Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

Phát triển cộng đồng tập trung vào trẻ em tại hai huyện hoàng su phì và xín mần, tỉnh hà giang” do tổ chức plan quốc tế tại việt nam tài trợ giai đoạn I 2007 2009

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (229.2 KB, 21 trang )

Danh sách nhóm 3 – PTCĐ
Stt Họ và tên MSV Lớp Đánh giá
1 Nguyễn Thị Lan (NT) 552143 K55KTDNB 9
2 Phùng Thị Liên 541064 K55KHD 8.5
3 Nguyễn Thị Hồng Anh 554264 K55QTKDC 8.5
4 Trần Thị Phương Thảo 554348 K55QTKDC 8.5
5 Đinh Văn Điệp 541784 K54KTNNA 8.5
6 Và Bá Pò 541822 K54KTNNA 8.5
7 Nguyễn Thị Hà 551989 K55KTDNA 8
8 Phan Thị Yến 552090 K55KTDNA 8
9 Dương Đình Phong 552606T K55KTDNF 7.5
10 Đặng Tài Nguyên 552600T K55KTDNF 7.5
MỞ ĐẦU
Trong những năm qua, cùng với những thành tựu to lớn về phát triển kinh tế - xã hội, nước
ta cũng đang phải đối mặt với nhiều thách thức, trong đó vấn đề nghèo đói luôn được quan tâm
hàng đầu. Tăng trưởng kinh tế một mặt đã góp phần cải thiện đáng kể đời sống nhân dân, dẫn tới
hình thành những cộng đồng dân cư có thu nhập cao, đời sống được bảo đảm bởi hệ thống cơ sở
vật chất và hạ tầng, các dịch vụ chăm sóc sức khỏe, y tế, giáo dục tương đối khá. Người dân tại
các cộng đồng này có nhiều cơ hội phát triển, đựoc phát huy khả năng và được bảo vệ thông qua
mạng lưới an sinh xã hội an toàn, bền vững. Tuy nhiên, sự phân hóa ngay trong quá trình phát
triển cũng làm xuất hiện những cộng đồng dân cư nghèo, các nhóm yếu thế tại vùng sâu, vùng
xa, nơi có điều kiện tự nhiên không thuận lợi cùng một bộ phận dân cư ngay trong lòng các đô
thị phát triển. Cộng đồng nghèo thường gắn liền với các đặc điểm: Cơ sở hạ tầng, dịch vụ xã hội
thiếu hoặc yếu kém; kinh tế không phát triển; nhu cầu cơ bản của người dân chưa được đáp ứng
đầy đủ; thiếu cơ hội tiếp cận khoa học – kỹ thuật, tâm lý thiếu tự tin hoặc trông chờ, ỷ lại vào
Nhà nước và không được tham gia vào các quá trình ra quyết định.
Chính vì vậy, việc giúp đỡ, phát triển các cộng đồng nghèo là hết sức cần thiết và việc lựa chọn
các phương pháp phù hợp để phát triển cộng đồng có ý nghĩa khoa học và thực tiễn to lớn.
Phát triển cộng đồng là một phương pháp của công tác xã hội được xây dựng trên những nguyên
lý, nguyên tắc và giả định của nhiều ngành khoa học xã hội khác như: Tâm lý xã hội, xã hội học,
chính trị học, nhân chủng học…, được áp dụng ở nhiều nước và đã phát huy vai trò trong việc


giải quyết các vấn đề của các nhóm cộng đồng nghèo, các nhóm yếu thế trong thời gian qua. Đó
là phương pháp giải quyết một số vấn đề khó khăn, đáp ứng nhu cầu của cộng đồng, hướng tới
sự phát triển không ngừng về đời sống vật chất và tinh thần của người dân thông qua việc nâng
cao năng lực, tăng cường sự tham gia, đoàn kết, phối hợp chặt chẽ giữa người dân với nhau, giữa
người dân với các tổ chức và giữa các tổ chức với nhau trong phạm vi một cộng đồng.
Do đó nhóm em chọn đề tài “Phát triển cộng đồng tập trung vào trẻ em tại hai huyện Hoàng
Su Phì và Xín Mần, tỉnh Hà Giang” do tổ chức Plan quốc tế tại Việt Nam tài trợ giai đoạn I
(2007 - 2009) để phân tích đánh giá hiệu quả của phát triển cộng đồng vào các huyện gặp khó
khăn vùng sâu vùng xa của cả nước.
I) Lý luận chung
1) Giới thiệu về tổ chức Plan
Plan là một tổ chức phi chính phủ quốc tế phát triển cộng đồng lấy trẻ em làm trung tâm, và
làm việc trên 48 quốc gia. Có khoảng 1,5 triệu trẻ em và gia đình của các em đang hưởng lợi từ
các chương trình của tổ chức. Trong giai đoạn 2007 và 2008, tổ chức đã gây quỹ trên 474 triệu €.
Tổ chức do nhà báo John Langdon-Davies thành lập cùng với một nhân viên xã hội làm việc tại
trại tỵ nạn tên là Eric Muggeridge. Tổ chức này không có bất kỳ mỗi liên quan chính trị hay tôn
giáo nào. Tổ chức hoạt động chủ yếu tại các nước đang phát triển ở Trung và Nam Mỹ, Châu Phi
và Nam và Đông Nam Á với số lượng nhân viên trên 6,000 người và hệ thống tình nguyện viên
trên 50,000. Tổ chức Plan đã có nhiều năm kinh nghiệm trong lĩnh vực y tế công cộng, giáo dục,
cư trú và các vấn đề sinh kế tại các cộng đồng mà tổ chức có mặt.
Tổ chức Plan hoạt động trên hệ thống "bảo trợ trẻ em". Khoản thu nhập này đóng góp 70%
thu nhập của tổ chức. Các cá nhân, tổ chức hoặc gia đình quan tâm sẽ đóng góp tiền cho Plan và
có thể trao đổi thư từ với trẻ được bảo trợ, từ đó tạo nên mối quan hệ giữa người bảo trợ và trẻ
được bảo trợ. Mỗi cá nhân, tổ chức hoặc gia đình có mối quan hệ với một đứa trẻ tại nước mà
Plan làm việc. Hệ thống bảo trợ đảm bảo người bảo trợ có thể thấy đồng tiền họ bỏ ra được sử
dụng vào đâu và biết rằng nó được sử dụng một cách hợp lý, khi họ nhận được thư trực tiếp từ
đứa trẻ hưởng lợi từ dự án của Plan. Bảo trợ được thực hiện với mục đích tăng cường nhận thức
cũng như gây quỹ cho các cộng đồng mà Plan đang làm việc tại đó.
Tiền trên toàn cầu của Plan được phân chia theo quy luật 80:20, có nghĩa là ít nhất 80% tiền
được Plan sử dụng vào mục đích phát triển và 20% được chi trả cho việc gây quỹ (chủ yếu là thu

hút thêm các nhà bảo trợ khác) cũng như quản lý. Mỗi văn phòng gây quỹ, hoạt động một cách
độc lập với nhau sử dụng các phương pháp gây quy khác nhau ở mỗi người và một vài trong số
cách đó tỏ ra hiệu quả hơn các cách còn lại. Văn phòng quốc gia gây quỹ tại Australia, Bỉ,
Canade, Đan Mạch, Pháp, Đức, Hong Kong, Iceland, Hàn Quốc, Hà Lan, Na Uy, Tây Ban Nha,
Thụy Điển, Thụy Sỹ, Anh và Mỹ.
Khoản tiền gây quỹ được dùng cho các dự án đem lại lợi ích cho cả cộng đồng trong đó trẻ
em sinh sống mà không đưa trực tiếp tới đứa trẻ. Điều này tạo nên cơ hội phát triển cho trẻ bảo
trợ cũng như cộng đồng của chúng. Phương pháp tiếp cận của Plan được gọi là Phát triển cộng
đồng lấy trẻ em làm trung tâm. Chương trình mà Plan đang thực hiện là Chăm sóc và phát triển
trẻ thơ toàn diện (ECCD). Sức khỏe sinh sản và tình dục bao gồm phòng ngừa, chăm sóc và điều
trị HIV; Giáo dục, Nước sạch và vệ sinh; Bảo vệ trẻ em, Đảm bảo quyền công dân và Quản lý
nguy cơ thảm họa.
Hiện nay, có 50 nước đang phát triển nhận sự hỗ trợ của Plan, và có gần 30 nước chuyên gây
quỹ để hỗ trợ cho các nước tiếp nhận bảo trợ. Tại các nước gây quỹ, cha mẹ nhận bảo trợ sẽ đóng
25 Euro/tháng để bảo trợ cho một đầu trẻ. Số tiền này không đến trực tiếp với đứa trẻ mà đến với
cộng đồng nơi đứa trẻ đang sinh sống thông qua các dự án về giáo dục, y tế, các chương trình
bảo vệ trẻ em, mô hình phòng, chống thiên tai…
Hầu hết các hoạt động dự án của Plan tại Việt Nam được triển khai ở cấp xã, thôn với sự
tham gia tích cực của những người hưởng lợi dự án.
Plan tại Việt Nam triển khai các dự án dựa trên phương thức phát triển cộng đồng tập trung
vào trẻ em, phương thức này với mục tiêu nâng cao năng lực, xây dựng tính tự chủ cho cộng
đồng địa phương và do vậy đảm bảo tính bền vững của các dự án.
Sau gần 20 năm hoạt động tại Việt Nam, các dự án của Plan đã và đang được triển khai ở
hầu hết các tỉnh, thành phố trong cả nước. Trong đó, Plan đang bảo trợ cho 40.000 cháu tại 9
vùng dự án, gồm Kon Tum, Quảng Bình, Quảng Trị, Quảng Ngãi, Hà Nội, Phú Thọ, Thái
Nguyên, Bắc Giang, Hà Giang. 40.000 trẻ em được bảo trợ được ví như là “Đại sứ của Plan”.
Theo đánh giá gần đây của Plan, mặc dù có 40.000 trẻ được bảo trợ nhưng trên thực tế có tới
260.000 trẻ được hưởng lợi từ các dự án của Plan.
Plan tồn tại được đến ngày nay là nhờ vào việc các nhà tài trợ cam kết bảo trợ ít nhất 10 năm
cho một trẻ em. Trước đây, Plan tập trung dự án ở vùng Phú Thọ, Thái Nguyên, nhưng hiện nay,

