Tải bản đầy đủ (.docx) (61 trang)

luận văn tốt nghiệp một số giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động tại công ty cổ phần đầu tư và xây dựng đô thị

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (373.05 KB, 61 trang )

MỤC LỤC
1
LỜI NÓI ĐẦU
Vốn lưu động là điều kiện vật chất không thể thiếu được trong quá trình tái
sản xuất của mỗi doanh nghiệp.Thế nhưng, một điều thực sự được quan tâm là
số vốn đó được sử dụng như thế nào và đem lại hiệu quả ra sao?
Hiện nay các doanh nghiệp nhà nước có vai trò vị trí đặc biệt quan trọng
trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân của nước ta. Tuy nhiên hiệu quả sử dụng vốn
này còn thấp. Theo điều tra trong toàn bộ các doanh nghiệp Nhà nước người ta
nhận thấy là vốn lưu động chu chuyển chậm, hệ số sinh lợi bình quân thấp.
Trong bối cảnh đó, công ty cổ phần đầu tư và xây dựng đô thị đã có những
cố gắng trong huy động và sử dụng vốn lưu động và đạt được những kết quả
nhất định. Tuy nhiên bên cạnh những mặt đạt được còn tồn tại một số vấn đề cần
phải giải quyết. Vì vậy, việc đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao hơn nữa
hiệu quả sử dụng vốn lưu động là vấn đề cần thiết, quan trọng.
Xuất phát từ thực tế trên em xin chọn đề tài:
“Một số giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động tại công ty
cổ phần đầu tư và xây dựng đô thị”
Ngoài lời nói đầu và kết luận, nội dung chính của chuyên đề gồm 3 phần:
Chương 1: Vốn lưu động và hiệu quả sử dụng vốn lưu động của doanh
nghiệp trong nền kinh tế thị trường.
Chương 2: Thực trạng hiệu quả sử dụng vốn lưu động tại công ty cổ phần
đầu tư và xây dựng đô thị.
Chương 3: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động
của công ty cổ phần đầu tư và xây dựng đô thị.
2
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
XHCN Xã hội chủ nghĩa
DN Doanh nghiệp
VLĐ Vốn lưu động
DTT Doanh thu thuật


TSLĐ Tài sản lưu động
3
CHƯƠNG 1
VỐN LƯU ĐỘNG VÀ HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN LƯU ĐỘNG CỦA
DOANH NGHIỆP TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
1. Vốn lưu động của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường
1.1. Doanh nghiệp và hoạt động của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường
Kinh tế thị trường là nền kinh tế vận động theo cơ chế thị trường, trong đó
người mua và người bán tương tác với nhau để xác định giá và sản lượng của
hàng hoá hay dịch vụ. Nền kinh tế thị trường chứa đựng 3 chủ thể chính là hộ
gia đình, chính phủ và doanh nghiệp. Trong đó doanh nghiệp có vai trò to lớn
trong sự hoạt động và phát triển của thị trường.
“ Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao
dịch được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực
hiện các hoạt động kinh doanh”
Nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị trường định hướng XHCN tức là có
sự điều tiết của nhà nước. Đây là nền kinh tế nhiều thành phần trong đó thành
phần kinh tế nhà nước chiếm vai trò chủ đạo. Có thể phân Doanh nghiệp nhà
nước thành hai loại là Doanh nghiệp hoạt động kinh doanh và doanh nghiệp
hoạt động công ích. Khi nghiên cứu, chúng ta xét các doanh nghiệp kinh
doanh với mục đích là tối đa hoá lợi nhuận.
Doanh nghiệp có thể phân loại theo nhiều tiêu thức khác nhau: Công ty cổ
phần, tư nhân, hay theo chủ thể kinh doanh thì có: Kinh doanh cá thể, góp vốn.
Theo tính chất của lĩnh vực hoạt động thì có: Doanh nghiệp hoạt động sản xuất
kinh doanh có doanh nghiệp là thương mại. Sự phân chia này chỉ nhằm tiện cho
việc quản lý mang tính tương đối vì hoạt động của doanh nghiệp là rất đa dạng
và phức tạp.
Bao quanh DN là môi trường kinh tế xã hội phức tạp và luôn biến động,
nên DN phải luôn đưa ra những quyết định trong quá trình hoạt động của mình.
Doanh nghiệp phải giải quyết từ khâu nghiên cứu thị trường, xác định nhu cầu,

4
năng lực bản thân và các mặt hàng mà mình định kinh doanh, cách thức và
phương thức cung ứng sao cho có hiệu quả nhất Dưới góc độ của nhà quản trị
tài chính thì nó bao gồm ba nhóm quyết định:
-Quyết định đẩu tư
- Quyết định tài trợ
- Quyết định hoạt động hàng ngày
Như vậy, quản lý tài chính doanh nghiệp là giải quyết một tập hợp đa dạng
và phức tạp các quyết định tài chính dài hạn và ngắn hạn. Các quyết định tài
chính dài hạn như lập ngân sách vốn, lựa chọn cấu trúc vốn là những quyết
định thường liên quan đến những tài sản hay những khoản nợ dài hạn, các quyết
định này không thể thay đổi một cách dễ dàng và do đó chúng có khả năng làm
cho doanh nghiệp phải theo đuổi một đường hướng hoạt động riêng biệt trong
nhiều năm. Các quyết định tài chính ngắn hạn thường liên quan đến những tài
sản hay những khoản nợ ngắn hạn và thường thì những quyết định này có thể
thay đổi dễ dàng. Trong thực tế, giá trị của tài sản lưu động chiếm một tỷ trọng
không nhỏ trong tổng giá trị tài sản của doanh nghiệp và có vị trí quan trọng
trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Một Doanh nghiệp có
thể xác định được cơ hội đầu tư có giá trị, xác định tỷ lệ nợ tối ưu nhưng cũng
có thể bị thất bại nếu không quan tâm đến thanh toán các hoá đơn trong năm
Do vậy, chuyên đề này đi sâu nghiên cứu vốn lưu động và việc nâng cao hiệu
quả sử dụng vốn lưu động trong doanh nghiệp.
1.2. Vốn của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường
1.2.1. Khái nhiệm vốn
Theo quan điểm của K.Marx, vốn là tư bản, mà tư bản được hiểu là giá trị
mang lại giá trị thặng dư.
Như vậy, hiểu một cách thông thường, vốn là toàn bộ giá trị vật chất được
doanh nghiệp đầu tư để tiến hành sản xuất kinh doanh. Vốn đó có thể là do con
người tạo ra được tích luỹ qua thời gian, có thể là tài nguyên thiên nhiên như đất
đai, khoáng sản

