo ra hình ảnh đẹp về công
ty trước con mắt của khách hàng, lợi thế cạnh tranh của công ty nhờ thế mà
không ngừng tăng lên.
Thêm vào đó, xúc tiến bán hàng còn kích thích người tiêu dùng mua sản
phẩm của công ty nhiều hơn, thu hút được các khách hàng tiềm năng từ đó làm