Tải bản đầy đủ (.doc) (122 trang)

Đánh giá tác động của các hoạt động khuyến nông tới kinh tế hộ nông dân tại xã đa tốn, huyện gia lâm, thành phố hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (627.48 KB, 122 trang )

PHẦN I: MỞ ĐẦU
1.1 TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Sản xuất nông nghiệp luôn giữ một vị trí quan trọng trong công cuộc phát
triển kinh tế của đất nước, góp phần vào sự ổn định và tăng trưởng kinh tế quốc gia.
Tỷ lệ đóng góp của nông nghiệp trong cơ cấu GDP của cả nước năm 2010 là 21%
[15]. Hướng phát triển của nông nghiệp Việt Nam được chỉ ra từ Đại hội Đảng VIII
là “Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn”, nghĩa là xây dựng một
nền nông nghiệp và kinh tế nông thôn có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, thực hiện
cơ khí hóa, hiện đại hóa, ứng dụng các thành tựu khoa học đưa vào sản xuất nhằm
nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm, giải quyết việc làm, xây dựng nông thôn
dân chủ, văn minh, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và văn hóa của nông
dân nông thôn.
Hộ gia đình nói chung và hộ nông dân nói riêng là những “tế bào” của xã
hội, là đơn vị sản xuất và bảo đảm cuộc sống cho tất cả các thành viên trong xã hội
và còn là chủ thể tiêu dùng rất đa dạng của nền kinh tế. Kinh tế hộ nông dân là một
trong những hình thức của thành phần kinh tế cá thể - tiểu chủ, có vai trò vô cùng
quan trọng trong tiến trình phát triển kinh tế quốc dân. Việc phát triển kinh tế
nông hộ giúp phát huy được lợi thế của vùng, tiềm năng lao động, đất đai và
đặc biệt là cải thiện đời sống vật chất, tinh thần của hộ.
Hiện nay, khoa học kỹ thuật ngày một phát triển. Những kỹ thuật tiến bộ
(KTTB) ngày một nhiều trong khi điều kiện và trình độ sản xuất của một bộ phận
không nhỏ nông dân còn yếu, các kênh thông tin đến được với người dân còn ít và
thiếu đồng bộ. Mặt khác, các nông hộ còn gặp nhiều rủi ro do thiên tai và dịch bệnh.
Tất cả khiến cho thu nhập trung bình của các hộ nông dân còn thấp, đời sống chưa
đảm bảo và ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng kinh tế nông nghiệp, nông thôn.
Do đó, muốn giải quyết được các vấn đề trên cần phải có sự hỗ trợ của các
hoạt động khuyến nông mà việc chuyển giao công nghệ, KTTB, kiến thức nông
nghiệp và đào tạo tay nghề cho người dân là một vấn đề cốt lõi. Hệ thống khuyến
nông - khuyến ngư Việt Nam chính thức được hình thành từ năm 1993. Khuyến
1
nông có vai trò quan trọng trong việc đào tạo tay nghề cho nông dân, tuyên truyền


chủ chương chính sách về nông nghiệp, truyền bá kiến thức, kỹ thuật, kinh nghiệm
sản xuất cho nông dân. Qua gần 20 năm xây dựng và phát triển, khuyến nông đã và
đang khẳng định vị thế quan trọng của mình trong chiến lược phát triển nông
nghiệp, nông thôn. Mạng lưới khuyến nông đã phát triển rộng khắp trên cả nước với
100% số tỉnh, thành phố đều có Trung tâm khuyến nông [14]. Điều đó đã mang đến
một diện mạo mới cho nông nghiệp, nông thôn Việt Nam, hiện đại và năng động
hơn; kinh tế các hộ nông dân cải thiện hơn, nhận thức của hộ cũng chủ động và cầu
thị hơn. Ngày nay, khuyến nông đã là địa chỉ tin cậy và là người bạn đồng hành
không thể thiếu của bà con nông dân cả nước nói chung và ở xã Đa Tốn nói riêng.
Đa Tốn là một xã thuộc huyện Gia Lâm, ngoại thành Hà Nội với vị trí địa lý
thuận lợi, diện tích đất tự nhiên 716,04 ha, trong đó diện tích đất nông nghiệp chiếm
khoảng 60%. Trong những năm qua, tình hình phát triển kinh tế - xã hội nói chung và
kinh tế nông nghiệp của xã nói riêng đã có những sự chuyển biến rõ rệt, bộ mặt nông
thôn xã thay đổi từng ngày, đời sống của các hộ gia đình được cải thiện rất nhiều. Đó
cũng là nhờ một phần đóng góp đáng kể của các hoạt động khuyến nông cơ sở, song
trong quá trình thực hiện vẫn không thể tránh khỏi một vài hạn chế nhất định.
Vậy thực trạng công tác khuyến nông của xã như thế nào? Các hoạt động
khuyến nông đã có những tác động gì đến kinh tế hộ nông dân xã? Cần phải làm gì để
đẩy mạnh hoạt động khuyến nông cơ sở? Để trả lời những câu hỏi này tôi tiến hành
nghiên cứu đề tài: "Đánh giá tác động của các hoạt động khuyến nông tới kinh tế
hộ nông dân tại xã Đa Tốn, huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội".
1.2 MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI
1.2.1 Mục tiêu chung
Trên cơ sở đánh giá thực trạng công tác khuyến nông của xã, đặc biệt là
những tác động của các hoạt động khuyến nông đến kinh tế hộ nông dân, từ đó đề
tài đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả của các hoạt động
khuyến nông xã đến kinh tế nông hộ, góp phần phát triển kinh tế và nâng cao đời
sống của người dân tại địa phương.
2
1.2.2 Mục tiêu cụ thể

- Hệ thống hóa cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn về hoạt động khuyến nông,
kinh tế hộ nông dân và tác động của hoạt động khuyến nông đến kinh tế nông hộ.
- Nghiên cứu thực trạng công tác khuyến nông trên địa bàn xã Đa Tốn,
huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội.
- Đánh giá tác động của các hoạt động khuyến nông tới kinh tế hộ nông dân
tại xã.
- Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả của các hoạt
động khuyến nông tới kinh tế nông hộ, góp phần phát triển kinh tế và nâng cao đời
sống người dân tại địa phương.
1.3 ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI
1.3.1 Đối tượng nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu thực trạng công tác khuyến nông tại xã và tác động của nó
tới chủ thể nghiên cứu là các hộ nông dân được lựa chọn trên địa bàn xã Đa Tốn,
huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội. Ngoài ra, các đối tượng nghiên cứu còn có các
cán bộ, quản lý lãnh đạo xã, khuyến nông viên và cộng tác viên khuyến nông cơ sở,
các đại diện chi hội, đoàn thể trong xã…
1.3.2 Phạm vi nghiên cứu
1.3.2.1 Phạm vi về nội dung
Đề tài được nghiên cứu xoay quanh thực trạng công tác khuyến nông và các
tác động của nó đến kinh tế hộ nông dân tại xã Đa Tốn qua 3 năm (2009 – 2011).
1.3.2.2 Phạm vi về không gian
Đề tài được tiến hành nghiên cứu trên địa bàn xã Đa Tốn, huyện Gia Lâm,
thành phố Hà Nội.
1.3.2.3 Phạm vi về thời gian
- Thời gian thực hiện đề tài: Đề tài được thực hiện trong thời gian từ ngày
04/01/2012 đến ngày 05/06/2012.
- Thời gian nghiên cứu số liệu: Số liệu được sử dụng chủ yếu trong phạm vi
3 năm (2009 – 2011) và một số thông tin từ các năm trước phục vụ cho việc đánh
giá.
3