5
Với sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế, các ngành nghề mới ra đời,
quan niệm về vốn cũng ngày càng được mở rộng. Bên cạnh vốn hữu hình dễ
dàng được nhận biết, còn tồn tại và được thừa nhận là vốn vô hình của Doanh
nghiệp như: các sáng chế phát minh, nhãn hiệu thương mại, kiểu dáng công
nghiệp, Và theo nghĩa rộng hơn lao động cũng được coi là một ngồn vốn quan
trọng của doanh nghiệp.
Vốn tồn tại trong mọi giai đoạn sản xuất kinh doanh từ dự trữ, sản xuất đến
lưu thông, doanh nghiệp cần vốn để đầu tư xây dựng cơ bản, cần vốn để duy trì
sản xuất và đầu tư nâng cao năng lực sản xuất. Quyết định tài trợ, do đó, là một
trong ba nhóm quyết định quan trọng của tài chính doanh nghiệp và có ảnh
hưởng sâu sắc tới mục tiêu cuối cùng của doanh nghiệp, là tối đa hóa giá trị
doanh nghiệp.
1.2.2. Đặc điểm và phân loại vốn
* Đặc điểm của vốn
Vốn là toàn bộ tài sản hữu hình (nhà xưởng, máy móc, thiết bị… ) và tài
sản vô hình (phát minh, sáng chế, nhãn hiệu thương mại, ……….) mà đã được
doanh nghiệp đầu tư tích luỹ trong quá trình sản xuất kinh doanh nhằm tạo ra giá
trị thặng dư.
Vốn tồn tại trong mọi quá trình sản xuất và được chuyển hoá từ dạng này
sang dạng khác: từ nguyên vật liệu nhiên liệu đầu vào cho đến chi phí sản xuất
dở dang, bán thành phẩm rồi thành sản phẩm và cuối cùng là hình thái tiền tệ.
Vốn gắn liền với quyền sở hữu, việc nhận định rõ và hoạch định cơ cấu nợ
và vốn chủ sở hữu luôn là một nội dung quan trọng trong quản trị tài chính
doanh nghiệp.
Trong nền kinh tế thị trường, vốn được coi là một hàng hóa đặc biệt vì có
sự tách bạch giữa quyền sở hữu và quyền sử dụng. Việc huy động vốn bằng
nhiều con đường như phát hành cổ phiếu, trái phiếu, tín dụng thương mại đang
được các công ty quan tâm và vận dụng linh hoạt . Vì sự luân chuyển phức tạp
6

của vốn, nên việc yêu cầu quản lý và sử dụng vốn có hiệu quả tránh lãng phí
thất thoát được đặt lên cao.
*Phân loại vốn
Tuỳ thuộc vào tiêu thức mà vốn của doanh nghiệp được phân loại như sau:
- Theo hình thái tài sản: Vốn của doanh nghiệp được phân chia thành hai bộ phận
chính là vốn lưu động và vốn cố định. Vốn lưu động là toàn bộ giá trị của tài sản
lưu động, vốn cố định là toàn bộ giá trị của tài sản cố định.
- Theo nguồn hình thành: vốn của doanh nghiệp được hình thành từ hai nguồn
chính: Vốn chủ sở hữu và Nợ.
1.3. Vốn lưu động của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường
1.3.1. Khái niệm vốn lưu động
Để tiến hành sản xuất kinh doanh ngoài yếu tố con người, tư liệu lao động,
còn phải có đối tượng lao động. Trong các doanh nghiệp đối tượng lao động đó
bao gồm: Một bộ phận là nguyên vật liệu, phụ tùng thay thế đang dự trữ chuẩn
bị cho quá trình sản xuất. Một bộ phận là nguyên vật liệu đang trong quá trình
sản xuất (sản phẩm dở dang, bán thành phẩm). Hai bộ phận này biểu hiện
dưới hình thái vật chất gọi là tài sản lưu động của doanh nghiệp trong dự trữ
và sản xuất.
Khi kết thúc một chu kỳ sản xuất thì toàn bộ tư liệu lao động đã chuyển
thành thành phẩm. Sau khi được kiểm tra, kiểm nghiệm chất lượng thì sản phẩm
được nhập kho chờ tiêu thụ. Ngoài ra, còn có một bộ phận phải trả lương cho
cán bộ công nhân viên và các khoản phải thu và phải trả khác Toàn bộ khoản
đó được gọi là tài sản lưu động trong lưu thông.
Như vậy ngoài tài sản cố định doanh nghiệp còn phải có tài sản lưu động
trong dự trữ, trong sản xuất và trong lưu thông. Để hình thành các tài sản lưu
động này trong điều kiện nền kinh tế hàng hóa-tiền tệ, thì doanh nghiệp phải bỏ
ra một khoản vốn đầu tư nhất định. Như vậy có thể nói “Vốn lưu động của
Doanh nghiệp là số tiền vốn ứng trước để đầu tư, mua sắm tài sản lưu động
trong doanh nghiệp”
7

Vốn lưu động là biểu hiện bằng tiền của tài sản lưu động nên đặc điểm vận
động của nó chịu sự chi phối bởi những đặc điểm của tài sản lưu động. Trong
quá trình kinh doanh, vốn lưu động không ngừng vận động qua các giai đoạn
của quá trình kinh doanh: dự trữ sản xuất, sản xuất và lưu thông. Quá trình này
thường diễn ra liên tục và thường xuyên lặp lại theo một chu kỳ gọi là quá
trình tuần hoàn, chu chuyển vốn. Vốn lưu động thay đổi qua các giai đoạn và
quá trình kinh doanh, biểu hiện bằng nhiều hình thái khác nhau từ tiền tệ sang
hàng hoá dự trữ và vốn sản xuất rồi lại trở về hình thái tiền tệ. Tương ứng với
một chu kỳ kinh doanh là một vòng chu chuyển vốn lưu động.

