LỜI CẢM ƠN
Người viết đề tài xin chân thành cảm ơn lãnh đạo Học viện Quản lý giáo
dục, lãnh đạo các phòng, ban của Học viện đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi
trong quá trình học tập, nghiên cứu khoa học giáo dục, công tác quản lí giáo
dục và quá trình viết luận văn.
Xin chân thành cảm ơn các thầy, cô giáo đã tận tình chỉ bảo trong quá
trình học tập và nghiên cứu viết luận văn Thạc sĩ khoa học giáo dục, chuyên
ngành Quản lí giáo dục. Đó là thời gian vô cùng quý báu, bổ ích về chuyên
môn, nghiệp vụ, về phương pháp nghiên cứu khoa học và cũng là quá trình
rèn luyện phẩm chất nhà giáo, phẩm chất người làm công tác nghiên cứu khoa
học.
Xin bày tỏ lòng biết ơn đến PGS.TS Phan Thị Hồng Vinh đã trực tiếp
hướng dẫn tận tình, chỉ bảo để luận văn được hoàn thành đúng thời hạn và đạt
được các yêu cầu của một công trình nghiên cứu khoa học giáo dục ở trình độ
Thạc sĩ.
Xin chân thành cảm ơn Ban Giám hiệu Trường Cao đẳng Văn hóa, Thể
thao và Du lịch Nguyễn Du, Phòng GD-ĐT TP Hà Tĩnh. Các đồng chí, đồng
nghiệp đã quan tâm, giúp đỡ toàn diện trong quá trình nghiên cứu và hoàn
thiện luận văn.
Người viết đề tài sẽ tiếp tục phấn đấu để đáp lại sự quan tâm, giúp đỡ
của các cấp lãnh đạo, các thầy cô giáo, các đồng chí, các bạn đồng nghiệp để
góp phần thiết thực vào sự nghiệp giáo dục.
Một lần nữa xin chân thành cảm ơn!
Tác giả: Dương Kim Thạch
1
MỤC LỤC
MỤC LỤC 2
BẢNG KÍ HIỆU VIẾT TẮT 6
DANH MỤC BẢNG BIỂU 7
MỞ ĐẦU 8
1. Lí do chọn đề tài 8
2. Mục đích 13
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu 13
4. Nhiệm vụ nghiên cứu 13
5. Giả thuyết khoa học 13
6. Phương pháp nghiên cứu 14
6.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lí luận 14
6.2. Nhóm các phương pháp thực tiễn 14
6.2.1. Phương pháp tổng kết kinh nghiệm 14
6.2.2. Phương pháp điều tra 14
6.2.3. Phương pháp chuyên gia 14
6.2.4. Phương pháp xử lí số liệu 15
7. Giới hạn và phạm vi nghiên cứu của đề tài 15
8. Điểm mới của luận văn 15
9. Kết cấu của luận văn 15
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ PHÁT TRIỂN ĐỘI NGŨ
GIÁO VIÊN ÂM NHẠC TRUNG HỌC CƠ SỞ 16
1.1. Tổng quan vấn đề nghiên cứu 16
1.1.1. Trên thế giới 16
1.1.2. Ở Việt Nam 18
1.2. Một số khái niệm cơ bản liên quan đến vấn đề nghiên cứu 21
1.2.1. Giáo viên, giáo viên trung học cơ sở 21
1.2.2. Đội ngũ giáo viên trung học cơ sở 23
1.2.3. Quản lí giáo dục 23
1.2.4. Biện pháp 25
1.2.5. Một số khái niệm về phát triển nguồn nhân lực 26
1.3. Phát triển đội ngũ giáo viên âm nhạc trung học cơ sở 27
1.3.1. Vị trí, vai trò của của giáo viên âm nhạc trung học cơ sở 27
1.3.2. Cơ sở pháp lí của xây dựng và phát triển đội ngũ giáo viên âm
nhạc THCS 29
1.3.3. Phát triển nguồn nhân lực trong phát triển đội ngũ giáo viên âm
nhạc THCS 32
1.4. Yêu cầu phát triển đội ngũ giáo viên âm nhạc THCS 34
1.4.1. Đáp ứng yêu cầu về số lượng 34
1.4.2. Đồng bộ về cơ cấu 36
1.4.3. Nâng cao về chất lượng 37
1.5. Nội dung phát triển đội ngũ giáo viên âm nhạc THCS 39
2
1.5.1. Quy hoạch, lập kế hoạch phát triển đội ngũ giáo viên âm nhạc
THCS 39
1.5.2. Tuyển dụng, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ giáo viên âm nhạc THCS
40
1.5.3. Sử dụng có hiệu quả đội ngũ giáo viên âm nhạc THCS 44
1.5.4. Tạo môi trường, động lực làm việc và khuyến khích sự phát triển
đội ngũ giáo viên âm nhạc THCS 45
1.5.5. Xây dựng cơ chế, chính sách đãi ngộ giáo viên âm nhạc THCS. .46
1.6. Các yếu tố ảnh hưởng đến phát triển đội ngũ giáo viên âm nhạc THCS
46
1.6.1. Công tác đào tạo giáo viên âm nhạc THCS 46
1.6.2. Công tác tuyển dụng và sử dụng giáo viên âm nhạc THCS 47
1.6.3. Cơ chế chính sách đối với giáo viên âm nhạc THCS 47
Tiểu kết chương 1 47
Chương 2: THỰC TRẠNG ĐỘI NGŨ GIÁO VIÊN VÀ CÔNG TÁC PHÁT
TRIỂN ĐỘI NGŨ GIÁO VIÊN ÂM NHẠC THCS Ở THÀNH PHỐ HÀ
TĨNH, TỈNH HÀ TĨNH HIỆN NAY 49
2.1. Tổng quan về sự phát triển kinh tế - xã hội - giáo dục của thành phố Hà
Tĩnh, tỉnh Hà Tĩnh 49
2.1.1. Đặc điểm tự nhiên và tình hình kinh tế - xã hội 49
2.1.1.1. Vị trí địa lí 49
2.1.1.2: Điều kiện kinh tế xã hội 50
2.1.2. Giáo dục và đào tạo trên địa bàn thành phố Hà Tĩnh 50
2.1.2.1: Về quy mô 50
2.1.2.2: Về chất lượng giáo dục 51
2.2. Khái quát về tình hình giảng dạy các môn âm nhạc, mĩ thuật trên địa
bàn thành phố Hà Tĩnh, tỉnh Hà Tĩnh hiện nay 54
2.2.1. Những thuận lợi và khó khăn khi triển khai thực hiện giảng dạy
âm nhạc ở các trường THCS trên địa bàn thành phố Hà Tĩnh hiện nay 54
2.2.1.1. Thuận lợi 54
2.2.1.2. Khó khăn 54
2.1.2.3. Một số nét về tình hình giảng dạy các môn âm nhạc ở địa bàn
thành phố Hà Tĩnh 55
2.3. Thực trạng đội ngũ giáo viên âm nhạc trung học cơ sở trên địa bàn
thành phố Hà Tĩnh hiện nay 57
2.3.1. Vài nét về thực trạng đội ngũ giáo viên âm nhạc THCS hiện nay 57
2.3.2. Về số lượng 58
2.3.3. Về chất lượng 58
2.3.4. Đánh giá chung về thực trạng đội ngũ giáo viên âm nhạc ở các
trường THCS trên địa bàn thành phố Hà Tĩnh hiện nay 59
2.3.4.1. Những ưu điểm: 59
2.3.4.2. Những tồn tại 60
3
2.4. Thực trạng nhận thức về sự cần thiết và phát triển của bộ môn âm nhạc
