Tải bản đầy đủ (.doc) (87 trang)

Luận văn thạc sỹ: Quản trị rủi ro thanh khoản tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (589.73 KB, 87 trang )





 !"#
$%
&'%()*$+
,-./0.
#1*1
20%*3*45
2#))))))))))))))))))))))))))))))))))))))0
2.%6
 !"#))))))))))))))))))))))))))))))))).7
27% "8 
 !"#
)))))))))))))))))))))))))))))))))))))))))))))))))))))))))))))))))))))))))))))))))))))))))))))))))))))))))))))))))))))))))))))))9:
#1 ;<
* Hội đồng quản lý tài sản nợ - tài sản có
= Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam
DTBB Dự trữ bắt buộc
HĐV Huy động vốn
 Ngân hàng Nhà nước
# Ngân hàng thương mại
 Rủi ro thanh khoản
 Tổ chức tín dụng
( Tài sản có
( Tài sản nợ
( Tổng tài sản
( Đô la Mỹ
 Việt Nam đồng
#1=-+


=
Bảng 2.1: Tốc độ tăng trưởng tổng dư nợ và tỷ lệ nợ xấu Error: Reference
source not found
Bảng 2.2: Lợi nhuận từ hoạt động dịch vụ Error: Reference source not found
Bảng 2.3: Lợi nhuận trước thuế, ROA, ROE của BIDV giai đoạn 2009-2011
Error: Reference source not found
Bảng 2.4: Trạng thái thanh khoản ròng thời điểm cuối năm từ 2008 đến 2011
Error: Reference source not found
Bảng 2.5: Tỉ số trạng thái ngân quỹ
Bảng 2.6: Tỉ số chứng khoán thanh khoản Error: Reference source not found
Bảng 2.7: Tỉ số tín dụng/Tiền gửi Error: Reference source not found
Bảng 2.8: Tỉ số cấu trúc tiền gửi Error: Reference source not found
+
Đồ thị 2.1: Tổng vốn huy động của BIDV giai đoạn 2009-2011 Error: Reference
source not found
Đồ thị 2.2: Tổng dư nợ cho vay của BIDV giai đoạn 2009 -2011 Error: Reference
source not found
Đồ thị 2.3: Doanh số đầu tư giai đoạn 2009-2011 Error: Reference source not
found
Đồ thị 2.4: Vốn huy động và sử dụng vốn giai đoạn 2008-2011 Error: Reference
source not found
Đồ thị 2.5: Vốn tiền gửi và cho vay khách hàng giai đoạn 2008-30/06/2011
Error: Reference source not found
Đồ thị 2.6: Cấu trúc vồn huy động giai đoạn 2007-2011 Error: Reference source
not found
Đồ thị 2.7: Cấu trúc tiền gửi theo khách hàng và theo loại hình tiền gửi giai đoạn
2008-2011 Error: Reference source not found
#>
0) ?@ABCDEAFGEBHIJKELF
Trong nền kinh tế thị trường, rủi ro trong kinh doanh là điều không thể tránh

