Tải bản đầy đủ (.pdf) (116 trang)

QUAN HỆ HOA KỲ – HÀN QUỐC TỪ NĂM 1991 ĐẾN 2005

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.18 MB, 116 trang )


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH





PHẠM TRUNG TRIỀU



QUAN HỆ HOA KỲ – HÀN QUỐC TỪ
NĂM 1991 ĐẾN 2005


Chuyên ngành: Lịch sử Thế giới
Mã số: 60 22 50



LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ




NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS. TS. NGÔ MINH OANH





Thành phố Hồ Chí Minh - 2010
THƯ
VIỆN

Lời Cảm Ơn

Để có thể hoàn thành được luận văn với đề tài “Quan hệ Hoa Kỳ - Hàn Quốc từ
năm 1991 đến 2005”, tôi xin chân thành cảm ơn Quý Thầy Cô trong Khoa Lịch sử -
Trường ĐHSP TP. Hồ Chí Minh cũng như các Giảng viên ngoài trường đã truyền thụ
kiến thức và có những gợi ý quý báu cho tôi trong quá trình học tập, đặc biệt xin chân
thành cảm ơn PGS. TS Ngô Minh Oanh đã trực tiếp hướng dẫn tận tình để tôi hoàn
thành luận văn này.
Chân thành cảm ơn các Cán bộ thư viện trong và ngoài trường, Phòng Sau đại
học - Trường ĐHSP TP. Hồ Chí Minh, đơn vị công tác và gia đình đã tạo điều kiện
thuận lợi để tôi hoàn thành nhiệm vụ của mình.




BẢNG CHỮ VIẾT TẮT SỬ DỤNG TRONG LUẬN VĂN

ABM : Anti-ballistic missile Chống tên lửa đạn đạo
APEC : Asia-Pacific Economic Co-operation Diễn đàn Hợp tác kinh tế
Châu Á – Thái Bình Dương
ARF : ASEAN Regional Forum Diễn đàn khu vực ASEAN
ASEAN : Association of South-East Asian Nation Hiệp hội các nước Đông Nam Á
ASEM : Asia-Europe Meeting Diễn đàn hợp tác Á – Âu
CHDCND : Democratic People's Republic Cộng hòa Dân chủ nhân dân
DMZ : Demilitarized zone Khu phi quân sự

FDI : Foreign Direct Investment Đầu tư trực tiếp nước ngoài
FTA : Free Trade Agreement Hiệp định thương mại tự do
GDP : Gross domestic product Tổng sản phẩm trong nước
IAEA : International Atomic Energy Agency Cơ quan năng lượng
nguyên tử quốc tế
IMF : International Monetary Fund Quỹ tiền tệ Quốc tế
KIST : The Korea Institute of Science Viện Khoa học và Công
and Technology nghệ Hàn Quốc
MOST : Ministry of Science and Technology Bộ Khoa học và Công nghệ
NATO : North Atlantic Treaty Organization Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương
NICs : Newly Industrialized Countries Các nước mới công nghiệp hóa
NMD : National Missile Defence system Hệ thống phòng thủ tên lửa quốc gia
ODA : Official Development Assistance Viện trợ phát triển chính thức
OECD : Oganization for Economic
Cooperation and Development Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế
SALT : Strategic Arms Limitation Treaty Hiệp định hạn chế vũ khí chiến lược
SEATO : South-East Asia Treaty Organization Tổ chức Hiệp ước Đông Nam Á
TMD : Theather Missile Defense Hệ thống phòng thủ tên lửa
trên chiến trường
USFK : US Forces Korea Lực lượng Hoa Kỳ tại Hàn Quốc
WMD : Weapons of mass destruction Vũ khí hủy diệt hàng loạt
MỞ ĐẦU

I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Trong bối cảnh quốc tế hiện nay, khi vấn đề hội nhập, hợp tác giữa các nước và khu vực,
những vấn đề quốc tế hóa, toàn cầu hóa đã và đang trở thành xu thế áp đảo trong quan hệ quốc tế,
thì sự phát triển của một nước, một khu vực lại không thể không có sự hợp tác, quan hệ giao lưu,
trao đổi với các nước bên ngoài. Toàn cầu hóa hiện nay là một xu thế tất yếu, vì vậy, đòi hỏi các
nước phải hợp tác với nhau chặt chẽ hơn để cùng phát triển.
Hoa Kỳ là một siêu cường trên thế giới và là một chủ thể rất quan trọng trong quan hệ quốc

tế, chi phối hầu hết các mối quan hệ của các nước và khu vực. Sau khi Chiến tranh thế giới thứ hai
kết thúc đến nay, Hoa Kỳ là một nước thắng trận và đã bành trướng thế lực của mình ra khắp thế
giới, trong đó điển hình là khu vực Châu Á – Thái Bình Dương.
Hàn Quốc là một quốc gia được thành lập vào năm 1948, sau khi chiến tranh Triều Tiên kết
thúc, Hàn Quốc bị tàn phá nặng nề, bên cạnh đó lại là một nước nghèo về tài nguyên thiên nhiên,
thiếu vốn, kỹ thuật… nên nền kinh tế Hàn Quốc phát triển rất thấp kém. Nhưng, đến những năm 60
của thế kỷ XIX, Hàn Quốc đã ổn định đất nước và phát triển nhanh chóng qua các giai đoạn về sau.
Để đạt được thành tựu rực rỡ đó, Hoa Kỳ đã đóng một vai trò quan trọng. Chính vì vậy, từ trong
lịch sử cho đến nay, mối quan hệ Hoa Kỳ - Hàn Quốc là một mối quan hệ quốc tế khá đặc thù, đó là
mối quan hệ đồng minh thân thiết, mối quan hệ của một nước lớn đứng đầu thế giới tự do với một
dân tộc có tính tự cường, tự chủ cao; Vì thế, Hàn Quốc không hoàn toàn phụ thuộc vào Hoa Kỳ mà
đã khôn khéo trong chính sách đối ngoại của mình.
Trong thời kỳ đầu, Hoa Kỳ đã tăng cường viện trợ kinh tế, quân sự nhằm biến Hàn Quốc
thành một căn cứ quân sự để thực hiện chiến lược toàn cầu của mình. Đến những thập kỷ cuối thế
kỷ XX, Hàn Quốc đã trở thành một nước công nghiệp phát triển năng động ở khu vực và trên thế
giới với tốc độ tăng trưởng cao, và một trong những nhân tố quan trọng đưa đến sự phát triển nhanh
chóng của Hàn Quốc đó là chính sách thương mại và đầu tư của Hoa Kỳ. Sau khi Chiến tranh lạnh
kết thúc, Hoa Kỳ là siêu cường duy nhất trên thế giới nên để khẳng định vị trí số một và bảo vệ lợi
ích toàn cầu của mình, Hoa Kỳ ngày càng củng cố và tăng cường quan hệ với các đồng minh chiến
lược của mình, đặc biệt là với Hàn Quốc.
Quan hệ Hoa Kỳ - Hàn Quốc là một trong những mối quan hệ quan trọng của Hoa Kỳ trong
chiến lược Châu Á – Thái Bình Dương. Hàn Quốc là một nước công nghiệp phát triển mạnh, là một
“con rồng” kinh tế của Châu Á. Cho nên trong quan hệ quốc tế, quan hệ Hoa Kỳ - Hàn Quốc là một
nhân tố có ý nghĩa quan trọng đối với cục diện chính trị khu vực và trên thế giới, trong đó có Việt
Nam. Bên cạnh đó, quan hệ Hoa Kỳ - Hàn Quốc còn có ảnh hưởng to lớn đối với sự thành công của
hai nước; Đặc biệt là trên lĩnh vực an ninh – kinh tế, Hoa Kỳ là nước cung cấp vốn, kỹ thuật, đào
tạo nguồn nhân lực, là thị trường rộng lớn cho Hàn Quốc. Ngược lại Hàn Quốc lại là chiếc “ô hạt
nhân” để Hoa Kỳ thực hiện những chính sách an ninh – quân sự của mình. Do vậy, nghiên cứu về
mối quan hệ Hoa Kỳ với Hàn Quốc có một ý nghĩa hết sức to lớn trong việc nhận định tình hình khu
vực và thế giới.

Đối với Việt Nam, nghiên cứu về mối quan hệ Hoa Kỳ - Hàn Quốc càng có ý nghĩa quan
trọng. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954 – 1975), Việt Nam đã chịu tác động tiêu
cực từ mối quan hệ này, mối quan hệ giữa một cường quốc đế quốc với một đồng minh chư hầu.
Còn hiện nay, trước sự thay đổi của tình hình quốc tế, khi Việt Nam đang thực hiện chính sách đổi
mới đất nước, đề ra đường lối đối ngoại mới, mở rộng quan hệ đa dạng và đa phương với các nước
và khu vực khác nhau trên thế giới với phương châm Việt Nam muốn là bạn với tất cả các nước, thì
việc nghiên cứu mối quan hệ này càng mang tính cấp thiết. Ngày nay, Hoa Kỳ và Hàn Quốc đều là
những đối tác chiến lược hàng đầu của Việt Nam. Năm 1995, quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ đã được
bình thường hóa; Đến năm 2001, Quốc hội hai nước chính thức thông qua Hiệp định thương mại
Việt Nam – Hoa Kỳ, sự kiện này đánh dấu một bước tiến lớn trong mối quan hệ của hai nước. Đối
với quan hệ Việt Nam - Hàn Quốc, hai nước đã có một mối quan hệ tốt đẹp và được xem là năng
động và đầy triển vọng trong khu vực và trên thế giới. Như vậy, với yêu cầu quan hệ hợp tác mới,
việc nghiên cứu mối quan hệ Hoa Kỳ - Hàn Quốc sẽ có thêm cơ sở lý luận và thực tiễn để góp phần
hoạch định chính sách đối ngoại của Việt Nam trong thời kỳ hội nhập, nhằm đa dạng hóa các mối
quan hệ quốc tế.
Như vậy, trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay, hầu như tất cả các quốc gia, dân tộc đều
cần phải giao lưu và hợp tác với nhau để phát triển. Do đó, đây là một xu hướng tất yếu của tất cả
các nước, các khu vực và Hoa Kỳ - Hàn Quốc đang đi theo xu hướng đó. Với những suy nghĩ như
trên, tôi đã mạnh dạn chọn đề tài luận văn cho mình là “Quan hệ Hoa Kỳ – Hàn Quốc từ năm 1991
đến 2005”, nhằm tiếp cận và có cách nhìn tổng quát về mối quan hệ này, với hy vọng sẽ làm rõ
được thực trạng, vai trò và ý nghĩa của mối quan hệ này đối với khu vực và thế giới.
II. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ
Nghiên cứu về mối quan hệ Hoa Kỳ - Hàn Quốc từ trước tới nay đã được nhiều nhà khoa học
ở trong và ngoài nước quan tâm, tìm hiểu. Hiện nay, ở nước ta tác giả chưa tìm được một công trình
nào nói về quan hệ Hoa Kỳ - Hàn Quốc từ năm 1991 đến 2005. Những bài viết liên quan đến vấn đề
này hiện có thường được trình bày ở thể loại các bài viết ngắn, các đoạn trích được đăng tải trên các
tạp chí chuyên ngành, các sách, báo và trên Internet. Đặc điểm chung của các bài viết này là đi sâu
phân tích mối quan hệ Hoa Kỳ - Hàn Quốc trên một số lĩnh vực nhất định như kinh tế, khoa học kỹ
thuật, quân sự trong một số giai đoạn cụ thể mà chưa đi sâu nghiên cứu mối quan hệ của hai nước
một cách toàn diện trên tất cả các lĩnh vực. Bên cạnh đó còn có một số tác phẩm ngoại văn và tác