cuộc sống người dân đã khá lên, nên trong thời gian tới Plan dự kiến sẽ chuyển hướng đến vùng
sâu, vùng xa, nơi trẻ em cần được quan tâm đặc biệt.
2) Giới thiệu về tỉnh hà giang
a) Khái quát chung về tỉnh hà giang
Hà Giang là một tỉnh miền núi với 10 huyện và 1 thị xã nằm ở phía Bắc Việt Nam. Hà Giang
có 195 xã, phường và thị trấn, trong đó có 114 xã thuộc chương trình 135. Tổng diện tích tự
nhiên là 7.923,21km2, có trên 274 km đường biên giới với tiếp giáp với Trung Quốc. Dân số Hà
Giang là 684.618 người với 133.079 hộ (Nguồn: Niên giám thống kê Tỉnh Hà Giang-2006), có
22 dân tộc, trong đó nhiều nhất là người H’Mong (208,571 người chiếm 31%), tiếp đó là người
Tày (171,112 người chiếm 22%), Dao (102,112 người), Nùng (66,335 người). Người Kinh
980,929 người, chiếm 11,8%.
Hà Giang có địa hình rất phức tạp, trong đó núi và rừng chiếm tới 80% diện tích. Tỷ lệ hộ
nghèo là 43,7%, thu nhập bình quân năm đạt 3,2 triệu đồng, bình quân lương thực là
365kg/người. Thu ngân sách tại địa bàn chỉ đáp ứng được 10% nhiệm vụ chi. Nhiệm vụ chi
1.859 tỷ đồng và đạt gần 10% GDP theo giá hiện hành. Do đó, Hà Giang luôn phải nhận hỗ trợ
hàng năm từ Nhà nước hơn 1.600 tỷ VND.
Tỷ lệ suy dinh dưỡng của trẻ em ở mức khá cao: 25,5%. Tỷ lệ đăng ký khai sinh đạt hơn
70% (năm 2006) và 30% (năm 2004 trở về trước).
Hiện nay, Hà Giang được xếp là tỉnh nghèo thứ 3 của Việt Nam (sau tỉnh Bắc Kạn và Đăk
Nông). Trong thời gian tới, Hà Giang vẫn còn tiếp tục phải đối mặt với nhiều vấn đề khó khăn.
Trong đó có những vấn đề cụ thể sau có ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển của trẻ em.
Thu nhập thấp: Hiện nay, Với mức thu nhập trung bình toàn tỉnh là 3,2 triệu/người/năm, các
hộ gia đình có kinh tế khá giả tập trung chủ yếu ở các thị trấn. Trong khi đó, thu nhập bình quân
của người nông dân tại địa phương, đặc biệt tại các khu vực xa xôi, hẻo lánh rất thấp (2,5-2,6
triệu/người/năm). Trung bình mỗi ngày, một người dân làm ra được 7,000đ để trang trải cho tất
cả các chi tiêu. Mức thu nhập này chỉ bằng một nửa so với mức nghèo của thế giới
(1USD/người/ngày). Do vậy, người dân không có đủ điều kiện để tiếp cận với các nhu cầu cơ
bản bao gồm: lương thực, quần áo, đồ dùng sinh hoạt, chi trả khám chữa bệnh, học tập cho con
em. Trẻ em vẫn đang phải chịu nhiều thiếu thốn về lương thực và quần áo, đặc biệt là vào mùa
đông.

Chất lượng giáo dục Mầm non thấp: Hầu hết các thôn bản đều không có lớp học kiên cố cho
bậc học mầm non. Các trang thiết bị và đồ chơi cần thiết cho giáo viên giảng dạy và trẻ học đều
thiếu. Đặc biệt, tất cả các trường mầm non, bao gồm cả trường đã được xây dựng kiên cố lẫn các
lớp học tạm, đều không có nhà vệ sinh và hệ thống nước sạch. Do đó, tỷ lệ đến lớp trung bình
của toàn tỉnh chỉ đạt 15 % đối với trẻ dưới 3 tuổi, 75% đối với trẻ từ 3-5 tuổi. Đây là một tỷ lệ rất
thấp nếu so sánh với tỷ lệ bình quân của toàn quốc. Đáng lưu ý trong đó, một vài xã vùng xã, tỷ
lệ ra lớp của trẻ dưới 3 tuổi chỉ đạt dưới 5% .
Chất lượng Giáo dục cơ bản thấp: Phần lớn các xã, bao gồm cả các xã vùng xa đều có
trường học cho 2 cấp. Tỷ lệ đến lớp của tiểu học đạt 98%. Tuy nhiên, nhiều khó khăn vẫn còn
tồn tại cho cả giáo viên và học sinh trong việc nâng cao chất lượng học. Mặc dù nhiều xã đã có
trường cho cả hai cấp học, nhưng chỉ có 78,3% trẻ đến trường đúng độ tuổi. Bàn ghế cho trẻ đều
không đúng với tiêu chuẩn do Bộ GDĐT quy định. Đa phần các trường đều không có nhà vệ
sinh, hệ thống nước sạch. Các phòng chức năng và thư viện đều nằm ngoài khả năng của nhà
trường. Do vậy chất lượng dạy và học rất thấp. Theo thống kê mới nhất của Sở Giáo dục, tỷ lệ tốt
nghiệp THPT của Hà Giang đạt dưới 53% (2007).
Bỏ học là một vấn đề đáng quan ngại đối với bậc THCS, có nhiều nguyên nhân dẫn đến trẻ
bỏ học (trường xa, điều kiện kinh tế khó khăn, không có khả năng học…). Ít nhất có 20% trẻ, sau
khi tốt nghiệp Tiểu học không tiếp tục học THCS. Thêm vào đó, tỷ lệ học sinh bỏ học giữa
chừng cao (10-15%), đặc biệt là vào thời gian thu hoạch nông nghiệp, trẻ phải ở nhà để giúp đỡ
cha mẹ hoặc là mùa đông quá lạnh.
Người nông dân, trong đó bao gồm trẻ em và những người nghèo không có điều kiện tiếp
cận với dịch vụ khám chữa bệnh tốt: Chỉ có 55% trạm y tế xã có bác sỹ, 72% các trạm được xây
dựng kiên cố. Trong tổng số 133,079 hộ gia đình, chỉ có 31.957 hộ có bể chứa nước. Gần 50%
hộ sử dụng nước. Những con số này cho thấy điều kiện y tế của Hà Giang nói chung còn rất
nhiều khó khăn. Tại cấp xã, những khó khăn này lớn hơn rất nhiều. Phần lớn các trạm y tế xã đều
thiếu các trang thiết bị cần thiết, các cán bộ của trạm ít có cơ hội để tham gia các lớp tập huấn
chuyên sâu và cập nhật các thông tin liên quan đến tình hình sức khoẻ của địa phương. Tất các
các nhân viên y tế thôn bản đều không phải là những người được đào tạo chuyên nghiệp. Họ trở
thành nhân viên y tế sau khi tham gia một khoá tập huấn dài 3 tháng. Do vậy, chất lượng các dịch
vụ y tế cho người dân, đặc biệt là cho trẻ em và phụ nữ còn thấp. Tỷ lệ sinh con tại trạm y tế chỉ

đạt dưới 10% (đối với các xã hẻo lánh). Tỷ lệ suy dinh dưỡng của trẻ em là 25%. Ngoại trừ ở khu
vực thị trấn, các hộ gia đình và thậm chí các trường học được xây dựng kiên cố (Tiểu học và
THCS) tại các xã đều không có nhà vệ sinh.
Trẻ em không có cơ hội được vui chơi tại gia đình và cộng đồng
b) Giới thiệu về hai huyện Xín Mần và Hoàng Su Phì
Xín Mần và Hoàng Su Phì nằm ở phía Tây của tỉnh. Đây là 2 trong những huyện nghèo nhất
của Hà Giang. Trong tổng số 114 xã của 11 huyện, thị nhận hỗ trợ của chương trình 135, hai
huyện Xín Mần và Hoàng Su Phì chiếm 29,5% (34 xã). Ngân sách thu của địa bàn chỉ đạt
khoảng 5% so với nhiệm vụ chi của địa phương. Tỷ lệ nghèo của huyện Xín Mần là 60% và
huyện Hoàng Su Phì là 58%. Người dân tộc trên toàn tỉnh chiếm 88,2% trong đó Xín Mần là
98,4%, Hoàng Su Phì là 96,9%.
Xín Mần và Hoàng Su Phì là hai huyện có điều kiện đi lại khó khăn nhất, do địa hình đồi núi
đất nhiều, kết cấu đất không bền vững và có nguy cơ sạt lở đất. Mặc dù đã có đường nhựa,
nhưng giao thông đi lại từ hai huyện ra Quốc lộ 2 và trung tâm tỉnh gặp nhiều khó khăn, nhất là
vào mùa mưa do bị sạt lở đất. Đây là một sức ép lớn cho sự phát triển kinh tế xã hội của địa
phương.
Tỷ lệ trẻ đi học của trẻ em ở độ tuổi dưới 3 và từ 3-5 tuổi thấp. Tỷ lệ ra lớp trung bình của
trẻ dưới 3 tuổi toàn tỉnh đạt 12,3%, con số này ở hai huyện thấp hơn rất nhiều, khoảng 6-7%.
Vấn đề học sinh bỏ học ở cấp tiểu học và trung học cở sở là một khó khăn lớn cho sự phát
triển và nâng cao chất lượng giáo dục. Theo thống kê không đầy đủ của Phòng Giáo dục Huyện,
tỷ lệ trẻ đang đi học bỏ học khoảng 15-20%.
Thông qua các hoạt động PRA (Đánh giá nông thôn có sự tham gia của người dân) được
triển khai tại 6 xã (Pố Lồ, Tụ Nhân, Tân Tiến – huyện Hoàng Su Phì; Tả Nhìu, Nàn Ma và Nấm
Dẩn – huyện Xín Mần) và việc thu thập các số liệu thứ cấp, hiện trạng kinh tế xã hội 6 xã này
đang phải đối mặt với các vấn đề mà tỉnh và hai huyện đang gặp phải nhưng ở các mức độ khác
nhau. 6 xã được xem như là những bức tranh thu nhỏ của tỉnh Hà Giang
II) Dự án " Phát triển cộng đồng tập trung vào trẻ em tại hai huyện Hoàng Su Phì
và Xín Mần, tỉnh Hà Giang do tổ chức Plan quốc tế tại Việt Nam tài trợ giai
đoạn I (2007 - 2009)
1) Lý do thực hiện dự án