khỏi, đặc biệt là rủi ro trong hoạt động kinh doanh ngân hàng có phản ứng dây
chuyền, lây lan. Vì vậy, để hoạt động ngân hàng phát triển vững chắc, an toàn và
hiệu quả thì cần phải kiểm soát và hạn chế được rủi ro thông qua công tác quản trị
rủi ro trong kinh doanh ngân hàng.
Trong các loại rủi ro mà ngân hàng phải đối mặt, rủi ro thanh khoản (RRTK)
là một trong những thách thức lớn nhất, nguy hiểm nhất của ngân hàng. Một ngân
hàng hoạt động bình thường phải đảm bảo được khả năng thanh toán, tức là phải
đáp ứng được các nhu cầu thanh toán trong hiện tại, tương lai và các nhu cầu thanh
toán đột xuất. Một khi rủi ro thanh khoản xuất hiện thì không chỉ nó ảnh hưởng đến
bản thân NHTM mà còn ảnh hưởng đến cả một nền kinh tế - xã hội. Chính vì ảnh
hưởng lớn, vừa mang tính cục bộ vừa mang tính toàn cầu của loại rủi ro này, quản
trị rủi ro thanh khoản trở thành một vấn đề thường trực mang tính sống còn cho
ngành ngân hàng cũng như cả nền kinh tế.
Thực tế trong vài năm gần đây, với sự phát triển của thị trường tài chính cũng
như sự bùng nổ của thị trường xuyên quốc gia đã khiến nguy cơ phá sản của các
NHTM do mất an toàn thanh khoản trở nên thường trực hơn bao giờ hết. Khủng
hoảng thanh khoản trong hệ thống các tổ chức tín dụng tại nhiều nước trên thế giới
với sự sụp đổ của hàng loạt các ngân hàng lớn trong vài năm gần đây đã dóng lên
hồi chuông báo động cho cơ chế quản trị rủi ro thanh khoản còn bị xem nhẹ.
Tại Việt Nam, chưa bao giờ vấn đề an toàn thanh khoản lại được Ngân hàng nhà
nước (NHNN) và các Tổ chức tín dụng (TCTD) đặc biệt quan tâm như hiện nay, với sự
ra đời của hàng loạt các chính sách, các quy chuẩn mới được ban hành nhằm đổi mới
và thắt chặt an toàn công tác quản trị rủi ro thanh khoản ở các ngân hàng.
Đối với Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) là một trong những
ngân hàng hàng đầu tại Việt Nam và cũng là một trong những ngân hàng có định
1
hướng triển khai quản trị rủi ro theo chuẩn quốc tế sớm nhất. Trong xu thế chung
của thế giới và của Việt Nam, với định hướng của mình, đánh giá và củng cố lại
công tác quản trị rủi ro thanh khoản là một việc nên làm và cần làm đối với BIDV
hiện nay.

Với mong muốn tìm hiểu, phân tích một cách toàn diện và đánh giá đúng thực
trạng quản trị RRTK để tìm ra những hạn chế, nguyên nhân, từ đó đưa ra các giải
pháp và kiến nghị có tính khả thi nhằm hoàn thiện hơn nữa công tác quản trị RRTK
đối với ngân hàng, tác giả đã chọn đề tài “Quản trị RRTK tại Ngân hàng Đầu tư
và Phát triển Việt Nam” làm đề tài nghiên cứu cho luận văn thạc sĩ của mình.
.) #MBJ?BA@NAFO@BPQ
− Hệ thống hoá lý luận cơ bản về quản trị RRTK tại ngân hàng thương mại.
− Phân tích, đánh giá thực trạng quản trị RRTK tại Ngân hàng Đầu tư và Phát
triển Việt Nam.
− Đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản trị RRTK tại Ngân
hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam.
7) RFEST@NULDAVWUF@NAFO@BPQBHIJKELF
− Đối tượng nghiên cứu của đề tài: Nghiên cứu lý luận và thực tiễn về RRTK,
quản trị RRTK tại ngân hàng thương mại.
− Phạm vi nghiên cứu của đề tài:
• Nghiên cứu những vấn đề về hiệu quả quản lý RRTK tại Ngân hàng Đầu tư
và Phát triển Việt Nam trong khoảng thời gian từ năm 2009 - 2011.
• Đề xuất giải pháp nhằm hoàn thiện công tác quản trị RRTK tại Ngân hàng
Đầu tư và Phát triển Việt nam đến năm 2015.
:) ASX@NDAYD@NAFO@BPQ
Luận văn sử dụng những phương pháp nghiên cứu chung của khoa học kinh tế
như phương pháp thống kê mô tả, thống kê phân tích, suy luận logic, phân tích và so
sánh tổng hợp.
Để nghiên cứu về RRTK và quản trị RRTK, các phương pháp phân tích tài
chính bao gồm phương pháp thống kê, so sánh.
2
Z) GEBCQBHI[Q\@U]@
Nội dung chính của luận văn này đã được trình bày thành 3 chương:
ASX@N0% Cơ sở lý luận chung về rủi ro thanh khoản và quản trị rủi ro thanh
khoản tại Ngân hàng thương mại.