phẩm trong nước có liên quan đến quan hệ Hoa Kỳ - Hàn Quốc, nhưng chỉ đề cập tới vấn đề ở khía
cạnh nào đó mà không đi sâu vào mối quan hệ toàn diện của hai nước.
Tiêu biểu cho loại thứ nhất là những bài viết:“Vài nét về quan hệ kinh tế Hàn Quốc – Mỹ
(1948 – 1979)” của hai tác giả Hoàng Văn Hiển – Dương Quang Hiệp trên tập chí Nghiên cứu Nhật
Bản số 2 (2001); Tiếp đến là bài viết của tác giả PTS. Vũ Đăng Hinh được đăng tải trên tạp chí
Châu Mỹ ngày nay số 6 (1997) mang tựa đề: “Quan hệ kinh tế Mỹ - Hàn Quốc từ những năm 1950
đến những năm 1970”. Đặc biệt là các bài viết của hai tác giả Lê Văn Anh – Bùi Thị Kim Huệ
được đăng tải trên tạp chí Nghiên cứu Nhật Bản và Đông Bắc Á, chẳng hạn như “Liên minh an
ninh chính trị giữa Hàn Quốc và Mỹ trong thời kỳ Chiến tranh lạnh” (2005), “Quan hệ viện trợ,
đầu tư phát triển giữa Mỹ và Hàn Quốc giai đoạn 1948 – 1979” (2007), “Tổng quan về quan hệ
Hàn – Mỹ” (2007).
Trong những bài viết này, các tác giả đã làm rõ được bối cảnh ra đời của mối quan hệ hai
nước, các giai đoạn phát triển, những nét đặc trưng và đưa ra một số nhận xét bước đầu về mối quan
hệ kinh tế, an ninh – chính trị Mỹ - Hàn Quốc, nhưng chủ yếu là giai đoạn trước năm 1991, còn giai
đoạn từ năm 1991 đến 2005 thì còn ít tài liệu đề cập đến. Bên cạnh đó một số sách cũng đề cập đến
mối quan hệ kinh tế - thương mại hai nước Hoa Kỳ - Hàn Quốc, đặc biệt là tác phẩm của Bộ Ngoại
giao Việt Nam có đề cập phần nào đến mối quan hệ Hoa Kỳ - Hàn Quốc trong vấn đề thống nhất
bán đảo Triều Tiên; Có thể kể tới những tác phẩm như: “Sự năng động của nền kinh tế Hàn Quốc”
của tác giả Cho Soon do Nhà xuất bản Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh ấn hành năm 2001;
“Kinh tế Hàn Quốc đang trỗi dậy” của Byung Nak Song do Nhà xuất bản Thống kê ấn hành năm
2002; “Hàn Quốc trên đường phát triển” do tác giả Ngô Xuân Bình và Phạm Quý Long đồng chủ
biên; Tác phẩm“Vấn đề thống nhất Bán đảo Triều Tiên” của Bộ Ngoại giao Việt Nam (1999).v.v.
Trên lĩnh vực khoa học – công nghệ, điển hình là bài viết có đề cập đến hợp tác khoa học và công
nghệ Hoa Kỳ - Hàn Quốc mang tựa đề “Tìm hiểu hợp tác quốc tế về khoa học và công nghệ của
Hàn Quốc” của ThS. Lưu Thanh Mai (Trung tâm nghiên cứu Bắc Mỹ) trong tạp chí Nghiên cứu
Nhật Bản và Đông Bắc Á số 6 (2002). Trên lĩnh vực quân sự có bài viết “An ninh trên Bán đảo
Triều Tiên và Chiến lược quốc phòng mới của Hàn Quốc” của Đại tá Trần Bá Khoa (Viện nghiên
cứu chiến lược Bộ Quốc Phòng) trên tạp chí Nghiên cứu Nhật Bản và Đông Bắc Á số 2 (2004);
Trong bài viết này tác giả đã đề cập đến quan hệ liên minh Mỹ - Hàn Quốc và việc Mỹ điều chỉnh
lại lực lượng quân sự của Mỹ tại Hàn Quốc.

Ở loại thứ hai, hiện có nhiều nguồn tư liệu được đăng tải trên các sách báo và mạng
internet, tiêu biểu là các tác phẩm: “South Korea under U.S occupation”, của Nhà xuất bản Foreign
Languages Pulishing House Pyongyang (1958); “The United States and Korea” của Shanon
McCune (1962); Hoặc trên mạng internet có các tác phẩm như: South Korea - U.S. Economic
Relations: Cooperation, Friction, and Future Prospects (2004) của Mark E. Manyin, được đăng tải
trên www.fas.org. “South Korea – U.S Relations” của Katharine Moon (2004), trên tạp chí nghiên
cứu Asian Perspective, Vol. 28, No. 4, pp. 39-61; Hay tác phẩm “Do the ties still bind?: The U.S. –
ROK Security Relationship After 9/11” của Norman D. Levin đăng tải trên www.rand.org.v.v..
Nhìn chung, trong các tác phẩm ở loại thứ hai đã nói mối quan hệ của hai nước qua các
giai đoạn khác nhau trên các lĩnh vực chính trị, quân sự, thương mại, đầu tư… Như tác phẩm “South
Korea under U.S occupation” đã nói lên quá trình Hoa Kỳ đưa quân vào cai quản miền Nam Triều
Tiên kể từ năm 1945, bên cạnh đó là sự du nhập văn hóa, nền giáo dục phương Tây vào đây. Trong
chương 5 có đề cập đến phong trào đấu tranh của người dân Triều Tiên chống lại chính sách cai trị
của Mỹ. Tác phẩm South Korea - U.S. Economic Relations: Cooperation, Friction, and Future
Prospects, đã nói lên tổng quan về mối quan hệ kinh tế của hai nước trong những năm cuối thế kỷ
XX đầu thế kỷ XXI, sự phụ thuộc lẫn nhau của nền kinh tế hai nước, vai trò quan trọng của thị
trường Hoa Kỳ đối với hàng hóa Hàn Quốc và ngược lại, Hàn Quốc cũng là một nhân tố quan trọng
trong sự phát triển thương mại Hoa Kỳ. Tác phẩm này đã làm rõ được vấn đề trong lĩnh vực thương
mại - đầu tư, Hoa Kỳ đã đóng vai trò quan trọng và là nhân tố đưa Hàn Quốc trở thành một nước
công nghiệp phát triển. Tác phẩm “South Korea – U.S Relations” nói về mối quan hệ chính trị –
quân sự của hai nước, như việc Hàn Quốc gửi quân sang Iraq, phong trào chống Mỹ trong những
năm đầu thế kỷ XXI, đặc biệt là ý thức chính trị tăng lên trong giới trẻ; Quá trình cải tổ quân đội
Hoa Kỳ tại Hàn Quốc và những cố gắng của Tổng thống Roh Moo-hyun trong việc tạo nên mối
quan hệ độc lập, bình đẳng với Hoa Kỳ cũng được đề cập tới… Trong tác phẩm Do the ties still
bind?: The U.S. – ROK Security Relationship After 9/11 gồm có 5 chương, phản ánh mối quan hệ
của hai nước sau sự kiện 11/9. Trong chương 1, tác giả nêu lên những định hướng chung trong quan
hệ liên minh Hoa Kỳ – Hàn Quốc. Chương 2 xem xét những cơ sở của hợp tác an ninh của hai
nước; Chương 3 đề cập đến mối quan hệ hiện tại và những thành tựu mà Hàn Quốc đã đạt được.
Trong chương 4 mô tả mục tiêu, chính sách của Hoa Kỳ và đánh giá vai trò hợp tác an ninh lâu dài
với Hàn Quốc. Cuối cùng là chương 5, tác giả rút ra một số kết luận và đưa ra một số kiến nghị

nhằm tăng cường hợp tác an ninh của hai nước trong thời gian tới… Tóm lại, qua các tác phẩm này
đều đề cập đến mối quan hệ Hoa Kỳ – Hàn Quốc, nhưng nhìn chung chỉ đề cập đến một số vấn đề
cụ thể nhất định mà chưa bao quát được những thành tựu, những hạn chế cũng như tương lai của
mối quan hệ hai nước.
Ngoài ra, liên quan đến mối quan hệ Hoa Kỳ - Hàn Quốc còn có nhiều bài khác đăng trên các
báo, tạp chí. Tiêu biểu là Tạp chí Nghiên cứu Nhật Bản và Đông Bắc Á; Châu Mỹ ngày nay; Tài
liệu tham khảo đặc biệt của Thông tấn xã Việt Nam… Những bài viết này có tính cách thông tin báo
chí và phần lớn chỉ đề cập đến một phương diện nào đó.
Như vậy, tuy đã có nhiều công trình, bài viết nghiên cứu về mối quan hệ Hoa Kỳ - Hàn
Quốc, song chỉ dừng lại ở dạng đi sâu vào một vấn đề nào đó mà chưa trình bày một cách toàn diện
của mối quan hệ hai nước, đặc biệt giai đoạn về sau thì còn ít tài liệu đề cập tới.
Trong quá trình thực hiện luận văn, tác giả đã kế thừa ít nhiều các công trình trên. Do đó,
thuận lợi của tác giả là có nguồn tại liệu phong phú để thực hiện đề tài, nhưng bên cạnh đó còn có
cái khó trong việc phân tích, khái quát vấn đề để bài viết thể hiện được cái riêng của mình.
III. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu về mối quan hệ Hoa Kỳ - Hàn Quốc từ 1991 đến 2005, nhằm làm sáng tỏ về:
Các giai đoạn phát triển, nội dung và thành tựu hợp tác trên các lĩnh vực, triển vọng phát triển quan
hệ Hoa Kỳ – Hàn Quốc trong tương lai; Thông qua đó để hiểu rõ hơn những chính sách đối ngoại
của Hoa Kỳ đối với khu vực Đông Bắc Á nói chung, Hàn Quốc nói riêng.
IV. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
* Đối tượng nghiên cứu: Nghiên cứu về quan hệ giữa Hoa Kỳ và Hàn Quốc từ năm 1991 đến
2005.
* Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi thời gian: Giới hạn từ năm 1991 đến 2005; Mở đầu là năm 1991, là năm trật tự hai
cực Ianta tan rã, thế giới bước sang một trang sử mới và kết thúc là năm 2005, là năm quan
hệ hai nước đã có nhiều sự kiện quan trọng.
- Phạm vi không gian: Giới hạn quan hệ giữa hai nước Hoa Kỳ và Hàn Quốc.
- Nội dung: Tập trung nghiên cứu quan hệ giữa Hoa Kỳ và Hàn Quốc giai đoạn từ 1991 đến
2005; Bối cảnh quốc tế và khu vực tác động đến quan hệ này, nội dung hợp tác về lĩnh vực
về chính trị, an ninh – quân sự, kinh tế, khoa học công nghệ, vấn đề hạt nhân của bán đảo