60
2.4.1. Nhận thức của cán bộ quản lí và giáo viên về sự cần thiết của bộ
môn âm nhạc và phát triển đội ngũ giáo viên âm nhạc THCS 61
2.4.2. Đánh giá về nhận thức của CBQL và GV âm nhạc THCS 62
2.5. Thực trạng công tác phát triển đội ngũ giáo viên âm nhạc trung học cơ
sỏ ở thành phố Hà Tĩnh hiện nay 62
2.5.1. Thực trạng công tác quy hoạch, lập kế hoạch phát triển đội ngũ
giáo viên âm nhạc trung học cơ sở ở thành phố Hà Tĩnh hiện nay 62
2.5.2. Thực trạng công tác tuyển dụng, sử dụng giáo viên âm nhạc THCS
64
2.5.3. Thực trạng về công tác đào tạo, bồi dưỡng giáo viên âm nhạc
THCS 65
2.5.4. Thực trạng công tác kiểm tra, đánh giá, phát triển đội ngũ giáo
viên âm nhạc 67
2.5.5. Đánh giá tổng hợp thực trạng các biện pháp phát triển đội ngũ giáo
viên âm nhạc THCS 69
2.6. Nguyên nhân của thực trạng 70
2.6.1. Nguyên nhân của những mặt mạnh 70
2.6.2. Nguyên nhân của những hạn chế 71
Tiểu kết chương 2 72
Chương 3:
BIỆN PHÁP PHÁT TRIỂN ĐỘI NGŨ GIÁO VIÊN ÂM NHẠC THCS
TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ TĨNH GIAI ĐOẠN 2011 - 2015 73
3.1. Những nguyên tắc đề xuất các biện pháp 73
3.1.1. Nguyên tắc mục tiêu 73
3.1.2. Nguyên tắc toàn diện 73
3.1.3. Nguyên tắc hiệu quả 73
3.2. Các biện pháp phát triển đội ngũ giáo viên âm nhạc THCS ở địa bàn
thành phố Hà Tĩnh giai đoạn 2011 - 2015 74
3.2.1. Phòng GD & ĐT lập quy hoạch, phát triển đội ngũ giáo viên âm
nhạc THCS trên địa bàn TP Hà Tĩnh 74
3.2.1.1. Ý nghĩa 74
3.2.1.2. Nội dung 74
3.2.1.3. Cách tiến hành 75
3.2.1.4. Điều kiện thực hiện 75
3.2.2. Đổi mới phương thức tuyển dụng giáo viên âm nhạc THCS trên
địa bàn TP Hà Tĩnh 77
3.2.2.1. Ý nghĩa 77
3.2.2.2. Nội dung 77
3.2.2.3. Cách tiến hành 77
3.2.2.4. Điều kiện thực hiện 78
4
3.2.3. Đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ đội ngũ giáo viên âm nhạc
THCS hiện có trên địa bàn TP Hà Tĩnh 79
3.2.3.1. Ý nghĩa 79
3.2.3.2. Nội dung 81
3.2.3.3. Cách tiến hành 84
3.2.3.4. Điều kiện thực hiện 88
3.2.4. Hình thành bộ phận chức năng phụ trách công tác chuyên môn âm
nhạc ở cơ quan quản lí giáo dục 89
3.2.4.1. Ý nghĩa 90
3.2.4.2. Nội dung 90
3.2.4.3. Cách tiến hành 90
3.2.4.4. Điều kiện thực hiện 91
3.2.5. Phòng GD - ĐT phối hợp với các trường CĐ và các trường ĐH
trên địa bàn có đào tạo ngành sư phạm âm nhạc 92
3.2.5.1. Ý nghĩa 92
3.2.5.2. Nội dung 92
3.2.5.3. Cách thức tiến hành 95
3.2.5.4. Điều kiện thực hiện 97
3.3. Khảo sát tính cần thiết và khả thi của các biện pháp đề xuất 98
Tiểu kết chương 3 100
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 101
1. Kết luận 101
2. Kiến nghị 102
TÀI LIỆU THAM KHẢO 103
PHỤ LỤC 106
5
BẢNG KÍ HIỆU VIẾT TẮT
Chữ viết tắt Xin đọc là
BDTX Bồi dưỡng thường xuyên
BCHTW Ban chấp hành Trung ương
BGH Ban giám hiệu
BTV Ban thường vụ
CNTT Công nghệ thông tin
CNH, HĐH Công nghiệp hoá, hiện đại hoá
ĐT Đào tạo
GD- ĐT (GD&ĐT) Giáo dục và Đào tạo
GD Giáo dục
GDTX Giáo dục thường xuyên
GV Giáo viên
KT- XH Kinh tế - xã hội
NQ Nghị quyết
NXB Nhà xuất bản
PPDH Phương pháp dạy học
QLGD Quản lí giáo dục
SGK Sách giáo khoa
SKKN Sáng kiến kinh nghiệm
TB Trung bình
TBDH Thiết bị dạy học
THCS Trung học cơ sở
UBND Uỷ ban nhân dân
6
DANH MỤC BẢNG BIỂU
TT
Số
bảng
Tên bảng biểu
1 2.1 Số liệu giáo dục của Hà Tĩnh năm học 2011-2012
2 2.2 Thông tin chung về các trường THCS Năm học 2011-2012
3 2.3 Cơ cấu và trình đội chuyên môn đội ngũ GV THCS Năm 2011
4 2.4
GV THCS trên địa bàn Hà Tĩnh phân chia theo độ tuổi năm học
2011-2012
5 2.5 Số liệu về HS THCS tính từ năm học 2008-2011
6 2.6 Kết quả học tập môn âm nhạc của HS THCS
7 2.7 Thực trạng về số lượng, chất lượng GV dạy môn âm nhạc THCS
8 2.8
Tổng hợp kết quả đánh giá xếp loại giáo viên âm nhạc THCS từ
năm 2008-2011
9 2.9
Kết quả khảo sát nhận thức của CBQL,GV về sự cần thiết và
phát triển đội ngũ GV âm nhạc ở trường THCS
10 2.10
Khảo sát đánh giá về quy hoạch, lập kế hoạch phát triển đội ngũ
GV âm nhạc THCS
11 2.11
Khảo sát đánh giá về thực trạng công tác tuyển dụng, sử dụng
GV âm nhạc THCS
12 2.12
Số lượng giáo viên âm nhạc được cử đi đào tạo, bồi dưỡng từ
năm học 2008-2012
13 2.13
Khảo sát về công tác đào tạo, bồi dưỡng GV âm nhạc THCS
trên địa bàn TP Hà Tĩnh
14 2.14
Kết quả điều tra về thực trạng công tác kiểm tra đánh giá GV
âm nhạc THCS
15 2.15
Ý kiến đánh giá tổng hợp các vấn đề về thực trạng phát triển đội
ngũ GV âm nhạc THCS trên địa bàn TP Hà Tĩnh
16 3.1
Kết quả khảo sát tính cần thiết và khả thi của các biện pháp
phát triển đội ngũ giáo viên âm nhạc THCS Trên địa bàn TP Hà
Tĩnh.
7
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Ngay từ thời cổ đại, vai trò của giáo dục và đào tạo đối với sự phát triển
toàn diện con người cũng như sự tồn tại, phát triển của mỗi quốc gia và toàn
thể nhân loại đã được khẳng định; trong xã hội hiện đại, hơn bao giờ hết, vai
trò đó càng được thể hiện rõ nét. Bản chất con người không bẩm sinh mà là
kết quả tương tác của nhiều yếu tố, trong đó vai trò của giáo dục đóng vai trò
đặc biệt quan trọng. Con người xã hội là sản phẩm của nền giáo dục xã hội.