ASX@N.% Thực trạng quản trị rủi ro thanh khoản tại Ngân hàng Đầu tư và
Phát triển Việt Nam.
ASX@N7% Giải pháp hoàn thiện công tác quản trị rủi ro thanh khoản tại Ngân
hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam.
GE[Q\@
3
20%*3*45

2#
0)0) AYF@F^WULJ_BE`S@NE`a@NAaVEJb@NBHI#
1.1.1. Khái niệm
Ngân hàng là một trong những ngành hình thành lâu đời nhất. Ở giai
đoạn đầu hoạt động của mình, ngân hàng mới chỉ thực hiện nghiệp vụ đơn
giản phục vụ nhu cầu xã hội là giữ hộ của cải và thanh toán hộ. Đến nay, hoạt
động của ngân hàng đã được hình thành và phát triển mạnh trên nhiều lĩnh
vực kinh doanh, dịch vụ và công nghệ ngày càng hiện đại thông qua sự phát
triển không ngừng của nền kinh tế xã hội. Ngân hàng trở thành một trung gian
tài chính không thể thiếu được của nền kinh tế. Nó đóng vai trò môi giới cho
sự gặp gỡ giữa cung - cầu tiền tệ thông qua huy động vốn tạm thời nhàn rỗi từ
dân cư và các tổ chức trong xã hội, tiến hành cho vay lại với các cá nhân, tổ
chức có nhu cầu về vốn, góp phần đẩy mạnh tốc độ vòng quay vốn, nâng cao
hiệu quả sản xuất kinh doanh, qua đó đẩy mạnh tốc độ phát triển kinh tế của
đất nước.
Tại Mỹ, bất kỳ một tổ chức nào cung cấp tài khoản tiền gửi cho phép
khách hàng rút tiền theo yêu cầu và cho vay đối với các tổ chức kinh doanh
hay cho vay thương mại sẽ được xem là một ngân hàng.
Tại Việt Nam, theo quy định luật các Tổ chức tín dụng (công bố ngày
26/12/1997) và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật các Tổ chức tín
dụng (có hiệu lực thi hành ngày 01/10/2004): Ngân hàng là loại hình tổ chức
tín dụng thực hiện hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội

dung thường xuyên là nhận tiền gửi, sử dụng số tiền này để cấp tín dụng, cung
ứng dịch vụ thanh toán, và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan.
1
Như vậy, NHTM có thể được hiểu là doanh nghiệp đặc biệt kinh doanh
trong những lĩnh vực tiền tệ, tín dụng, là doanh nghiệp tiến hành thường
xuyên các nghiệp vụ huy động vốn và làm công tác tín dụng, cung cấp các
phương tiện thanh toán, thực hiện nghiệp vụ chiết khấu và các nghiệp vụ tài
chính khác.
1.1.2. Đặc trưng trong hoạt động của NHTM
Là doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ, so với hoạt động của
ngân hàng Trung ương hoặc các doanh nghiệp hoặc thương mại khác, hoạt
động kinh doanh của NHTM có những đặc trưng cơ bản sau:
a) Thứ nhất, hoạt động kinh doanh của NHTM là kinh doanh tiền tệ
Trên thị trường tài chính, NHTM là các tổ chức trung gian tài chính quan
trọng nhất chuyển tải những khoản vốn huy động được trong xã hội đến
những người có nhu cầu chi tiêu và đầu tư. Với chức năng ban đầu là nhận
tiền gửi của xã hội, sau đó NHTM đã trở thành các chủ thể chuyên mua bán
quyền sử dụng vốn. Tuỳ theo trình độ phát triển của nền kinh tế - xã hội cũng
như công nghệ ngân hàng mà cơ cấu và chủng loại các sản phẩm khác nhau.
Đặc biệt, trong giai đoạn hiện nay cùng với sự phát triển mạnh mẽ của khoa
học và công nghệ, các sản phẩm mới đã ra đời như ATM, Homebanking,
Phonebanking, Internet Banking Cũng xuất phát từ nhu cầu của khách hàng,
có nhiều tổ chức cung cấp dịch vụ ngân hàng ra đời và phát triển. Song người
ta vẫn phân biệt NHTM với các tổ chức tín dụng (TCTD) khác ở chỗ NHTM
là ngân hàng kinh doanh tiền gửi và các dịch vụ thanh toán.
b) Thứ hai, hoạt động kinh doanh của NHTM có tính nhạy cảm cao và
luôn chịu sự giám sát chặt chẽ của pháp luật
Hoạt động kinh doanh của ngân hàng dựa trên niềm tin, vì vậy tính nhạy
cảm trong kinh doanh rất cao, chỉ cần có một biến động nhỏ cũng có thể gây
tác động đối với hoạt động kinh doanh của ngân hàng.