Mua vật tư Sản xuất
Hàng hóa Sản phẩm
Tiêu thụ sản phẩm
1.3.2. Đặc điểm, phân biệt vốn lưu động với vốn cố định, và phân loại vốn lưu động
*Đặc điểm của vốn lưu động
Vốn lưu động luân chuyển với tốc độ nhanh và hoàn thành một vòng tuần
hoàn sau khi kết thúc một chu kỳ sản xuất kinh doanh.
Vốn lưu động trong doanh nghiệp luôn thay đổi hình thái biểu hiện trong
quá trình tuần hoàn luân chuyển vốn. Vốn lưu động chỉ tham gia vào một chu kỳ
sản xuất mà không giữ nguyên hình thái ban đầu, giá trị của nó chuyển dịch toàn
bộ một lần vào giá trị sản phẩm.
Vốn lưu động vận động theo một chu kỳ, một vòng tuần hoàn từ hình thái
này sang hình thái khác với một giá trị lớn hơn giá trị ban đầu. Chu kỳ vận động
của vốn lưu động là cơ sở quan trọng đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động
của doanh nghiệp.
8
Vốn bằng tiền Vốn trong sản
xuất
Vốn dự trữ sản
xuất

*Phân biệt vốn lưu động với vốn cố định
Vốn cố định là biểu hiện bằng tiền của tài sản cố định. Đặc điểm khác biệt
lớn nhất là vốn cố định là chỉ chuyển dần dần giá trị của nó vào sản phẩm theo
mức khấu hao, trong khi giá trị vốn lưu động được chuyển dịch hoàn toàn một
lần vào sản phẩm.
Do đặc điểm vận động, số vòng quay của vốn lưu động lớn hơn rất nhiều
so với vốn cố định.
1.4. Phân loại vốn lưu động
1.4.1. Dựa vào vai trò từng loại vốn lưu động trong quá trình sản xuất kinh
doanh, vốn lưu động được chia thành 3 loại sau:
(1) VLĐ trong khâu dự trữ sản xuất: Bao gồm các khoản sau
- Vốn nguyên vật chính: Là giá trị các loại vật tư dùng trong dự trữ sản xuất mà
khi tham gia vào sản xuất chúng cấu thành thực thể của sản phẩm.
- Vốn vật liệu phụ: là giá trị các loại vật tư dự trữ dùng trong sản xuất nhưng
chúng không trực tiếp tạo thành thực thể chính của sản phẩm, mà kết hợp với
nguyên vật liệu chính tạo nên sự thay đổi màu sắc, mùi vị … hoặc tạo điều kiện
cho sự hoàn thiện của sản phẩm.
- Vốn nhiên liệu: là giá trị các loại nhiên liệu dự trữ trong hoạt động kinh
doanh.
- Vốn phụ tùng thay thế: là giá trị các loại vật tư dùng thay thế, sửa chữa các tài
sản cố định dùng cho hoạt động sản xuất kinh doanh.
- Vốn công cụ dụng cụ: là công cụ dụng cụ không đủ điều kiện là tài sản cố định
dùng cho hoạt động sản xuất kinh doanh.
- Vốn vật liệu đóng gói: Là giá trị của các vật tư mà khi tham gia vào quá trình
sản xuất nó cấu thành bao bì bảo quản sản phẩm.
Để đảm bảo hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp được tiến
hành liên tục, thì rất cần loại vốn này.
(2) VLĐ trong khâu sản xuất: Bao gồm các khoản vốn:
9
- Vốn sản phẩm đang chế tạo: là chi phí đã bỏ ra cho các loại sản phẩm đang

trong quá trình sản xuất.
- Vốn bán thành phẩm: Phản ánh giá trị chi phí sản xuất kinh doanh khi sản
phẩm đã trải qua quá trình chế tạo, sản xuất nhưng chưa hoàn thành sản phẩm
cuối cùng (thành phẩm).
- Vốn chi phí trả trước: Là các chi phí thực tế đã phát sinh nhưng chưa tính hết
vào giá thành phẩm trong kỳ mà tính dần vào giá thành sản phẩm các kỳ tiếp
theo như: chi phí nghiên cứu thí nghiệm, cải tiến kỹ thuật, chi phí xây dựng, lắp
đặt các công trình tạm thời, chi phí về ván khuôn, giàn giáo phải lắp dùng trong
xây dựng cơ bản.
Để đảm bảo cho quá trình sản xuất của các bộ phận sản xuất trong dây
truyền công nghệ được liên tục, hợp lý thì cần dùng loại vốn này.
(3) VLĐ trong khâu lưu thông: Bao gồm các khoản vốn:
- Vốn thành phẩm: là sản phẩm sản xuất xong, đạt tiêu chuẩn kỹ thuật và
được nhập kho.
- Vốn bằng tiền: Gồm tiền mặt tại quỹ, tiền gửi ngân hàng, tiền đang đi đường,….
Tiền là loại tài sản mà doanh nghiệp dễ dàng chuyển đổi thành tài sản khác hoặc
để trả nợ. Vì vậy, trong hoạt động kinh doanh thì đòi hỏi mỗi doanh nghiệp phải
có một lượng tiền nhất định.
- Các khoản đầu tư ngắn hạn: Đầu tư ngắn hạn hay cho vay cho vay ngắn
hạn…… Đây là những khoản đầu tư đảm bảo khả năng thanh toán, mặt khác tận
dụng khả năng sinh lời của các tài sản tài chính ngắn hạn nhằm nâng cao hiệu
quả sử dụng vốn lưu động.
- Các khoản vốn trong thanh toán: các khoản phải thu, các khoản tạm ứng….
Chủ yếu là các khoản phải thu của khách hàng, thể hiện số tiền mà khách
hàng nợ doanh nghiệp phát sinh trong quá trình bán hàng hóa, dịch vụ dưới hình
thức bán trước, trả sau. Mục vốn này liên quan chặt chẽ đến chính sách tín dụng
thương mại, là một trong những chiến lược quan trọng của doanh nghiêp trong
10
nền kinh tế thị trường. Khi mua sắm vật tư, hàng hóa doanh nghiệp còn phải ứng
trước tiền cho người cung ứng, nên đã hình thành khoản tạm ứng.