PHẦN II: TỔNG QUAN TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU
2.1 CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI
2.1.1 Khuyến nông và các vấn đề liên quan
2.1.1.1 Khái niệm khuyến nông
Theo nghĩa hẹp: Khuyến nông là sử dụng các cơ quan nông - lâm - ngư
nghiệp, các trung tâm khoa học nông lâm nghiệp để phổ biến, mở rộng kết quả
nghiên cứu tới nông dân bằng các phương pháp thích hợp để họ áp dụng nhằm thu
được nhiều nông sản hơn. Hiểu theo nghĩa này thì khuyến nông chỉ là công việc
chuyển giao KTTB trong nông nghiệp mà thôi.
Theo nghĩa rộng: Khuyến nông ngoài việc hướng dẫn cho nông dân biết
KTTB còn phải giúp họ liên kết với nhau để phòng chống thiên tai, để có vật tư kỹ
thuật, để sản xuất, để tiêu thụ sản phẩm, để thi hành chính sách của Chính phủ và
luật lệ của Nhà nước, giúp cho nông dân phát triển khả năng tự quản lý, tổ chức
cuộc sống một cách tốt nhất.
Trên thế giới, từ “Extension” được sử dụng đầu tiên ở nước Anh năm 1866
có nghĩa là “mở rộng, triển khai”. Từ “Extension” ghép với từ “Agriculture” thành
“Agriculture Extension” thì được dịch là “Khuyến nông”. [1]
Theo nghĩa cấu tạo của từ ngữ Hán - Việt thì “Khuyến nông” là những hoạt
động nhằm khuyến khích, giúp đỡ và tạo điều kiện để phát triển sản xuất nông
nghiệp trên tất cả các lĩnh vực: trồng trọt, chăn nuôi, lâm sinh, thuỷ sản ở nông
thôn.
Theo định nghĩa của Trung tâm khuyến nông quốc gia (TTKNQG) thì:
Khuyến nông là một quá trình, một dịch vụ thông tin nhằm truyền bá những chủ
trương, chính sách về nông nghiệp, những kiến thức về kỹ thuật, kinh nghiệm tổ
chức và quản lý sản xuất, những thông tin về thị trường giá cả, rèn luyện tay nghề
cho nông dân, để họ có đủ khả năng tự giải quyết vấn đề của sản xuất, đời sống, của
bản thân họ và cộng đồng, nhằm phát triển sản xuất, nâng cao dân trí, cải thiện đời
sống và phát triển nông nghiệp nông thôn.
4
Như vậy, khuyến nông là cách giáo dục không chính thức ngoài học đường

cho nông dân, là cách đào tạo người lớn tuổi. Khuyến nông là quá trình vận động
quảng bá, khuyến cáo cho nông dân theo các nguyên tắc riêng. Đây là một quá trình
tiếp thu dần dần và tự giác của nông dân. Nói cách khác, khuyến nông là những tác
động vào quá trình sản xuất kinh doanh của người nông dân, giúp họ sản xuất đạt
hiệu quả cao nhất. Nội dung của hoạt động khuyến nông phải khoa học, kịp thời và
thích ứng với điều kiện sản xuất của người nông dân.
2.1.1.2 Nội dung của hoạt động khuyến nông
Tại chương II của Nghị định số 02/2010/NĐ-CP ngày 08 tháng 01 năm 2010 của
Chính phủ về Khuyến nông đã quy định nội dung của hoạt động khuyến nông như sau:
a) Bồi dưỡng, tập huấn và đào tạo
- Đối tượng:
+ Người sản xuất theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 1 Nghị định này
chưa tham gia chương trình đào tạo dạy nghề do Nhà nước hỗ trợ;
+ Người hoạt động KN theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 1 Nghị định này.
- Nội dung:
Bồi dưỡng, tập huấn cho người sản xuất về chính sách, pháp luật; tập huấn,
truyền nghề cho nông dân về kỹ năng sản xuất, tổ chức, quản lý sản xuất kinh
doanh trong các lĩnh vực khuyến nông theo quy định tại khoản 1 Điều 1 Nghị định
này; tập huấn cho người hoạt động khuyến nông nâng cao trình độ chuyên môn
nghiệp vụ.
- Hình thức:
+ Thông qua mô hình trình diễn;
+ Tổ chức các lớp học ngắn hạn gắn lý thuyết với thực hành;
+ Thông qua các phương tiện truyền thông: báo, đài, tờ rơi, tài liệu;
+ Qua chương trình đào tạo từ xa trên kênh truyền thanh, truyền hình, xây
dựng kênh truyền hình dành riêng cho nông nghiệp, nông dân, nông thôn; ưu tiên là
đào tạo nông dân trên truyền hình;
+ Qua trang thông tin điện tử khuyến nông trên internet;
+ Tổ chức khảo sát, học tập trong và ngoài nước.
5

- Tổ chức triển khai
+ Việc đào tạo nông dân và đào tạo người hoạt động khuyến nông do các tổ
chức khuyến nông quy định tại điểm b khoản 2 Điều 1 Nghị định này đảm trách.
+ Giảng viên nòng cốt là các chuyên gia, CBKN có trình độ đại học trở lên,
các nông dân giỏi, các cá nhân điển hình tiên tiến, có nhiều kinh nghiệm trong sản
xuất, kinh doanh, có đóng góp cho xã hội, đã qua đào tạo về kỹ năng khuyến nông.
b) Thông tin tuyên truyền
- Phổ biến chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước thông qua hệ thống truyền thông đại chúng và các tổ chức chính trị xã hội.
- Phổ biến tiến bộ khoa học và công nghệ, các điển hình tiên tiến trong sản
xuất, kinh doanh thông qua hệ thống truyền thông đại chúng, tạp chí khuyến nông,
tài liệu KN, hội nghị, hội thảo, hội thi, hội chợ, triển lãm, diễn đàn và các hình thức
thông tin tuyên truyền khác; xuất bản và phát hành ấn phẩm KN.
- Xây dựng và quản lý dữ liệu thông tin của hệ thống thông tin KN.
c) Trình diễn và nhân rộng mô hình
- Xây dựng các mô hình trình diễn về tiến bộ khoa học và công nghệ phù hợp
với từng địa phương, nhu cầu của người sản xuất và định hướng của ngành, các mô
hình thực hành sản xuất tốt gắn với tiêu thụ sản phẩm.
- Xây dựng các mô hình ứng dụng công nghệ cao trong nông nghiệp.
- Xây dựng mô hình tổ chức, quản lý sản xuất, kinh doanh nông nghiệp hiệu
quả và bền vững.
- Chuyển giao kết quả khoa học và công nghệ từ các mô hình trình diễn, điển
hình sản xuất tiên tiến ra diện rộng.
d) Tư vấn và dịch vụ khuyến nông
- Tư vấn và dịch vụ trong các lĩnh vực quy định tại khoản 1 Điều 1 Nghị
định này về:
+ Chính sách và pháp luật liên quan đến phát triển nông nghiệp, nông thôn;
+ Ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ, tổ chức, quản lý để nâng cao
năng suất, chất lượng, an toàn vệ sinh thực phẩm, giảm giá thành, nâng cao sức
cạnh tranh của sản phẩm;

6
+ Khởi nghiệp cho chủ trang trại, doanh nghiệp vừa và nhỏ về lập dự án đầu
tư, tìm kiếm mặt bằng sản xuất, huy động vốn, tuyển dụng và đào tạo lao động, lựa
chọn công nghệ, tìm kiếm thị trường;
+ Hợp đồng tiêu thụ sản phẩm, hợp đồng bảo hiểm sản xuất, kinh doanh;
+ Cung ứng vật tư nông nghiệp.
- Tư vấn và dịch vụ khác liên quan đến phát triển nông nghiệp, nông thôn.
e) Hợp tác quốc tế về khuyến nông
- Tham gia thực hiện hoạt động khuyến nông trong các chương trình hợp tác
quốc tế.
- Trao đổi kinh nghiệm khuyến nông với các tổ chức, cá nhân nước ngoài và
tổ chức quốc tế theo quy định của luật pháp Việt Nam.
- Nâng cao năng lực, trình độ ngoại ngữ cho người làm công tác khuyến
nông thông qua các chương trình hợp tác quốc tế và chương trình học tập khảo sát
trong và ngoài nước. [16]
2.1.1.3 Vai trò của khuyến nông
Thứ nhất, KN có vai trò to lớn cho phát triển bền vững nông nghiệp và nông
thôn. Nông thôn nước ta chiếm tới 76,5% dân số, 55% lực lượng lao động, gần 40%
GDP của cả nước, 90% tài nguyên đất, nước và rừng. KN góp phần tạo việc làm,
sinh kế kiếm sống của đại đa số dân số và lao động của cả nước, góp phần quản lý,
sử dụng và bảo tồn các tài nguyên đất, nước, sinh vật quốc gia. Thông qua các
chương trình, dự án KN nhằm tăng cường sự tham gia, tính độc lập, tự chủ, tự
cường của cộng đồng cư dân trong giải quyết các vấn đề về kinh tế, văn hóa, xã hội,
môi trường của địa phương.
Thứ hai, KN góp phần thúc đẩy nhanh quá trình xóa đói, giảm nghèo trong
nông thôn. Hiện nay, tỷ lệ hộ nghèo ở nông thôn chiếm khoảng 20%, cao gấp 4 lần
so với thành thị; 90% số người nghèo đang sống ở khu vực nông thôn. KN góp phần
thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn, công nghiệp hóa nông thôn, nâng
cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, phát triển kinh tế nông thôn, tạo điều kiện để
người dân thoát nghèo. Các hoạt động KN thường là giữ vị trí trọng tâm của hầu hết