Trình độ giáo dục của mỗi nước là biểu hiện trình độ phát triển của đất nước
đó.
Nhận thức một cách sâu sắc vai trò của giáo dục đối với sự tồn vong của
đất nước, ngay từ khi mới giành được chính quyền, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ
“một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”. Vì thế, xuyên suốt tư tưởng đó của Hồ
Chủ tịch, trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo cách mạng, Đảng và Nhà nước ta
đã luôn quan tâm đến sự nghiệp giáo dục và đào tạo. Nghị quyết của Đại hội
lần thứ IV của Đảng (1979) đã ra quyết định số 14-NQTƯ về cải cách giáo
dục với tư tưởng: Xem giáo dục là bộ phận quan trong của cuộc cách mạng tư
tưởng; thực thi nhiệm vụ chăm sóc và giáo dục thế hệ trẻ từ nhỏ đến lúc
trưởng thành; thực hiện tốt nguyên lí giáo dục học đi đôi với hành, giáo dục
kết hợp với lao động sản xuất, nhà trường gắn liền với xã hội. Tư tưởng chỉ
đạo trên được phát triển bổ sung, hoàn thiện cho phù hợp với yêu cầu thực tế
qua các kỳ Đại hội VI, VII, VIII, IX, X của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đặc
biệt, sự nghiệp Giáo dục và Giáo dục lí luận chính trị được Đại hội toàn quốc
lần thứ X đặc biệt quan tâm và nhấn mạnh hơn nữa nhằm giáo dục con người
phát triển toàn diện, nhất là thế hệ trẻ. Đại hội X đã xác định mục tiêu giáo
dục là nhằm bồi dưỡng thế hệ trẻ tinh thần yêu nước, lòng tự tôn dân tộc, lí
tưởng chủ nghĩa xã hội, lòng nhân ái, ý thức tôn trọng pháp luật, tinh thần
hiếu học, ý chí tiến thủ lập nghiệp, không cam chịu nghèo nàn, đào tạo lớp
người lao động có kiến thức cơ bản, làm chủ năng lực nghề nghiệp, quan tâm
8
hiệu quả thiết thực, nhảy cảm với chính trị, có ý chí vươn lên về khoa học -
công nghệ. Để cụ thể chủ trương đó, Đảng và Nhà nước ta đã chủ trương phát
triển giáo dục một cách tổng thể và toàn diện, bắt đầu từ chủ trương phát triển
giáo dục mầm non, thực hiện xoá mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học và
trung học cơ sở trên phạm vi cả nước, tạo môi trường thuận lợi để cho mọi
người học tập và học tập suốt đời. Điều hành hợp lí cơ cấu bậc học, cơ cấu
ngành nghề, cơ cấu vùng trong hệ thống Giáo dục và đào tạo, quan tâm đào
tạo đội ngũ công nhân kỹ thuật lành nghề, hướng vào mục tiêu phát triển kinh
tế, thực hiện tốt chính sách giáo dục gắn với phát triển kinh tế xã hội. Hiện
nay, Đảng và Nhà nước ta lại càng quan tâm hơn nữa đến sự nghiệp Giáo dục
và đào tạo nhằm nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ và nhân dân lao động
để họ tham gia hội nhập mà vẫn giữ vững truyền thống văn hoá dân tộc, đồng
thời tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại, làm chủ khoa học tiên tiến.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
(Bổ sung, phát triển năm 2011) được thông qua tại Đại hội Đại biểu Đảng
toàn quốc lần thứ XI đã xác định: Con người là trung tâm của chiến lược phát
triển, đồng thời là chủ thể phát triển. Tôn trọng và bảo vệ quyền con người,
gắn quyền con người với quyền và lợi ích của dân tộc, đất nước và quyền làm
chủ của nhân dân. Kết hợp và phát huy đầy đủ vai trò của xã hội, gia đình,
nhà trường, từng tập thể lao động, các đoàn thể và cộng đồng dân cư trong
việc chăm lo xây dựng con người Việt Nam giàu lòng yêu nước, có ý thức
làm chủ, trách nhiệm công dân; có tri thức, sức khỏe, lao động giỏi; sống có
văn hoá, nghĩa tình; có tinh thần quốc tế chân chính. Đường lối, chủ trương
của Đảng được thể hiện trong Luật giáo dục hiện hành.
Luật Giáo dục được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam khóa XI, kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 14 tháng 6 năm 2005, điều 2 Mục
tiêu giáo dục: đã xác định: “Mục tiêu giáo dục là đào tạo con người Việt Nam
phát triển toàn diện, có đạo đức, tri thức, sức khỏe, thẩm mĩ và nghề nghiệp,
trung thành với lí tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hình thành và
9
bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của công dân, đáp ứng yêu cầu
của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. Con người Việt Nam mới chính
là con người phát triển toàn diện các phẩm chất tâm lực, trí lực, thể lực; đức -
trí - thể - mĩ.
Để đào tạo được những con người phát triển toàn diện, con người mới xã
hội chủ nghĩa đáp ứng được yêu cầu cao của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước đòi hỏi ngành giáo dục phải thực hiện đồng bộ nhiều biện
pháp. Một trong những biện pháp hàng đầu đó chính là hoàn thiện chương
trình đào tạo, sao cho chương trình đó phải đảm bảo tính kế thừa, tính phù
hợp, tính hiện đại, khả thi và tính toàn diện. Chương trình giáo dục toàn diện
thể hiện trước hết ở nội dung giáo dục, các môn học được giảng dạy trong
trường học. Chương trình đó không chỉ quan tâm giảng dạy các bộ môn khoa
học tự nhiên, kỹ thuật; giáo dục chính trị tư tưởng; khoa học xã hội nhân văn
mà còn phải chú trọng đến giáo dục thẩm mĩ cho người học.
Nền giáo dục cách mạng của chúng ta được hình thành ngay từ sau Cách
mạng tháng Tám năm 1945, tuy nhiên do điều kiện, hoàn cảnh cụ thể lúc đó,
mục đích giáo dục trước mắt chính là “diệt giặc dốt”, chính là “xóa mù chữ”,
nâng cao nhận thức của nhân dân. Sau ngày hòa bình lập lại, thống nhất đất
nước, chúng ta đã hướng đến nền giáo dục toàn diện, tuy nhiên, do những khó
khăn nhiều mặt của thời hậu chiến, thời bao cấp nên chương trình giáo dục
phổ thông của chúng ta chưa thật sự toàn diện. Vấn đề giáo dục thẩm mĩ như
âm nhạc, mĩ thuật cho HSPT nói chung hoàn toàn chưa được quan tâm, nhất
là giáo dục phổ thông. Vì thế có thể nói nhiều thế hệ học sinh Việt Nam
không có kiến thức sơ đẳng về âm nhạc, mĩ thuật. Hệ lụy của tình trạng đó
chính là những người này không có được nhận thức thẩm mĩ tối thiểu, từ đó
năng lực cảm thụ thẩm mĩ trong cuộc sống hạn chế, thị hiếu thẩm mĩ thấp.