Tại Việt Nam , Plan cam kết giúp Việt Nam nhiều chương trình, dự án tập trung vào trẻ em
nghèo, trẻ em có hoàn cảnh khó khăn
Trong đó có Hà Giang là một trong số những tỉnh nghèo nhất Việt Nam. Hà Giang được xếp
thứ 3 với tỷ lệ nghèo là 43,7%.
Hà Giang là một tỉnh có tỷ lệ người dân tộc thiểu số rất cao (88%). Điều này phù hợp với
chiến lược phát triển của Plan (hỗ trợ cho những người dân nghèo và trẻ em dân tộc)
Trẻ em của Hà Giang đang phải đối mặt với nhiều thách thức khó khăn: thiếu lương thực và
quần áo, tỷ lệ trẻ em ra lớp ở độ tuổi cấp 1 và 2 thấp, trẻ em bỏ học, tỷ lệ suy dinh dưỡng còn cao
và là nạn nhân của tệ nạn buôn bán trẻ em. Tỷ lệ đăng ký khai sinh đúng hạn thấp và trẻ em
không có cơ hội tham gia vào các hoạt động của cộng đồng là những vấn đề đáng quan ngại liên
quan đến quyền trẻ em.
Phía Tỉnh và huyện đều có sự cam kết cao. Mặc dù là một tỉnh nghèo, nhưng UBND Hà
Giang sẵn sàng đóng góp các nguồn lực trong việc xây dựng và thực hiện các chương trình. Cơ
chế đóng góp giữa Plan và Tỉnh đã được thảo luận và thông qua. Điều đó đã thể hiện được sự
cam kết cao từ phía Tỉnh và Huyện
Một lý do khác có thể được xem xét đến là mặc dù Hà Giang sẽ phải đối mặt với nhiều khó
khăn trong thời gian tới, trong khi đó hiện nay, số các tổ chức NGO quốc tế và các dự án hợp tác
song phương hoạt động tại Hà Giang còn ít. Ngoài dự án DPPR và Dự án Chia Sẻ có nguồn vốn
hỗ trợ lớn, các tổ chức NGO quốc tế khác như (Caritas, Action Aids) có số vốn hỗ trợ rất hạn
chế.
2) Mục tiêu của dự án
Trẻ em, phụ nữ và nam giới nghèo được thực hiện quyền tham gia đầy đủ vào quá trình ra
quyết định có ảnh hưởng đến cuộc sống của họ và ý kiến của họ được lắng nghe.
Trẻ em cần sự bảo vệ đặc biệt và trẻ em của các gia đình (di cư) nghèo thực hiện quyền được
bảo vệ và chăm sóc đầy đủ.
Trẻ em thực hiện quyền được sống trong một môi trường an toàn, được chăm sóc không có
rủi ro về tai nạn thương tích và không bị lạm dụng ( lạm dụng thân thể, tâm lý, xâm hại tình dục,
bị bỏ mặc và bị bóc lột) ở nhà, ở trường và ở cộng đồng.
Trẻ em (từ 6 – 15tuổi) thực hiện quyền phát triển và duy trì năng lực học tập cơ bản nhờ
điều kiện giáo dục có chat lượng.

Trẻ em (từ 0 – 6 tuổi) thực hiện quyền được chăm sóc và phát triển từ nhỏ.
Trẻ em thực hiện quyền được sống trong môi trường khỏe mạnh, được tiếp cận với nguồn
nước sạch, điều kiện vệ sinh bền vững về số lượng và chất lượng và có thói quen vệ sinh có lợi
cho sức khỏe.
Sức khỏe của trẻ em và phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ được cải thiện và họ thực hiện quyền
phát triển khỏe mạnh và được bảo vệ khỏi những rủi ro đe dọa sức khỏe.
Trẻ em thực hiện quyền được sống trong các gia đình có lương thực thực phẩm và nguồn thu
kinh tế đảm bảo.
3) Các chương trình thực hiện trong dự án
a) Phát triển kinh tế bền vững
Thiết lập toàn bộ hệ thống vận hành của dự án từ cấp xã đến cấp huyện vì dự án của Plan
đều dựa vào hệ thống của địa phương, hệ thống của nhà trường, hệ thống của y tế xã huyện. sau
6 tháng, Plan đã thiết lập xong và bây giờ hệ thống đang vận hành. Bà con đã quen dần với các
hoạt động của dự án. Ví dụ các dự án Plan chuyển tiền về xã, người dân của xã sử dụng với sự hỗ
trợ, giám sát của Plan. Đây là lần đầu tiên những người dân ở đây áp dụng những thủ tục như thế
và họ bắt đầu làm quen. Trong những năm tới Plan huy động càng nhiều sự tham gia của địa
phương trong quá trình đóng góp vật lực, đóng góp vào quá trình giám sát và bảo quản công
trình hiệu quả.
Tạo công ăn việc làm cho người dân sinh sống tại các vùng nghèo thông qua việc :cung cấp
trâu,bò giúp họ có thể tự nuôi sống bản thân và gia đình
Ngoài ra tạo các lớp dạy nghề cho dân cư trong vùng như các lớp làm vòng,các lớp dệt
vải vừa tạo thu nhập vừa giúp quảng bá các sản phẩm mang tính bản địa .
Giúp người dân không có đủ điều kiện có thể tiếp cận với các nhu cầu cơ bản bao ( lương
thực, quần áo, đồ dùng sinh hoạt, chi trả khám chữa) thông qua các chương trình: phân phát
lương thực, quần áo, đồ dùng sinh hoạt miễn phí.
Phát thẻ khám chữa bệnh miễn phí hoặc giảm phí cho người dân nghèo.
Trẻ em thực hiện quyền được sống trong các gia đình có lương thực phẩm và nguồn thu kinh
tế đảm bảo
b) Giáo dục cơ bản có chất lượng (QBE)
Nhằm cho các cháu có thể sinh hoạt bán trú tại trường Mầm non bởi nếu các cháu chỉ đến

buổi sáng thì cha mẹ sẽ không có điều kiện đi làm, thu nhập của cha mẹ sẽ rất thấp. Plan đã hỗ
trợ trang thiết bị làm bếp, hỗ trợ bếp ăn để các cháu có thể ăn trưa tại trường.
Nâng cao nhận thức của cha mẹ học sinh qua việc phổ biến đến từng hộ gia đình ,thuyết
phục họ cho con cái đi học.
Tạo các cơ sở trông giữ có uy tín và có chất lượng tốt để trông nom các em.
Tích cực thăm nom gia đình các em để đảm bảo họ luôn cho con cái đi học.
Trẻ em (từ 0-6 tuổi) thực hiện quyền được chăm sóc và phát triển từ nhỏ.
Xây dựng cơ sở hạ tầng, trang thiết bị phục vụ cho việc dạy và học của học sinh: trường học
có nhà vệ sinh,có hệ thống nước sạch,có các phong chức năng,có thư viện cho các em có thể đọc
sách .
Nâng cao chất lượng dạy học cho học sinh:mua thêm nhiều sách vở để các em có thêm kiến
thức,đào tạo giáo viên để nâng cao trình độ dạy.
Tạo động lực để các em không bỏ học giữa chừng bằng việc chăm lo cho cuộc sống của gia
đình các em.
Trẻ em (từ 6-15 tuổi) thực hiện quyền phát triển và duy trì năng lực học tập cơ bản nhờ điều
kiện giáo dục có chất lượng.
c) Chăm sóc và phát triển trẻ thơ (ECCD)và Bảo vệ trẻ em (CP):
Về bảo vệ trẻ em, Plan tuyên truyền về việc làm giấy khai sinh, chống buôn bán trẻ em qua
biên giới cùng các chiến dịch của nhà nước. Cung cấp những kiến thức giảm thiểu việc buôn
người qua biên giới. Plan tổ chức các chương trình truyền thông dịp 1/6 hay tết Trung thu với
câu sologan: “Trẻ em cần được đến trường”.
Về chương trình y tế. Hà Giang luôn coi trọng việc tăng cường dịch vụ y tế tại cấp thôn, cấp
xã thì Plan hỗ trợ cho Sở Y tế đào tạo đội ngũ y tế thôn, bản. Plan cùng chính quyền địa phương
có quan điểm thống nhất rằng mua một số trang thiết bị cho ngành y tế không khó, việc đào tạo
ra con người có thể sử dụng các thiết bị y tế đó mới là chiến lược bền vững. Tổ chức các chương
trình khám chữa bệnh miễn phí ,thường niên để những người nông dân gồm cả trẻ em và người
nghèo có thể được tiếp cận với dịch vụ khám chữa bệnh tốt.
Nâng cao cơ sở y tế: xây dựng các trạm y tế kiên cố ,vững chắc;bổ sung nguồn lực là các
bác sĩ và y tá.
Ở Hà Giang 6 tháng mùa khô gây nhiều bức thiết, khó khăn với người dân. Các cháu nhỏ