các chương trình, dự án xóa đói giảm nghèo ở các địa phương.
7
Thứ ba, đại đa số nông dân đang rất cấn kiến thức và thông tin. KN là giải
pháp để đáp ứng như cầu đó. Nông dân ở các vùng thiên tai, khó khăn, vùng sâu,
vùng xa đang cần kiến thức và sự hỗ trợ để giảm thiểu rủi ro về thiên nhiên, thị
trường. Nông dân ở các vùng bị thu hồi đất để phục vụ mục đích đô thị hóa và công
nghiệp hóa, đặc biệt là những nông dân bị thu hồi đất đang rất cần kiến thức để
chuyển đổi nghề nghiệp, thích ứng với điều kiện mới và hoàn cảnh mới của họ.
Thứ tư, ở nước ta, đổi mới hệ thống tổ chức nông thôn, kinh tế hộ được xác
lập. Vì thế, khuyến nông là phương thức thích hợp để tiếp cận và hỗ trợ các hộ nông
dân nâng cao đời sống của họ.
Thứ năm, KN là quá trình truyền bá kỹ thuật và công nghệ cho nông dân.
Đó chính là quá trình chuyển giao công nghệ, kỹ thuật tiến bộ tới nông dân, nông
nghiệp và nông thôn. Đây là yếu tố quan trọng đối với tiến trình phát triển nông
thôn. [2]
2.1.1.4 Các nguyên tắc của khuyến nông
Hoạt động khuyến nông phải tuân theo những nguyên tắc cơ bản sau:
(1) Nguyên tắc tự nguyện, không áp đặt, mệnh lệnh: Mỗi hộ nông dân là
một đơn vị kinh tế tự chủ, sản xuất của họ do họ quyết định. Vì vậy, nhiệm vụ của
khuyến nông là tìm hiểu cặn kẽ những yêu cầu, nguyện vọng của họ trong SXNN,
đưa ra những KTTB mới sao cho phù hợp để họ tự cân nhắc, lựa chọn. Vụ này họ
chưa áp dụng vì họ chưa đủ điều kiện, chưa thật tin tưởng nhưng vụ sau, thông qua
một số hộ đã áp dụng có hiệu quả, lúc đó họ sẽ tự áp dụng.
(2) Nguyên tắc không làm thay: CBKN giúp đỡ nông dân thông qua trình
diễn kết quả, trình diễn phương pháp để họ mắt thấy tai nghe. CBKN cần thao tác
chậm để nông dân theo dõi, vừa làm vừa giải thích sau đó mời nông dân làm thử.
(3) Nguyên tắc không bao cấp: KN chỉ hỗ trợ những khâu khó khăn ban đầu
về kỹ thuật, giống và vốn mà từng hộ nông dân không thể tự đầu tư áp dụng do hạn
chế về nguồn lực của mình. Không nên bao cấp toàn bộ, tránh trường hợp nông dân
ỉ lại không phát huy được năng lực và trách nhiệm vào công việc.

(4) Nguyên tắc khuyến nông là nhịp cầu thông tin hai chiều: Giữa nông
dân với các tổ chức và cơ quan khác luôn có mối quan hệ, KN phải phản ánh trung
8
thực những ý kiến tiếp thu, phản hồi của nông dân về những vấn đề chưa phù hợp
cần sửa đổi khắc phục.
(5) Nguyên tắc khuyến nông không hoạt động đơn độc: KN phải phối hợp
chặt chẽ với các tổ chức phát triển nông thôn khác. Ngoài việc phối hợp chặt chẽ
với các trường, viện nghiên cứu khoa học, trung tâm khoa học nông nghiệp còn phải
phối hợp chặt chẽ với các hội, đoàn thể quần chúng, các tổ chức quốc tế, các doanh
nghiệp… để đẩy mạnh hoạt động KN. Công tác KN cần được xã hội hóa.
(6) Nguyên tắc công bằng: KN phải quan tâm tạo điều kiện đến mọi thành
viên, mọi tầng lớp nông dân, đặc biệt là những người nghèo để họ phát triển sản
xuất, vươn lên cải thiện đời sống và hoà nhập với cộng đồng. [4]
2.1.1.5 Các phương pháp khuyến nông
Hiện nay các phương pháp KN được chia làm ba nhóm, dựa vào phương
thức tác động giữa CBKN với hộ nông dân: phương pháp cá nhân, phương pháp
nhóm và phương pháp thông tin đại chúng.
Phương pháp cá nhân: Là phương pháp KN mà thông tin được chuyển giao
trực tiếp cho từng cá nhân hay hộ nông dân. Phương pháp này được thực hiện bằng
cách: Thăm và gặp gỡ, gửi thư hoặc điện thoại. Ưu điểm của phương pháp này là dễ
thực hiện, nhanh, kịp thời, đáp ứng thông tin theo yêu cầu. Nhược điểm là diện hẹp,
từng nông dân.
Phương pháp nhóm: Là phương pháp KN mà thông tin được truyền đạt cho
một nhóm người có chung một mối quan tâm và nhằm mục đích giúp nhau phát
triển. Phương pháp này được thực hiện bằng cách: trình diễn, họp nhóm và thăm
quan. Ưu điểm của phương pháp này là tính phổ cập thông tin cao, tốn ít nhân lực,
khơi dậy sự tham gia của dân, cải tiến kỹ thuật do dân góp ý, phát hiện vấn đề mới
nhanh chóng. Nhược điểm của phương pháp này là kinh phí lớn, dân trí thấp, địa lý
khó khăn.
Phương pháp thông tin đại chúng: Là phương pháp được thực hiện bằng

phương tiện nghe (đài), phương tiện đọc (sách, báo, tạp chí), phương tiện nhìn
(tranh ảnh, mẫu vật), phương tiện nghe nhìn (phim video, phim nhựa, tivi). Ưu điểm
của phương pháp này là phạm vi tuyên truyền rộng, phục vụ được nhiều người, linh
9
hoạt ở mọi nơi, truyền thông tin nhanh và chi phí thấp. Nhược điểm của nó là không
có lời khuyên và sự giúp đỡ cụ thể cho từng cá nhân. [5]
2.1.1.6 Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động khuyến nông
a) Yếu tố con người
- Con người ở đây chính là các CBKN, họ là nhân tố chính mang tính chủ
quan, ảnh hưởng tới hiệu quả của công tác KN. Nếu CBKN có trình độ KHKT tốt,
có khả năng truyền đạt thông tin, có lòng say mê với công việc thì hoạt động KN rất
có hiệu quả và ngược lại.
- Con người ở đây cũng chính là những người nông dân, trình độ, kỹ năng,
tay nghề sản xuất của họ có ảnh hưởng rất lớn tới hiệu quả công việc. Nếu họ có
trình độ KHKT sản xuất tốt thì đó chính là nền tảng giúp họ nắm bắt, áp dụng tiến
bộ mới nhanh hơn.
b) Phong tục tập quán sản xuất của người nông dân
Đây là yếu tố mang tính truyền thống ở địa phương, nếu các chương trình
KN hoạt động mà không phù hợp với sản xuất của người nông dân thì sẽ dễ dẫn đến
thất bại. Vì vậy, khi triển khai các hoạt động khuyến nông ở đây không chỉ làm theo
đúng nguyên tắc của hoạt động KN mà còn phải có sự tìm hiểu.
c) Chất lượng đầu vào của các chương trình khuyến nông
Tiến hành các chương trình KN thì trước hết phải xác định xem các yếu tố
đầu vào có tốt hay không, những yếu tố đó rất quan trọng và có ảnh hưởng rất lớn
đến hiệu quả của hoạt động KN.
d) Nguồn ngân sách cho hoạt động khuyến nông
Nguồn ngân sách là yếu tố rất quan trọng, ảnh hưởng tới phạm vi và đối
tượng của hoạt động KN. Nếu có nguồn ngân sách dồi dào thì hoạt động KN sẽ tiến
hành thuận lợi và đạt hiệu quả cao hơn.
e) Các chính sách của Đảng và Nhà nước