Tuy nhiên, gần đây, chương trình âm nhạc, mĩ thuật đã được đưa vào
giảng dạy bắt buộc ở bậc học tiểu học, trung học cơ sở trên phạm vi toàn
quốc. Điều đó chứng tỏ, ngành Giáo dục và Đào tạo nước ta đã quan tâm đến
10
giáo dục toàn diện. Thực tế cũng chứng minh rằng, công dân nhất thiết phải
được trang bị các kiến thức cần thiết về âm nhạc, hội họa. Điều đó giúp con
người biết cảm thụ cái đẹp, thưởng thức cái đẹp trong âm nhạc, hội họa, qua
đó nâng cao trình độ nhận thức thẩm mĩ, định hướng thị hiếu thẩm mĩ đối với
người dân. Một nền giáo dục toàn diện, rõ ràng không thể không quan tâm
đến giáo dục mĩ thuật, âm nhạc.
Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX nêu rõ: "Tiếp tục nâng cao chất
lượng giáo dục toàn diện, đổi mới nội dung, phương pháp dạy và học, hệ
thống trường lớp và hệ thống quản lí giáo dục; thực hiện chuẩn hoá, hiện đại
hoá, xã hội hoá". Nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục. Tạo chuyển biến cơ
bản về chất lượng giáo dục, trước hết nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo,
thực hiện giáo dục toàn diện, đặc biệt chú trọng giáo dục tư tưởng - chính trị,
nhân cách, đạo đức, lối sống cho người học.
Hiện nay, nước ta đã hội nhập ngày càng sâu rộng với thế giới, Đảng và
Nhà nước ta lại càng phải quan tâm hơn nữa đến sự nghiệp Giáo dục và đào
tạo nhằm nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ và nhân dân lao động để họ
tham gia hội nhập mà vẫn giữ vững truyền thống văn hoá dân tộc, đồng thời
tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại, làm chủ khoa học tiên tiến. Đại hội Đảng
lần thứ X tiếp tục khẳng định: "Giáo dục và đào tạo cùng với khoa học và
công nghệ là quốc sách hàng đầu, là nền tảng và động lực thúc đẩy công
nghiệp hóa, hiện đại hoá đất nước".
Đối với chương trình học, giáo dục toàn diện thể hiện trước hết ở nội
dung đào tạo, ở tính toàn diện trong chương trình học sinh được học. Điều
này đã được ngành Giáo dục quan tâm ngày từ cấp học tiểu học, trung học cơ
sở.
Trong những năm gần đây, giáo dục nghệ thuật trong nhà trường phổ
thông đã trở thành một môn học không thể thiếu trong sự nghiệp giáo dục con
người mới Việt Nam phát triển toàn diện. Cùng với các môn học khác, môn
học âm nhạc, mĩ thuật trong chương trình Trung học cơ sở (THCS) nhằm mục
11
đích giáo dục thẩm mĩ, nâng cao đời sống tinh thần cho lớp trẻ nên đã thu hút
được sự chú ý của nhà trường, của học sinh. Sau một thời gian sách giáo
khoa, chương trình âm nhạc, mĩ thuật ở THCS được triển khai đồng bộ từ lớp
6 đến hết học kỳ I lớp 9 đã phần nào đáp ứng được nhu cầu của nhà trường
phổ thông và của xã hội. Mặc dù cũng còn có một vài ý kiến trái ngược nhau,
nhưng nhìn chung, nội dung của chương trình SGK âm nhạc, mĩ thuật THCS
đã thể hiện được những tiêu chí giáo dục thẩm mĩ hết sức cụ thể, có tính khoa
học và liên ngành cao. Có lẽ, chưa có thời điểm nào mà các trường phổ thông
lại hăng hái đăng ký tham gia giờ dạy tốt, giáo viên dạy giỏi môn âm nhạc, mĩ
thuật như giai đoạn hiện nay. Điều đó chứng tỏ sự định hướng đúng đắn của
Đảng và Nhà nước, sự quan tâm của Bộ giáo dục và Đào tạo cũng như các sở,
ngành địa phương đối với môn học này. Do vậy đã khơi dậy được niềm tự tin,
lòng yêu nghề, sự nhiệt tình phấn đấu của những giáo viên giảng dạy âm
nhạc, mĩ thuật.
Rõ ràng, việc đưa âm nhạc vào giảng dạy trong chương trình THCS đã
bước đầu nâng cao nhận thức thẩm mĩ cho đối tượng học sinh, đã thu được
những kết quả bước đầu. Học sinh rất hứng thú đối với môn học âm nhạc.
Tuy nhiên, chất lượng giảng dạy ở các địa phương không đều; nhất là còn
nhiều bất cập trong đội ngũ giáo viên.
Thực tế cho thấy, trong một khoảng thời gian dài môn học âm nhạc
không giảng dạy ở THCS, nên khi trở thành bắt buộc trong chương trình,
nhiều địa phương chưa chuẩn bị đầy đủ các điều kiện cần thiết, nhất là về đội
ngũ giáo viên. Vì thế, trên thực tế, đặc biệt ở những địa phương điều kiện
kinh tế - xã hội chưa thật sự phát triển như Hà Tĩnh, việc giảng dạy âm nhạc
khó khăn nhiều hơn. Việc nâng cao chất lượng giảng dạy âm nhạc ở trường
THCS trên địa bàn thành phố Hà Tĩnh nói riêng, trên địa bàn toàn quốc nói
chung phụ thuộc vào nhiều yếu tố, nhiều biện pháp. Tuy nhiên, tôi cho rằng,
biên pháp đóng vai trò quyết định chính là nâng cao chất lượng đội ngũ giáo
viên. Chính vì vậy, tôi chọn đề tài: “Biện pháp phát triển đội ngũ giáo viên
12
âm nhạc Trung học cơ sở trên địa bàn thành phố Hà Tĩnh, tỉnh Hà Tĩnh
giai đoạn 2011 - 2015” để làm luận văn thạc sĩ khoa học quản lí giáo dục.
2. Mục đích
Mục đích của luận văn là nghiên cứu thực trạng đội ngũ giáo viên âm
nhạc THCS trên địa bàn thành phố Hà Tĩnh và đưa ra các biện pháp khả thi để
xây dựng và phát triển đội ngũ giáo viên âm nhạc trên địa bàn thành phố Hà
Tĩnh đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
- Khách thể: Công tác phát triển đội ngũ giáo viên âm nhạc THCS ở các
trường THCS trên địa bàn thành phố Hà Tĩnh.
- Đối tượng: Các biện pháp phát triển đội ngũ giáo viên âm nhạc THCS
trên địa bàn thành phố Hà Tĩnh.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Với mục đích trên, luận văn thực hiện các nhiệm vụ sau:
- Nghiên cứu thực trạng đội ngũ giáo viên giảng dạy âm nhạc THCS trên
địa bàn thành phố Hà Tĩnh.
- Nghiên cứu thực trạng công tác xây dựng và phát triển đội ngũ giáo
viên âm nhạc THCS trên địa bàn thành phố Hà Tĩnh.
- Đề xuất các biện pháp phát triển đội ngũ giáo viên âm nhạc trên địa bàn
thành phố Hà Tĩnh, giai đoạn 2011 - 2015.
5. Giả thuyết khoa học
Đội ngũ giáo viên âm nhạc THCS trên địa bàn thành phố Hà Tĩnh tuy
đáp ứng nhiệm vụ giảng dạy trước mắt nhưng vẫn còn nhiều bất cập: Một số
giáo viên chưa đạt chuẩn, số lượng chưa đảm bảo và chất lượng giảng dạy
chưa cao, chưa đáp ứng tốt yêu cầu mục tiêu đào tạo.
Nếu xây dựng được một hệ thống các biện pháp khả thi, phù hợp với
điều kiện của địa phương thì sẽ xây dựng, phát triển được đội ngũ giáo viên
âm nhạc THCS trên địa bàn thành phố Hà Tĩnh đủ về số lượng, đảm bảo về
chất lượng góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy môn âm nhạc trên địa bàn
13
thành phố.