Triều Tiên.
V. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Trong quá trình thực hiện đề tài luận văn, chúng tôi đã sử dụng các phương pháp chủ yếu
sau:
- Phương pháp lịch sử: Nhằm xem xét bối cảnh quốc tế, những tác động của quan hệ quốc tế và khu
vực ảnh hưởng đến mối quan hai nước. Phương pháp logic: Đi sâu vào bản chất của mối quan hệ
Hoa Kỳ - Hàn Quốc trên các lĩnh vực qua các giai đoạn, bên cạnh đó còn có phương pháp so sánh,
phương pháp định lượng…
- Ngoài ra, chúng tôi còn sử dụng phương pháp liên ngành như: Phương pháp nghiên cứu của Quan
hệ Quốc tế: Phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp, dự báo khoa học trong Quan hệ Quốc tế.
VI. NHỮNG ĐÓNG GÓP CỦA ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU
Quan hệ Hoa Kỳ và Hàn Quốc từ năm 1991 đến 2005 là một đề tài mang ý nghĩa khoa học
và thực tiễn sâu sắc.
Thứ nhất; Đây là một đề tài còn ít được các nhà khoa học trong nước nghiên cứu một cách
đầy đủ. Vì vậy, nó đã mở ra một hướng nghiên cứu mới cho học viên; Thông qua kết quả nghiên
cứu nhằm thể hiện được vai trò của mối quan hệ này đối với hai bên. Đồng thời, hy vọng sẽ góp
phần về mặt tư liệu cho những ai quan tâm, tìm hiểu.
Thứ hai; Phục dựng lại mối quan hệ Hoa Kỳ - Hàn Quốc từ năm 1991 đến 2005 trên các lĩnh
vực chủ yếu: Kinh tế, chính trị, an ninh, quân sự, vấn đề Triều Tiên. Từ đó xem xét những nhân tố
trong khu vực có tác động đến quan hệ Hoa Kỳ - Hàn Quốc.
Thứ ba; Tác động của mối quan hệ Hoa Kỳ - Hàn Quốc đối với khu vực và thế giới.
Thứ tư; Hoa Kỳ và Hàn Quốc đều có mối quan hệ ngoại giao ngày càng được mở rộng với
Việt Nam. Vì vậy, nghiên cứu về mối quan hệ Hoa Kỳ – Hàn Quốc nhằm góp phần rút ra những bài
học kinh nghiệm trong việc hoạch định chính sách ngoại giao của nước ta, để qua đó tìm ra đường
lối đối ngoại phù hợp trong quan hệ đối tác chiến lược với hai nước này.
VII. BỐ CỤC CỦA LUẬN VĂN
Luận văn được chia làm các phần sau:
- Phần mở đầu
- Phần nội dung: Gồm 3 chương:
+ Chương 1: Tổng quan về Hoa Kỳ, Hàn Quốc và mối quan hệ

Hoa Kỳ - Hàn Quốc trước năm 1991
+ Chương 2: Quan hệ Hoa Kỳ - Hàn Quốc từ năm 1991 đến 2005
+ Chương 3: Những nhận định, đánh giá bước đầu về mối quan hệ Hoa Kỳ và Hàn Quốc.
- Phần kết luận
- Tài liệu tham khảo và phụ lục







NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN VỀ HOA KỲ, HÀN QUỐC VÀ MỐI QUAN HỆ HOA KỲ
– HÀN QUỐC TRƯỚC NĂM 1991

1. 1. Khái quát về Hoa Kỳ
1. 1. 1. Điều kiện tự nhiên, lịch sử
Hoa Kỳ là một quốc gia rộng lớn, tổng diện tích khoảng 9,4 triệu km
2
với dân số 297 883
322 (năm 2006). Hoa Kỳ nằm ở Bắc Mỹ, phía Đông là Bắc Đại Tây Dương, phía Tây là Bắc Thái
Bình Dương, phía Bắc tiếp giáp với Canađa, phía Nam tiếp giáp với Mêxicô. Hoa Kỳ có 50 tiểu
bang, nằm gần như hoàn toàn trong Tây bán cầu: 48 tiểu bang lục địa và Thủ đô Washington nằm
giữa Bắc Mỹ. Tiểu bang Alaska nằm trong vùng Tây Bắc của lục địa Bắc Mỹ, giáp với Canađa ở
phía Đông, tiểu bang Hawai nằm giữa Thái Bình Dương. Khi mới thành lập, Hoa Kỳ chỉ có 13
bang, hiện nay, Hoa Kỳ có 50 bang và 5 khu hành chính trực thuộc. Quốc kỳ của Hoa Kỳ có 50 ngôi
sao đại diện cho 50 bang và 13 vạch trắng và đỏ tượng trưng cho 13 thuộc địa Anh đã tuyên bố độc
lập.
Lãnh thổ Hoa Kỳ về địa hình tương đối đơn giản, miền Đông có nhiều cao nguyên rộng lớn

với nhiều khoáng sản, đất đai màu mỡ, có các đồng bằng ven biển, thuận lợi cho phát triển nông
nghiệp. Có sông Missisipi bồi đắp một lượng phù sa màu mỡ. Hoa Kỳ là một trong những nước có
nhiều khoáng sản nhất trên thế giới. Thành phần dân cư Hoa Kỳ tương đối phức tạp, là một trong
những quốc gia đa dạng chủng tộc nhất trên thế giới, do kết quả của những cuộc di dân đến từ nhiều
quốc gia khác trên thế giới.
Năm 1776, 13 thuộc địa tách ra khỏi khối thuộc địa Anh và đưa ra Bản Tuyên ngôn Độc lập, thành
lập Hợp Chúng quốc Hoa Kỳ. Được công nhận là một quốc gia độc lập sau khi Anh và Hoa Kỳ ký Hiệp
ước Paris năm 1783. Năm 1787, Hoa Kỳ ban hành Hiến pháp, với việc thông qua bản Hiến pháp đã biến
các thuộc địa Anh thành một nước cộng hòa duy nhất Hợp Chúng quốc Hoa Kỳ. Hoa Kỳ là một nước
Cộng hoà liên bang thực hiện chế độ chính trị theo thể chế Tam quyền Phân lập. Hiến pháp Hoa Kỳ quy
định quyền Lập pháp thuộc về Quốc hội, quyền Hành pháp thuộc về Tổng thống và quyền Tư pháp thuộc
về Toà án Tối cao. Mỗi bang có hệ thống hiến pháp và pháp luật riêng nhưng không được trái với Hiến
pháp của Liên bang. Hiến pháp Hoa Kỳ có nhiều điều tiến bộ nhưng cũng có nhiều vấn đề còn hạn chế
như không đảm bảo được cho người nghèo và da màu về các quyền tự do dân chủ. Hệ thống chính trị Hoa
Kỳ chủ yếu do Đảng Dân chủ và Đảng Cộng hòa kiểm soát. Đảng Dân chủ quan tâm nhiều hơn đến các
vấn đề an sinh xã hội, y tế, giáo dục, công ăn việc làm cho nguời nghèo, do vậy được đông đảo người
nghèo và giới công đoàn ủng hộ. Trong đối ngoại, Đảng Cộng hòa thường chủ trương tăng cường sức
mạnh quân sự và cứng rắn hơn trong việc giải quyết các xung đột quốc tế.
Nội chiến (1861 – 1865) kết thúc chế độ nô lệ và Hoa Kỳ được thống nhất, chiến tranh Tây
Ban Nha - Mỹ và Chiến tranh Thế giới thứ nhất (1914 – 1918) đã xác định vị thế siêu cường quân
sự của Hoa Kỳ. Năm 1945, Hoa Kỳ trở thành quốc gia đầu tiên có vũ khí hạt nhân và là một thành
viên thường trực của Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc. Là siêu cường duy nhất còn lại sau thời
Chiến tranh lạnh, Hoa Kỳ được nhiều quốc gia nhìn nhận như là một nước có thế lực quân sự, văn
hoá, kinh tế có ảnh hưởng lớn trên thế giới.
1. 1. 2. Vai trò, vị trí của Hoa Kỳ đối với thế giới
Lịch sử Hoa Kỳ từ khi lập quốc đến nay đã trải qua hơn hai trăm năm, được hình thành và
phát triển khi xóa bỏ chế độ thuộc địa của thực dân Anh, trải qua nội chiến Nam – Bắc (1961-1965)
đã xóa bỏ chế độ nô lệ, tiến lên quá trình công nghiệp hóa đất nước. Kết quả là Hoa Kỳ có một nền
kinh tế phát triển nhanh chóng, trở thành một nước công nghiệp lớn nhất.
Từ lâu Hoa Kỳ được biết như một siêu cường trên thế giới, với những thế mạnh của mình,

Hoa Kỳ đã có vai trò lớn đối với thế giới trong nhiều thập kỷ qua, là nước đứng đầu thế giới về
nghiên cứu khoa học cơ bản và sáng chế công nghệ, có nhiều nhà bác học nổi tiếng thế giới, xuất
hiện nhiều nhà văn lớn; Ngành điện ảnh Hoa Kỳ cũng đứng đầu thế giới về sản xuất phim và công
nghiệp điện ảnh, là nước đứng đầu thế giới về nghiên cứu và đào tạo y học.
Chiến tranh Thế giới Thứ hai kết thúc đã mở ra một thời kỳ mới trong quan hệ quốc tế hiện
đại, dẫn đến những chuyển biến sâu sắc trong đời sống chính trị thế giới. Trong phe Đồng minh
chống phát xít, Hoa Kỳ là nước duy nhất không bị chiến tranh tàn phá mà lại lợi dụng cuộc chiến
tranh để thu được nhiều lợi nhuận. Sức mạnh kinh tế kết hợp với sức mạnh quân sự, đặc biệt là sự
độc quyền về vũ khí hạt nhân, Hoa Kỳ trở thành nước tư bản lớn mạnh nhất; Đó là nhân tố thúc đẩy
tham vọng bá chủ toàn cầu của mình, điều này được thể hiện trong bài diễn văn của Tổng thống
Truman đọc ngày 6 tháng 4 năm 1946: “Ngày nay Hoa Kỳ là một quốc gia mạnh, không có quốc gia
nào mạnh hơn”[43, 15].
Hoa Kỳ vừa trải qua một chu kì tăng trưởng dài nhất trong lịch sử nước này (1992 - 2001),
với tốc độ tăng trưởng kinh tế cao (từ 3 đến 4%), chỉ số thất nghiệp và mức lạm phát thấp. Với số
dân chỉ bằng 4,7% dân số thế giới, nhưng Hoa Kỳ chiếm khoảng 30% GDP toàn cầu, với khoảng
10.000 tỷ USD hàng năm, bằng GDP của tất cả các nước thành viên Liên minh châu Âu (EU) cộng
lại. Theo đánh giá của các nhà nghiên cứu, sức mạnh tổng hợp của Hoa Kỳ gồm 7 lĩnh vực: kinh tế,
quân sự, khoa học công nghệ, tài nguyên thiên nhiên, chính trị, xã hội, ảnh hưởng trên trường quốc
tế (lớn hơn hai lần Nhật Bản và hơn bốn lần Trung Quốc). Với sự giải thể Liên bang Xô viết, Hoa
Kỳ không còn đối thủ cạnh tranh và có mưu đồ thiết lập trật tự thế giới một cực. Nhằm đạt được
mục tiêu chiến lược ngăn chặn không cho cường quốc nào, dù là đồng minh hay đối thủ vươn lên
thách thức vai trò siêu cường của mình, Hoa Kỳ thực hiện chính sách đối ngoại đơn phương, chà
đạp lên các nguyên tắc của luật pháp quốc tế, coi thường các tổ chức quốc tế, kể cả Liên Hợp Quốc
và chỉ lợi dụng các tổ chức này khi cần thiết vì lợi ích của mình. Hoa Kỳ cho triển khai hệ thống
phòng thủ tên lửa chống tên lửa (NMD), rút ra khỏi hiệp ước ABM, từ chối không phê chuẩn Hiệp
ước cấm thử vũ khí hạt nhân… Chiến lược xây dựng một thế giới đơn cực do Hoa Kỳ chi phối được
bắt đầu ngay sau khi chiến tranh lạnh kết thúc và được thể hiện bằng những biện pháp cứng rắn,
công khai hơn trong thời kì cầm quyền của Tổng thống G. Bush (con) kể từ năm 2001.
Như vậy, Hoa Kỳ là một trong những quốc gia trẻ nhất trên thế giới nhưng lại có sự lớn
mạnh vượt bậc trên các lĩnh vực. Sự bành trướng mở rộng lãnh thổ đã đem lại lại cho Hoa Kỳ một