phải đi 2 - 3 tiếng để lấy nước về. Plan đã tổ chức các đợt tuyên truyền cách sử dụng nước hiệu
quả. Một bể nước nếu biết cách sử dụng có thể dùng được trong 3 tháng thay vì 1 tháng, trong 2
tháng không phải đi lấy nước các cháu có thêm thời gian học tập.
Đối với các nhân viên y tế bản thôn đều không phải là những người được đào tạo chuyên
nghiệp: nâng cao trình độ của họ bằng việc tổ chức các lớp tập huấn.
Tuyên truyền về việc sinh con tại trạm y tế là an toàn nhất tới các xã hẻo lánh để nâng cao tỷ
lệ sinh con tại trậm y tế.
Loại bỏ những hủ tục lạc hậu, mê tín di đoan, chữa bệnh không khoa học
Phổ biến tới các bậc cha mẹ cho con đi khám thương xuyên ngay từ bé để có thể phòng
tránh,phát hiện và chữa trị kịp thời đối với các loại bệnh .
Đối với cấp xã, huyện cần xây cá khu vui chơi cho các cháu để đảm bảo nhu cầu tối thiểu
của các em.
Khuyên các bậc cha mẹ hãy giành cho con cái của mình thời gian vui chơi.
Cung cấp các loại đồ chơi đơn giản và có thời gian sử dụng bền để các em giải trí.
Trẻ em thực hiện quyền được sống trong môi trưởng khoẻ mạnh, được tiếp cận với nguồn
nước sạch, điều kiện vệ sinh bền vững về số lượng và chất lượng và có thói quen vệ sinh có lợi
cho sức khoẻ.Sức khoẻ của trẻ em và phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ được cải thiện và họ thực hiện
quyền phát triển khoẻ mạnh và được bảo vệ khỏi những rủi ro đe doạ sức khoẻ.
d) Nâng cao sức khỏe cộng đồng tập trung vào trẻ em (CCCH)
Tổ chức các chương trình quyên góp để có thể trợ cấp cho các gia đình nghèo: về lương
thực,quần áo
Tới các gia đình thuyết phục cha mẹ cho con cái tiếp tục đi học khi có tình trạng học sinh
bỏ học
Nâng cao nhận thức , trình độ của các bậc cha mẹ về tệ nạn buôn bán trẻ em để có cách
phòng tránh cho phù hợp.
Tăng tỷ lệ đăng ký khai sinh đúng hạn: thường xuyên tới từng xã ,tỉnh để tổ chức làm giấy
khai sinh để phục vụ cho dân cư tại đó.
Tổ chức các chương trình mang tính cộng đồng hướng tới dối tượng là trẻ em để các em có
cơ hội tham gia vào các hoạt động của cộng đồng,giúp các em phát triển các kỹ năng như :giao
tiếp

Trẻ em thực hiện quyền được sống trong một môi trường an toàn, được chăm sóc, không có
rủi ro về tai nạn thương tích và không bị lạm dụng (lạm dụng thân thể, tâm lý, xâm hại tình dục,
bị bỏ mặc và bị bóc lột) ở nhà, ở trường và tại cộng đồng. Trẻ em, phụ nữ và nam giới nghèo
được thực hiện quyền tham gia đầy đủ vào quá trình ra quyết định có ảnh hưởng đến cuộc sống
của họ và ý kiến của họ được lắng nghe.
4) Khó khăn mà các cán bộ gặp phải khi tiến hành dự án
a) Khó khăn do điều kiện tự nhiên tác động vào
Như chúng ta đã thấy.Hà Giang có địa hình hết sức phức tạp, rừng núi chiếm 80% diện tích,
kết cấu đất không bền vững và có nguy cơ sạt lở đất, hệ thống giao thông còn nghèo nàn, chưa
phát triển,đường xá đi lại khó khăn hiểm trở. Đây là một trở ngại lớn đối với các cán bộ phát
triển cộng đồng khi muốn xuống từng bản làng để gặp gỡ, tiếp xúc, nói chuyện, trao đổi cùng bà
con về các vấn đề liên quan.
Dân cư thưa thớt, không tập trung gây khó khăn cho cán bộ phát triển cộng đồng khi phải
đến tuyên truyền phổ biến các chương trình trong dự án phải mất nửa ngày mới đến được một gia
đình, sau đó lại vượt rừng núi hiểm trở để đến với gia đình khác cách đó vài km.
b) Khó khăn trong vấn đề bất đồng ngôn ngữ
Hà Giang có 684.618 người với 133.079 hộ. Có 22 dân tộc, trong đó nhiều nhất là người
H’Mong (208,571 người chiếm 31$) tiếp đó là người Tày (171,1122 người chiếm 22%) Dao
(102,112 người), Nùng (66,335 người), người Kinh (980,929 người).
Mỗi dân tộc lại có những ngôn ngữ khác nhau, cán bộ phát triển cộng đồng đa số lại là
những người từ miền xuôi lên, chỉ có một số ít người bản địa nên vấn đề bất đồng ngôn ngữ cũng
gây khó khăn rất lớn cho họ khi truyền tải thông tin về các chương trình của dự án tới những
người dân địa phương. Cán bộ nói, giải thích nhưng người dân không hiểu được, hoặc hiểu
không sâu, không chính xác nên việc tiếp cận gặp khó khăn.
Ngoài ra, ở mỗi dân tộc lại có những phong tục, tập quán khác nhau mà nếu không tìm hiểu,
nghiên cứu thì các cán bộ phát triển cộng đồng sẽ rất khó xây dựng được mối quan hệ tốt đẹp và
tạo được thiện cảm với người dân. Điều này đòi hỏi cán bộ phát triển cộng đồng phải dành thời
gian, công sức tìm hiểu, nghiên cứu các phong tục này để dễ đi sâu vào lòng người dân, tạo được
lòng tin ở họ thí khi cán bộ nói họ sẽ tin và làm theo.
c) Khó khăn trong triển khai các chương trình

Hà Giang là một trong những tỉnh nghèo nhất Việt Nam ( xếp thứ 3) với tỷ lệ nghéo là
43,7%. Mức thu nhập trung bình toàn tỉnh là 3,2 triệu / người/ năm. Tại các khu vực xa xôi hẻo
lánh còn thấp hơn(2,5-2,6,triệu/người/năm), Trung bình mỗi ngày một người dân làm ra được
7000 đồng để trang trải cho tất cả các khoản chi tiêu. Mức thu nhập này chỉ bằng một nửa so với
mức nghèo của thế giới (1$/người/ngày) do vậy họ không có đủ điều kiện để tiếp cận các nhu
cầu cơ bản bao gồm : lương thức, quần áo, đồ dung sinh hoạt, chi trả khám chữa bệnh, học tập
cho trẻ em.Trẻ em vẫn đang phải chịu nhiều thiếu thốn về lương thực,thuốc men.
Lao động vất vẩ cả ngày đến cơm còn chẳng đủ ăn, áo không đủ mặc thì thời gian đâu mà đi
học - đó là suy nghĩ của người dân. Vì thế để thuyết phục người dân cho con em họ đến lớp là vô
cùng khó khăn. Đòi hỏi phải thuyết phục lâu dài dần dần.
Mất rất nhiều thời gian mới thuyết phục được họ cho con em mình tới trường thì chỉ được
một thời gian ngắn sau đó trẻ lại bỏ học vì nhiều lý do( ở nhà lao động, trông em…) vì thế cán bộ
thường xuyên thăm nom, thuyết phục gia đình, động viên các em đến lớp đầy đủ.
Thực tế cho thấy, trẻ em vùng dân tộc thiểu số việc học Tiếng Việt khó khăn như một môn
ngoại ngữ, do đó nếu áp dụng cứng nhắc các chương trình sẽ không hiệu quả, việc dùng các
ngôn ngữ bản địa và học liệu địa phương sẽ giúp cho các em nhận thức nhanh hơn.Vừa tăng
cường Tiếng Việt cho trẻ em dân tộc, vừa góp phần bảo vệ truyền thống giá trị văn hóa của dân
tộc đó.Tuy nhiên đội ngũ giáo viên đa số không phhair là người dân bản địa nên chưa thực sự am
hiểu ngôn ngữ địa phương gây khhos khăn trong việc truyền tải kiến thức tới các em.Cũng có số
ít giáo viên am hiểu tiếng dân tộc nhưng trong một lớp học có nhiều học sinh đến từ các dân tộc
khác nhau thì không thể dạy bài bằng nhiều thứ tiếng trong cùng một lớp học được.
d) Khó khăn trong chương trình khám chữa bệnh
Hà Giang là một tỉnh tập trung nhiều dân tộc thiểu số, trình độ dân trí thấp, có nhiều hủ tục
mê tín dị đoan, vì thế khi đưa ra các chương trình nâng cao sức khỏe cộng đồng thì cũng gặp một
số khó khăn nhất định. Người dân luôn tin vào thầy cúng, ai ốm đau, bệnh tật gì thì cứ mời thầy
cúng về đuổi tà ma. Cán bộ phát triển cộng đồng phải mất rất nhiều thời gian để trình bày, giải
thích cho người dân hiếu về khoa học ký thuật, khám chữa bệnh bằng thuốc.
Tuy nhiên số lượng trạm y tế còn ít, trang thiết bị còn nghèo nàn, đội ngũ y bác sỹ với trình
độ chuyên môn còn hạn chế nên người dân chưa thực sự tin tưởng
e) Khó khăn khi trẻ em không có cơ hội vui chơi tại gia đình, cộng đồng.