6. Phương pháp nghiên cứu
6.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lí luận
Sưu tầm, phân tích, tổng hợp các tài liệu, sách báo liên quan đến đề tài
nghiên cứu để xây dựng cơ sở lý luận của đề tài.
6.2. Nhóm các phương pháp thực tiễn
6.2.1. Phương pháp tổng kết kinh nghiệm
Tiến hành nghiên cứu, tổng kết kinh nghiệm của cán bộ quản lí như Ban
Giám hiệu, các bộ phận chức năng của các trường THCS trên địa bàn thành
phố Hà Tĩnh. Chú trọng cả kinh nghiệm thành công và những hạn chế, tìm
hiểu nguyên nhân tồn tại và ưu thế trong việc phát triển đội ngũ giáo viên âm
nhạc.
6.2.2. Phương pháp điều tra
i) Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi
- Mục đích: Thu thập thông tin về thực trạng đội ngũ giáo viên THCS và
công tác quản lí đội ngũ này trên địa bàn TP Hà Tĩnh.
- Đối tượng hỏi: Cán bộ quản lí giáo dục, giáo viên THCS.
ii) Phương pháp điều tra
-Tiến hành phỏng vấn cán bộ quản lý, giáo viên để tìm hiểu thực trạng
những thuận lợi, khó khăn, biện pháp thực hiện, kinh nghiệm quản lý của cán
bộ quản lý và giáo viên về phát triển đội ngũ giáo viên âm nhạc THCS.
- Kĩ thuật: Phỏng vấn trực tiếp theo các nội dung hỏi chuẩn bị trước.
- Cách xử lí: Tập hợp ý kiến, đánh giá, khái quát chung.
6.2.3. Phương pháp chuyên gia
- Mục đích: Khẳng định những biện pháp phát triển đội ngũ giáo viên
trên địa bàn TP Hà Tĩnh đến năm 2015.
- Nội dung: Vai trò của các cơ sở giáo dục trong việc sử dụng, quản lí
đội ngũ giáo viên hiện có.
- Kĩ thuật: Trao đổi trực tiếp hoặc xin ý kiến bằng văn bản.
14
- Cách xử lí: Tập hợp ý kiến, đánh giá, khái quát chung.
6.2.4. Phương pháp xử lí số liệu
Sử dụng phương pháp thống kê toán học để xử lí các số liệu phục vụ
công tác nghiên cứu. Luận văn chủ yếu sử dụng hệ thống các phương pháp
nghiên cứu thực tiễn, trong đó chú trọng đến phương pháp điều tra bằng bảng
hỏi.
7. Giới hạn và phạm vi nghiên cứu của đề tài
- Giới hạn nội dung: nghiên cứu thực trạng và đề xuất biện pháp phát
triển đội ngũ giáo viên âm nhạc THCS của phòng giáo dục thành phố trên địa
bàn thành phố Hà Tĩnh, giai đoạn 2011 - 2015.
- Giới hạn không gian: phạm vi khảo sát là địa bàn thành phố Hà Tĩnh.
- Giới hạn thời gian: các biện pháp đưa ra trong phạm vi thời gian thực
hiện từ 2011 - 2015.
8. Điểm mới của luận văn
8.1. Luận văn đánh giá một cách tổng quát tình hình chất lượng đội ngũ
giáo viên âm nhạc THCS trên địa bàn thành phố Hà Tĩnh, tỉnh Hà Tĩnh.
8.2. Luận văn đề ra được một số các biện pháp cơ bản, khả thi để nâng
cao chất lượng đội ngũ giáo viên âm nhạc THCS trên địa bàn Hà Tĩnh, làm cơ
sở cho các nhà quản lí giáo dục ở địa phương đưa ra được các chính sách
đúng đắn trong việc xây dựng đội ngũ giáo viên nói chung, giáo viên âm nhạc
nói riêng.
9. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3
chương.
15
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ PHÁT TRIỂN ĐỘI NGŨ
GIÁO VIÊN ÂM NHẠC TRUNG HỌC CƠ SỞ
1.1. Tổng quan vấn đề nghiên cứu
1.1.1. Trên thế giới
Ngay từ xa xưa nhân loại đã nhận thức được vai trò to lớn của giáo dục
đối với sự phát triển của mình. Các nhà tư tưởng lớn của thế giới thời cổ đại
kể cả phương Đông và phương Tây đã bàn nhiều về vai trò giáo dục và đào
tạo, đồng thời, bản thân họ là những nhà giáo đầu tiên của nhân loại. Tiêu
biểu như Khổng Tử, Hêđôrôt Ngày nay, nhân loại đã thấy rõ rằng các quốc
gia biết quan tâm và đầu tư xứng đáng cho giáo dục và đào tạo, nghiên cứu
khoa học, đó chính là các quốc gia phát triển. Nhất là các nguồn lực khác cho
phát triển như tài nguyên thiên nhiên, tài chính, điều kiện thuận lợi khác về vị
trí địa lí chứng tỏ rằng không phải là nguồn lực đảm bảo cho sự phát triển
bền vững của quốc gia. Trong lúc đó, các quốc gia tuy không có các điều kiện
thuận lợi về tài nguyên thiên nhiên, vị trí địa lí , nhưng biết phát huy nhân tố
con người, coi trọng giáo dục đào tạo đã phát triển mạnh mẽ. Điều đáng nói là
nguồn lực con người nếu có chiến lược phát triển sẽ không bị cạn kiệt như
nguồn lực tài nguyên thiên nhiên.
Không có một quốc gia phát triển nào lại có nền giáo dục lạc hậu. Bởi lẽ
một nền giáo dục tốt, hiện đại sẽ tạo ra một nguồn nhân lực tốt, nâng cao vị
thế quốc gia, nâng cao khả năng cạnh tranh của quốc gia đó trên thị trường
quốc tế, nhất là trong bối cảnh nền kinh tế tri thức. Báo cáo phát triển con
người của UNDP hàng năm những năm gần đây đều cho thấy phần lớn các
nước có chỉ số phát triển con người - HDI cao là các nước có hệ thống giáo
dục vào loại tốt nhất của thế giới như Nauy, Thụy Điển, Canada, Hà Lan ;
hoặc các nước có trình độ phát triển nhanh ở châu Á như Hàn Quốc, Singapo,
Malayxia
Để có một nền giáo dục tốt, dĩ nhiên các nước đó đã có đầu tư thỏa đáng,
xem đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho phát triển, chứ không phải là một dạng
16
phúc lợi xã hội. Trong đầu tư cho giáo dục, cũng trên quan điểm nhân tố con
người đóng vai trò quyết định, các quốc gia đó đã có chiến lược phát triển đội
ngũ nhà giáo. Chính đội ngũ nhà giáo có trình độ cao đã góp phần quyết định
cho ra những sản phẩm giáo dục chất lượng cao. Dĩ nhiên, những điều kiện
khác cho học tập và nghiên cứu khoa học như điều kiện trường, lớp, phòng thí
nghiệm, thư viện, chương trình, giáo trình và môi trương học tập cũng rất
quan trọng. Nhưng chúng tôi cho rằng trên tất cả vẫn là yếu tố con người.