Để đảm bảo cho tiêu thụ thường xuyên, đều đặn theo nhu cầu khách hàng
thì cần dùng loại vốn này để dự trữ sản phẩm.
Việc phân loại vốn theo phương pháp này giúp cho việc xem xét đánh giá
tình trạng phân bổ của vốn lưu động trong từng khâu của quá trình chu chuyển
vốn. Dựa vào đó, nhà quản lý sẽ có phương hướng thích hợp tạo ra một kết cấu
vốn lưu động hợp lý, tăng tốc độ luân chuyển vốn lưu động, nâng cao hiệu quả
sử dụng vốn lưu động.
1.4.2. Theo nguồn hình thành, vốn lưu động được chia làm 2 loại sau:
• Vốn chủ sở hữu:
Là nguồn vốn thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp, doanh nghiệp có đầy
đủ các quyền chiếm hữu, sử dụng chi phối và định đoạt. Tuỳ theo loại hình sở
hữu doanh nghiệp mà vốn chủ sở hữu có nội dung cụ thể riêng: Số vốn lưu động
được ngân sách nhà nước cấp hoặc có nguồn từ ngân sách nhà nước (với doanh
nghiệp nhà nước), do vốn góp của thành viên (với doanh nghiệp công ty) hoặc
do chủ doanh nghiệp tư nhân bỏ ra, vốn lưu động tăng từ lợi nhuận bổ sung,
hoặc nhận góp vốn, hay huy động từ việc phát hành cổ phiếu.
• Nợ phải trả.
- Nguồn vốn đi vay: là khoản được hình thành từ vốn vay các ngân hàng thương
mại hoặc các tổ chức tài chính khác, vốn thông qua phát hành trái phiếu.
- Nguồn vốn trong thanh toán: Đó là khoản nợ khách hàng, doanh nghiệp khác
trong quá trình thanh toán.
Việc phân loại này giúp cho ta thấy được kết cấu các nguồn hình thành nên
vốn lưu động của doanh nghiệp. Từ đó doanh nghiệp có thể chủ động và đưa ra
các biện pháp huy động quản lý vận dụng vốn lưu động hiệu quả hơn.
1.4.3. Theo hình thái biểu hiện: Bao gồm các khoản sau:
• Tiền và các tài sản tương đương tiền:
- Vốn bằng tiền
11
- Các tài sản tương đương tiền: Gồm các khoản đầu tư tài chính ngắn hạn.
Việc tách riêng các khoản mục này nhằm mục đích cho doanh nghiệp theo

dõi dễ dàng khả năng thanh toán nhanh của mình và có những biện pháp linh hoạt
để đảm bảo khả năng thanh toán và nâng cao khả năng sinh lời của vốn lưu động.
• Các khoản phải thu:
Nghiên cứu các khoản phải thu giúp doanh nghiệp nắm bắt được chặt chẽ
và đưa ra những quyết sách tín dụng thương mại hợp lý, đáp ứng nhu cầu của
khách hàng nâng cao doanh số bán hàng cũng như hiệu quả sử dụng vốn.
• Hàng tồn kho: Là những khoản vốn lưu động có hình thái biểu hiện bằng hiện
vật cụ thể, bao gồm như:
- Vốn nguyên liệu, nhiên vật liệu: Vốn nguyên vật liệu chính, vốn vật liệu phụ,
vốn nhiên liệu.
- Công cụ dụng cụ trong kho
- Chi phí sản xuất kinh doanh dở dang
- Thành phẩm tồn kho
- Hàng gửi bán
- Hàng mua đang đi đường
Đối với doanh nghiệp, thì hàng tồn kho có vai trò như một tấm đệm an toàn
giữa các giai đoạn của chu kỳ kinh doanh như dự trữ - sản xuất – lưu thông vì
không phải lúc nào nó cũng hoạt động trơn chu đồng bộ. Giúp cho doanh nghiệp
tự bảo vệ trước những biến động cũng như sự không chắc chắn về nhu cầu đối
với các sản phẩm của doanh nghiệp.
• Tài sản lưu động khác:
Bao gồm: Tạm ứng, chi phí trả trước, chi phí chờ kết chuyển, các khoản thế
chấp, ký quỹ, ký cược ngắn hạn.
1.5. Kết cấu vốn lưu động và các nhân tố ảnh hưởng đến kết cấu vốn lưu động
Kết cấu vốn lưu động là quan hệ tỷ lệ giữa các thành phần trong tổng số
vốn lưu động tại một thời điểm nhất định.
12
Việc nghiên cứu kết cấu vốn lưu động sẽ giúp cho ta thấy tình hình phân bổ
và tỷ trọng các khoản vốn lưu động trong các giai đoạn luân chuyển, từ đó tìm
biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong từng giai đoạn và trong từng