lãnh thổ rộng lớn, là quốc gia có tốc độ tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ, liên tục trên thế giới. Đến
cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, Hoa Kỳ là cường quốc lớn mạnh về tiềm lực kinh tế và quân sự,
trong những năm đầu thế kỷ XIX, mặc dầu có những giảm sút nhưng Hoa Kỳ vẫn là một cường
quốc lớn mạnh số một. Sau năm 1945, Hoa Kỳ là trung tâm của chủ nghĩa tư bản với tư cách là siêu
cường của thế giới, Nhìn chung, Hoa Kỳ là nước có vai trò đầu tàu của nền kinh tế thế giới hiện
nay.
1. 2. Khái quát về Hàn Quốc
1. 2. 1. Đất nước - con người và lịch sử Hàn Quốc
1. 2. 1. 1. Điều kiện tự nhiên và con người Hàn Quốc
Hàn Quốc là quốc gia thuộc khu vực Đông Bắc Á, còn gọi là Nam Triều Tiên hay Đại Hàn
Dân Quốc, thủ đô và cũng là thành phố lớn nhất là Seoul, nằm ở phía Tây Bắc. Phía Bắc giáp với
Cộng hòa Dân chủ Nhân dân (CHDCND) Triều Tiên qua giới tuyến quân sự chạy dọc theo vĩ tuyến
38° Bắc. Phía Đông giáp với biển Nhật Bản, phía Tây là giáp biển Hoàng Hải; Hàn Quốc nằm ở
phần phía Nam bán đảo Triều Tiên, địa hình phân hoá thành hai vùng rõ rệt: Vùng rừng núi chiếm
khoảng 70% diện tích nằm ở phía Đông; Vùng đồng bằng duyên hải ở phía Tây và Nam. Tổng diện
tích của bán đảo Triều Tiên là 222 154 km
2
. Không kể diện tích đất khai hoang, diện tích đất canh
tác là 99.617 km
2
, chiếm 45% tổng diện tích. Địa hình núi non chiếm khoảng hai phần ba diện tích
lãnh thổ. “Riêng Hàn Quốc có diện tích 98 480 km
2
, với dân số khoảng hơn 48 triệu người” [5 ,12 ]
.
Khí hậu ở Hàn Quốc khá ôn hoà, những cơn mưa lớn tập trung vào một khoảng thời gian
ngắn trong mùa hè. Vào mùa đông nhiệt độ thường xuyên dưới 0°C. Hàn Quốc chịu ảnh hưởng của
khí hậu gió mùa Đông Á, một năm có 4 mùa, khí hậu gió mùa đã đem đến cho Hàn Quốc một hệ
thống động thực vật phong phú. So với quy mô lãnh thổ, Hàn Quốc có số lượng sông suối tương đối
lớn. Hệ thống đường thủy này đóng một vai trò hết sức quan trọng trong việc hình thành lối sống

của người Hàn Quốc và trong cả công cuộc công nghiệp hóa đất nước, đại dương đóng một vai trò
quan trọng đối với cuộc sống của người Hàn Quốc từ ngàn xưa và đã góp phần vào sự phát triển
ngành công nghiệp đóng tàu và kỹ năng về hàng hải.
Trong thành phần dân cư Hàn Quốc thì người Triều Tiên chiếm đại đa số. Dân tộc thiểu số
duy nhất là một bộ phận nhỏ người gốc Hoa. Người Hàn là một dân tộc duy nhất nói một ngôn ngữ.
Với những đặc tính riêng về thể chất, “người Hàn được coi là con cháu của một vài bộ lạc Mông Cổ
từ vùng Trung Á di cư đến bán đảo Triều Tiên”[14, 12]. Sự đồng nhất như vậy đã làm cho người
Hàn hầu như không bị vướng vào những vấn đề dân tộc và duy trì được tình đoàn kết vững chắc.
1. 2. 1. 2. Đôi nét về lịch sử Hàn Quốc
Triều Tiên trải qua thời kỳ tiền sử, đây là thời kỳ lâu dài nhất, tiếp đến là thời kỳ Gojeon (2333-108
TCN). Thời kỳ ba vương quốc từ năm 57 TCN đến năm 676 SCN. Vào thế kỷ thứ VII, rất nhiều quốc gia
của bán đảo lần đầu tiên đã được thống nhất dưới thời vương quốc Silla ( 57 TCN - 935 SCN ). Triều đại
Goryeo (918-1392) là thời kỳ ảnh hưởng mạnh mẽ của Phật giáo, đến nửa sau thế kỷ XIV triều đại này
suy thoái. Thời kỳ từ 1392 đến 1910 là thời gian trị vì của triều đại Joseon, thời kỳ này Khổng giáo trở
thành tư tưởng chủ đạo của đất nước. Thời Nhật Bản thống trị Triều Tiên từ năm 1910 đến 1945 chấm dứt
cùng với Chiến tranh thế giới thứ hai.
Năm 1945, Triều Tiên bị chia cắt thành hai miền, Liên bang Xô Viết chiếm đóng miền Bắc
cho đến vĩ tuyến 38 và Hoa Kỳ chiếm đóng từ vĩ tuyến 38 về Nam. Vào tháng 11 năm 1947, Liên
Hợp Quốc đã đề ra một giải pháp tiến hành Tổng bầu cử tại Hàn Quốc dưới sự hỗ trợ của một Ủy
ban Liên Hợp Quốc. Nhưng Liên bang Xô Viết đã khước từ việc tuân theo giải pháp này và từ chối
những ảnh hưởng của Ủy ban Liên Hợp Quốc đối với nửa phía Nam của bán đảo. Hội đồng Liên
Hợp Quốc sau đó đã đưa ra một giải pháp khác kêu gọi bầu cử tại các địa phương với sự giúp đỡ
của Ủy ban Liên Hợp Quốc. Những cuộc bầu cử đầu tiên được tiến hành vào tháng 5 năm 1948 ở
những tỉnh nằm ở phía Nam vĩ tuyến 38. Điều này dẫn tới việc thành lập hai chính phủ riêng biệt ở
miền Nam và miền Bắc, Cộng hoà Triều Tiên (Hàn Quốc) ở phía Nam và sau đó CHDCND Triều
Tiên ở phía Bắc mỗi bên đều tuyên bố mình là chính phủ hợp pháp của toàn bộ lãnh thổ Triều Tiên.
Căng thẳng tăng lên giữa hai chính phủ ở miền Bắc và miền Nam cuối cùng dẫn tới Chiến tranh
Triều Tiên, Hoa Kỳ và Liên Hiệp Quốc hậu thuẫn miền Nam, còn đứng sau miền Bắc là Liên Xô và
Trung Quốc. Cuộc chiến kéo dài tới ngày 27 tháng 7 năm 1953 mới kết thúc, khi lực lượng Liên
Hiệp Quốc và Quân đội Nhân dân Triều Tiên cùng Quân tình nguyện Nhân dân Trung Quốc ký kết

Thoả thuận đình chiến Chiến tranh Triều Tiên đã làm cho bán đảo Triều Tiên bị chia cắt thành hai
quốc gia cho đến ngày nay. CHDCND Triều Tiên tiếp tục theo đuổi sự nghiệp thống nhất đất nước
trên cơ sở lập luận một quốc gia Triều Tiên, không công nhận chính phủ ở miền Nam và chọn con
đường thống nhất đất nước bằng cách mạng xã hội chủ nghĩa, còn Hàn Quốc coi chính phủ của
mình là thực thể hợp pháp trên bán đảo Triều Tiên và sự thống nhất là sự mở rộng chủ quyền quốc
gia.
Những quan điểm cứng nhắc, không nhân nhượng của hai miền khiến cho quá trình hòa giải
giữa hai bên không thể thực hiện được cho đến tận thập niên 1960. Đến thập niên 1970 quan hệ hai
bên dần được cải thiện, hai bên công nhận chính phủ của nhau, Hàn Quốc đã đầu tư kinh tế và là
nước chủ yếu viện trợ lương thực giúp Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Triều Tiên vượt qua nạn đói
thập niên 1990 thông qua chương trình lương thực Thế giới của Liên Hiệp Quốc. Hiện nay Triều
Tiên là dân tộc còn lại duy nhất trên thế giới có đất nước bị chia cắt , Hàn Quốc và CHDCND Triều
Tiên đã cùng gia nhập tổ chức Liên Hiệp Quốc vào tháng 9 năm 1991. Nhờ thành công của chính
sách ngoại giao, nền tảng cho vấn đề cùng tồn tại hòa bình giữa hai miền Triều Tiên đã được thiết
lập tháng 12 năm 1991 khi hai bên ký Hiệp định Hòa giải, Không xâm lược, Giao lưu và Hợp tác ;
Tuyên bố chung về phi hạt nhân hóa trên Bán đảo Triều Tiên. Những văn kiện mang tính lịch sử
này đã đặt nền tảng cho hòa bình trên bán đảo Triều Tiên cũng như khu vực Đông Bắc Á, đồng thời
thể hiện một bước tiến quan trọng đầu tiên để tiến tới việc thống nhất trong hòa bình của hai miền
Triều Tiên.
Sau chiến tranh lạnh, Hàn Quốc đã trải qua nhiều Tổng thống và kèm theo nó là sự thay đổi
chính quyền. Đó là các Tổng thống: Tổng thống Roh Tae Woo (1988 – 1993); Tổng thống Kim
Young Sam (1993 – 1998); Tổng thống Kim Dae Jung (1998- 2003); Tổng thống Roh Moo-hyun
(2003 – 2008) và hiện nay đang là thời kỳ nắm quyền của Tổng thống Lee Myung-bak. Từ năm
1948 đến 1988, Hàn Quốc nằm dưới chế độ độc tài, nền dân chủ bị bóp méo. Từ 1988 đến nay, Hàn
Quốc đã chuyển sang một xã hội dân chủ, hội nhập với thế giới.
1. 2. 2. Vị trí, vai trò của Hàn Quốc đối với khu vực và thế giới
1. 2. 2. 1. Đối với khu vực
Hàn Quốc là một quốc gia với diện tích không rộng lớn và bị chiến tranh tàn phá nặng nề sau
chiến tranh Triều Tiên (1950 – 1953), từ đống tro tàn do chiến tranh để lại, Hàn Quốc đã đi lên và
xây dựng đất nước mình thành một con rồng của Châu Á.

Từ trước thập niên 60 của thế kỷ XX, Hàn Quốc là một nước chưa phát triển. Chủ yếu là dựa
vào viện trợ từ bên ngoài và trọng nhất là Hoa Kỳ. Kể từ năm 1962, Hàn Quốc đã áp dụng chính
sách phát triển kinh tế theo định hướng xuất khẩu và tích cực tham gia vào thương mại quốc tế.
Kinh tế Hàn Quốc đã bắt đầu phát triển nhanh chóng, đến giữa thập niên 80 của thế kỷ XX, Hàn
Quốc đã trở thành một trong những nước công nghiệp mới (NICs). Từ ba thập niên cuối thế kỷ XX
trở lại đây, Hàn Quốc đã đạt được những thành tựu hết sức to lớn, được thế giới biết đến với Kỳ tích
sông Hàn. “Trong suốt 30 năm, từ 1962 đến 1992, Hàn Quốc đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế bình
quân hàng năm là 9 %. Năm 1996, GDP tính theo đầu người của Hàn Quốc đạt 11 385 USD, Hàn
Quốc trở thành nước thứ hai ở Châu Á gia nhập tổ chức OECD”[ 23, 51].
Ngày nay, Hàn Quốc là nước công nghiệp phát triển và có vị thế cao trong khu vực. Cùng
với các nước lớn, Hàn Quốc có vai trò quan trọng trong việc giải quyết các vấn đề căng thẳng trên
bán đảo Triều Tiên, đặc biệt là Chính sách Ánh dương được thế giới biết đến của Tổng thống Kim
Dae Jung. Bên cạnh đó, do có những thuận lợi về mặt địa lý đã đưa lại cho Hàn Quốc một vai trò
quan trọng trong việc hợp tác kinh tế với các nước như Trung Quốc, Nhật Bản, ASEAN…
1. 2. 2. 2. Đối với thế giới
Năm 1945, Hàn Quốc được xem là quốc gia kém phát triển, nhưng sau Chiến tranh Triều
Tiên, kinh tế Hàn Quốc phát triển với tốc độ nhanh chóng, đến giữa thập niên 1980 đã trở thành một
trong những nước công nghiệp hóa mới (NICs) và đến năm 1996 trở thành quốc gia có nền công
nghiệp lớn trên thế giới. “Năm 1996, GDP của Hàn Quốc là 468 tỷ USD, Hàn Quốc là nước đứng
thứ 11 trong số các quốc gia hoạt động thương mại lớn nhất thế giới”[53, 36], sự thành công trong
phát triển kinh tế của Hàn Quốc đã tạo ra Kỳ tích sông Hàn. Là nền kinh tế lớn thứ 11 thế giới,
trong năm 2005, giá trị thương mại Hàn Quốc đạt tới 545 tỷ USD, đứng 12 trên thế giới. Hàn Quốc
cũng có nguồn dữ trữ ngoại tệ lớn thứ tư thế giới, sự tăng trưởng kinh tế của Hàn Quốc gồm những
ngành công nghiệp then chốt và đã được thế giới thừa nhận. Là quốc gia đóng tàu lớn nhất thế giới,
đứng thứ 3 thế giới đối với chất bán dẫn, đứng thứ 4 về hàng điện tử, may mặc, sắt thép và các sản
phẩm hóa dầu của Hàn Quốc đứng thứ 5, ô tô đứng hàng thứ 6.
Hàn Quốc đặc biệt quan tâm đến tăng cường quan hệ kinh tế không chỉ với các quốc gia công
nghiệp phát triển, mà với cả các quốc gia đang phát triển, với Việt Nam là một trường hợp điển
hình. Là một trong bốn con rồng Châu Á, Hàn Quốc đã phát triển mạnh mẽ trên các lĩnh vực: Công
nghiệp, thương mại, khoa học kỹ thuật, văn hóa – giáo dục… Vì vậy, nền kinh tế Hàn Quốc đã trổi