Người Mỹ với nên giáo dục vào loại tốt nhất hiện nay đã quan niệm, để
có những trường tốt nhất phải có những giáo viên tốt nhất. Họ được đào tạo
tốt nhất và cũng được tạo điều kiện tốt nhất để làm việc, cống hiến. Thực tế
hiện nay nền giáo dục nước Mỹ chính là bệ phóng cho sự hùng cường của
nước Mỹ về kinh tế, chính trị, quân sự, nghiên cứu khoa học. Cũng giống như
vậy, Nhật Bản như chúng ta đều biết là đất nước không có tài nguyên thiên
nhiên, khí hậu khắc nghiệt, thiên tai luôn đe dọa, nhất là tình trạng động đất
xẩy ra thường xuyên. Nhưng đất nước đó đã trở thành cường quốc cũng chính
nhờ nhân tố con người. Ngay từ thời Minh Trị Thiên Hoàng đã nhất quán thực
hiện chính sách đầu tư cho giáo dục, giáo viên. Nhà giáo dục có vị trí rất quan
trọng trong xã hội Nhật Bản. Vấn đề là không chỉ dừng lại ở chổ có quan
điểm, cần phải chó chiến lược phát triển lâu dài, hệ thống; cần phải có đầu tư
thỏa đáng, đồng bộ cho việc xây dựng một nền giáo dục phát triển toàn diện.
Đầu tư cho giáo dục là một dạng đầu tư đặc biệt, sản phẩm của nền giáo dục
là con người, vì thế không phải một thời gian ngắn là có thể nhận thấy hiệu
quả. Cần phải có thời gian, đầu tư liên tục. Trong xã hội hiện đại như ngày
nay, chúng ta đầu thấy rằng xuất khẩu dịch vụ giáo dục đang trở nên khá phổ
biến. Người của nước này có thể học tập ở nước khác, nếu anh có tiền. Nhưng
không vì thế mà xem nhẹ việc phát triển nền giáo dục quốc dân, nền giáo dục
đại chúng, bởi đó mới chính là nơi đào tạo nguồn nhân lực trình độ cao đáp
ứng yê cầu của nền kinh tế, xã hội.
17
1.1.2. Ở Việt Nam
Ngay từ xa xưa ông cha ta đã nhận thức sâu sắc vai trò của giáo dục, vai
trò của người nhà giáo trong xã hội. Điều đó được phản ánh khá rõ nét trong
ca dao, tục ngữ. Trong xã hội truyền thống, tôn sư trọng đạo, hiếu học là
những truyền thống tốt đẹp của người Việt. Nhà giáo chiếm vị trí cao trong
thang bậc giá trị của xã hội. Ngày nay, kế thừa truyền thống, chúng ta vẫn
phần nào kế thừa được tư tưởng coi trọng giáo dục, coi trọng nhà giáo. Đảng
và nhà nước ta đã xác định, cùng với khoa học và công nghệ, giáo dục và đào
tạo là quốc sách hàng đầu. Tuy nhiên, việc xây dựng một nền giáo dục hiện
đại có chất lượng cao đòi hỏi rất nhiều yếu tố, trong đó đầu tư cơ sở vật chất,
nhất là đầu tư cho giáo viên - nguồn nhân lực cho ngành giáo dục đóng vai trò
quyết định. Nhưng cùng với những khó khăn trong nền kinh tế, việc chậm đổi
mới của ngành giáo dục và nhất là chưa đầu tư thỏa đáng cho đội ngũ nhà
giáo đã triệt tiêu các động lực phát triển của giáo dục. Giáo viên không sống
được bằng nghề đã không động viên họ nhiệt tình hăng say trong giảng dạy,
trong tự học tự nhiên cứu; không thu hút được người giỏi vào công tác trong
ngành giáo dục. Trong các bậc thang giá trị hiện nay, nhà giáo không còn
chiếm vị trí được trân trọng đánh giá cao, thay vào đó là các ngành nghề có
thể kiếm được thu nhập cao. Đó là một hiện tượng đáng lo ngại, góp phần
quyết định chất lượng giáo dục còn thấp và chưa toàn diện của nước ta hiện
nay. Điều đó cũng có nghĩa là nền kinh tế quốc dân, xã hội không được ngành
giáo dục cung ứng đầy đủ nguồn nhân lực chất lượng cao. Đến lượt những
người lao động này lại không thể đưa nền kinh tế phát triển. Cái vòng luẩn
quẩn: nghèo không có đầu tư thỏa đáng cho giáo dục dẫn tới chất lượng
nguồn nhân lực thấp, nguồn nhân lực chất lượng thấp sẽ không thể đáp ứng
được yêu cầu của nền sản xuất tiên tiến, không thể cạnh tranh trên thị trường
lao động quốc tế, dẫn tới nền kinh tế không phát triển được; nền kinh tế
không phát triển sẽ không có tiềm lực tài chính để đầu tư trở lại cho giáo
dục sẽ không có hồi kết nếu không có tư duy đột phá, biện pháp mạnh mẽ,
18
trong đó khâu đào tạo giáo viên, đầu tư cho giáo viên phải được quan tâm
hàng đầu.
Giáo dục - Đào tạo là một lĩnh vực quan trọng của đời sống xã hội. Đặc
biệt thời đại ngày nay - thời đại của nền kinh tế tri thức vai trò của giáo dục
đối với sự phát triển của mỗi quốc gia, mỗi dân tộc, đòi hỏi phải có sự quản lí
cả về vĩ mô lẫn vi mô phải tương xứng, phù hợp với sự phát triển của giáo
dục - đào tạo mà xã hội yêu cầu. Đã có nhiều công trình nghiên cứu về quản lí
giáo dục trong và ngoài nước. Các quan điểm về quản lí như quan điểm hiệu
quả, quan điểm kết quả, quan điểm đáp ứng, quan điểm phù hợp lần lượt ra
đời phù hợp với sự phát triển của khoa học quản lí và sự phát triển của nền
giáo dục.
Song song với những công trình nghiên cứu có tính chất tổng quan về
quản lí giáo dục thì các công trình nghiên cứu về nhà trường, quản lí nhà
trường có ý nghĩa thiết thực. Vì nhà trường được thừa nhận rộng rãi như một
thiết chế chuyên biệt của xã hội để giáo dục - đào tạo thế hệ trẻ trở thành
những công dân có ích cho xã hội.
Trong việc quản lí nhà trường thì quản lí đội ngũ giáo viên là một bộ
phận cấu thành chủ yếu của toàn bộ hệ thống quản lí quá trình giáo dục - đào
tạo, vì đội ngũ cán bộ quản lí cùng với đội ngũ giáo viên là yếu tố quyết định
chất lượng giáo dục. Kết quả toàn bộ hoạt động của nhà trường, chất lượng
giáo dục của nhà trường phụ thuộc rất nhiều vào việc tổ chức đúng đắn và
hợp lí công tác hoạt động của đội ngũ giáo viên.
Ở Việt Nam, có nhiều công trình nghiên cứu về quản lí nhà trường nói
chung và quản lí đội ngũ giáo viên nói riêng. Như các tác giả: Trần Bá Hoành,
Thái Duy Tuyên, Nguyễn Ngọc Hợi, Thái Văn Thành, Bùi Minh Hiền, Vũ
Ngọc Hải, Đặng Quốc Bảo, các giảng viên Học viện Quản lí giáo dục:
Nguyễn Ngọc Quang, Phạm Viết Vượng, Nguyễn Văn Lê, Hà Sỹ Hồ, Lê
Tuấn… Hầu hết các nhà nghiên cứu cho rằng: đội ngũ giáo viên và đội ngũ
quản lí giáo dục: quản lí các nhà trường và quản lí các cơ quan trong hệ thống
19
giáo dục quốc dân có vai trò rất quan trọng cho sự thành bại của sự nghiệp
giáo dục Sứ mệnh của đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lí giáo dục có ý
nghĩa cao cả đặc biệt. Họ là bộ phận lao động tinh hoa của đất nước. Lao
động của họ trực tiếp và gián tiếp thúc đẩy sự phát triển của đất nước, cộng
đồng đi vào trạng thái phát triển bền vững.