điều kiện cụ thể.
Ở các doanh nghiệp khác nhau, thì kết cấu vốn lưu động cũng khác nhau,
nên khi phân tích sẽ giúp cho doanh nghiệp hiểu hơn những đặc điểm riêng về
số vốn mà mình đang quản lý và sử dụng. Mặt khác có thể thấy được mặt tích
cực và hạn chế chất lượng trong công tác quản lý sử dụng vốn lưu động.
Có ba nhóm nhân tố chủ yếu sau:
- Các nhân tố về sản xuất: kỹ thuật, công nghệ, mức độ phức tạp của sản
phẩm, trình độ tổ chức, độ dài của chu kỳ sản xuất,….
- Các nhân tố về mặt cung cấp: khoảng cách giữa doanh nghiệp và nơi cung
cấp, khả năng cung cấp của thị trường, kỳ hạn giao hàng và khối lượng vật tư được
cung cấp mỗi lần giao hàng, đặc điểm thời vụ của chủng loại vật tư cung cấp.
- Các nhân tố thanh toán: Phương thức thanh toán theo hợp đồng bán hàng,
thủ tục thanh toán, kỷ luật thanh toán.
2. Hiệu quả sử dụng vốn lưu động
2.1. Khái niệm
Theo nghĩa chung nhất, hiệu quả là một khái niệm phản ánh trình độ sử
dụng các yếu tố cần thiết để tham gia vào một hoạt động nào đó với một mục
đích do con người đề ra. Như vậy, có thể hiểu hiệu quả sử dụng vốn là một
phạm trù kinh tế đánh giá trình độ sử dụng các nguồn vật lực của doanh nghiệp
để đạt được kết quả cao nhất trong quá trình sản xuất kinh doanh với tổng chi
phí thấp nhất.
Như đã trình bày ở trên, vốn lưu động của doanh nghiệp được sử dụng
trong các quá trình từ dự trữ, sản xuất, cho đến lưu thông. Nó vận động liên tục
từ khi còn là nguyên vật liệu đến khi thành sản phẩm và trở thành tiền tệ và quay
trở lại doanh nghiệp với giá trị cao hơn. Doanh nghiệp càng sử dụng tốt vốn đó
13
tốt bao nhiêu thì càng tăng khả năng sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nhiều bấy
nhiêu.
Điều đó đòi hỏi doanh nghiệp phải sử dụng hợp lý và hiệu quả từng đồng
vốn lưu động, đồng nghĩa với việc nâng cao tốc độ luân chuyển vốn lưu động

(số vòng quay vốn lưu động trong năm).
Để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động chúng ta có thể sử dụng nhiều
chỉ tiêu khác nhau, nhưng tốc độ luân chuyển vốn lưu động chỉ là chỉ tiêu cơ bản
và tổng hợp nhất phản ánh trình độ sử dụng vốn lưu động của doanh nghiệp.
2.2. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động
2.2.1. Tốc độ luân chuyển vốn lưu động.
Tốc độ luân chuyển vốn lưu động là một chỉ tiêu tổng hợp đánh giá hiệu
quả sử dụng vốn lưu động của doanh nghiệp. Tốc độ này nhanh hay chậm phản
ánh khả năng tổ chức các mặt: mua sắm, dự trữ sản xuất, tiêu thụ của doanh
nghiệp có hợp lý hay không, các khoản vật tư dự trữ sử dụng có tốt hay không,
các khoản phí tổn trong quá trình sản xuất kinh doanh cao hay thấp. Thông qua
phân tích chỉ tiêu tốc độ luân chuyển vốn lưu động, có thể giúp cho doanh nghiệp
đẩy nhanh tốc độ luân chuyển vốn lưu động nâng cao hiệu quả sử dụng vốn.
• Vòng quay vốn lưu động trong kỳ (L
kỳ
)
M
kỳ
L
kỳ
=
VLĐBQ
kỳ
Trong đó:
+ M
kỳ
: Tổng vốn lưu động trong kỳ. Trong năm thì bằng doanh thu thuần
của doanh nghiệp.
Ta có : Doanh thu thuần
L

kỳ
=
Vốn lưu động bình quân trong kỳ
14
Đây là chỉ tiêu phản ánh số lần quay (vòng quay) của vốn lưu động trong
một thời kỳ nhất định, nó đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động trên mối quan
hệ so sánh giữa kết quả sản xuất (tổng doanh thu) và tổng vốn bình quân bỏ ra
trong kỳ. Số vòng quay này càng cao càng tốt.
Vốn lưu động bình quân trong kỳ (VLĐBQkỳ) được tính như sau:
VLĐ
đầu kỳ
+

VLĐ
cuối kỳ
VLĐBQ
kỳ
=
2
Vốn lưu động bình quân năm:
VLĐđầu năm + VLĐcuối năm
VLĐBQnăm =
2
(2) Thời gian luân chuyển vốn lưu động (K)
VLĐBQ
kỳ
x N
kỳ
K =
M

kỳ
Trong đó:
N
kỳ
: Số ngày ước tính trong một kỳ phân tích
Đây là chỉ tiêu phản ánh độ dài bình quân của một kỳ luân chuyển vốn lưu
động hay số ngày cần thiết cho một vòng quay trong kỳ của vốn lưu động.
Ngược lại chỉ tiêu số vòng quay vốn lưu động trong kỳ, thời gian càng ngắn
chứng tỏ vốn lưu động càng được sử dụng có hiệu quả.
Ngoài ra doanh nghiệp còn sử dụng chỉ tiêu tốc độ luân chuyển của các bộ
phận khác của vốn lưu động.
15
(3) Tốc độ luân chuyển của vốn lưu động trong dự trữ
M
dt
L
dt
=
VLĐBQ
dt
- Thời gian luân chuyển của vốn lưu động trong dự trữ
VLĐBQ
dt
x 360
K
dt
=
M
dt
(4) Tốc độ luân chuyển của vốn lưu động trong sản xuất

- Vòng quay của vốn lưu động trong sản xuất

sx
sx
sx
VLÑBQ
M
L =
- Thời gian luân chuyển vốn lưu động trong khâu sản xuất

sx
sx
sx
M
VLÑBQ
K
360×
=



lt
lt
lt
VL ÑBQ
M
L =
- Thời gian luân chuyển của vốn lưu động trong lưu thông

lt

lt
lt
M
VLÑBQ
K
360×
=
Trong đó:
L
dt,
, L
sx
, L
lt
: là

số lần luân chuyển của vốn lưu dộng trong khâu dự trữ , sản
xuất và lưu thông.
K
dt
, K
sx
, K
lt
: số ngày luân chuyển bình quân của vốn lưu động ở khâu dự
trữ, sản xuất và lưu thông
16
VLĐBQ
dt, ,
VLĐBQ