dậy nhanh chóng trong vòng gần bốn thập kỷ qua.
Về chính trị, Hàn Quốc vẫn là nước có vị trí chính trị và tiếng nói quan trọng trên trường quốc tế.
Trong cuộc chiến tranh lạnh, vì sự đối đầu Đông – Tây sâu sắc, nên Hàn Quốc được xem là là thành
viên của khối phương Tây. Hàn Quốc đã tăng cường quan hệ với các đồng minh truyền thống và các
nước thuộc thế giới thứ ba. Năm 1991, Hàn Quốc gia nhập Liên Hợp Quốc, đến năm 2002, Hàn Quốc
đóng vào ngân sách Liên Hợp Quốc là 21 triệu USD, xếp thứ 10 trong các nước thành viên. Là quốc gia
tích cực mở rộng các mối quan hệ và hoạt động ngoại giao đa phương tương xứng với vị trí trong cộng
đồng quốc tế. Hàn Quốc đã hoạt động tích cực trong các cơ quan chuyên ngành của các tổ chức như
Quỹ tiền tệ Quốc tế (IMF), Ngân hàng Tái thiết và Phát triển Quốc tế (IBRD), Tổ chức Phát triển Công
nghiệp Liên hợp quốc (UNIDO), Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa (UNESCO), các tổ chức,
diễn đàn quốc tế khác như APEC, ARF, ASEM, WTO… và hiện nay Vị Tổng thư ký Liên Hợp Quốc
Ban Ki Moon lại là người Hàn Quốc, điều đó làm cho nước này càng có tiếng nói quan trọng hơn trong
các vấn đề quốc tế. Hàn Quốc đã góp phần vào phát động chương trình Đại sứ thiện chí, tích cực tham
gia các vấn đề lớn do Liên Hợp Quốc tổ chức. Tính đến năm 2005, Hàn Quốc đã thiết lập quan hệ
ngoại giao với 186 quốc gia, có 95 Đại sứ quán, 31 Lãnh sự quán trên toàn thế giới.
1. 2. 2. 3. Vị trí của Hàn Quốc trong chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ
Sau chiến tranh lạnh, do bị ảnh hưởng của Chiến tranh Việt Nam và việc rút quân ở Đài
Loan, Philippin nên sự chi phối của Hoa Kỳ ở Đông Nam Á bị suy giảm, điều này càng làm nổi bật
giá trị chiến lược của khu vực Đông Bắc Á. Từ đó Hoa Kỳ đã lấy Đông Bắc Á làm điểm tựa chiến
lược kiểm soát toàn bộ khu vực Đông Á. Mục tiêu hàng đầu mà Hoa Kỳ đưa ra là bảo vệ lợi ích
kinh tế và mở rộng lợi ích chính trị tại khu vực này.
Bán đảo Triều Tiên là một khâu rất quan trọng trong chiến lược Đông Bắc Á của Hoa Kỳ, tầm
quan trọng của bán đảo Triều Tiên không chỉ đơn giản ở chỗ nó là lô cốt đầu cầu kiểm soát khu vực
Đông Á, mà điều quan trọng hơn là bán đảo Triều Tiên có thể là lý do để Hoa Kỳ tham gia vào công
việc của khu vực Đông Bắc Á và trở thành lá chắn bảo vệ đồng minh chiến lược Nhật Bản. Do đó đã
hình thành khuôn khổ cơ bản trong chính sách của Hoa Kỳ đối với bán đảo Triều Tiên, đó là Hoa Kỳ hy
vọng bán đảo Triều Tiên ở trạng thái không ổn định với mức độ nhất định nằm trong sự kiểm soát của
mình, vì Hoa Kỳ hiểu rằng nếu bán đảo Triều Tiên thống nhất ở bất kỳ hình thức nào sẽ đều khiến Hoa
Kỳ đứng trước nguy cơ mất đi cơ sở chiến lược ở Đông Bắc Á. Nhìn từ góc độ lịch sử văn hóa và địa -
chính trị, một bán đảo Triều Tiên thống nhất không có lý do gì để đồng hành cùng với chiến lược của

Hoa Kỳ hoặc có thể thoát ly khỏi quỹ đạo chiến lược Đông Bắc Á của Hoa Kỳ.
So với các nước khác ở khu vực Đông Á, Hàn Quốc nằm ở vị trí khá quan trọng, nằm gần
với các nước lớn như Trung Quốc, Liên Bang Nga, Nhật Bản và Hoa Kỳ. Từ Hàn Quốc, có thể
khống chế được toàn bộ vùng Đông Bắc Á, tiến lên Liên Bang Nga, xuống Đông Nam Á. Hàn Quốc
có ý nghĩa lớn về mặt chiến lược quân sự, giao thông, thương mại… là lá chắn che chở Nhật Bản
trước sự ảnh hưởng trực tiếp từ các cường quốc xung quanh. Vì vậy, đây là một trong những địa
điểm được Hoa Kỳ rất quan tâm để trở thành tiền đồn quan trọng trong việc thực hiện chiến lược
toàn cầu của mình.
Hoa Kỳ quan tâm đến bán đảo Triều Tiên từ rất sớm, đặc biệt là sau Chiến tranh thế giới thứ hai.
Trong thời kỳ Chiến tranh lạnh, Hàn Quốc là một đồng minh thân cận, là một địa bàn có ý nghĩa chiến
lược trên các mặt chính trị, quân sự, kinh tế của Hoa Kỳ. Sau Chiến tranh lạnh, Hàn Quốc vẫn là một đồng
minh truyền thống; Vì thế, việc xác định vị trí chiến lược của Hàn Quốc là nhân tố có tính quyết định đối
với mối quan hệ Hoa Kỳ - Hàn Quốc trong hiện tại cũng như trong tương lai.
1. 3. Quan hệ Hoa Kỳ - Hàn Quốc trước năm 1991
1. 3. 1. Bối cảnh quốc tế và khu vực thời kỳ sau Chiến tranh thế giới
thứ hai
1. 3. 1. 1. Bối cảnh quốc tế
Vào giai đoạn cuối của cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai, phe Phát xít đang đứng trước thất
bại, các nước trong phe đồng minh xuất hiện mâu thuẫn gay gắt về các vấn đề như kết thúc chiến
tranh ở Châu Âu, Châu Á – Thái Bình Dương, vấn đề tổ chức lại trật tự thế giới sau khi chiến tranh
kết thúc, vấn đề phân chia khu vực đóng quân theo chế độ quân quản ở các nước phát xít bại trận và
phân chia phạm vi thế lực giữa các nước tham chiến. Để giải quyết các vấn đề trên, lãnh đạo ba
cường quốc là Hoa Kỳ, Anh và Liên Xô đã tổ chức họp tại Ianta vào tháng 2 - 1945. Hội nghị đã đi
đến các thỏa thuận sau: Tiêu diệt tận gốc chủ nghĩa phát xít Đức và Nhật, nhanh chóng kết thúc
chiến tranh ở Châu Âu, sau đó Liên Xô sẽ tham gia chiến tranh chống Nhật ở Châu Á – Thái Bình
Dương. Thành lập tổ chức Liên Hợp Quốc để giữ gìn hòa bình, an ninh và trật tự thế giới. Hội nghị
còn quy định việc đóng quân tại các nước nhằm giải giáp quân đội phát xít và phân chia phạm vi
ảnh hưởng ở Châu Âu. Những điều kiện để Liên Xô tham gia chiến tranh chống Nhật như công
nhận nền độc lập của Mông Cổ, trả lại Liên Xô những quyền lợi của đế quốc Nga ở Viễn Đông,
Liên Xô chiếm bốn đảo Curin, miền Bắc Triều Tiên, Hoa Kỳ chiếm đóng Nhật Bản và Nam Triều

Tiên… Những quyết định tại Hội nghị Ianta trở thành khuôn khổ của trật tự thế giới mới, được gọi
là trật tự Ianta.
Sau khi chiến tranh kết thúc lại nổi lên vấn đề Đức và vấn đề kết thúc chiến tranh ở Nhật
Bản. Do đó, lãnh đạo ba nước Hoa Kỳ, Anh và Liên Xô lại gặp nhau ở Pôtxđam (Đức) và đã đi đến
các quyết định tiêu diệt tận gốc chủ nghĩa phát xít Đức, chủ quyền của Nhật Bản được trở lại đất
Nhật Bản chính thống.
Như vậy, sau chiến tranh thế giới thứ hai, một trật tự thế giới được hình thành trên cơ sở
những thỏa thuận của ba cường quốc, chủ yếu là hai cường quốc Liên Xô và Mỹ chi phối, từ đó
hình thành trật tự hai cực Xô – Mỹ. Cuộc đối đầu căng thẳng giữa hai hệ thống tư bản chủ nghĩa và
xã hội chủ nghĩa mà đứng đầu là Liên Xô và Mỹ là nhân tố quan trọng nhất chi phối các quan hệ
quốc tế, đồng thời là sợi chỉ đỏ xuyên suốt chính sách đối ngoại của các nước sau này.
Trật tự hai cực Xô – Mỹ chịu ảnh hưởng nặng nề bởi cuộc Chiến tranh lạnh do Mỹ và các
nước đế quốc đứng đầu gây ra. Trật tự này thường xuyên đặt trong tình trạng căng thẳng của sự đối
đầu Đông – Tây, sự đối đầu của hai hệ thống xã hội đối lập nhau về mục tiêu đấu tranh, biểu hiện rõ
nhất là cuộc chạy đua vũ trang giữa Mỹ và Liên Xô, những cuộc chiến tranh cục bộ diễn ra nhiều
nơi như ở Trung Đông, Đông Nam Á. Các khối quân sự của hai phe được hình thành, tiêu biểu là
khối quân sự NATO và VACSAVA, hai khối tăng cường chạy đua vũ trang, làm cho thế giới trở
nên căng thẳng, phức tạp. Đến đầu những năm 70 của thế kỷ XX, quan hệ Xô – Mỹ có bước cải
thiện đáng kể. Tháng 5 năm 1972, Tổng thống Mỹ R. Nich xơn đến thăm Liên Xô, hai bên bước
đầu đã ký các văn kiện quan trọng, như Hiệp ước hạn chế phòng thủ chống tên lửa (ABM), Hiệp
định hạn chế vũ khí tiến công chiến lược (SALT-1). Đến năm 1974, hai nước bổ sung Hiệp ước
ABM, tiếp tục ký SATL-2. Điều này tạo nên thế cân bằng chiến lược về lực lượng hạt nhân của hai
siêu cường, tránh được cuộc chiến tranh hạt nhân và hạn chế việc chạy đua vũ trang. Đến năm 1981,
quan hệ Xô – Mỹ lại trở nên căng thẳng do Tổng thống Mỹ R. Rigân đề ra học thuyết quân sự
“Phản ứng linh hoạt mới” nhằm chạy đua vũ trang, khôi phục vị trí đứng đầu thế giới. Năm 1985,
hai cường quốc Xô – Mỹ chuyển sang đối thoại, các cuộc gặp cấp cao được diễn ra, đặc biệt là cuộc
gặp lịch sử tháng 12 năm 1989 giữa M. Goocbachop và G. Bush (cha) tại đảo Manta (Địa Trung
Hải). Lãnh đạo hai nước đã tuyên bố tăng cường hợp tác để giải quyết các vấn đề quốc tế, không coi
nhau là kẻ thù… Đây là cuộc gặp quan trọng, thu hút được sự chú ý đặc biệt của dư luận thế giới và
được coi là thời điểm kết thúc chiến tranh lạnh.