Các công trình khoa học trên với tầm vóc quy mô về giá trị lí luận và
thực tiễn đã được áp dụng rộng rãi và mang lại những hiệu quả nhất định
trong quản lí giáo dục, quản lí nhà trường. Phần lớn các công trình đó chủ yếu
đi sâu nghiên cứu lí luận có tính chất tổng quan về quản lí giáo dục, quản lí
nhà trường, xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên. Tuy nhiên
theo chúng tôi, ít có công trình nghiên cứu đi sâu vào các biện pháp quản lí
nhằm nâng cao chất lượng công tác bồi dưỡng giáo viên THCS nói chung,
giáo viên âm nhạc nói riêng. Điều đó là vì một phần các cấp quản lí giáo dục,
các nhà nghiên cứu chưa thật sự quan tâm đến công tác giáo dục nghệ thuật,
âm nhạc cho học sinh phổ thông.
Tóm lại, vấn đề phát triển giáo dục toàn diện tuy đã được quan tâm
nghiên cứu nhưng mới ở giai đoạn bước đầu. Các quan điểm nền tảng về giáo
dục toàn diện đã được đưa ra nhưng trên thực tế, do nhiều nguyên nhân, điều
kiện khác nhau, trong đó có nguyên nhân từ nhận thức của công tác quản lí,
giáo dục toàn diện chưa được quan tâm trên thực tế. Học sinh chỉ mới được
học các môn khoa học cơ bản, các môn lí luận chính trị, các môn giáo dục đạo
đức còn thực tế chưa được làm quen với các môn âm nhạc, thẩm mĩ nói
chung.
Có thể nói, trong suốt mấy mươi năm phát triển của nền giáo dục cách
mạng, vấn đề đưa âm nhạc vào giảng dạy trong nhà trường phổ thống chưa hề
được quan tâm. Vì thế, học sinh chúng ta không có kiến thức tối thiểu về âm
nhạc nói riêng, về nghệ thuật nói chung; cũng có nghĩa là kiến thức, sự hiểu
biết, năng lực nhận thức thẩm mĩ, trình độ cảm thụ thẩm mĩ là rất thấp.
Trong điều kiện chiến tranh hay thời hậu chiến, chúng ta buộc phải chấp
20
nhận tình trạng đào tạo không toàn diện đó nhưng hiện nay đất nước đã có thế
và lực mới, đất nước đã hội nhập mạnh mẽ với thế giới, việc đào tạo con
người phát triển toàn diện, chú ý nâng cao năng lực nhận thức thẩm mĩ trở
nên là một đòi hỏi tất yếu. Vì thế chúng ta đã có bước chuyển biến mạnh mẽ
trong việc thay đổi nội dung chương trình phổ thông, theo đó các môn nghệ
thuật như âm nhạc, mĩ thuật có chỗ đứng của mình. Tuy nhiên, để đưa một bộ
môn mới vào trường học đại trà, yêu cầu về chất lượng đòi hỏi phải có một
quá trình chuẩn bị lâu dài. Những thành công và những hạn chế sau một thời
gian đưa âm nhạc vào giảng dạy ở bậc THCS đang đặt ra cho các cấp quản lí
nhiều vấn đề cần phải tháo gỡ để có thể nâng tầm bộ môn đáp ứng được mục
tiêu tốt đẹp của việc giáo dục thẩm mĩ cho học sinh THCS.
1.2. Một số khái niệm cơ bản liên quan đến vấn đề nghiên cứu
1.2.1. Giáo viên, giáo viên trung học cơ sở
* Khái niệm giáo viên
1. Trong Luật Giáo dục 2005, điều 70 đã đưa ra định nghĩa như sau:
Nhà giáo là người làm nhiệm vụ giảng dạy, giáo dục trong nhà trường
hoặc cơ sở giáo dục.
2. Nhà giáo phải có những tiêu chuẩn sau:
a. Phẩm chất, đạo đức, tư tưởng tốt
b. Đạt trình độ chuẩn được đào tạo về chuyên môn, nghiệp vụ
c. Đủ sức khỏe theo yêu cầu nghề nghiệp
d. Lí lịch bản thân rõ ràng.
“Nhà giáo là người làm nhiệm vụ giảng dạy, giáo dục trong nhà trường
hoặc các cơ sở giáo dục khác” [17, Điều 70]
1
.
“Giáo viên là những người làm công tác dạy học- giáo dục, người trực
tiếp biến các chủ trương, các chương trình, cải cách, đổi mới giáo dục thành
hiện thực”.[17, 9].
* Giáo viên trung học cơ sở
1
21
Luật Giáo dục đã quy định tên gọi cụ thể về tên gọi đối với từng đối
tượng nhà giáo căn cứ theo cấp học, bậc giảng dạy và công tác. Theo đó, nhà
giáo dạy ở các cơ sở giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông, giáo dục nghề
nghiệp gọi là giáo viên. Như vậy, giáo viên THCS chính là nhà giáo giảng
dạy ở bậc học THCS.
Bộ GD & ĐT vừa Ban hành Quy định Chuẩn nghề nghiệp giáo viên
trung học cơ sở (THCS), giáo viên (THPT). Mục đích ban hành Quy định
nhằm giúp giáo viên trung học tự đánh giá phẩm chất chính trị, đạo đức lối
sống, năng lực nghề nghiệp, qua đó, làm cơ sở để đánh giá, xếp loại giáo viên
hằng năm phục vụ công tác xây dựng quy hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng
và sử dụng đội ngũ giáo viên trung học.
Chuẩn nghề nghiệp giáo viên trung học gồm 6 tiêu chuẩn đó là: tiêu
chuẩn phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống; năng lực tỡm hiểu đối tượng và
môi trường giáo dục; năng lực dạy học; năng lực giáo dục; năng lực hoạt
động chính trị, xã hội và năng lực phát triển nghề nghiệp. Đi kèm với mỗi tiêu
chuẩn là các tiêu chí rất cụ thể nhằm đánh giá đúng mức độ hoàn thành nhiệm
vụ. Tổng cộng có 25 tiêu chí.
Trong quy định này, vấn đề đạo đức, lối sống, tác phong, ứng xử với học
sinh, với đồng nghiệp được quy định rất cụ thể và được xem là tiêu chuẩn đầu
tiên trong việc đánh giá, công nhận chuẩn nghề nghiệp. Giáo viên trung học
phải yêu thương, tôn trọng, đối xử công bằng với học sinh, giúp học sinh khắc
phục khó khăn để học tập và rèn luyện tốt. Có lối sống lành mạnh, văn minh,
phù hợp với bản sắc dân tộc và môi trường giáo dục; có tác phong mẫu mực,
làm việc khoa học.
Về việc đánh giá, xếp loại giáo viên theo chuẩn, yêu cầu đầu tiên là phải
đảm bảo tính trung thực, khách quan, toàn diện, dân chủ và công bằng, phản
ánh đúng phẩm chất, năng lực dạy học và giáo dục của giáo viên trong điều
kiện cụ thể của nhà trường, địa phương.
Việc đánh giá giáo viên phải căn cứ vào các kết quả đạt được thông qua
22
xem xét các minh chứng, cho điểm từng tiêu chí, tính theo thang điểm 4, là số
nguyên; nếu có tiêu chí chưa đạt 1 điểm thì không cho điểm. Với 25 tiêu chí,
tổng số điểm tối đa đạt được là 100.