Các chính sách vĩ mô cũng như vi mô đúng đắn sẽ có tác dụng rất lớn thúc
đẩy sản xuất phát triển và ngược lại sẽ làm cho sản xuất bị kìm hãm, trì trệ. Nếu
như chúng ta có chính sách KN và các chính sách hỗ trợ khác đúng đắn sẽ làm cho
sản xuất nông nghiệp phát triển. [9]
10
2.1.2 Kinh tế hộ nông dân và các vấn đề liên quan
2.1.2.1 Một số khái niệm
a) Khái niệm hộ
Theo các tác giả nhóm nhân chủng học từ năm 1982 đến năm 1985: Hộ là
đơn vị bảo đảm quá trình tái sản xuất lao động tiếp theo thông qua quá trình tổ chức
nguồn thu nhập nhằm cải thiện chi tiêu cho các nhân và đầu tư vào sản xuất.
Theo Martin (1988), hộ là đơn vị cơ bản liên quan đến sản xuất, tái sản xuất,
đến tiêu dùng và các hoạt động khác.
Theo Raul (1989), hộ là tập hợp những người có chung huyết tộc, có quan hệ
mật thiết với nhau trong quá trình sáng tạo ra sản phẩm để bảo tồn chính bản thân
mình và cộng đồng.
Như vậy, cá nhân và các tổ chức khi nhìn nhận và quan niệm về hộ không
giống nhau. Tuy nhiên, ta có thể tóm lại một khái niệm chung nhất về hộ như sau:
Hộ là tập hợp những người chung hay không chung huyết tộc (huyết tộc và quan hệ
hôn nhân), cùng chung sống dưới một mái nhà, cùng có chung một nguồn ngân quỹ,
cùng ăn chung và tiến hành sản xuất chung.
b) Khái niệm nông hộ
“Hộ nông dân là hộ có phương tiện kiếm sống từ ruộng đất, sử dụng chủ yếu
lao động gia đình vào sản xuất, luôn nằm trong một hệ thống kinh tế rộng hơn,
nhưng về cơ bản được đặc trưng bởi sự tham gia từng phần vào thị trường với mức
độ hoàn hảo không cao”. (Ellis, 1988)
Ngoài ra còn có thể hiểu, hộ nông dân là những hộ sống ở nông thôn, có
ngành nghề sản xuất chính là nông nghiệp, nguồn thu nhập và sinh sống chủ yếu
bằng nghề nông; ngoài hoạt động nông nghiệp, hộ nông dân còn tham gia các hoạt
động phi nông nghiệp như tiểu thủ công nghiệp, thương mại, dịch vụ…ở các mức

độ khác nhau.
c) Khái niệm kinh tế hộ nông dân
Kinh tế hộ nông dân là hình thức tổ chức kinh tế cơ sở của nền sản xuất xã
hội, trong đó các nguồn lực như đất đai, lao động, tiền vốn và tư liệu sản xuất được
coi là của chung để tiến hành sản xuất. Có chung ngân quỹ, ngủ chung một nhà, ăn
11
chung; mọi quyết định trong sản xuất kinh doanh và đời sống là tùy thuộc vào chủ
hộ, được Nhà nước thừa nhận, hỗ trợ và tạo điều kiện để phát triển.
Do vậy, hộ không thuê lao động nên không có khái niệm tiền lương và không
tính được lợi nhuận, địa tô và lợi tức. Nông hộ chỉ có thu nhập chung của tất cả các
hoạt động kinh tế, đó là sản lượng thu được hàng năm của hộ trừ đi chi phí mà hộ
đã bỏ ra phục vụ sản xuất. [3]
2.1.2.2 Đặc trưng cơ bản của kinh tế hộ
a) Có sự thống nhất chặt chẽ giữa quyền sở hữu với quá trình quản lý và sử dụng
các yếu tố sản xuất
Sở hữu trong nông hộ là sự sở hữu chung, nghĩa là mọi thành viên trong hộ
đều có quyền sở hữu với những tư liệu sản xuất vốn có, cũng như những tài sản
khác của hộ. Mặt khác, do dựa trên cơ sở kinh tế nói chung và cùng chung một ngân
quỹ nên mọi người trong hộ đều có ý thức trách nhiệm rất cao và việc bố trí công
việc trong hộ cũng rất linh hoạt. Từ đó, hiệu quả sử dụng lao động trong kinh tế hộ
rất cao.
b) Lao động quản lý và lao động trực tiếp có sự gắn bó chặt chẽ
Trong nông hộ mọi người gắn bó với nhau theo quan hệ huyết thống, kinh tế
nông hộ lại có quy mô nhỏ hơn các loại hình doanh nghiệp nông nghiệp khác nên sự
điều hành sản xuất và quản lý cũng đơn giản, gọn nhẹ. Trong nông hộ, chủ hộ
thường vừa là người điều hành, quản lý vừa là người trực tiếp tham gia lao động
nên tính thống nhất giữa lao động quản lý và lao động trực tiếp rất cao.
c) Kinh tế nông hộ có khả năng thích nghi và tự điều chỉnh rất cao
Do kinh tế nông hộ có quy mô nhỏ nên bao giờ cũng có sự thích ứng dễ dàng
hơn. Nếu gặp điều kiện thuận lợi nông hộ có thể tập trung mọi nguồn nhân lực đề

mở rộng sản xuất, khi gặp các điều kiện bất lợi cũng có khả năng duy trì bằng cách
thu hẹp quy mô sản xuất, có khi quy về sản xuất tự cung, tự cấp.
d) Có sự gắn bó chặt chẽ giữa quá trình sản xuất với lợi ích của người lao động
Trong kinh tế nông hộ, mọi người gắn bó với nhau cả trên cơ sở kinh tế,
huyết tộc và cùng chung một ngân quỹ nên dễ dàng đồng tâm, hiệp lực để phát triển
kinh tế hộ. Vì vậy, có sự gắn bó chặt chẽ giữa kết quả sản xuất với lợi ích của người
12
lao động và lợi ích kinh tế đã thực sự trở thành động lực thúc đẩy hoạt động của
mỗi cá nhân, là nhân tố nâng cao hiệu quả sản xuất của kinh tế nông hộ.
e) Kinh tế nông hộ là đơn vị sản xuất có quy mô nhỏ nhưng hiệu quả
Quy mô nhỏ không đồng nghĩa với sự lạc hậu, năng suất thấp. Kinh tế nông
hộ vẫn có khả năng cho năng suất lao động cao hơn các doanh nghiệp ngiên cứu có
quy mô lớn. Kinh tế nông hộ vẫn có khả năng áp dụng các TBKT và công nghệ tiên
tiến để cho hiệu quả kinh tế cao thì đó là biểu hiện của sản xuất lớn. Thực tế đã
chứng tỏ kinh tế nông hộ là loại hình thích hợp nhất với đặc điểm của sản xuất nông
nghiệp. [3]
2.1.3 Đánh giá tác động của các hoạt động khuyến nông đến kinh tế nông hộ
2.1.3.1 Tác động của các hoạt động KN
a) Tác động về kinh tế
Công tác KN bao gồm việc thông tin tuyên truyền các hoạt động KN, bồi
dưỡng nhận thức, tập huấn, tư vấn và đặc biệt là xây dựng các mô hình trình diễn.
Các hoạt động KN tác động trực tiếp đến việc chuyển đổi cơ cấu sản xuất của địa
phương, góp phần làm tăng tỷ trọng GDP cho một vùng, một địa phương, hơn nữa
góp phần làm tăng thu nhập, cải thiện kinh tế hộ nông dân.
b) Tác động về xã hội
Không chỉ giải quyết công ăn, việc làm, nâng cao mức sống cho người dân,
mang lại cho người dân những kiến thức, kỹ năng và phương pháp triển khai các
hoạt động KN… mà còn góp phần tích cực trong việc làm giảm các tệ nạn xã hội.
c) Tác động về môi trường
Tác động này được xem xét trên cơ sở những đóng góp của hoạt động KN