2
Nếu ngân hàng hoạt động tốt, tạo điều kiện cho nền kinh tế tăng trưởng
và phát triển bền vững. Ngược lại, khi ngân hàng phá sản sẽ ảnh hưởng trực
tiếp đến những người gửi tiền, ngoài ra sẽ gây hiệu ứng dây chuyền, lây lan
rất lớn và tác động xấu đến đời sống kinh tế xã hội. Do hoạt động kinh doanh
của ngân hàng có ảnh hưởng rất lớn đến nền kinh tế, cho nên việc giám sát
các hoạt động ngân hàng phải thật chặt chẽ thường xuyên bằng luật định.
Những quy chế giám sát phổ biến là: Quy chế về phân phối tín dụng; Quy chế
về thành lập và cấp giấy phép kinh doanh cho các NHTM; Quy chế về an toàn
trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng; Quy chế về bảo vệ nhà đầu tư.
Trong các quy định của Luật Đầu tư thì đầu tư thành lập các NHTM được xếp
vào loại đầu tư có điều kiện.
c) Thứ ba, các sản phẩm, dịch vụ của NHTM mang tính tương đồng, dễ
bắt chước và gắn chặt với yếu tố thời gian
NHTM cung cấp rất nhiều sản phẩm, dịch vụ phong phú đa dạng cho
khách hàng, nền kinh tế. Tuy nhiên, các sản phẩm của các NHTM thường
tương đồng hoặc giống nhau, đặc biệt là các sản phẩm truyền thống như: các
sản phẩm huy động vốn, sản phẩm cho vay, sản phẩm thanh toán. Nếu một
NHTM vừa triển khai một sản phẩm, dịch vụ nào đó hiệu quả thì ngay lập tức
có thể bị các ngân hàng khác thực hiện theo, hay gọi là “ bắt chước”. Khái
niệm sản phẩm, dịch vụ mới của NHTM phải được hiểu là sản phẩm, dịch vụ
mà trên thị trường chưa có hoặc đưa ra thị trường trước các đối thủ cạnh tranh.
Thời gian cũng là yếu tố quan trọng việc thực hiện giá trị của sản phẩm,
đồng thời cũng là một trong những yếu tố quyết định giá cả của sản phẩm
dịch vụ ngân hàng. Để tăng khả năng cạnh tranh, các NHTM phải xây dựng
những sản phẩm, dịch vụ mang tính khác biệt.
d) Thứ tư, khách hàng của NHTM rất đa dạng
Khách hàng của NHTM đông đảo và đa dạng, có ở mọi đối tượng và
3
tầng lớp của xã hội. Không chỉ các doanh nghiệp sản xuất có nhu cầu về vốn,