1. 3. 1. 2. Tình hình khu vực
Tại Châu Á, hội nghị Ianta đã giải quyết các vấn đề về Nhật Bản, quyền lợi của Liên Xô ở
Châu Á. Vấn đề phân chia bán đảo Triều Tiên. Về phía Trung Quốc tiến tới thành lập chính phủ liên
hiệp; Mỹ và Liên Xô cùng có quyền lợi tại Trung Quốc, các vùng còn lại vẫn thuộc phạm vi ảnh
hưởng của các nước Phương Tây.
Sự thỏa thuận của các nước lớn đã xâm phạm tới chủ quyền, lãnh thổ của nhiều nước. Tại
Châu Á, Mỹ đã khống chế được Nhật Bản, phía Nam bán đảo Triều Tiên. Nhật Bản trở thành nước
lệ thuộc Mỹ và trở thành căn cứ quân sự chính yếu của Mỹ. Tháng 9 năm 1951, Mỹ và Nhật ký
Hiệp ước hòa bình San Phranxitcô, tiếp đến là ký Hiệp ước an ninh Mỹ - Nhật đã cho phép Mỹ đem
lực lượng vũ trang vào Nhật. Hiệp ước an ninh Mỹ - Nhật nhằm duy trì hòa bình thế giới và an ninh
Viễn Đông, nhưng thực chất đã chính thức hóa việc thiết lập các căn cứ quân sự của Mỹ tại Nhật
Bản, nhằm để sử dụng Nhật khống chế Liên Xô. Ngoài ra Mỹ còn thiết lập liên minh quân sự với
các nước khác như Mỹ - Hàn Quốc, Mỹ - Philippin, Mỹ - Đài Loan, đặc biệt là lập ra khối SEATO
ngày 8 - 9 - 1954.
Sau thắng lợi của Liên Xô trong cuộc chiến chống phát xít đã tạo điều kiện cho Trung Quốc,
Việt Nam, miền Bắc Triều Tiên… đấu tranh giành độc lập và dẫn đến sự thành lập các nhà nước
dân chủ nhân dân. Sự đối đầu Đông – Tây diễn ra gay gắt, phức tạp, khu vực bán đảo Triều Tiên là
một địa bàn chiến lược quan trọng đối các cường quốc như Mỹ - Nhật, Xô – Trung nên cũng nằm
trong guồng quay phức tạp đó.
Từ lâu Triều Tiên là thuộc địa của Nhật Bản, vào năm 1919, phong trào đấu tranh giành độc
lập của người Triều Tiên bắt đầu. Đến khi chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, Triều Tiên được giải
phóng khỏi ách thống trị của Nhật, ngày 15 – 08 – 1945, quân đội Liên Xô cùng với nhân dân Triều
Tiên đã tiêu diệt đội quân Quan Đông, giải phóng miền Bắc Triều Tiên. Trong các tháng 8, 9 năm
1945, nhân dân hai miền Nam, Bắc Triều Tiên đã nổi dậy lật đổ thế lực phản động, thành lập các Ủy
ban nhân dân. Theo sự thỏa thuận tại Hội nghị Ianta, Triều Tiên bị chia cắt thành hai miền lấy ranh
giới theo vĩ tuyến 38
0
. Miền Bắc thuộc quyền quân quản của Liên Xô, còn miền Nam thuộc về Mỹ.
Cũng tại khu vực Đông Á là nơi có Trung Quốc và Việt Nam theo con đường Chủ nghĩa Xã hội, sau
năm 1947, để thực hiện học thuyết Đôminô Hoa Kỳ đã xây dựng Hàn Quốc và Nhật Bản để trở

thành đồng minh thân cận của mình.
1. 3. 1. 3. Chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ sau Chiến tranh thế giới thứ hai
Trước năm 1945, Hoa Kỳ lấy danh hiệu dân chủ và chống thực dân để thi hành chính sách
đối ngoại, từ năm 1889 đến 1941 xu hướng can thiệp đã nổi trội trong giới lãnh đạo Hoa Kỳ, đến
sau Chiến tranh thế giới thứ hai, xu hướng đó tiếp tục được thi hành. Chính sách đối ngoại toàn cầu
của Hoa Kỳ sau năm 1945 dựa trên thế mạnh kinh tế và quân sự, Hoa Kỳ xác lập được quyền bá chủ
không tranh cãi đối với Phương Tây, nhiệm vụ “Sen đầm quốc tế” của Hoa Kỳ là tìm mọi cách
khuất phục các nước xã hội chủ nghĩa và tăng cường ảnh hưởng của Hoa Kỳ đối với phần còn lại
của thế giới.
Sau chiến tranh thế giới thứ hai, Thủ tướng Anh cùng Tổng thống Mỹ Truman đã chính thức phát
động cuộc chiến tranh lạnh chống các nước xã hội chủ nghĩa, khống chế các nước phương Tây và thực
hiện tham vọng bá chủ toàn cầu, đây là đường lối đối ngoại nhất quán của Mỹ sau chiến tranh thế giới thứ
hai. Tháng 3 năm 1947 tại Quốc hội Mỹ, Tổng thống Truman chính thức phát động Chiến tranh lạnh
chống lại Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa, đàn áp cách mạng thế giới. Mỹ đưa ra học thuyết “Ngăn
chặn chủ nghĩa cộng sản”, đồng thời thực hiện “Kế hoạch Macsan” với mục đích khôi phục kinh tế Châu
Âu, thành lập khối quân sự NATO.
Chính sách đối ngoại toàn cầu của Hoa Kỳ được thực hiện dựa trên sự lớn mạnh của một
nước dân chủ và sứ mệnh mới của Hoa Kỳ là gánh vác cuộc đấu tranh chống lại chế độ độc tài trên
thế giới. Sau chiến tranh thế giới thứ hai, Mỹ từng bước hình thành hệ thống liên minh từ Châu Âu
– Đại Tây Dương đến Châu Á – Thái Bình Dương nhằm mục đích tiêu diệt Liên Xô, ngăn chặn chủ
nghĩa cộng sản. Mỹ đã chi cho quân sự với khoản tài chính khổng lồ, viện trợ quân sự cho các nước
thành viên khối NATO, SEATO cùng các đồng minh khác. Chiến lược toàn cầu “Ngăn chặn” của
Mỹ nhằm chống Liên Xô và Chủ nghĩa Cộng sản, đồng thời phát triển nước Mỹ lớn mạnh cả về
kinh tế, chính trị và quân sự, để làm chổ dựa trở thành nước đứng đầu thế giới tư bản. Chiến lược
“Ngăn chặn” của Hoa Kỳ đã qua nhiều lần điều chỉnh qua các đời Tổng thống khác nhau từ năm
1947 đến 1991. Nhưng mục tiêu xuyên suốt trong chính sách đối ngoại vẫn là thống trị thế giới và
tiêu diệt chủ nghĩa cộng sản.
Trong thời kỳ chiến tranh lạnh, Hoa Kỳ đã thực hiện hai chiến lược toàn cầu, đó là chiến
lược quân sự “Trả đũa ồ ạt” và “Phản ứng linh hoạt” cùng với học thuyết răn đe. Trong giai đoạn
từ 1948 đến 1960, chiến lược trả đũa ồ ạt được thực hiện trong điều kiện Hoa Kỳ có tiềm lực lớn về

kinh tế và quân sự, đặc biệt là vũ khí nguyên tử. Chiến lược ngăn chặn của Hoa Kỳ được thực hiện
trên tất cả các lĩnh vực và quan trọng nhất là về quân sự và tư tưởng, để triển khai chiến lược đó,
Hoa Kỳ xây dựng các liên minh và căn cứ quân sự khắp toàn cầu, thường xuyên cấm vận, bao vây,
xâm lược các nước xã hội chủ nghĩa.
1. 3. 2. Quan hệ Hoa Kỳ - Triều Tiên từ 1945 đến 1948
Năm 1948, Nhà nước Hàn Quốc ra đời và mối quan hệ quan hệ Hoa Kỳ - Hàn Quốc chính
thức được thành lập. Nhưng trước năm 1948, Hoa Kỳ đã có mối quan hệ với bán đảo Triều Tiên,
lịch sử mối quan hệ đó đã có từ khá lâu và sự kiện được xem là mở đầu là vào ngày 22/05/1882, hai
nước đã ký Hiệp ước Hòa bình, Hữu nghị, Thương mại và Hàng hải, đây là hiệp ước xuất phát từ
lợi ích của cả hai nước và là hiệp ước đầu tiên của Triều Tiên ký với một nước phương Tây. Ngay
từ những năm 1830, Hoa Kỳ đã có mong muốn quan hệ với Triều Tiên, đồng thời Triều Tiên cũng
muốn có mối quan hệ với các cường quốc bên ngoài, trong đó có Hoa Kỳ. Vào những năm cuối TK
XIX, mối quan hệ Hoa Kỳ - Triều Tiên diễn ra tốt đẹp. Từ năm 1882 đến 1895, nhiều nhà kinh
doanh Hoa Kỳ đến Triều Tiên để đầu tư, buôn bán. Hoa Kỳ là nước dẫn đầu về các ngành kinh tế
đang phát triển ở Triều Tiên như ngành điện, khai mỏ… Chẳng hạn, người Mỹ đã quản lý và khai
thác mỏ vàng tại Unsan, bên cạnh đó nhà máy điện đầu tiên cũng được xây dựng bởi công ty
Edison Electric của Mỹ vào năm 1885. Việc buôn bán giữa hai nước đã có bước phát triển “Từ
tháng 5 năm 1883 đến tháng 5 năm 1884, các công ty Mỹ đã nhập khẩu vào Triều Tiên hàng hóa
như vũ khí, trang trí nội thất với trị giá đạt 170 000 USD. Năm 1893, một dự án điện chiếu sáng ở
Hoàng cung cũng được lắp đặt với trị giá là 47 000 USD. Tổng giá trị mà Triều Tiên nhập từ Mỹ là
khoảng 10 %, trong đó dầu lửa là mặt hàng lớn nhất. Ngoài ra, Triều Tiên cũng xuất khẩu sang Mỹ
một số mặt hàng nhưng chiếm tỷ lệ thấp” [41, 11].
Trong chiến lược đối ngoại của Hoa Kỳ rất coi trọng Philippin. Vì vậy, ngày 27/07/1905,
Hoa Kỳ và Nhật Bản đã ký thỏa thuận về Philippin, Viễn Đông và Triều Tiên. Thỏa thuận này đã có
sự hoán đổi, Hoa Kỳ thừa nhận quyền ảnh hưởng của Nhật Bản tại Triều Tiên, thay vào đó Nhật
Bản đồng ý để Hoa Kỳ tự do hoạt động tại Philippin. Sau sự kiện này, đa số các thương nhân Hoa
Kỳ đã rút khỏi Triều Tiên.
Trong giai đoạn Nhật Bản thống trị Triều Tiên từ 1910 đến 1945, quan hệ Hoa Kỳ - Triều
Tiên vẫn tiếp tục diễn ra nhưng chủ yếu trên lĩnh vực thương mại. Các hoạt động thương mại của
Hoa Kỳ thời kỳ này chủ yếu diễn ra qua trung gian là Nhật Bản.