đến môi trường đất, môi trường nước và tình hình dịch bệnh…
2.1.3.2 Tác động của các hoạt động KN đến kinh tế hộ nông dân
Các hoạt động KN có vai trò rất lớn đối với nền nông nghiệp nước ta và là
nhân tố quan trọng làm chuyển biến kinh tế hộ nông dân theo hướng tích cực. Nó
tác động đến mặt nhận thức của các nông hộ, từ đó mà hộ đưa ra quyết định sản
xuất hay không sản xuất một giống cây trồng, vật nuôi mới nào. Như vậy, khi đánh
13
giá tác động của các hoạt động KN đến kinh tế hộ nông dân, ta cần xét trên các khía
cạnh sau:
a) Tác động đến việc phân bổ và sử dụng nguồn lực của hộ
Nguồn lực trong nông hộ là năng lực các yếu tố hộ sử dụng để tiến hành các
hoạt động sản xuất, kinh doanh của hộ và thuộc quyền sở hữu, sử dụng trực tiếp của
hộ. Các nguồn lực đó là: đất đai, lao động, vốn, tài sản, trình độ năng lực quản lý
Việc có hay không tham gia vào các hoạt động KN có ảnh hưởng ít nhiều đến việc
phân bổ và sử dụng nguồn lực của nông hộ. Khi tham gia vào các hoạt động KN hộ
sẽ có nhu cầu sử dụng lao động nhiều hơn, đầu tư nhiều vốn hơn vào sản xuất nông
nghiệp và hệ số sử dụng ruộng đất cũng cao hơn, giúp cho hộ tận dụng được tối đa
nguồn thu từ đất.
b) Tác động đến sản xuất nông nghiệp của hộ
Mỗi một hộ có hoạt động sản xuất nông nghiệp (SXNN) khác nhau. Có
những hộ chỉ chuyên trồng trọt, chăn nuôi, thủy sản (đây được gọi là các hộ thuần
nông). Nhưng có những hộ vừa tham gia SXNN lại vừa làm thêm ngành nghề phụ
như có cửa hàng buôn bán ngoài chợ… (đây là các hộ kiêm). Việc các hộ tham gia
vào hoạt động KN sẽ tác động đến tình hình SXNN của hộ như việc thay đổi diện
tích gieo trồng, tăng giảm số lượng vật nuôi… kéo theo đó là sự thay đổi về chi phí
và giá trị sản lượng thu được từ trồng trọt và chăn nuôi của hộ.
c) Tác động đến thu nhập, tiêu dùng và tích lũy của hộ
Thu nhập của hộ nông dân bao gồm tất cả các khoản thu từ nông nghiệp và
phi nông nghiệp của hộ. Một khi tiếp thu và áp dụng thành công các TBKT vào sản
xuất thông qua các hoạt động KN thì chắc chắn khoản thu từ nông nghiệp của hộ

cũng sẽ tăng lên, kéo theo là thu nhập của nông hộ cũng tăng lên. Thu nhập tăng khi
đó các hộ cũng sẽ tích lũy được nhiều hơn để tái đầu tư vào sản xuất. Việc đánh giá
sự tác động của các hoạt động KN đến thu nhập, tiêu dùng và tích lũy của hộ là việc
làm không thể thiếu khi đánh giá tác động đến kinh tế hộ nông dân.
2.1.3.3 Một số lưu ý khi đánh giá tác động của các hoạt động KN
- Các thông tin thu được phải đầy đủ và chính xác.
- Phải công bằng, khách quan, tránh thái độ thành kiến, thiên lệch.
14
- Nên dựa vào mục tiêu của KN để đánh giá hơn là xem xét đơn thuần việc
thực hiện các hoạt động KN như thế nào.
- Lợi ích về mặt xã hội và môi trường thường mang tính gián tiếp và khó
định lượng được.
- Sản xuất nông nghiệp mang tính thời vụ, vì vậy, thời điểm đánh giá ảnh
hưởng rất nhiều đến độ chính xác của thông tin.
- Đánh giá có sự tham gia, nhất là sự tham gia của những người được hưởng
lợi là phương pháp quan trọng đối với các mô hình KN. [7]
2.2 CƠ SỞ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
2.2.1 Quá trình hình thành và phát triển khuyến nông trên thế giới
Khuyến nông bắt đầu từ thời kỳ Phục Hưng (thế kỉ XIV) khi mà khoa học
bắt đầu áp dụng lí thuyết vào thực tiễn sản xuất. Khởi đầu là thầy thuốc và nhà giáo
người Pháp Rabelais (1493 - 1553), ông chủ chương nguyên tắc gắn liền nhà trường
và thực tiễn.
Năm 1961 giáo sư người Anh là Hartlib đã viết một cuốn sách về “Sự tiến bộ
của nhà nông”. Sau đó các chương trình giảng dạy trong các trường nông nghiệp đã
được đổi mới và mang tính chất thực nghiệm ứng dụng rõ rệt. Sau này KN được phát
triển rộng rãi ở khắp các quốc gia.
2.2.1.1 Khuyến nông Mỹ
Năm 1907, Mỹ bắt đầu tham gia các hoạt động mang tính chất KN. Năm 1941
là thời điểm hoạt động cao nhất của nông nghiệp, hệ thống Khuyến nông Quốc gia
được thành lập. Đến năm 1943, ở Mỹ đã có tới 42 trường trên 39 bang có đào tạo về

KN và có các Khoa, cá bộ môn về KN. Cho tới nay, Mỹ là một nước có nền nông
nghiệp tiến bộ trên thế giới với 6% dân số sống bằng sản xuất nông nghiệp nhưng năng
suất và sản lượng nông nghiệp Mỹ vẫn đạt ở mức cao, điển hình là sản lượng đậu
tương năm 1985 đạt 55 triệu tấn và là nước xuất khẩu đậu tương nhiều nhất thế giới,
hàng năm xuất khẩu 16,9 triệu tấn, chiếm 54% sản lượng đậu tương toàn thế giới.
Ngoài ra, Chính phủ Mỹ đã quyết định thông qua đạo luật về KN (Smith-leve) cho
phép sử dụng các nguồn hỗ trợ liên bang - tiểu bang và của địa phương vào các hoạt
15
động khuyến nông. Số người Mỹ theo học khuyến nông và hoạt động KN đến thời
điểm này là 3 triệu người.
2.2.1.2 Khuyến nông Ấn Độ
Hệ thống KN Ấn Độ được hình thành từ năm 1960 và được tổ chức theo 5
cấp: cấp quốc gia, cấp vùng, cấp bang, cấp huyện và cấp xã. Trước năm 1960, sản
xuất nông nghiệp của Ấn Độ vô cùng nghèo nàn, lạc hậu, thường xuyên thiếu lương
thực, nhiều người chết đói. Nhờ có công tác KN tốt nên Ấn Độ đã có một nền nông
nghiệp phát triển mạnh mẽ. Mở đầu là cuộc “Cách mạng xanh” giải quyết được vấn
đề lương thực, giải quyết được nạn đói quốc gia. Sau đó là cuộc “Cách mạng trắng”
đó chính là sản xuất sữa. Chuyển sang hướng chăn nuôi bằng cuộc “Cách mạng
nâu”, chủ yếu là chăn nuôi bò, trâu để lấy thịt có màu nâu.
2.2.1.3 Khuyến nông Trung Quốc
Hoạt động khuyến nông ở Trung Quốc đã có từ lâu, năm 1933 trường đại
học Kim Lãng đã thành lập phân khoa khuyến nông nhưng mãi đến năm 1970 nước
này mới chính thức có tổ chức khuyến nông. Trong Nghị quyết của đảng cộng sản
Trung Quốc khoá VIII về “Tăng cường công tác nông nghiệp và nông thôn” nêu rõ
“phải nắm vững chiến lược KHCN và khuyến nông”, đưa ngay sinh viên mới tốt
nghiệp xuống cơ sở, chú trọng đào tạo các nông dân giỏi trở thành khuyến nông
viên. Trong kế hoạch năm năm lần thứ VII về phát triển nông nghiệp, Trung Quốc đã
tập huấn cho 1,2 triệu người về công tác khuyến nông và bồi dưỡng cho 150 triệu
nông dân vê kiến thức KN và KTTB mới. Cả nước Trung Quốc có 10/33 lãnh đạo
tỉnh là trưởng ban khuyến nông. Cho tới nay, Trung Quốc đã có Uỷ ban quốc gia -