1.2.2. Đội ngũ giáo viên trung học cơ sở
Đội ngũ giáo viên là một tập thể những người đảm nhiệm công tác giáo
dục và dạy học có đủ tiêu chuẩn đạo đức, chuyên môn và nghiệp vụ quy định.
Đây là lực lượng quyết định hoạt động giáo dục của nhà trường, cho nên cần
được đặc biệt quan tâm xây dựng mọi mặt, phải có đủ số lượng phù hợp với
cơ cấu giảng dạy các bộ môn, đảm bảo tỉ lệ cân đối nam, nữ giữa độ tuổi trẻ,
trung niên và cao tuổi Muốn có đội ngũ giáo viên mạnh cần có cơ chế, chế
độ chính sách thỏa đáng, nhất là những đơn vị giáo dục ở vùng xa, khó khăn
để từ đó phát huy tiềm năng của từng người, đoàn kết gắn bó mọi người thành
một khối thống nhất của những nhà sư phạm.
Đội ngũ giáo viên THCS chính là một tập thể những người đảm nhiệm
công tác giáo dục và dạy học ở cấp học THCS; phối hợp với nhau và phối hợp
với lực lượng giáo dục khác để thực hiện mục tiêu giáo dục THCS, giáo dục
học sinh, phát triển nhận thức, năng lực mà các em đó đạt được ở tiểu học lên
một tầm cao mới, giúp cho các em có đủ trình độ, năng lực để tiếp tục học lên
THPT hoặc vào học ở các cơ sở giáo dục nghề nghiệp, hay tham gia lao động
trục tiếp ngoài xã hội.
1.2.3. Quản lí giáo dục
Quản lí giáo dục là một khoa học chuyên ngành trên nền tảng của khoa
học quản lí nói chung. Khái niệm quản lí giáo dục có nhiều cách tiếp cận.
Theo tác giả Nguyễn Ngọc Quang “Quản lí giáo dục thực chất là tác động đến
nhà trường, làm cho nó tổ chức tối ưu được quá trình dạy học, giáo dục thể
chất theo đường lối nguyên lí giáo dục của Đảng, quán triệt được tính chất
nhà trường XHCN Việt Nam, bằng cách đó tiến tới mục tiêu dự kiến, tiến lên
trạng thái chất lượng mới.
Theo tác giả Đặng Quốc Bảo, quản lí giáo dục theo nghĩa tổng quát là
23
hoạt động điều hành phối hợp của các lực lượng xã hội nhằm thúc đẩy công
tác đào tạo thế hệ trẻ theo yêu cầu xã hội. Quản lí là sự tác động liên tục có tổ
chức, có định hướng của chủ thể (người quản lí, tổ chức quản lí) lên khách thể
(đối tượng quản lí) về các mặt chính trị, văn hóa, xã hội, kinh tế bằng một
hệ thống các luật lệ, các chính sách, các nguyên tắc, các phương pháp và các
biện pháp cụ thể nhằm tạo ra môi trường và điều kiện cho sự phát triển của
đối tượng.
Về nội dung, thuật ngữ quản lí có nhiều cách hiểu khác nhau. Có ý kiến
cho rằng: quản lí là một hoạt động thiết yếu nẩy sinh khi con người lao động
và sinh hoạt tập thể nhằm thực hiện các mục tiêu chung của tập thể, tổ chức.
Hoạt động quản lí là nhân tố cần thiết, tất yếu để duy trì sự tồn tại và phát
triển của mọi quy mô và loại hình tổ chức người; từ một gia đình cho đến cấp
quốc gia, quốc tế; từ các tổ chức kinh tế, văn hoá, giáo dục, khoa học…đến
bất kì lĩnh vực hoạt độg nào của con người, nếu không được quản lí sẽ dẫn
đến tình trạng tự phát, hỗn loạn, kém hiệu quả. Trong nhiều trường hợp, hoạt
động quản lí được đồng nhất với hoạt động tổ chức.
Ý kiến khác lại cho rằng: quản lí là các hoạt động được thực hiện nhằm
bảo đảm sự hoàn thành công việc qua những nỗ lực của người khác. Quản lí
là công tác phối hợp có hiệu quả các hoạt động của những người cộng sự khác
cùng chung một tổ chức. Quản lí là một hoạt động thiết yếu đảm bảo những
nỗ lực cá nhân nhằm đạt được các mục đích của nhóm.
Những định nghĩa trên đây khác nhau về cách diễn đạt, nhưng đều chứa
đựng những nội dung cơ bản của quản lí. Quản lí phải bao gồm các yếu tố
sau:
- Phải có ít nhất một chủ thể quản lí là tác nhân tạo ra các tác động và ít
nhất là một đối tượng bị quản lí tiếp nhận trực tiếp các tác động của chủ thể
quản lí tạo ra và các khách thể khác chịu các tác động gián tiếp của chủ thể
quản lí. Tác động có thể chỉ là một lần mà cũng có thể là liên tục nhiều lần.
Sự tác động của quản lí bằng cách nào đó để người bị quản lí luôn luôn hồ
24
hởi, phấn khởi đem hết tài lực và trí tuệ của mình để sáng tạo ra giá trị vật
chất và tinh thần cho tập thể tạo ra các tác động.
- Phải có mục tiêu và một quỹ đạo đặt ra cho cả đối tượng và chủ thể,
mục tiêu này là căn cứ để chủ thể tạo ra tác động.
- Chủ thể phải thực hành việc tác động.
- Chủ thể có thể là một người, nhiều người; còn đối tượng có thể là một
hoặc nhiều người (trong tổ chức xã hội).
Bất luận một tổ chức có mục đích gì, cơ cấu và quy mô ra sao đều cần
phải có sự quản lí và có người quản lí để tổ chức hoạt động và đạt được mục
đích của mình. Như vậy, có thể khái quát: quản lí là sự tác động chỉ huy, điều
khiển, hướng dẫn các quá trình xã hội và hành vi hoạt động của con người
nhằm đạt tới mục đích đã đề ra.
Quản lí là hoạt động thiết yếu nẩy sinh khi con người hoạt động tập thể,
là sự tác động của chủ thể vào khách thể, trong đó quan trọng nhất là khách
thể con người, nhằm thực hiện các mục tiêu chung của tổ chức. Quản lí là một
khoa học sử dụng tri thức của nhiều môn khoa học tự nhiên và xã hội nhân
văn khác như: toán học, thống kê, tâm lí và xã hội học Nó còn là một
"nghệ thuật" đòi hỏi sự khôn khéo và tinh tế cao để đạt tới mục đích.
Quản lí là sự tác động liên tục có tổ chức, có định hướng của chủ thể
(người quản lí, tổ chức quản lí) lên khách thể (đối tượng quản lí) về các mặt
chính trị, văn hóa, xã hội, kinh tế bằng một hệ thống các luật lệ, các chính
sách, các nguyên tắc, các phương pháp và các biện pháp cụ thể nhằm tạo ra
môi trường và điều kiện cho sự phát triển của đối tượng.
1.2.4. Biện pháp
Trong luận văn này, biện pháp được hiểu theo nghĩa là cách làm, cách
giải quyết vấn đề cụ thể. Từ điển tiếng Việt, Nxb. Khoa học xã hội - Hà Nội,
1994 định nghĩa: phương pháp (danh từ) là hệ thống các cách sử dụng để tiến
hành một hoạt động nào đó. Thực ra, khái niệm phương pháp có thể được
hiểu rất khác nhau. Trong phạm vi và mức độ nghiên cứu ở đây, có thể hiều
25