Làm việc từ sáng đến tối mà vẫn không đủ ăn, đủ mặc thì thời gian đâu giành cho vui chơi
giải trí, phát triển tinh thần, thể chất.Để thuyết phục gia đình cho các em đến khu vui chơi giải
trí, tham gia sinh hoạt tập thể, được giao lưu học hỏi lẫn nhau thì cán bộ phải mất nhiều thời gian
giải thích cho bà con hiểu lợi ích của việc sinh hoạt vui chơi giải trí giúp con em mình có sức
khỏe, có trí tuệ…
5) Các giải pháp khắc phục khó khăn
Hai huyện Xín Mần và Hoàng Su Phì là những vùng đặc biệt khó khăn nên nguồn nhân lực
cũng là một thách thức lớn . Để lựa chọn được những cán bộ dự án làm việc tại các vùng sâu
vùng xa là vô cùng khó khăn vì điều kiện đi lại, sinh hoạt vất vả. Ngoài ra, trình độ nhận thức
của người dân tại các địa phương này còn nhiều hạn chế nên việc giúp họ hòa nhập và nói lên
được tiếng nói riêng của mình gặp không ít khó khăn. Để khắc phục những khó khăn trên bằng
những kiến thức đã được học trong sách vở cũng như kiến thức ngoài thực tiễn các cán bộ đã làm
tốt công việc của mình giúp cho người dân ở đồng bào dân tộc thiểu số cũng như các em có một
cuộc sống tốt đẹp hơn.
Khi đường xá đi lại còn khó khăn hiểm trở, ô tô, xe máy không thể đi vào trong làng Plan đã
đưa ra những kế hoạch, biện pháp tu sửa lại đường xá cho người dân nơi đây, trong khi đó những
cán bộ Plan khác vẫn tiếp tục đến với các thôn xã, để tiếp tục công việc phát triển của mình. 2
tỉnh trên của Hà Giang là 2 tỉnh nghèo nên dân cư thưa thớt việc đi đến từng nhà vừa khó khăn,
vất vả , mất thời gian vì thể Plan đã tổ chức những buổi giao lưu, vận động, tuyên truyền bà con,
khi thuyết phục được hộ gia đình thì chắc hẳn đến những hộ gia đình sau sẽ dễ dàng hơn, bởi cơ
bản tuy sống thưa thớt cách xa nhau nhưng tính cộng đồng của họ rất cao, chúng ta có thể nhờ
chính những người dân nơi đây để tuyên truyền cho mọi người khác.
Một khó khăn để ra là bất đồng ngôn ngữ, trên đất nước Việt Nam có 54 dân tộc, 54 ngôn
ngữ riêng, những cán bộ Plan khi tiếp xúc với người dân mà ko hiểu được họ nói gì thì làm sao
mà tuyên truyền mà vận động, bởi thế khi mới xuống nơi đây bằng sự nỗ lực của mình họ đã cố
gắng học hỏi dù không nhiều nhưng đủ để hiểu, để truyền đạt lại cho người dân về quyền lợi của
trẻ em, rằng con em của họ cũng có quyền học tập, vui chơi như bao đứa trẻ khác, dù điều kiện
có khăn nhưng vì tương lai của những đứa trẻ nơi đây thì đó là điều cần thiết. phong tục tập quán
ở mỗi nơi cũng khác vì thế việc nắm bắt được các tập quán nơi đây sẽ giúp cho các các bộ có thể
gần gũi với người dân ở nơi đây thuận lợi cho công việc phát triển cộng đồng

Vì điều kiện kinh tế còn khó khăn nên việc thuyết phục bố mẹ cho con em mình được đi học
vui chơi là điểu không dễ dàng bởi thế các cán bộ phải thường xuyên thăm nom, giúp đỡ người
dân nơi đây, thuyết phục họ để họ hiểu cho các em học tập là để tương lại các em có thể tốt hơn
mình.
Một vấn đề khác là ở nơi đây còn tồn tại nhiều hủ tục, khi ốm đau thường nhờ các thầy mo
về cúng nhằm xua đuổi bệnh tật, vì vậy thuyết phục người dân nơi đây đi bệnh viện các trạm xá
cũng là 1 vấn đề nan giải, các cán bộ đã cố gắng giúp người dân hiểu rằng, bệnh viện, bác sĩ mới
là cần thiết có thể chữa được những căn bệnh mà ở nơi đây người ta cho là do ma quỷ làm.
Tuy nhiên, với sự say mê công việc, các cán bộ dự án của Plan đã không quản ngại khó khăn
để làm tốt công việc của mình được giao đưa sự hiểu biết của mình truyền đạt cho người dân nơi
đây để họ có 1 cuộc sống tốt đẹp hơn, trẻ em được sống, được học tập, vui chơi.
6) Kết quả đạt được của dự án
Chương trình là sự hợp tác lâu dài giữa tổ chức Plan Việt Nam và tỉnh Hà Giang vì vậy, nó
sẽ có những đóng góp đáng kể, quan trọng trong việc xóa đói và giảm nghèo tại hai Huyện
Hoàng Su Phì, Xín Mần nói riêng và tỉnh Hà Giang nói chung.
Đặc biệt chương trình hỗ trợ tối đa để trẻ em có thể phát huy mọi tiềm năng của mình cũng
như nâng cao đáng kể điều kiện sống của các em.
Số trẻ được bảo trợ: Năm 2008 có 1.350 trẻ được Bảo trợ (năm đầu tiên). Số lượng này sẽ
được tăng hàng năm thêm 1.000 trẻ.
Khi mới bắt đầu dự án 2 huyện Hoàng Su Phì và Xín Mần có tỉ lệ ra lớp của trẻ dưới 3 tuổi
là dưới 5%,
Nắm bắt rõ thực trạng này, giáo dục mầm non đã trở thành một mảng quan trọng trong dự án
của Plan tại Hà Giang. Thông qua ban điều hành các xã, các tổ chức triển khai thực hiện công tác
đầu tư xây dựng, mua sắm trang thiết bị dạy và học. Qua Phòng giáo dục và Đào tạo triển khai
các hoạt động tập huấn giáo viên, tổ chức các hoạt động của cộng đồng.
Nói về hiệu quả của dự án mà Plan triển khai tại Hà Giang: “Trong thời gian qua, Plan đã hỗ
trợ xây dựng 2 trường mầm non ở trung tâm xã, 21 điểm trường lẻ với 48 phòng học, trang bị 55
bộ đồ dùng đồ chơi phục vụ cho công tác dạy và học. Quan tâm đến việc nâng cao năng lực
giảng dạy, Plan đã giúp tập huấn 13 chủ đề cho gần 3.000 lượt giáo viên. Bên cạnh đó, Plan xây
dựng và áp dụng thực hiện bộ tài liệu hỗ trợ như bộ tranh dân gian của người Dao và người

H’Mông, thực hiện chương trình giáo dục Mầm non mới. Tổ chức các hoạt động truyền thông,
nâng cao nhận thức cho cộng đồng để chăm sóc trẻ em dưới nhiều hình thức. Tổ chức các hội thi
bé khỏe bé đọc thơ, kể chuyện, ngày hội toàn dân đưa trẻ đến trường. Plan còn hỗ trợ cho các
hoạt động nhóm tại cộng đồng, giúp tổ chức 12 nhóm tre vui chơi, đọc sách giúp trẻ nói tiếng
Kinh tốt hơn, mạnh dạn hơn trong quá trình giao tiếp, thành lập các nhóm cha mẹ giúp đỡ, chia
sẻ với nhau kinh nghiệm chăm sóc trẻ thơ. Năng lực nguồn nhân lực ở cấp thôn cấp xã được
nâng cao rõ rệt. tất cả các cô giáo từ mầm non đến tiểu học đều được tập huấn từ chuyên môn
đến phương pháp giảng dạy, giáo viên trường cấp 2 và các cán bộ đoàn thể đều được tham gia
các khóa tập huấn từ đó áp dụng vào quá trình triển khai công việc không những của Plan mà của
cả chính phủ, Plan có sự lồng ghép rất chặt chẽ giữa các hoạt động của Plan và của chính quyền
Hà Giang.
Tổng kinh phí tổ chức Plan đầu tư thời gian qua tại Hoàng Su Phì và Xín Mần là gần 18 tỉ
đồng, 2 huyện Yên Minh và Mèo Vạc gần 3 tỉ đồng”.
Sau 5 năm, hiệu quả các dự án đã tương đối rõ. Thứ nhất Đến nay tỉ lệ ra lớp của trẻ dưới 3
tuổi đạt tỉ lệ đạt 35% tăng gấp 7 lần so với khi chưa thực hiện dự ấn. Thứ hai, trẻ em tham gia
các hoạt động, được trao đổi nhiều nên trở nên tự tin hơn. Thứ ba, hệ thống cán bộ cấp thôn, xã
sau quá trình làm việc với Plan đã biết cách lên kế hoạch, giám sát hiện trường và huy động sự
tham gia của cộng đồng trong các hoạt động. Thứ tư, các công trình của Plan xây dựng đã mang
hiệu quả cung cấp cơ sở vật chất cho địa phương; thông qua đó Plan tuyên truyền về vấn đề vệ
sinh nước sạch môi trường cho mọi người.
KẾT LUẬN
Trong gần 20 năm hoạt động tại Việt Nam, Plan đã nhận được sự phối hợp chặt chẽ của các
cấp chính quyền và cộng đồng địa phương. Chính vì vậy mà các dự án được triển khai thuận lợi,
đạt hiệu quả và mang tính bền vững cao. Chương trình hợp tác lâu dài giữa tổ chức Plan Việt
Nam và tỉnh Hà Giang sẽ có những đóng góp đáng kể trong việc Xóa đói và giảm nghèo tại hai
Huyện Hoàng Su Phì, Xín Mần nói riêng và tỉnh Hà Giang nói chung. Đặc biệt chương trình sẽ
hỗ trợ tối đa để trẻ em có thể phát huy mọi tiềm năng của mình cũng như nâng cao đáng kể điều
kiện sống cho các em.
Tài liệu tham khảo.
Giáo trình phát triển cộng đồng trường đại học nông nghiệp Hà Nội, chủ biên th.s Trương Văn