cục phổ cập kỹ thuật nông nghiệp, cấp tỉnh có cục khuyến nông, dưới tỉnh có khuyến
nông phân khu, cấp cơ sở là khuyến nông thôn xã. Trung Quốc rất tự hào là đang dẫn
đầu thế giới ở 3 lĩnh vực: Lúa lai, chuẩn đoán thú y và nuôi trồng thuỷ sản.
2.2.1.4 Khuyến nông Indonêxia
Thành lập năm 1955 gồm 4 cấp: ở cấp quốc gia có hội Khuyến nông quốc
gia điều hành, ở cấp tỉnh có diễn đàn khuyến nông cấp I do giám đốc nông nghiệp
làm chủ tịch, ở cấp huyện có diễn đàn khuyến nông cấp II do huyện chọn một trong
các trưởng dịch vụ nông nghiệp của huyện làm chủ tịch, ở cấp xã và liên xã có cơ
16
quan khuyến nông cơ sở. Tại đó có bộ phận dịch vụ khuyến nông và trung tâm
thông tin phục vụ cho nhu cầu của nông dân. Ở Indonêxia rất chú trọng hai tổ chức
này và được coi là tuyến đầu của khuyến nông Indonêxia. Hiện tại, Indonêxia có
trên 30.000 cán bộ KN; cán bộ hợp đồng là 24.608 người và còn lại là các KN viên
tự nguyện. Tất cả được bố trí từ ở cấp Trung Ương đến 33 đơn vị cấp tỉnh, 489 đơn
vị cấp huyện và 4.239 đơn vị cấp xã, với mỗi thôn được bố trí 1 cán bộ KN. Ngày
nay Indonêxia thường xuyên được chọn là nơi tổ chức đào tạo CBKN cho các nước
trong khu vực.
2.2.1.5 Khuyến nông Thái Lan
Tổ chức khuyến nông được thành lập từ cuối năm 1967 và cho đến năm
1980, Thái Lan đã có mạng lưới tổ chức khuyến nông quốc gia rộng khắp đến các
tỉnh và gắn liền với chương trình sản xuất lương thực xuất khẩu. Thái Lan đã có
chính sách đầu tư đúng đắn trong việc đào tạo. Cụ thể là hàng năm chính phủ phải
chi ra một khoản từ 130 triệu USD đến 150 triệu USD cho hoạt động khuyến nông.
Và đến năm 1992 thì Thái Lan có khoảng 16000 cán bộ khuyến nông Các chương
trình khuyến nông của Thái Lan Phát triển đồng bộ toàn diện cả về chăn nuôi và
trồng trọt đã làm cho sản xuất của nước này không ngừng được nâng cao và là nước
luôn đứng đầu về xuất khẩu gạo ra thị trường thế giới. Chất lượng hàng hoá nông
sản ngày càng tốt và giá thành rẻ.
Hiện nay đã có 200 quốc gia chính thức có tổ chức khuyến nông từ trung ương
đến cơ sở. Với trình độ của cán bộ khuyến nông trên thế giới là: Trên đại học chiếm

5%, đại học 22,9%; trung cấp 33,3%, sơ cấp 33,8% riêng khu vực châu Á Thái Bình
Dương; trên đại học 3,8%; đại học 20,4%; trung cấp 35,4% và sơ cấp chiếm 40,4%. [8]
2.2.2 Hoạt động khuyến nông ở Việt Nam
2.2.2.1 Sự hình thành và phát triển khuyến nông ở Việt Nam
Nông nghiệp là ngành sản xuất truyền thống và phát triển cùng nền văn minh
lúa nước ở nước ta. Vì vậy, KN Việt Nam đã có từ rất sớm và có bước phát triển
ngày càng lớn mạnh.
Trong thời kỳ phong kiến, công tác KN đã đặc biệt được chú trọng. Thời tiền
Lê, hàng năm vua Lê Hoàn đã tự mình xuống ruộng cày đường cày đầu tiên cho vụ
17
sản xuất đầu xuân. Năm 1226, dưới thời Trần lập chức quan “Khuyến nông sứ” là
viên quan chuyên chăm lo khuyến khích phát triển nông nghiệp. Năm 1789, vua
Quang Trung ban bố “Chiếu khuyến nông” sau khi đại phá quân Thanh nhằm phục
hồi lại ruộng bị bỏ hoang. Chỉ sau 3 năm hầu hết ruộng hoang đã được khôi phục,
sản xuất phát triển, bổ sung chế độ cấp công điền.
Năm 1960, ở miền Nam (dưới thời Mỹ ngụy) thành lập “Nha khuyến nông”
trực thuộc bộ nông nghiệp cải cách điền địa nông mục. Trong khi đó ở miền Bắc,
Bộ nông nghịêp thường xuyên đưa sinh viên xuống giúp các HTX làm công tác
Đông xuân, chọn giống lúa, trồng ngô - khoai, tiêm phòng cho gia súc - gia cầm…
Từ năm 1964, Bộ nông nghiệp chính thức có chủ trương thành lập các đoàn
chỉ đạo, đưa sinh viên mới tốt nghiệp xuống cơ sở (các HTX, nông lâm trường) xây
dựng các mô hình và mở các lớp tập huấn cho cán bộ chủ chốt của địa phương về
công tác sản xuất, công tác thuỷ lợi.
Năm 1981, Ban bí thư Trung ương Đảng đã ra Chỉ thị 100 chính thức thực
hiện chủ trương “khoán sản phẩm cuối cùng đến nhóm và người lao động”.
Đến tháng 12 năm 1986, Đại hội VI của Đảng cộng sản Việt Nam đã nhìn
thẳng vào sự thật với tinh thần “đổi mới”, rút ra bài học hành động phù hợp với quy
luật khách quan để thực hiện chủ trương đổi mới cơ chế quản lý, đưa nông nghiệp
đi lên sản xuất hàng hoá.
Ngày 05 tháng 04 năm 1988, Bộ Chính trị đã ra Nghị quyết 10 về “Đổi mới

quản lý trong nông nghiệp”. Từ đó, nhờ việc nắm vững và thực hiện Nghị quyết 10
(Khoán 10) đã đem lại những tác dụng tích cực cho sản xuất. Lực lượng lao động
không ngừng tăng lên, KHCN được tạo điều kiện đi vào sản xuất, KTTB được
chuyển giao rộng rãi, công tác KN đi vào nề nếp. Khoán 10 đã đem lại hiệu quả
nhanh chóng, tạo ra một bước ngoặt mới trên mặt trận nông nghiệp. Hộ nông dân
trở thành đơn vị kinh tế tự chủ, tự quyết định kết quả sản xuất kinh doanh của mình.
Vì vậy mà những đòi hỏi của hàng triệu hộ nông dân trong cả nước về hướng dẫn
kỹ thuật, về quản lý, về giống cây trồng - vật nuôi, về chính sách khuyến khích sản
xuất, về thị trường… tăng lên gấp bội.
18
Nghị định 13/CP của Chính phủ ra ngày 02 tháng 03 năm 1993 về công tác
KN, Thông tư 02/LB/TT hướng dẫn việc tổ chức hệ thống KN và hoạt động KN đã
kịp thời đáp ứng được những đòi hỏi nói trên. Hệ thống KN của Việt Nam chính
thức được thành lập năm 1993.
Ngày 02 tháng 5 năm 2003, Thủ tướng Chính phủ ký Nghị định số
43/2003/NĐ-CP, thành lập Trung tâm Khuyến ngư Quốc gia.
Ngày 26 tháng 04 năm 2005, bằng việc ban hành Nghị định 56/2005/NĐ-CP
về công tác khuyến nông, khuyến ngư thì hệ thống khuyến nông Việt Nam đã thêm
một bước được hoàn thiện cả về cơ cấu lẫn nội dung hành động.
Ngày 03 tháng 01 năm 2008, Chính phủ ban hành Nghị định số 01/2008/NĐ-
CP về Quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Nông
nghiệp & PTNT, sau khi sát nhập Bộ Nông nghiêp & PTNT và Bộ Thủy sản. Tại
Nghị định này, Chính phủ cho phép thành lập Trung tâm Khuyến nông - Khuyến
ngư Quốc gia. Ngày 28 tháng 01 năm 2008, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp & PTNT ký
Quyết định số 236/QĐ-BNN-TCCB, thành lập Trung tâm Khuyến nông - Khuyến
ngư Quốc gia trên cơ sở hợp nhất hai trung tâm: Trung tâm Khuyến nông Quốc gia
và Trung tâm Khuyến ngư Quốc gia.
Tại Điều 9 của Nghị định số 02/2010/NĐ-CP của Chính phủ về Khuyến
nông ký ngày 08 tháng 01 năm 2010 quy định tổ chức khuyến nông Trung ương
đơn vị sự nghiệp công lập trực thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn với