sx
, VLĐBQ
lt
: Vốn lưu động bình quân ở khâu dự trữ, sản
xuất và lưu thông
M
dt
, M
sx
, M
lt
: Mức luân chuyển vốn lưu động dùng để tính tốc độ luân
chuyển vốn lưu động trong khâu dự trữ, sản xuất và lưu thông
Khi tính hiệu suất luân chuyển của từng bộ phận vốn lưu động, cần phải
tính theo đặc điểm luân chuyển vốn của từng khâu để xác định mức luân chuyển
cho phù hợp với từng bộ phận vốn. Ở khâu dự trữ sản xuất, mỗi khi nguyên vật
liệu được đưa vào sản xuất thì vốn lưu động hoàn thành giai đoạn tuần hoàn của
nó nên mức luân chuyển để tính hiệu suất là toàn bộ chi phí tiêu hao nguyên vật
liệu trong kỳ. Ở khâu sản xuất thì đó là tổng giá thành nhập kho, khâu lưu thông
thì là toàn bộ tổng giá thành tiêu thụ sản phẩm.
2.2.2. Mức tiết kiệm vốn do tăng tốc độ luân chuyển vốn lưu động
Mức tiết kiệm vốn, là chỉ tiêu phản ánh số vốn lưu động có thể tiết kiệm
được do tăng tốc độ luân chuyển của vốn lưu động ở kỳ này so với kỳ trước.
Mức tiết kiệm này được biểu hiện bằng hai chỉ tiêu:
(1) Mức tiết kiệm tuyệt đối
Do tăng tốc độ luân chuyển vốn lưu động nên doanh nghiệp có thể tiết
kiệm một lượng vốn để dùng vào công việc khác, tức là khi tăng tốc độ luân
chuyển doanh nghiệp cần ít vốn hơn cho nên doanh nghiệp có thể sử dụng một
lượng vốn lưu động vào công việc khác. Lượng vốn ít hơn đó được gọi là mức
tiết kiệm tuyệt đối.

Mức tiết kiệm tuyệt đối vốn lưu động được tính theo công thức:
M
1
V
tktđ
= x K
1
– VLĐBQ
o
= VLĐBQ
1
– VLĐBQQ
o
360
17
Trong đó:
- V
tktđ
: Số vốn tiết kiệm tuyệt đối.
- VLĐBQ
0
, VLĐBQ
1
: Lần lượt là vốn lưu động bình quân năm báo cáo và năm kế
hoạch.
- M
1
: Tổng mức luân chuyển vốn lưu động của năm kế hoạch
- K
1

: Thời gian luân chuyển của vốn lưu động năm kế hoạch.
(2) Mức tiết kiệm tương đối
Thực chất đây là mức tiết kiệm do tăng tốc độ luân chuyển vốn lưu động,
nên doanh nghiệp có thể tăng thêm tổng mức luân chuyển vốn lưu động (tạo ra
doanh thu lớn hơn) mà không cần tăng thêm hoặc tăng không đáng kể quy mô
vốn lưu động.
Mức tiết kiệm tương đối được xác định theo công thức:
M
1
V
tktgđ
= x ( K
1
- K
o
)
360
Trong đó :
- V
tktgđ
: Vốn lưu động tiết kiệm tương đối do tăng vòng quay vốn lưu động.
- M
1
: Tổng mức luân chuyển vốn lưu động năm kế hoạch.
- K
0
, K
1
: Thời gian luân chuyển vốn lưu động năm báo cáo, năm kế hoạch.
2.2.3. Hệ số đảm nhiệm của vốn lưu độn

Vốn lưu động bình quân
Hệ số đảm nhiệm vốn lưu động =
Doanh thu
Hệ số đảm nhiệm vốn lưu động phản ánh số vốn lưu động cần có để đạt
được một đồng doanh thu thuần. Hệ số càng nhỏ phản ánh hiệu quả sử dụng
càng cao.
2.2.4. Hệ số sinh lợi của vốn lưu động
Lợi nhuận trước thuế ( hoặc sau thuế)
Hệ số sinh lợi của vốn lưu động =
Vốn lưu động bình quân
18
Chỉ tiêu này phản ánh một đồng vốn có thể tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận
trước thuế hoặc sau thuế thu nhập doanh nghiệp. Hệ số sinh lợi của vốn lưu
động càng cao thì chứng tỏ hiệu quả sử dụng vốn lưu động càng lớn.
Việc nghiên cứu về vốn lưu động và hiệu quả sử dụng vốn lưu động, các
chỉ tiêu phản ánh, đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động cho ta thấy tầm quan
trọng của vốn lưu động trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Vốn lưu động xuất hiện ở tất cả các khâu của quá trình sản xuất và vận động
theo vòng tuần hoàn. Tốc độ luân chuyển vốn là chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử
dụng vốn lưu động, việc tăng tốc độ luân chuyển sẽ đảm bảo cho doanh nghiệp
hoạt động có hiệu quả hơn: tiết kiệm vốn lưu động và nâng cao mức sinh lợi của
vốn lưu động trong doanh nghiệp. Như vậy, chúng ta phần nào hiểu được tầm
quan trọng của nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động.
2.3. Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động
2.3.1. Từ mục đích kinh doanh của doanh nghiệp
* Với mục tiêu là tối đa hoá giá trị doanh nghiệp, các doanh nghiệp phải
thường xuyên đưa ra các quyết định tài chính dài hạn và ngắn hạn. Quản lý và
sử dụng hiệu quả vốn lưu động là nôi dụng quan trọng trong các quyết định tài
chính và do đó có ảnh hưởng rất lớn đến việc tối đa hoá giá trị doanh nghiệp.
Với mục tiêu và định hướng như trên, nên doanh nghiệp phải tìm mọi biện