Tuyển
Các trang web
/> />em-do-to-chuc-plan-tai-viet-nam-tai-tro.html
/> />Tóm tắt Dự án " Phát triển cộng đồng tập trung vào trẻ em tại hai huyện Hoàng Su Phì và
Xín Mần, tỉnh Hà Giang do tổ chức Plan quốc tế tại Việt Nam tài trợ giai đoạn I (2007 -
2009)
I. NHỮNG THÔNG TIN CƠ BẢN CỦA DỰ ÁN
Tên dự án:Dự án Phát triển cộng đồng tập trung vào trẻ em
Cơ quan chủ quản: UBND tỉnh Hà Giang
Chủ Chương trình/Dự án: UBND huyện Hoàng Su Phì và UBND huyện Xín Mần
UBND huyện Hoàng Su Phì
Địa chỉ: Thị trấn Vinh Quang, huyện Hoàng Su Phì, tỉnh Hà Giang
Điện thoại: 0219 831 106 fax: 0219 831 111
UBND huyện Xín Mần
Địa chỉ: Thị trấn Cốc Pài, huyện Xín Mần, tỉnh Hà Giang
Điện thoại: 0219 836 227 fax: 0219 836 104
Địa điểm dự án: - Xã Tân Tiến, Tụ Nhân, Pố Lồ huyện Hoàng Su Phì
- Xã Nàn Ma, Nấm Dẩn, Tả Nhìu huyện Xín Mần
Tổ chức tài trợ: Plan Quốc tế tại Việt Nam
Mục đích dự án: Phát triển cộng đồng tập trung vào trẻ em
Người hưởng lợi: Trẻ em và người dân, gia đình và cộng đồng 2 huyện Hoàng Su Phì và Xín
Mần
Thời gian thực hiện dự án: Giai đoạn I từ 2007 - 2009
Ngân sách: 600.000 USD (do tổ chức Plan tài trợ)
Tỷ giá hối đoái: 1 USD = 16,000 NVĐ
II. Tình hình kinh tế xã hội vùng Hà Giang
Hà Giang là một tỉnh miền núi với 10 huyện và 1 thị xã nằm ở phía Bắc Việt Nam. Hà Giang có
195 xã, phường và thị trấn, trong đó có 114 xã thuộc chương trình 135. Tổng diện tích tự nhiên là
7.923,21km2, có trên 274 km đường biên giới với tiếp giáp với Trung Quốc. Dân số Hà Giang là
684.618 người với 133.079 hộ (Nguồn: Niên giám thống kê Tỉnh Hà Giang-2006), có 22 dân tộc,

trong đó nhiều nhất là người H’Mong (208,571 người chiếm 31%), tiếp đó là người Tày
(171,112 người chiếm 22%), Dao (102,112 người), Nùng (66,335 người). Người Kinh 980,929
người, chiếm 11,8%.
Hà Giang có địa hình rất phức tạp, trong đó núi và rừng chiếm tới 80% diện tích. Tỷ lệ hộ nghèo
là 43,7%, thu nhập bình quân năm đạt 3,2 triệu đồng, bình quân lương thực là 365kg/người. Thu
ngân sách tại địa bàn chỉ đáp ứng được 10% nhiệm vụ chi. Nhiệm vụ chi 1.859 tỷ đồng và đạt
gần 10% GDP theo giá hiện hành. Do đó, Hà Giang luôn phải nhận hỗ trợ hàng năm từ Nhà nước
hơn 1.600 tỷ VND.
Tỷ lệ suy dinh dưỡng của trẻ em ở mức khá cao: 25,5%. Tỷ lệ đăng ký khai sinh đạt hơn 70%
(năm 2006) và 30% (năm 2004 trở về trước).
Hiện nay, Hà Giang được xếp là tỉnh nghèo thứ 3 của Việt Nam (sau tỉnh Bắc Kạn và Đăk
Nông). Trong thời gian tới, Hà Giang vẫn còn tiếp tục phải đối mặt với nhiều vấn đề khó khăn.
Trong đó có những vấn đề cụ thể sau có ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển của trẻ em.
1.1 Thu nhập thấp
Hiện nay, Với mức thu nhập trung bình toàn tỉnh là 3,2 triệu/người/năm, các hộ gia đình có kinh
tế khá giả tập trung chủ yếu ở các thị trấn. Trong khi đó, thu nhập bình quân của người nông dân
tại địa phương, đặc biệt tại các khu vực xa xôi, hẻo lánh rất thấp (2,5-2,6 triệu/người/năm).
Trung bình mỗi ngày, một người dân làm ra được 7,000đ để trang trải cho tất cả các chi tiêu.
Mức thu nhập này chỉ bằng một nửa so với mức nghèo của thế giới (1USD/người/ngày). Do vậy,
người dân không có đủ điều kiện để tiếp cận với các nhu cầu cơ bản bao gồm: lương thực, quần
áo, đồ dùng sinh hoạt, chi trả khám chữa bệnh, học tập cho con em. Trẻ em vẫn đang phải chịu
nhiều thiếu thốn về lương thực và quần áo, đặc biệt là vào mùa đông.
1.2 Chất lượng giáo dục Mầm non thấp
Hầu hết các thôn bản đều không có lớp học kiên cố cho bậc học mầm non. Các trang thiết bị và
đồ chơi cần thiết cho giáo viên giảng dạy và trẻ học đều thiếu. Đặc biệt, tất cả các trường mầm
non, bao gồm cả trường đã được xây dựng kiên cố lẫn các lớp học tạm, đều không có nhà vệ sinh
và hệ thống nước sạch. Do đó, tỷ lệ đến lớp trung bình của toàn tỉnh chỉ đạt 15 % đối với trẻ
dưới 3 tuổi, 75% đối với trẻ từ 3-5 tuổi. Đây là một tỷ lệ rất thấp nếu so sánh với tỷ lệ bình quân
của toàn quốc. Đáng lưu ý trong đó, một vài xã vùng xã, tỷ lệ ra lớp của trẻ dưới 3 tuổi chỉ đạt
dưới 5% .

1.3 Chất lượng Giáo dục cơ bản thấp
Phần lớn các xã, bao gồm cả các xã vùng xa đều có trường học cho 2 cấp. Tỷ lệ đến lớp của tiểu
học đạt 98%. Tuy nhiên, nhiều khó khăn vẫn còn tồn tại cho cả giáo viên và học sinh trong việc
nâng cao chất lượng học. Mặc dù nhiều xã đã có trường cho cả hai cấp học, nhưng chỉ có 78,3%
trẻ đến trường đúng độ tuổi. Bàn ghế cho trẻ đều không đúng với tiêu chuẩn do Bộ GDĐT quy
định. Đa phần các trường đều không có nhà vệ sinh, hệ thống nước sạch. Các phòng chức năng
và thư viện đều nằm ngoài khả năng của nhà trường. Do vậy chất lượng dạy và học rất thấp.
Theo thống kê mới nhất của Sở Giáo dục, tỷ lệ tốt nghiệp THPT của Hà Giang đạt dưới 53%
(2007).
Bỏ học là một vấn đề đáng quan ngại đối với bậc THCS, có nhiều nguyên nhân dẫn đến trẻ bỏ
học (trường xa, điều kiện kinh tế khó khăn, không có khả năng học…). Ít nhất có 20% trẻ, sau
khi tốt nghiệp Tiểu học không tiếp tục học THCS. Thêm vào đó, tỷ lệ học sinh bỏ học giữa
chừng cao (10-15%), đặc biệt là vào thời gian thu hoạch nông nghiệp, trẻ phải ở nhà để giúp đỡ
cha mẹ hoặc là mùa đông quá lạnh.
1.4 Người nông dân, trong đó bao gồm trẻ em và những người nghèo không có điều kiện
tiếp cận với dịch vụ khám chữa bệnh tốt.
Chỉ có 55% trạm y tế xã có bác sỹ, 72% các trạm được xây dựng kiên cố. Trong tổng số 133,079
hộ gia đình, chỉ có 31.957 hộ có bể chứa nước. Gần 50% hộ sử dụng nước. Những con số này
cho thấy điều kiện y tế của Hà Giang nói chung còn rất nhiều khó khăn. Tại cấp xã, những khó
khăn này lớn hơn rất nhiều. Phần lớn các trạm y tế xã đều thiếu các trang thiết bị cần thiết, các
cán bộ của trạm ít có cơ hội để tham gia các lớp tập huấn chuyên sâu và cập nhật các thông tin
liên quan đến tình hình sức khoẻ của địa phương. Tất các các nhân viên y tế thôn bản đều không
phải là những người được đào tạo chuyên nghiệp. Họ trở thành nhân viên y tế sau khi tham gia
một khoá tập huấn dài 3 tháng. Do vậy, chất lượng các dịch vụ y tế cho người dân, đặc biệt là
cho trẻ em và phụ nữ còn thấp. Tỷ lệ sinh con tại trạm y tế chỉ đạt dưới 10% (đối với các xã hẻo
lánh). Tỷ lệ suy dinh dưỡng của trẻ em là 25%. Ngoại trừ ở khu vực thị trấn, các hộ gia đình và
thậm chí các trường học được xây dựng kiên cố (Tiểu học và THCS) tại các xã đều không có nhà
vệ sinh.
1.5 Trẻ em không có cơ hội được vui chơi tại gia đình và cộng đồng
Dưới đây là những lý do cơ bản dẫn đến việc Plan Việt Nam quyết định lựa chọn Tỉnh Hà