tên gọi là Trung tâm Khuyến nông Quốc gia.
Ngày 28 tháng 06 năm 2010, Bộ Nông nghiệp và PTNT đã có Quyết định số
1816/QĐ-BNN-TCCB quy định chức năng, nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức của Trung
tâm Khuyến nông Quốc gia.
Trong hoạt động, KN Việt Nam đang tiếp tục đón nhận kinh nghiệm của
khuyến nông các nước tiên tiến, làm cho hoạt động KN trong nước ngày càng phong
phú, bộ mặt nông thôn và sản xuất nông - lâm - ngư nghiệp phát triển không ngừng.
2.2.2.2 Hệ thống khuyến nông ở Việt Nam
Hệ thống KN ở Việt Nam được phân thành 4 cấp từ Trung Ương đến địa
phương như Sơ đồ 2.1.
19
Sơ đồ 2.1. Hệ thống tổ chức khuyến nông Việt Nam
a) Cấp Trung ương có TTKNQG
TTKNQG là đơn vị sự nghiệp trực thuộc Bộ NN & PTNT là cơ quan giúp Bộ
trưởng thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về công tác khuyến nông, về SXNN
trên phạm vi cả nước. Trung tâm có nhiệm vụ: (1) Xây dựng, chỉ đạo các chương
trình khuyến nông về trồng trọt, chăn nuôi, BVTV, thú y, bảo quản chế biến nông sản
theo từng lĩnh vực chuyên môn, từng vùng sinh thái trong phạm vi cả nước; (2)
Hướng dẫn các địa phương, các tổ chức khuyến nông xây dựng và thực hiện các dự
án khuyến nông; (3) Tham gia thẩm định các chương trình, dự án khuyến nông theo
quy định của Bộ NN&PTNT; (4) Quan hệ với các tổ chức KTXH trong và ngoài
nước để thu hút vốn hoặc tham gia trực tiếp vào các hoạt động khuyến nông; (5) Xây
dựng, theo dõi, đôn đốc và hướng dẫn thực hiện các quy trình kỹ thuật trồng trọt -
chăn nuôi; (6) Quản lý chất lượng giống cây trồng, vật nuôi, chất lượng TAGS, phân
bón trên thị trường; (7) Theo dõi, đánh giá và thực hiên các chương trình dự án
khuyến nông để tổng hợp tình hình báo cáo Chính phủ.
20
Bộ Nông nghiệp & PTNT
Sở Nông nghiệp & PTNT
tỉnh, thành phố

Trung tâm khuyến nông tỉnh,
thành phố
UBND huyện, thị xã Trạm khuyến nông
UBND xã, phường Cán bộ khuyến nông cơ sở
Trung tâm khuyến nông
quốc gia
KN viên
DNHTX NN CLB KN
Các hội
Các đoàn thể
Nông dân
b) Cấp tỉnh có TTKN tỉnh
TTKN tỉnh trực thuộc Sở NN&PTNT, mỗi trung tâm thường có từ 3 - 5
phòng ban với số cán bộ biên chế từ 15 - 20 người. Nhiệm vụ của TTKN tỉnh bao
gồm: (1) Xây dựng và hướng dẫn thực hiện các chương trình, dự án khuyến nông
trong tỉnh, từng tiểu vùng sinh thái, từng lĩnh vực SXNN tại địa phương; (2) Phổ
biến và chuyển giao KTTB về nông - lâm - ngư nghiệp và những kinh nghiệm điển
hình trong sản xuất cho nông dân; (3) Bồi dưỡng kỹ thuật, rèn luyện tay nghề và
quản lý kinh tế cho CBKN cơ sở, cung cấp cho nông dân các thông tin thị trường,
giá cả nông - lâm - thuỷ sản; (4) Quan hệ với các tổ chức trong và ngoài nước để
thu hút nguồn vốn hoặc tham gia trực tiếp vào các hoạt động khuyến nông ở địa
phương; (5) Tham gia xây dựng và phổ biến cho nông dân thực hiện các quy trình
kỹ thuật sản xuất thâm canh cây trồng, vật nuôi, lâm sinh, thuỷ sản; (6) Tổng kết
đánh giá việc thực hiện các chương trình dự án khuyến nông cấp tỉnh.
c) Cấp huyện, thị xã có Trạm khuyến nông huyện, thị xã
Trạm khuyến nông huyện trực thuộc phòng nông nghiệp (hoặc phòng kinh
tế) huyện, mỗi trạm có từ 5 - 7 nhân viên làm việc theo phòng ban hoặc theo ngành
sản xuất được phân công. Trạm khuyến nông huyện có nhiệm vụ sau: (1) Đưa
những KTTB theo các chương trình dự án khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư
vào sản xuất đại trà trện địa bàn huyện; (2) Xây dựng các mô hình trình diễn phục

vụ cho các chương trình dự án khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư; (3) Hướng
dẫn quy trình kỹ thuật cho nông - lâm - ngư dân theo mùa vụ hoặc theo yêu cầu của
sản xuất; (4) Tổ chức tham quan học tập các điển hình tiên tiến ở trong và ngoài
huyện; (5) Bồi dưỡng kỹ thuật và tập huấn nghiệp vụ cho khuyến nông viên cơ sở
và cho nông dân; (6) Xây dựng CLBKN, nhóm nông dân sản xuất giỏi, nhóm hộ
nông dân cùng sở thích; (7) Hợp tác với các tổ chức và cá nhân thực hiện hoạt động
khuyến nông.
d) Cấp xã, thôn thành lập mạng lưới khuyến nông cơ sở
CBKN ở cơ sở không thuộc biên chế nhà nước, làm việc theo chế độ hợp
đồng dài hạn hoặc ngắn hạn. CBKN cơ sở thực hiện nhiệm vụ theo hợp đồng cơ bản
gồm: (1) Tự bồi dưỡng nâng cao trình độ và hiểu biết về chuyên môn, KTXH,
21
nghiệp vụ khuyến nông; (2) Cố vấn kỹ thuật và thông tin thị trường cho nông dân;
(3) Thực thi các dự án khyến nông trên địa bàn phụ trách; (4) Thực hiện, tổ chức và
theo dõi các mô hình sản xuất tiên tiến; (5) Điều tra thu thập thông tin làm cơ sở cho
xây dựng và triển khai dự án khuyến nông; (6) Hàng tháng tổng hợp tình hình hoạt
động khuyến nông viết và trình bày báo cáo tại các kỳ họp giao ban thường niên. [12]
2.2.2.3 Một số kết quả đã đạt được của khuyến nông Việt Nam trong thời gian qua
Ở Việt Nam, công tác KN đã có đóng góp quan trọng trong việc xây dựng
mô hình trình diễn, hướng dẫn nông dân sản xuất và áp dụng KTTB vào sản xuất,
từng bước chuyển từ sản xuất tự túc, tự cấp sang nền nông nghiệp hàng hoá đa dạng
và có hiệu quả, hướng mạnh xuất khẩu, phát triển ngành nghề nông thôn mới, tăng
thu nhập, xoá đói giảm nghèo. Qua gần 20 năm xây dựng và phát triển, khuyến
nông Việt Nam đã đạt được những kết quả nhất định, đặc biệt là giai đoạn từ năm
2006 – 2010:
a) Về trồng trọt
- Triển khai “Chương trình sản xuất và nhân giống lúa chất lượng cao” trên
diện tích 7.907 ha đất canh tác với 784 điểm trình diễn, đạt năng suất bình quân mô
hình từ 55 – 60 tạ/ha/vụ.
- “Chương trình chuyển đổi cơ cấu và luân canh tăng vụ cây trồng” được