pháp tồn tại và phát triển. Xuất phát từ vai trò to lớn của vốn lưu động đã làm
cho việc nâng cao và sử dụng hiệu quả vốn nói chung và vốn lưu động nói riêng
tại các doanh nghiệp trở thành một yêu cầu khách quan, gắn với bản chất của
doanh nghiệp.
2.3.2. Từ vai trò của vốn lưu động đối với doanh nghiệp
Vốn lưu động là một thành phần quan trọng không thể thiếu của mọi
doanh nghiệp, đóng vai trò quan trọng trong tất cả các khâu của quá trình sản
xuất kinh doanh. Nó đảm bảo cho sản xuất được liên tục, đáp ứng nhu cầu tiêu
thụ liên tục, đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Thời gian luân chuyển vốn lưu
động ngắn, số vòng luân chuyển lớn làm cho việc quản lý thường xuyên diễn ra
19
liên tục và hàng ngày. Với vai trò to lớn như vậy, việc nâng cao hiệu quả sử
dụng vốn lưu động là một yêu cấu tất yếu.
2.3.3. Từ ý nghĩa của việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động
Việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động tức là tăng tốc độ luân
chuyển và rút ngắn thời gian vốn lưu động nằm trong lĩnh vực dự trữ và lưu
thông, từ đó làm giảm số lượng vốn lưu động chiếm dụng, tiết kiệm vốn lưu
động trong luân chuyển. Thông qua việc tăng tốc độ luân chuyển vốn lưu động,
doanh nghiệp có thể giảm bớt vốn lưu động chiếm dụng mà vẫn đảm bảo cho
hoạt động sản xuất kinh doanh được diễn ra liên tục với quy mô cũ thậm chí có
thể mở rộng quy mô hơn. Việc này cũng có ảnh hưởng tới việc hạ giá thành sản
phẩm, tạo điều kiện cho doanh nghiệp có đủ vốn thoả mãn nhu cầu và hoàn
thành nghĩa vụ với ngân sách nhà nước.
2.3.4. Từ thực trạng hiệu quả sử dụng vốn lưu động ở các doanh nghiệp trong
nền kinh tế thị trường
Trên thực tế có rất nhiều nguyên nhân làm cho một doanh nghiệp có thể bị
thất bại trên thị trường. Có nguyên nhân chủ quan, có nguyên nhân khách quan.
Nhưng có một nguyên nhân phổ biến đó là sử dụng không hiệu quả vốn khi mua
sắm, dự trữ sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Điều này dẫn đến việc lãng phí vốn
lưu động, tốc độ luân chuyển vốn thấp, mức sinh lời kém nếu không muốn nói là

không kiểm soát được dẫn đến mất khả năng tổ chức sản xuất kinh doanh, khả
năng thanh toán.
Xét từ góc độ quản lý thì yêu cầu cần nâng cao năng lực quản lý tài chính,
trong đó chú trọng nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động là một nội dung
quan trọng không chỉ đảm bảo lợi ích cho doanh nghiệp mà còn là cho toàn bộ
nền kinh tế.
2.4. Các biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động
2.4.1. Những điều kiện nâng cao sử dụng vốn lưu động
Hoạt động của doanh nghiệp như trên đã nói là nhằm mục đích là tối đa hoá
giá trị của doanh nghiệp, nên việc nghiên cứu các biện pháp nâng cao hiệu quả
20
sử dụng vốn lưu động sẽ góp phần giúp cho doanh nghiệp đạt được mục đích
trên. Yêu cầu với doanh nghiệp trong quá trình hoạt động kinh doanh là:
- Hướng tới hiệu quả kinh tế, tối đa hoá giá trị doanh nghiệp. Đảm bảo
sử dụng có hiệu quả vốn lưu động có mục đích, đúng phương hướng và kế
hoạch, ….
- Phải chấp hành nghiêm các quy định của nhà nước về quản lý tài chính, kế
toán thống kê….
2.4.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn lưu động
Hoạt động của doanh nghiệp chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố khác nhau,
chính vì thế để có thể đưa ra một quyết định tài chính doanh nghiệp phải xác
định và xem xét các nhân tố ảnh hưởng đến vấn đề đó, từ đó đưa ra các biện
pháp thích hợp. Do vậy khi xét đến việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu
động chúng ta cần xem xét đến các nhân tố ảnh hưởng đến nó. Có thể chia các
nhân tố dưới 2 giác độ nghiên cứu sau:
(1) Các nhân tố lượng hóa:
Là các nhân tố mà khi chúng ta thay đổi sẽ làm cho các chỉ tiêu phản ánh
hiệu quả sử dụng vốn lưu động thay đổi về mặt lượng. Ví như: Doanh thu thuần,
lợi nhuận trước thuế, hoặc lợi nhuận sau thuế thu nhập doanh nghiệp, vốn lưu
động bình quân trong kỳ, các bộ phân vốn lưu động.

Vốn lưu động là biểu hiện bằng tiền của tài sản lưu động nên chịu sự chi
phối bởi những đặc điểm của tài sản lưu động, doanh nghiệp cần phải có biện
pháp quản lý khoa học để sử dụng vốn lưu động có hiệu quả. Quản lý tài sản lưu
động được chia thành 3 nội dung quản lý chính như sau:
• Quản lý dự trữ, tồn kho
Đây là bộ phận quan trọng của vốn lưu động trong doanh nghiệp, nó cho
biết qúa trình hoạt động bình thường của doanh nghiệp. Hàng tồn kho gồm ba
loại: Nguyên vật liệu thô phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh, sản phẩm
dở dang và thành phẩm.
21
Nguyên vật liệu dự trữ không trực tiếp tạo ra lợi nhuận, nhưng nó có vai trò
rất lớn để cho quá trình sản xuất kinh doanh được tiến hành bình thường. Quản
lý nguyên vật liệu hiệu quả sẽ giúp cho việc quản lý và nâng cao hiệu quả sử
dụng vốn lưu động đạt được cao hơn. Do vậy, doanh nghiệp phải tính toán dự
trữ một cách hợp lý nếu không sẽ gây tốn kém chi phí ứ đọng vốn, nếu thiếu dự
trữ sẽ làm tình trạng gián đoạn quá trình sản xuất, gây ra hàng loạt các hậu quả
như mất thị trường và giảm lợi nhuận.
Tồn kho trong quá trình sản xuất là các nguyên liệu nằm trong các giai
đoạn của dây chuyền sản xuất. Đây là bước đệm nhỏ cho quá trình được diễn ra
liên tục và thông suốt.
Hàng hoá dự trữ đối với doanh nghiệp gồm ba bộ phận trên, nhưng thông
thường chúng ta tập trung vào bộ phận thứ nhất là nguyên vật liệu dự trữ cho
hoạt động kinh doanh.
Có nhiều phương thức nhằm quản lý mức dự trữ tối ưu:
- Theo phương pháp cổ điển hay mô hình EOQ – Economic Odering
Quantity
Mô hình này được giả định là lần cung cấp hàng hoá là bằng nhau. Mức dự
trữ tối ưu là:
2 x D x C
Q* =