Bảng 1. 1: Quan hệ buôn bán giữa Triều Tiên với Mỹ từ năm 1910 – 1936
Đơn vị : Nghìn USD
Năm Xuất khẩu Nhập khẩu
1910 305 (1,7)

3.024 (7,6)
1912 96 6.459 (9,6)
1914 92 (0,3) 6.127 (9,6)
1916 964 (1,7) 6.551 (8,8)
1918 116 (0,08) 10.341 (6,5)
1919 366 (0,15) 24.812 (8,6)
1934 312 5.083
1935 546 7.547
1936 993 (0,17) 9.151 (1,2)
Nguồn: Dẫn theo [ 41, 13]
Nhìn chung, việc buôn bán giữa hai nước chiếm tỷ lệ còn thấp (bảng 1.1). Chẳng hạn, năm
1910, Triều Tiên xuất khẩu sang Hoa Kỳ đạt 305 triệu USD (chiếm 1,7 %), nhập khẩu đạt 3.024
triệu USD (chiếm 7,6 %). Đến năm 1936, Triều Tiên xuất đạt 993 triệu USD (chiếm 0,17%), nhập
đạt 9.151 triệu USD (chiếm 1,2%). Cán cân buôn bán giữa hai nước không cân đối, Triều Tiên chủ
yếu là nhập siêu, còn giá trị hàng hóa xuất khẩu sang Hoa Kỳ còn rất ít.
Quan hệ Hoa Kỳ - Triều Tiên trước năm 1945, nhìn chung còn mang đặc điểm của sự khởi đầu
một mối quan hệ lâu dài. Trên lĩnh vực chính trị - văn hóa chưa có gì ấn tượng, chủ yếu trên lĩnh vực
kinh tế thông qua việc buôn bán giữa hai nước.
Từ năm 1945 đến 1948, khi chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, các cường quốc đã bàn về
vấn đề Triều Tiên. Kể từ sự kiện Trân Châu cảng tháng 12 năm 1941, Hoa Kỳ chú trọng ngày càng
nhiều đối với bán đảo Triều Tiên. Ngay trong thời gian của cuộc chiến tranh thế giới, tại Hội nghị
Cairô – Ai Cập tháng 11/1943, Hoa Kỳ đã cam kết về tương lai của bán đảo Triều Tiên. Anh, Hoa
Kỳ và Trung Quốc đã tuyên bố rằng “trong thời gian thích hợp” Triều Tiên sẽ được tự do và độc
lập. Tại Hội nghị Ianta tháng 2 năm 1945, Hoa Kỳ đã thuyết phục Liên Xô chấp nhận chế độ quản
thác tạm thời và trì hoãn quá trình độc lập của Triều Tiên. Vì Hoa Kỳ sợ rằng, khi Nhật Bản bại trận

Liên Xô sẽ lợi dụng cơ hội đó để gây ảnh hưởng tại khu vực Đông Bắc Á. Thỏa thuận Maxcơva
được ký kết năm 1945 đã xác lập chế độ quản thác trên bán đảo Triều Tiên, theo đó, Hoa Kỳ tiếp
quản phía Nam bán đảo Triều Tiên theo vĩ tuyến 38
0
. Vì vậy, Hoa Kỳ đã có điều kiện thuận lợi để
chi phối tình hình trên bán đảo Triều Tiên.
Trong chiến lược toàn cầu, để thực hiện được mục đích đề ra, từ năm 1945, Hoa Kỳ đã thực
hiện các chương trình viện trợ kinh tế và quân sự cho phía Nam bán đảo Triều Tiên. Cụ thể, sau
chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, phía Nam bán đảo Triều Tiên nằm dưới sự quản thác của Mỹ,
bên cạnh quân đội đóng quân, các công ty Mỹ đã đến và mở văn phòng chi nhánh tại đây để tìm cơ
hội đầu tư, buôn bán. Chẳng hạn như “Công ty thương mại J. Morse đã mở văn phòng tại Seoul và
Pusan vào năm 1948. Nhiều nhà doanh nghiệp khác đã hùn vốn thành lập công ty Chusun Gold
Mine Company năm 1946”[33, 7]. Tuy vậy, khi cuộc chiến tranh Triều Tiên bùng nổ, các công ty
Hoa Kỳ đã rút khỏi bán đảo này.
Năm 1948, khi nhà nước Đại Hàn Dân Quốc ra đời, mối quan hệ giữa Hoa Kỳ và Hàn Quốc
mới được thiết lập.
1. 3. 3. Quan hệ Hoa Kỳ - Hàn Quốc từ năm 1948 đến trước năm 1991
1. 3. 3. 1. Lĩnh vực an ninh - quân sự
Sau chiến tranh thế giới thứ hai, Hoa Kỳ là siêu cường duy nhất trên thế giới. Nhưng đối
trọng với Hoa Kỳ là Liên Xô đang không ngừng lớn mạnh. Tháng 3 năm 1947, Hoa Kỳ chính thức
phát động cuộc chiến tranh lạnh chống Liên Xô và các nước Xã hội Chủ nghĩa. Trong bối cảnh của
cuộc chiến trạnh lạnh, bán đảo Triều Tiên là một địa bàn chiến lược của các cường quốc, phía Nam
chịu Hoa Kỳ chi phối, phía Bắc do Liên Xô kiểm soát. Vì vậy, bán đảo Triều Tiên chịu tác động
mạnh mẽ của sự đối đầu hai cực Xô – Mỹ.
Trong khu vực Đông Bắc Á, Hàn Quốc là nước nằm ở vị trí khá trung tâm, tiếp giáp với
nhiều nước lớn như Liên Xô (nay là Nga), Trung Quốc, Nhật Bản và Hoa Kỳ. Sự tồn tại nhiều quốc
gia lớn như vậy sẽ đem lại cho Hàn Quốc cảm giác thiếu an toàn, vì vậy, Hàn Quốc đã lựa chọn Hoa
Kỳ là đồng minh thân cận của mình. Vì sao Hàn Quốc lại trở thành đồng minh thân cận của Hoa
Kỳ? Về cơ bản, chúng ta có thể thấy, trước hết, Hoa Kỳ là nước lớn, đứng đầu chủ nghĩa tư bản lúc
bấy giờ và có khả năng đảm bảo an ninh cho đất nước Hàn Quốc khi phải đối mặt với những sức ép

từ các nước lớn xung quanh, đặc biệt là cuộc tấn công từ phía Bắc Triều Tiên. Thứ hai là sau chiến
tranh Triều Tiên, Hàn Quốc là một nước phải đối mặt với nhiều khó khăn về kinh tế - xã hội. Do đó,
Hàn Quốc dựa vào Hoa Kỳ để có điều kiện thuận lợi khôi phục và phát triển kinh tế đất nước. Tiếp
đến, về phía Hoa Kỳ cũng muốn Hàn Quốc là đồng minh thân cận của mình cùng với Nhật Bản tại
khu vực Đông Bắc Á. Mục đích của Hoa Kỳ là xây dựng Hàn Quốc trở thành một căn cứ quân sự
quan trọng để khống chế Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa khác, nhằm bảo vệ lợi ích và đạt
được mục đích chiến lược toàn cầu của mình đặt ra là nhằm thống trị khu vực và thế giới.
Chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ được thực hiện rõ trên bán đảo Triều Tiên, Hoa Kỳ coi
Hàn Quốc là một vùng đệm tại khu vực Đông Bắc Á, là nơi có vai trò quan trọng để củng cố quyền
lực của mình. Vì vậy, tháng 8 năm 1948, dưới sự bảo trợ của Liên Hợp Quốc, Hoa Kỳ đã tích cực
ủng hộ thành lập chính phủ thân Hoa Kỳ do Lý Thừa Vãn (Shyman Rhy) đứng đầu, đến đây mối
quan hệ Hoa Kỳ - Hàn Quốc thực sự được xác lập. Còn ở phía Bắc quốc gia CHDCND Triều Tiên
cũng ra đời và được sự bảo trợ của Liên Xô và Trung Quốc. Do đó, bán đảo Triều Tiên là nơi đấu
đầu căng thẳng của hai cực Xô – Mỹ, hai khối Đông – Tây.
Hàn Quốc là một trong những nơi giữ một vị trí quan trọng hàng đầu trong chính sách ngăn
chặn và kiềm chế Chủ nghĩa Cộng sản tại khu vực. Do vậy, bằng mọi giá, Hoa Kỳ đã đem quân đội
vào Hàn Quốc. Để đảm bảo an ninh cho quân đội, buộc Hoa Kỳ phải tăng cường viện trợ cho Hàn
Quốc trên tất cả các mặt kinh tế, quân sự nhằm thoát ra khỏi những bất ổn do chiến tranh để lại. Sau
khi Lý Thừa Vãn lên làm Tổng thống Hàn Quốc, ông đã cùng với người đứng đầu chính quyền quân
sự Mỹ tại Hàn Quốc là Lt. Gen. John R. Hodge đã ký bản thỏa thuận về việc chuyển giao quyền lực
cho chính phủ mới. Theo bản thỏa thuận, cả hai bên sẽ cùng quan tâm đến việc duy trì an ninh tại
Hàn Quốc. Về phía Hoa Kỳ sẽ tiếp tục tổ chức huấn luyện và trang bị cho lực lượng an ninh Hàn
Quốc cho tới khi hoàn thành việc rút quân của mình. Đến tháng 6 năm 1949, Hoa Kỳ tuyên bố,
ngoại trừ việc rút quân của mình, Hoa Kỳ sẽ tiếp tục viện trợ và trang bị cảnh sát để duy trì nền an
ninh và sự ổn định của Hàn Quốc. Qua sự kiện này, nhìn chung quan hệ an ninh – chính trị của hai
nước bước đầu đã được định hình.
Trong thời gian từ 1945 đến 1948, Hoa Kỳ thấy được vị trí quan trọng của Hàn Quốc nhưng
vẫn chưa coi trọng vị trí của Hàn Quốc đối với an ninh quốc gia và việc bảo vệ Nhật Bản. Về sau,
Hoa Kỳ mới xem đây là vị trí chủ chốt trong tuyến phòng thủ của mình. Từ năm 1948 đến năm
1950, số lượng viện trợ của Hoa Kỳ cho Hàn Quốc chỉ ở một số lượng hạn chế nhất định. Trong