triển khai trên 5.993 ha đất, góp phần tích cực vào phong trào xây dựng cánh đồng
trên 50 triệu đồng/ha/năm.
- “Chương trình thâm canh cây ăn quả theo GAP” với diện tích triển khai là
3.497 ha, với tổng số 20.300 hộ nông dân tham gia cũng đạt được nhiều kết quả khả
quan. Áp dụng biện pháp ghép cải tạo, mỗi năm nông dân tiết kiệm được hàng chục
tỷ đồng cho việc trồng và thay giống, rút ngắn thời gian 2 – 3 năm so với trồng mới,
sản lượng quả các loại đạt từ 18.000 – 20.000 tấn…
b) Về chăn nuôi
- Bằng việc thực hiện “Chương trình chăn nuôi lợn hướng nạc” đã góp phần
cải tiến chất lượng đàn lợn giống, cung cấp giống tốt tại chỗ cho sản xuất, đưa tỷ lệ
nạc từ 35 – 36% trước đây lên đến 47 – 50%, số lứa đẻ một nái tăng từ 1,7 lứa/năm
lên trên 2 lứa/năm, thời gian cai sữa cho lợn con giảm từ 60 ngày xuống còn 40 ngày.
22
- “Chương trình khuyến nông chăn nuôi gia cầm an toàn sinh học” được triển
khai ở hầu khắp các tỉnh trên cả nước, chuyển giao hàng chục vạn gia cầm giống
mới cho các hộ nông dân. Đàn gia cầm của chương trình đưa vào các nông hộ đều
cho kết quả tốt: tiêu tốn ít thức ăn, tỷ lệ nuôi sống trên 90%, gia cầm từ 70 – 90
ngày tuổi đạt khối lượng 1,8 – 2,0 kg/con (đối với gà), 2,5 – 3,2 kg/con (đối với
ngan). Đến nay, toàn quốc đã hình thành nhiều trang trại chăn nuôi gia cầm với quy
mô lớn, từ 10.000 – 20.000 con/hộ (gà thịt), 3.000 – 5.000 con/hộ (gà sinh sản)…
c) Về chế biến, bảo quản và tiêu thụ nông sản
Chúng ta đã có nhiều cố gắng để thực hiện công tác KN trong mặt này nhưng
thành quả đạt được còn rất hạn chế. Đây là mảng hoạt động mới trong công tác KN,
mặt khác đội ngũ CBKN của chúng ta hiện nay còn rất thiếu kiến thức về thị trường
giá cả, cạnh tranh thương mại, marketing sản phẩm và tiêu thụ nông sản. Đặc biệt là
khi chúng ta đã là thành viên chính thức của tổ chức thương mại thế giới (WTO) thì
hạn chế này cần nhanh chóng được khắc phục, cần tăng cường cho đội ngũ CBKN.
Để từ đó đưa hàng nông sản của Việt Nam đến với bạn hàng khắp nơi trên thế giới,
kịp thời thích ứng với xu thế hội nhập, đem lại lợi ích cho đất nước và cho bà con
nông dân. [9]

Bên cạnh đó, hàng năm Trung tâm Khuyến nông Quốc gia phối hợp với
khoảng hai trăm đơn vị bao gồm các cơ quan nghiên cứu, đào tạo về nông nghiệp,
các hội, đoàn thể, các cơ quan truyền thông – thông tin trong và ngoài Bộ và 63
tỉnh, thành để triển khai:
- Xây dựng 3.750 điểm trình diễn, chuyển giao khoa học-công nghệ trong
các lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn (bao gồm: Trồng trọt, Chăn nuôi
Lâm nghiệp, Ngư nghiêp, Diêm nghiệp, Thuỷ nông, Cơ giới hoá Nông nghiệp, Bảo
quản, chế biến nông – lâm - thuỷ sản và Ngành nghề nông thôn. Các mô hình mang
lại hiệu quả kinh tế cao hơn ngoài sản xuất ít nhất 15%.
- Tổ chức gần 500 lớp đào tạo nghiệp vụ và tập huấn kỹ thuật cho khoảng
5.000 cán bộ khuyến nông và trên 25.000 nông dân chủ chốt. Biên soạn hàng chục
giáo trình, tài liệu tập huấn khuyến nông.
23
- Hoạt động truyền thông - thông tin trên trang WEB Khuyến nông Việt nam
(mỗi ngày có hàng ngàn người truy cập). Xuất bản 36 số/năm Tờ tin Khuyến nông
Việt Nam, với 10.000 bản/số, phát hành đến các xã, thôn, bản và các câu lạc bộ
khuyến nông. Biên soạn và phát hành hàng triệu ấn phẩm thông tin (tờ gấp, tranh,
sách mỏng, băng đĩa hình …). Tổ chức trên 50 sự kiện (diễn đàn, hội thi, hội chợ
…), thu hút gần 1 triệu lượt hộ nông dân trên phạm vi 64 tỉnh, thành tham gia.
- Phối hợp với các cơ quan truyền thông đại chúng: Đài Truyền hình Việt
nam, Đài Tiếng nói Việt nam, Thông tấn xã Việt nam, Báo Nông nghiệp Việt
nam… tuyên truyền chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước, phổ biến kiến
thức và các mô hình, điển hình tiên tiến trên phạm vi toàn quốc. [17]
2.2.3 Các nghiên cứu liên quan
Chủ đề khuyến nông thu hút được sự quan tâm của nhiều nhà quản lý, nhà
khoa học trong và ngoài nước. Đã có rất nhiều công trình nghiên cứu liên quan đến
vấn đề này, như:
* Nguyễn Thị Thanh Huyền (2008). “Nghiên cứu hoạt động khuyến nông cơ
sở tại xã Trưng Vương, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ”, Khóa luận tốt nghiệp
Đại học, Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội. Đề tài nghiên cứu thực trạng các

hoạt động khuyến nông cơ sở trên địa bàn xã, qua đó phát hiện các yếu tố ảnh
hưởng đến hoạt động khuyến nông tại đây. Từ đó, đề xuất một số giải pháp nhằm
đẩy mạnh hoạt động khuyến nông cơ sở một cách có hiệu quả tại xã Trưng Vương,
thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ.
* Đỗ Đức Mẫn (2011). “Nghiên cứu giải pháp khuyến nông có sự tham gia
nhằm đáp ứng nhu cầu của nông hộ tại xã Hóa Trung, huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái
Nguyên”, Khóa luận tốt nghiệp Đại học, Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội. Tác
giả đi sâu vào nghiên cứu thực trạng nhu cầu tiếp cận và tham gia các hoạt động
khuyến nông, các giải pháp khuyến nông có sự tham gia đã triển khai, từ đó đề xuất
một số giải pháp khuyến nông có sự tham gia nhằm đáp ứng nhu cầu của nông hộ
tại xã Hóa Trung, huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên.
* Phạm Thị Ngoan (2011). “Nghiên cứu hoạt động khuyến nông trên địa bàn
huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh”, Khóa luận tốt nghiệp Đại học, Trường Đại học
24
Nông nghiệp Hà Nội. Là công trình nghiên cứu cho chúng ta thấy thực trạng công
tác khuyến nông, những thành tựu và hạn chế; qua đó, đưa ra một số giải pháp
nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động khuyến nông trên địa bàn huyện Tiên Du, tỉnh
Bắc Ninh.
* Phạm Ngọc Hải (2011). “Nghiên cứu nhu cầu và khả năng đáp ứng dịch vụ
khuyến nông của Trạm khuyến nông huyện Quế Phong, tỉnh Nghệ An”, Khóa luận tốt
nghiệp Đại học, Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội. Đề tài đi vào nghiên cứu nhu
cầu của các hộ nông dân đối với các hoạt động khuyến nông và khả năng đáp ứng
nhu cầu đó của Trạm khuyến nông, từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện
công tác khuyến nông của Trạm khuyến nông huyện Quế Phong, tỉnh Nghệ An…
Và còn rất nhiều công trình nghiên cứu khác. Song, nhìn chung các công
trình trên chỉ bàn đến việc định hướng các hoạt động khuyến nông, phương pháp
khuyến nông, giải pháp khuyến nông nhằm đáp ứng nhu cầu hoặc hoàn thiện tổ
chức khuyến nông mà chưa đề cập đến sự ảnh hưởng của công tác khuyến nông đến
kinh tế nông hộ.
Vì vậy, đề tài này sẽ đi sâu nghiên cứu hoạt động khuyến nông trên địa bàn

xã Đa Tốn và những tác động của nó đến kinh tế hộ nông dân xã, từ đó đưa ra các
giải pháp để nâng cao hiệu quả hoạt động khuyến nông tại đây.
25

×