C
1
Trong đó:
Q*: Mức dự trữ tối ưu.
D: Toàn bộ lượng hàng hoá cần dùng.
C
2
: Chi phí mỗi lần đặt hàng (chi phí quản lý và vận chuyển hàng hoá)
C
1
: Chi phí lưu kho đơn vị hàng hoá (chi phí bốc dỡ, bảo hiểm, bảo quản)
22
Điểm đặt hàng mới :
Về lý thuyết thì giả định, khi nào hàng kỳ trước hết mới nhập kho hàng
mới nhưng trên thực tế thì không bao giờ được như vậy, nên doanh nghiệp phải
xác định thời điểm đặt hàng mới:
Thời điểm đặt hàng mới = Số lượng nguyên vật liệu dụng sử dụng một
ngày x Độ dài thời gian.
Lương dự trữ an toàn:
Do nguyên vật liệu sử dụng mỗi ngày biến động liên tục mà không cố định,
nên để đảm bảo cho hoạt động sản xuất được liên tục thì doanh nghiệp phải duy
trì một lượng hàng hoá dự trữ an toàn. Lượng dự trữ an toàn là lượng hàng hoá
dự trữ thêm vào lượng dữ trữ tại thời điểm đặt hàng.
Ngoài ra doanh nghiệp còn có thể sử dụng phương pháp:
- Phương pháp cung cấp đúng lúc hay dự trữ bằng không.
Theo phương pháp này, các doanh nghiệp có thể huy động những sản phẩm
của những đơn vị khác cùng ngành nghề mà không phải dự trữ. Phương pháp
này sẽ hạ thấp nhất chi phí dự trữ, nhưng phương pháp này tạo ra sự ràng buộc
giữa các doanh nghiệp khiến cho các doanh nghiệp mất tính chủ động trong hoạt
động sản xuất kinh doanh.

• Quản lý tiền mặt và chứng khoán thanh khoản cao
Tiền mặt là tiền tồn quỹ, tiền trên tài khoản thanh toán của doanh nghiệp ở
ngân hàng. Tiền mặt bản thân nó không sinh lãi, nhưng việc giữ tiền trong kinh
doanh là điều quan trọng, đảm bảo giao dịch hàng ngày, đáp ứng nhu cầu dự
phòng trong trường hợp biến động không lường trước được của các luồng tiền
vào ra, hưởng lợi thế trong thương lượng mua hàng.
Quản lý tiền mặt đề cập đến việc quản lý các loại tiền giấy và các loại tiền
gửi ngân hàng. Sự quản lý này liên quan chặt chẽ đến quản lý các loại tài sản
gắn liền với tiền mặt, như các loại chứng khoán có khả năng thanh khoản cao.
Ta có sơ đồ luân chuyển sau:
23
 !!"
#$%&'()*& !+,!"-. !!")/012&3
412&3 (2&3 4(12&3
Nhìn một cách tổng quát thì tiền mặt là một loại tài sản đặc biệt, có tỉnh
lỏng cao nhất. Trong hoạt động kinh doanh doanh nghiệp phải lưu giữ tiền mặt
cần thiết cho thanh toán các hoá đơn,…. Chi phí cho việc giữ tiền mặt là chi phí
cơ hội, là lãi suất mà doanh nghiệp bị mất. Chi phí đặt hàng chính là chi phí cho
việc bán các chứng khoán. Khi đó áp dụng mô hình EOQ ta có lượng tiền mặt
dự trữ tối ưu là:

2 x M
n
x C
b
M*=
i
Trong đó:
M*: là tổng mức tiền mặt giải ngân hàng năm.
C

b
: Chi phí một lần bán chứng khoán thanh khoản.
i: lãi suất.
Mô hình Baumol này cho thấy nếu lãi suất cao, doanh nghiệp càng ít tiền
mặt và ngược lai, nếu chi phí cho việc bán chứng khoán thanh khoản càng cao
thì họ lại càng giữ nhiều tiền mặt. Mô hình này giả định rằng doanh nghiệp luôn
chi tiêu tiền mặt một cách ổn định mà điều này là không có thực. Điều này luôn
luôn không đúng với thự tế.
24
- Mô hình quản lý tiền mặt của Miller Orr:
Đây là mô hình kết hợp giữa mô hình đơn giản và thực tế. Theo mô hình
này, doanh nghiệp sẽ xác định mức giới hạn trên dưới của tiền mặt, đó là các
điểm mà doanh nghiệp bắt đầu tiến hành nghiệp vụ mua bán chứng khoán có
tính thanh khoản cao để cân đối lượng tiền mặt dự kiến.
Mức tiền mặt theo thiết kế được xác định như sau:
Mức tiền mặt
theo thiết kế =
Mức tiền mặt
giới hạn +
Khoảng dao động tiền mặt
3
Khoảng dao động tiền mặt dự kiến phụ thuộc vào ba yếu tố sau: Mức giao
động của thu chi ngân quỹ hàng ngày lớn hay nhỏ, chi phí cố định của việc
mua bán chứng khoán, lãi suất càng cao doanh nghiệp càng ít giữ lại tiền và
do vậy khoảng dao động sẽ giảm xuống. Khoảng dao động tiền mặt được xác
định như sau:

3 3 x V
b
x C

b
d = 3x 4 x i
Trong đó:
d: Khoảng dao động tiền mặt (giữa giới hạn trên và giới hạn dưới của
khoản tiền mặt dự trữ)
C
b
: Chí phí của mỗi lần giao dịch mua bán chứng khoán thanh khoản.
V
b
: Phương sai của thu chi ngân quỹ.
i: Lãi suất.
Trong các doanh nghiệp lớn, luồng tiền vào ra là lớn nên chi phí cho việc
mua bán chứng khoán sẽ trở nên nhỏ hơn so với cơ hội phí mất đi do việc lưu
giữ một lượng tiền mặt nhàn rỗi, nên hoạt động mua bán chứng khoán thường
diễn ra ở những doanh nghiệp lớn, và do vậy chúng ta có thể thấy tại sao các
doanh nghiệp nhỏ thường lưu giữ một lượng tiền mặt đáng kể.
25

×