thời gian này, theo sự thỏa thuận cùng với Liên Xô, Hoa Kỳ và Liên Xô sẽ rút quân trong thời hạn 3
năm tính từ ngày chiếm đóng. Như vậy, trong lúc quân đội Hàn Quốc còn yếu thì Hoa Kỳ buộc phải
thực hiện việc rút quân. Xuất phát từ nhận định tình hình khu vực ảnh hưởng đến bán đảo Triều
Tiên lúc này là: Đối với Trung Quốc do vừa bị sự tàn phá của phát xít Nhật nên khó có thể đem
quân đánh Hàn Quốc cùng với miền Bắc, còn đối với Liên Xô thì do vướng bận vào việc khôi phục
kinh tế do chiến tranh tàn phá. Vì vậy, tháng 4 năm 1948, Mỹ đã thông qua quyết định rút tất cả
14.000 quân còn lại ở Hàn Quốc, Để thực hiện quyết định này, Bộ Quốc phòng Mỹ đã trực tiếp chỉ
huy và lực lượng quân sự Mỹ tại Hàn Quốc đã chuẩn bị cho việc rút quân. “Đến tháng 6 năm 1949,
Mỹ đã hoàn thành việc rút quân ra khỏi Hàn Quốc và chỉ để lại một phái đoàn quân sự gồm 500
người”[3, 65].
Với những nhận định tình hình của Mỹ đã không như dự đoán, trong thời gian cuối những
năm 1940 đầu 1950, tình hình khu vực Đông Bắc Á không có lợi cho Hoa Kỳ. Đó là sự thành công
của cách mạng Trung Quốc năm 1949, liên minh Xô – Trung ra đời tháng 2 năm 1950. Năm 1949,
Liên Xô chế tạo thành công bom nguyên tử đã làm phá vỡ thế độc quyền về bom nguyên tử của Mỹ.
Với sự lớn mạnh của Liên Xô và Trung Quốc, Mỹ đã đề ra mục tiêu ngăn chặn Chủ nghĩa Cộng sản
và Phong trào Giải phóng Dân tộc ở Châu Á. Tiếp đến là cuộc chiến tranh Triều Tiên đã làm cho
quan hệ an ninh quân sự Hoa Kỳ - Hàn Quốc thay đổi theo hướng ngày càng mật thiết hơn.
Chiến tranh Triều Tiên không phải là cuộc nội chiến thông thường mà đây là cuộc chiến
tranh có sự tham gia của các nước lớn, là sự đối đầu giữa hai cực Xô – Mỹ, hai khối Đông – Tây,
hai phe Tư bản Chủ nghĩa và Xã hội Chủ nghĩa. Trong suốt cuộc chiến tranh, Hoa Kỳ là đồng minh
lớn nhất, hậu thuẫn chính và đề ra mọi chiến lược cho Hàn Quốc. Chiến tranh Triều Tiên là sự kiện
nằm ngoài dự tính của Mỹ, vì điều này đã được thể hiện trong nội dung bức điện của Đại sứ quán
Mỹ tại Hàn Quốc gửi về Washington “Liên Xô không có khả năng ủng hộ Bắc Triều Tiên tiến hành
cuộc tiến công đối với miền Nam”[3, 66].
Chiến tranh Triều Tiên bùng nổ, Hoa Kỳ đã tăng cường viện trợ quân sự cho Hàn Quốc về việc
tăng số lượng quân đội, vũ khí, đạn dược, thiết bị chiến tranh khác, ngoài ra thông qua Liên Hiệp Quốc
kêu gọi các nước gửi quân tham chiến tại Hàn Quốc chống lại quân đội miền Bắc (khoảng 360 000
người). Hoa Kỳ lo sợ rằng nếu mình thua trong cuộc chiến này thì sẽ mất hết quyền lợi của mình trên
bán đảo Triều Tiên. Vì vậy, mục tiêu của Hoa Kỳ là thống nhất bán đảo dưới quyền của miền Nam, đẩy
lùi ảnh hưởng của Liên Xô và Trung Quốc, tiếp đến là gây sự ảnh hưởng của mình thông qua viện trợ

quân sự cho miền Nam. Nhưng, khi quân tình nguyện Trung Quốc tham chiến, dự tính của Hoa Kỳ đã
không trở thành hiện thực. Cuối cùng, cuộc chiến đã phải ngưng lại khi hai bên ký Hiệp định đình chiến
vào ngày 27/07/1953. Hiệp định đình chiến đã đáp ứng những ý đồ của Hoa Kỳ là bảo vệ lợi ích an ninh
của mình trên bán đảo Triều Tiên và khu vực Châu Á – Thái Bình Dương.
Sau cuộc Chiến tranh Triều Tiên, Hoa Kỳ đã bị tổn thất khá nặng nề, “trên 33 000 ngàn
người bị giết chết và hơn 100 000 ngàn người bị thương” [101, 4]. Mặc dầu vậy, vì lợi ích của mình,
Hoa Kỳ đã tăng cường mối quan hệ an ninh – quân sự với Hàn Quốc. Hai bên đã tiến hành bàn về
nội dung Hiệp định phòng thủ chung. Đến ngày 1/10/1953, Hiệp định phòng thủ chung Hoa Kỳ -
Hàn Quốc được ký kết tại Washington. Đây là Hiệp định ràng buộc mối quan hệ an ninh - quân sự
chặt chẽ của hai nước, và Hoa Kỳ sẽ bảo vệ Hàn Quốc khi bị nước ngoài tấn công. Sau hiệp định
này, hai bên tiếp tục ký thỏa thuận về hợp tác kinh tế và quân sự giữa hai nước. Đây là những căn
cứ pháp lý để Hoa Kỳ tiến hành viện trợ quân sự cho Hàn Quốc. “Từ năm 1955 đến 1960, viện trợ
quân sự của Mỹ cho Hàn Quốc chiếm tới 60 % trong tổng ngân sách chi tiêu quân sự của Hàn Quốc,
vào thời điểm viện trợ cao nhất của Hoa Kỳ lên đến 527,8 triệu USD ”[3, 66] .
Hàn Quốc là một quốc gia có vị trí trọng yếu ở khu vực Đông Bắc Á, là căn cứ quan trọng
của Hoa Kỳ trong việc ngăn chặn sự bành trướng của Chủ nghĩa Cộng sản. Do đó, trong tổng số
viện trợ của Hoa Kỳ cho khu vực Đông Bắc Á, Hàn Quốc chiếm tỷ lệ khá kớn, ví như năm 1958 là
331,1 triệu USD. Từ năm 1948 đến 1950, lĩnh vực phòng thủ và an ninh được hai nước quan tâm
nhất.
Bước sang thập niên 1960, Liên Xô đã đạt được nhiều thành tựu lớn, đặc biệt là về quân sự,
phong trào giải phóng dân tộc diễn ra mạnh mẽ khắp các châu lục. Hoa Kỳ đã thất bại trong chiến
lược “Trả đũa ồ ạt” và buộc phải chuyển đổi chiến lược toàn cầu của mình sang chiến lược “Phản
ứng linh hoạt”. Ngoài ra, Hoa Kỳ còn bổ sung thêm chiến lược hòa bình, tiến hành chiến lược “Cây
gậy và Củ cà rốt” đối với Liên Xô, Hoa Kỳ đã dùng vũ khí hạt nhân làm thế cân bằng với Liên Xô.
Căn cứ vào tình hình và thực lực của mình, Hoa Kỳ đã chủ trương giảm vai trò quân sự ở Châu Á.
Đối với Hàn Quốc, thời gian đầu của thập niên 1960, quan hệ an ninh – chính trị Hoa Kỳ - Hàn
Quốc không giảm xuống, điều này được khẳng định trong cuộc gặp giữa Park Chung Hee và Tổng
thống Hoa Kỳ J. Kennedy vào cuối năm 1961. Thông qua cuộc gặp này, Hoa Kỳ cam kết nhanh
chóng viện trợ cho Hàn Quốc theo những điều khoản được ký kết trong Hiệp ước phòng thủ chung.
Để đổi lại hành động này, Hàn Quốc đã cam kết gửi quân sang tham chiến tại Việt Nam.

Cuộc chiến tranh Việt Nam chịu tác động của mối quan hệ Hoa Kỳ - Hàn Quốc. Trong cuộc kháng
chiến chống Mỹ, miền Nam Việt Nam bị Mỹ thao túng. Mục đích của Mỹ là để chống Cộng sản,
ngăn chặn Chủ nghĩa Cộng sản mở rộng ở châu Á, thực hiện quyền bá chủ thế giới. Miền Nam Việt
Nam và Hàn Quốc là nơi thực thi chủ nghĩa thực dân mới của Mỹ. Sau khi chính quyền của Ngô
Đình Diệm và Lý Thừa Vãn sụp đổ đã được thay thế bởi sự cầm quyền của chế độ độc tài quân
phiệt Nguyễn Văn Thiệu và Park Chung Hee ở hai nước. Khi Mỹ quốc tế hóa chiến tranh ở Việt
Nam, tăng cường viện trợ, nhưng cuộc chiến của Mỹ ngày càng bị sa lầy và đứng trước nguy cơ thất
bại. Năm 1963, Tổng thống J. Kennedy bị ám sát, Tổng thống Jonhson lên thay đã chuyển từ Chiến
tranh Đặc biệt sang Chiến tranh Cục bộ, đưa quân viễn chinh Mỹ, các nước Chư hầu và Đồng
minh của Mỹ vào tham chiến tại chiến trường miền Nam Việt Nam.
Lúc đó, Park Chung Hee đã đề nghị gửi quân sang Việt Nam nhằm mục đích là để phô
trương thanh thế, lấy được sự ủng hộ, viện trợ của Mỹ. Từ tháng 9- 1964, Hàn Quốc bắt đầu gửi
quân và kéo dài cho đến tận tháng 3 – 1973. Trong thời gian này, bên cạnh Hàn Quốc bình thường
hóa quan hệ với Nhật Bản, sự việc Hàn Quốc gửi quân tham chiến sang tham chiến cùng với quân
Mỹ tại miền Nam Việt Nam là một sự kiện tiêu biểu trong lĩnh vực ngoại giao của nước này. Trong
số quân đội các nước Chư hầu của Mỹ tham chiến như Thái Lan, Philippin, Australia… thì quân đội
Hàn Quốc chiếm số đông nhất và cũng dã man nhiều nhất. “Tổng thống Park Chung Hee đã đáp
ứng yêu cầu của Mỹ, đã đưa 5 sư đoàn quân Nam Triều Tiên với khoảng 40 vạn lượt người tham
chiến ở Nam Việt Nam”[10, 70]. Tổng thống Park cho rằng, hành động gửi quân sang tham chiến ở
Việt Nam là để đền đáp công ơn của Mỹ đã giúp Hàn Quốc trong cuộc chiến năm 1950-1953, đồng
thời làm cho mối quan hệ hai nước trở nên thân thiết hơn. Trong suốt cuộc chiến tranh Việt Nam,
Mỹ muốn tìm những nhà thầu cho các công trình xây dựng tại Việt Nam, các công ty Hàn Quốc lúc
đó vốn đã có kinh nghiệm làm ăn với công ty Mỹ là những công ty trúng thầu nhiều nhất và thu
được nhiều lợi nhuận. Cuộc chiến tranh Việt Nam đã đem lại hậu quả tiêu cực cho Hàn Quốc như
con em mình phải đổ máu phi nghĩa, nhưng bên cạnh đó lại tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển
kinh tế, giải quyết vấn đề xã hội của Hàn Quốc. Đây là lần đầu tiên Hàn Quốc tham chiến ở nước
ngoài , vì vậy nó trở thành vấn đề nổi bật trong lịch sử hiện đại Hàn Quốc. Trong quá khứ, Việt
Nam và Hàn Quốc vốn có quan hệ tốt đẹp, thế nhưng Chính quyền Park Chung Hee đã đi ngược lại
truyền thống đó. Nhưng nguyên nhân là do Hoa Kỳ chi phối, lôi kéo Hàn Quốc để thực hiện âm
mưu xâm lược trong chiến lược toàn cầu của mình. Sau ngày Miền Nam Việt Nam hoàn toàn giải

phóng, Hoa Kỳ đã thực hiện chính sách bao vây, cấm vận kinh tế để trả đũa, Hàn Quốc là đồng
minh thân cận nên đã chịu ảnh hưởng của những chính sách đó, vì vậy, mối quan hệ giữa Việt Nam
– Hàn Quốc, Việt Nam – Hoa Kỳ giai đoạn sau đó bị tạm thời gián đoạn một thời gian.

×