Giang là đối tác trong việc xây dựng chương trình hỗ trợ cho trẻ em tại Hà Giang.
1. Hà Giang là một trong số những tỉnh nghèo nhất Việt Nam. Hà Giang được xếp thứ 3 với tỷ lệ
nghèo là 43,7%.
2. Hà Giang là một tỉnh có tỷ lệ người dân tộc thiểu số rất cao (88%). Điều này phù hợp với
chiến lược phát triển của Plan (hỗ trợ cho những người dân nghèo và trẻ em dân tộc)
3. Trẻ em của Hà Giang đang phải đối mặt với nhiều thách thức khó khăn: thiếu lương thực và
quần áo, tỷ lệ trẻ em ra lớp ở độ tuổi cấp 1 và 2 thấp, trẻ em bỏ học, tỷ lệ suy dinh dưỡng còn cao
và là nạn nhân của tệ nạn buôn bán trẻ em. Tỷ lệ đăng ký khai sinh đúng hạn thấp và trẻ em
không có cơ hội tham gia vào các hoạt động của cộng đồng là những vấn đề đáng quan ngại liên
quan đến quyền trẻ em.
4. Phía Tỉnh và huyện đều có sự cam kết cao.
Mặc dù là một tỉnh nghèo, nhưng UBND Hà Giang sẵn sàng đóng góp các nguồn lực trong việc
xây dựng và thực hiện các chương trình. Cơ chế đóng góp giữa Plan và Tỉnh đã được thảo luận
và thông qua. Điều đó đã thể hiện được sự cam kết cao từ phía Tỉnh và Huyện
5. Một lý do khác có thể được xem xét đến là mặc dù Hà Giang sẽ phải đối mặt với nhiều khó
khăn trong thời gian tới, trong khi đó hiện nay, số các tổ chức NGO quốc tế và các dự án hợp tác
song phương hoạt động tại Hà Giang còn ít. Ngoài dự án DPPR và Dự án Chia Sẻ có nguồn vốn
hỗ trợ lớn, các tổ chức NGO quốc tế khác như (Caritas, Action Aids) có số vốn hỗ trợ rất hạn
chế.
2. Thông tin chung về 2 huyện của tỉnh Hà Giang
Xín Mần và Hoàng Su Phì nằm ở phía Tây của tỉnh. Đây là 2 trong những huyện nghèo nhất của
Hà Giang. Trong tổng số 114 xã của 11 huyện, thị nhận hỗ trợ của chương trình 135, hai huyện
Xín Mần và Hoàng Su Phì chiếm 29,5% (34 xã). Ngân sách thu của địa bàn chỉ đạt khoảng 5%
so với nhiệm vụ chi của địa phương. Tỷ lệ nghèo của huyện Xín Mần là 60% và huyện Hoàng Su
Phì là 58%. Người dân tộc trên toàn tỉnh chiếm 88,2% trong đó Xín Mần là 98,4%, Hoàng Su
Phì là 96,9%.
Xín Mần và Hoàng Su Phì là hai huyện có điều kiện đi lại khó khăn nhất, do địa hình đồi núi đất
nhiều, kết cấu đất không bền vững và có nguy cơ sạt lở đất. Mặc dù đã có đường nhựa, nhưng
giao thông đi lại từ hai huyện ra Quốc lộ 2 và trung tâm tỉnh gặp nhiều khó khăn, nhất là vào
mùa mưa do bị sạt lở đất. Đây là một sức ép lớn cho sự phát triển kinh tế xã hội của địa phương.

Tỷ lệ trẻ đi học của trẻ em ở độ tuổi dưới 3 và từ 3-5 tuổi thấp. Tỷ lệ ra lớp trung bình của
trẻ dưới 3 tuổi toàn tỉnh đạt 12,3%, con số này ở hai huyện thấp hơn rất nhiều, khoảng 6-
7%.
Vấn đề học sinh bỏ học ở cấp tiểu học và trung học cở sở là một khó khăn lớn cho sự phát triển
và nâng cao chất lượng giáo dục. Theo thống kê không đầy đủ của Phòng Giáo dục Huyện, tỷ lệ
trẻ đang đi học bỏ học khoảng 15-20%.
3. Hiện trạng của 6 xã mà
Thông qua các hoạt động PRA (Đánh giá nông thôn có sự tham gia của người dân) được triển
khai tại 6 xã (Pố Lồ, Tụ Nhân, Tân Tiến – huyện Hoàng Su Phì; Tả Nhìu, Nàn Ma và Nấm Dẩn –
huyện Xín Mần) và việc thu thập các số liệu thứ cấp, hiện trạng kinh tế xã hội 6 xã này đang phải
đối mặt với các vấn đề mà tỉnh và hai huyện đang gặp phải nhưng ở các mức độ khác nhau. 6 xã
được xem như là những bức tranh thu nhỏ của tỉnh Hà Giang
4. Mục tiêu của tỉnh Hà Giang và hai huyện trong mối liên hệ với 8 mục tiêu thiên niên kỷ
4.1. Mục tiêu của tỉnh Hà Giang và hai huyện
Căn cứ theo Nghị quyết của Đảng bộ tỉnh và huyện, các mục tiêu kinh tế, xã hội giai đoạn 2005-
2010 (xem phụ lục 2) đã được đưa ra.
Mục tiêu của tỉnh Hà Giang và hai Huyện trong giai đoạn 2005-2010 tập trung vào những ưu
tiên sau:
Không còn hộ đói và giảm tỷ lệ nghèo; Tăng thu nhập; An toàn lương thực; Tăng cường dịch vụ
khám chữa bệnh cho người nghèo; Nâng cấp hệ thống Vệ sinh môi trường nước sạch tại các
thôn, bản; Tăng tỷ lệ trẻ ra lớp ở độ tuổi Mầm non; Tăng chất lượng giáo dục cơ bản.
Những mục tiêu này đều phù hợp với nội dung của 8 Mục tiêu Phát triển trong Thiên niên kỷ
dưới đây:
4.2. Mục tiêu thiên niên kỷ: Xóa bỏ đói nghèo; Phổ cập tiểu học; Thúc đẩy thực hiện bình
đẳng giới và trao quyền cho phụ nữ; Giảm tỷ lệ tử vong ở trẻ; Tăng sức khỏe bà mẹ; Ngăn
chặn HIV/AIDS, bệnh sốt rét và các dịch bệnh khác; Đảm bảo môi trường bền vững; Tăng
cường hợp tác toàn cầu vì sự phát triển
Điều này đã được nêu ra trong nghị quyết của Đảng bộ tỉnh và hai huyện, đó là: hợp tác và sử
dụng hiệu quả sự hỗ trợ từ INGO và các tổ chức nước ngoài khác để phát triển các vấn đề về
kinh tế - xã hội, đặc biệt là cho các xã vùng biên. Đây là vấn đề mang tính chất chiến lược của

tỉnh Hà Giang. Dự án “Chia Sẻ” và các INGO khác (Caritas, Action Aids, Plan Internationl) đã
nhận được sự ủng hộ mạnh mẽ từ chính quyền địa phương để thực hiện chương trình và dự án.
Để giải quyết những vấn đề trên, Plan Việt Nam đưa ra 8 mục tiêu quốc gia
1) Trẻ em, phụ nữ và nam giới nghèo được thực hiện quyền tham gia đầy đủ vào quá trình ra
quyết định có ảnh hưởng đến cuộc sống của họ và ý kiến của họ được lắng nghe.
2) Trẻ em cần sự bảo vệ đặc biệt và trẻ em của các gia đình (di cư) nghèo thực hiện quyền được
bảo vệ và chăm sóc đầy đủ.
3) Trẻ em thực hiện quyền được sống trong một môi trường an toàn, được chăm sóc, không có
rủi ro về tai nạn thương tích và không bị lạm dụng (lạm dụng thân thể, tâm lý, xâm hại tình dục,
bị bỏ mặc và bị bóc lột) ở nhà, ở trường và tại cộng đồng.
4) Trẻ em (từ 6-15 tuổi) thực hiện quyền phát triển và duy trì năng lực học tập cơ bản nhờ điều
kiện giáo dục có chất lượng.
5) Trẻ em (từ 0-6 tuổi) thực hiện quyền được chăm sóc và phát triển từ nhỏ.
6) Trẻ em thực hiện quyền được sống trong môi trưởng khoẻ mạnh, được tiếp cận với nguồn
nước sạch, điều kiện vệ sinh bền vững về số lượng và chất lượng và có thói quen vệ sinh có lợi
cho sức khoẻ.
7) Sức khoẻ của trẻ em và phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ được cải thiện và họ thực hiện quyền
phát triển khoẻ mạnh và được bảo vệ khỏi những rủi ro đe doạ sức khoẻ.
8) Trẻ em thực hiện quyền được sống trong các gia đình có lương thực phẩm và nguồn thu kinh
tế đảm bảo.
Để đạt được những mục tiêu trên, Plan Việt Nam đã đưa ra 5 chương trình Quốc gia cho giai
đoạn từ 2005 đến 2010
- Nâng cao sức khỏe cộng đồng tập trung vào trẻ em (CCCH)
- Chăm sóc và phát triển trẻ thơ (ECCD)
- Giáo dục cơ bản có chất lượng (QBE)
- Phát triển kinh tế bền vững
- Bảo vệ trẻ em (CP)
Kết luận
Thông qua việc phân tích hiện trạng của tỉnh Hà Giang nói chung, của hai huyện nói riêng cũng
như mục tiêu của giai đoạn 2005 – 2010,

Căn cứ vào kết quả chi tiết của cuộc khảo sát tại 6 xã nhằm đánh giá những khó khăn của cộng
đồng, đặc biệt là những vấn đề liên quan đến trẻ em được xem xét kỹ lưỡng,
Liên hệ với 8 Mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ,
Có thể thấy rằng, Chương trình chiến lược phát triển quốc gia II của Plan Việt Nam có sự đồng
nhất với mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội lâu dài của tỉnh Hà Giang và hai huyện Hoàng Su
Phì và Xín Mần. Hơn nữa, Chương trình chiến lược phát triển quốc gia II đã xác định được các
vấn đề ảnh hưởng đến trẻ em của tỉnh Hà Giang nói chung và 6 xã được khảo sát của hai huyện
nói riêng.
Căn cứ vào các lý do trên, UBND tỉnh Hà Giang và tổ chức Plan Việt Nam quyết định xây dựng
mối quan hệ đối tác lâu dài nhằm giải quyết những vấn đề ảnh hưởng đến trẻ em tại 6 xã (giai
đoạn I) và 8 xã (giai đoạn II) thuộc hai huyện (Xín Mần và Hoàng Su Phì). Thoả thuận Hợp Tác
giữa UBND tỉnh Hà Giang và tổ chức Plan Việt Nam đã được ký kết với đại diện của hai bên:
Ông Trịnh Duy Quyền – Phó chủ tịch UBND tỉnh Hà Giang và Bà Deepali Khanna – Giám đốc
Plan Việt Nam.
6. Chương trình hợp tác của Plan Việt Nam với 2 Huyện trong 3 năm tới
Văn phòng chính của Vùng dự án Hà Giang
Vùng dự án tại Hà Giang có văn phòng chính đặt tại Thị trấn Vinh Quang – Huyện Hoàng Su Phì
– Tỉnh Hà Giang.
Văn phòng chi nhánh đặt tại Thị trấn Cốc Pài – Huyện Xín Mần.
Vùng dự án
Bao gồm 59 thôn của 6 xã (trong năm đầu) và mở rộng ra 8 xã trong những năm tiếp theo. Dưới
đây là danh sách các xã dự án:
Huyện Hoàng Su Phì: xã Pố Lồ, xã Tụ Nhân, xã Tân Tiến
Huyện Xín Mần: xã Nàn Ma, xã Nấm Dẩn, xã Tả Nhìu
· Số trẻ được Bảo trợ
Năm Tài chính 2008 có 1.350 trẻ được Bảo trợ (năm đầu tiên). Số lượng này sẽ được tăng hàng
năm thêm 1.000 trẻ.
6.2 Nội dung của chương trình
Trong 3 năm hợp tác, Plan Việt Nam sẽ hợp tác với hai Huyện để thực hiện một số hoạt động
chính thuộc 5 Chương trình Quốc gia

- Phát triển y tế cộng đồng tập trung vào trẻ em (CCCH)
- Chăm sóc và phát triển trẻ thơ (ECCD)
- Giáo dục cơ sở có chất lượng (QBE)
- Phát triển kinh tế bền vững
- Bảo vệ trẻ em (CP)
6.3 Ngân sách cho các Chương trình Chiến lược Quốc gia.
6.4 Tổ chức thực hiện dự án
1. Quản lý dự án
- Tổ chức Plan Việt Nam (cụ thể là Văn phòng Plan Hà Giang) phối hợp cùng với UBND 2
Huyện Hoàng Su Phì và Xín Mần quản lý và triển khai các dự án tại cộng đồng.
- UBND Tỉnh (Đại diện là Sở Ngoại vụ và Biên giới ) phối hợp chỉ đạo, kiểm tra tiến độ, chất
lượng của dự án và sự tuân thủ các quy định luật pháp của Việt Nam.
2. Quản lý tài chính.
- Nội dung hoạt động và kế hoạch ngân sách do cộng đồng (thôn, xã) thảo luận và đề xuất lên
Ban điều hành dự án cấp xã, Huyện.
- Dựa vào kế hoạch ngân sách phân bổ, Ban điều hành 2 Huyện phối hợp với Văn Phòng Plan
phê duyệt và triển khai.
- Dựa trên kế hoạch được duyệt, ngân sách được chuyển trực tiếp từ Văn phòng Plan Việt Nam
(72 Trần Hưng Đạo-Hà Nội) về cho Ban điều hành dự án cấp xã.
- Kế hoạch ngân sách và tiến độ thực hiện được báo cáo hàng tháng cho Ban chỉ đạo cấp Tỉnh.
3. Chế độ báo cáo.
- Báo cáo bằng văn bản hàng tháng cho Ban điều hành cấp Tỉnh. (Từ văn phòng Plan Hà giang
và Ban điều hành dự án 2 Huyện)
- Cấp xã báo cáo hàng tháng cho Ban điều hành dự án Huyện và Văn phòng Plan Hà Giang.
- Họp giao ban hàng tháng tại cấp xã.
- Ban điều hành Huyện họp giao ban hàng quý.
- Ban chỉ đạo cấp Tỉnh họp tổng kết hàng năm.
Ngoài ra, các thông tin cần thiết tổ chức sẽ được báo cáo cho Tỉnh và Huyện theo yêu cầu.
4. Cơ chế phối hợp.
- Ban chỉ đạo cấp Tỉnh phối hợp với các Sở, Ban, ngành để tham mưu các hoạt động của dự án

phù hợp với chiến lược phát triển của Tỉnh.
- Ban điều hành cấp Huyện phối hợp các sở, ban, ngành của Tỉnh và Phòng ban chuyên môn của
huyện chỉ đạo các Ban điều hành xã và cộng đồng xây dựng kế hoạch và triển khai các hoạt động
cũng như giám sát chất lượng dự án.
6.5 Cơ chế hợp tác
6.6. Giám sát và báo cáo
1. Đánh giá giữa kỳ
Sau 2-3 năm, Đánh giá giữa kỳ sẽ được thực hiện nhằm đánh giá chương trình có đạt được mục
tiêu đề ta không. Chương trình sẽ được đánh giá theo cách thức như sau:
Sự phù hợp
Các mục tiêu cũng như các hoạt động được lập kế hoạch trong 5 CPO có đáp ứng được mục tiêu
của các nhóm (trẻ em, phụ nữ và người nghèo) trong vùng dự án Plan không. Sự tác động của dự
án phải đồng nhất với những ưu tiên của Chính phủ Việt Nam và lãnh đạo của tỉnh trong chương
trình xóa đói giảm nghèo tại các xã nghèo ở khu vực nông thôn.
Tính hiệu suất
Việc áp dụng các bước quản lý theo phương thức “Dự án do cộng đồng quản lý – CMP” do Plan
Việt Nam đưa ra đảm bảo các hoạt động của dự án được thực hiện với chi phí tiết kiệm phù hợp
và hiệu quả cao hơn cách thức chính quyền vẫn thực hiện với các nguồn đầu tư khác, bởi CMP
thúc đẩy sự tham gia của người dân địa phương và xác định rõ trách nhiệm của các bên liên
quan.
Hiệu quả
Căn cứ vào những thành tựu của chương trình, mục tiêu và các hoạt động được lập kế hoạch có
thể đánh giá được chất lượng và số lượng. Nguyên tắc của Plan là: lấy trẻ em làm trung tâm, cân
bằng giới, tính giáo dục cao, sự hội nhập và hợp tác cũng sẽ được đánh giá.
Sự tác động
Giảm tỷ lệ hộ nghèo là một trong những chỉ số quan trọng thể hiện được những tác động của
chương trình. Các chỉ số khác bao gồm: tỷ lệ trẻ ra lớp ở bậc học mầm non, tiểu học và THCS
cũng như chất lượng dịch vụ y tế sẽ được đánh giá để đo sự tác động của chương trình. Yếu tố
tác động quan trọng nhất sẽ được xem xét là việc người nghèo và trẻ em trở nên tự tin hơn trong
việc tham gia vào quá trình triển khai dự án tại địa phương.

Yếu tố tác động cuối cùng là việc chuyển đổi cách thức quản lý từ trên xuống của chính quyền
địa phương. Điều này sẽ tạo ra môi trường thuận lợi thúc đẩy cơ chế dân chủ.
Tính bền vững
Năng lực của người dân, chính quyền địa phương và trẻ em có được thúc đẩy bền vững không?
Sự tham gia của trẻ em, phụ nữ và người nghèo vào quá trình ra quyết định của cộng đồng được
thúc đẩy thực sự hay chỉ mang tính hình thức. Những vấn đề phản hồi tính bền vững của chương
trình.
2. Kiểm toán
7. Kết luận
Chương trình hợp tác lâu dài giữa tổ chức Plan Việt Nam và tỉnh Hà Giang sẽ có những đóng
góp đáng kể trong việc Xóa đói và giảm nghèo tại hai Huyện Hoàng Su Phì, Xín Mần nói riêng
và tỉnh Hà Giang nói chung. Đặc biệt chương trình sẽ hỗ trợ tối đa để trẻ em có thể phát huy mọi
tiềm năng của mình cũng như nâng cao đáng kể điều kiện sống cho các em.
Dự án đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt

×