dịch vụ thanh toán, tư vấn… mà các tổ chức xã hội có nhu cầu rất lớn về dịch
vụ ngân hàng: thanh toán, gửi tiền, bảo lãnh…Cá nhân, hộ gia đình người làm
kinh doanh, bà nội trợ, sinh viên đều cần nhu cầu sản phẩm ngân hàng. Nhu
cầu về sản phẩm và dịch vụ khách hàng cũng rất khác nhau. Vì vậy mỗi ngân
hàng cần phải nghiên cứu xây dựng chiến lược khách hàng phù hợp, phải xác
định khách hàng là trung tâm, hướng tới phục vụ thỏa mãn tốt nhất nhu cầu
khách hàng.
e) Thứ năm, hoạt động kinh doanh của ngân hàng gắn liền với yếu tố rủi
ro
Rủi ro có thể xảy ra đối với bất kỳ loại hình kinh doanh nào. Tuy nhiên
rủi ro trong kinh doanh của ngân hàng có những điểm khác biệt với các lĩnh
vực kinh doanh khác về mức độ và nguyên nhân. Rủi ro trong kinh doanh của
ngân hàng có tính lan truyền và để lại hậu quả to lớn, không chỉ trong nội tại
của ngành, mà còn ảnh hưởng đến tất cả các ngành khác trong nền kinh tế,
mức độ ảnh hưởng không chỉ trong phạm vi một quốc gia mà còn trong phạm
vi nhiều quốc gia khác. Những rủi ro thường gặp của NHTM bao gồm: rủi ro
tín dụng, rủi ro thanh khoản, rủi ro hối đoái, rủi ro lãi suất, rủi ro hoạt động
Trong đó rủi ro thanh khoản được xếp vào loại rủi ro có tính nguy hiểm nhất
trong các loại rủi ro của ngân hàng. RRTK là loại rủi ro mang tính hệ quả bởi lẽ
ngoài các nguyên nhân mang tính đặc thù, RRTK còn có thể bắt nguồn và chuyển
biến xấu dưới tác động của các rủi ro phi tài chính và rủi ro tài chính khác trong
hoạt động của ngân hàng (rủi ro tín dụng, rủi ro thị trường, rủi ro hoạt động…)
0).) AI@AcAad@UL`HF`aEAI@AcAad@#
1.2.1. Thanh khoản của NHTM
1.2.1.1. Khái niệm thanh khoản của NHTM
Trong tài chính, thuật ngữ “thanh khoản” được sử dụng trong nhiều phạm vi
khác nhau:
4
Dưới góc độ tài sản: Thanh khoản là khả năng chuyển đổi tài sản thành tiền
mặt một cách dễ dàng và nhanh chóng với chi phí hợp lí. Một tài sản được xem là

thanh khoản khi đáp ứng các tiêu chí sau: Có sẵn số lượng để mua hoặc bán, có sẵn
thị trường để giao dịch, có sẵn thời gian để giao dịch, giá cả hợp lý.
Dưới góc độ doanh nghiệp nói chung: thanh khoản là lượng tiền và tương
đương tiền mà doanh nghiệp sở hữu.
Dưới góc độ quản trị ngân hàng: thanh khoản là khả năng ngân hàng đáp ứng
đầy đủ và kịp thời các nghĩa vụ tài chính phát sinh trong quá trình hoạt động giao
dịch như chi trả tiền gửi, cho vay, thanh toán và các hoạt động giao dịch tài chính
khác trong thời kì cụ thể.
1.2.1.2. Cung, cầu thanh khoản và trạng thái thanh khoản ròng
Thanh khoản tại thời điểm xác định có thể được đánh giá qua chỉ tiêu về trạng thái
thanh khoản ròng (NLP) hay khe hở thanh khoản, dựa trên cơ sở đầu vào (tổng cung
thanh khoản) và đầu ra (tổng cầu thanh khoản) của các luồng tiền tại thời điểm đó.
Cung thanh khoản: là khả năng cung ứng tiền của ngân hàng nhằm đáp ứng
nhu cầu thanh toán của khách hàng, bao gồm các tài sản thanh khoản hiện tại, việc
bán tài sản thanh khoản, khả năng huy động vốn mới và thu hồi các khoản phải thu
đến hạn (cho vay, đầu tư tiền gửi, đầu tư giấy tờ có giá đến hạn, và các khoản phải
thu khác).
Trong các nguồn cung thanh khoản trên, luồng tiền thu về từ huy động vốn
tiền gửi chiếm khối lượng lớn và là nguồn cung thanh khoản mới chủ yếu của ngân
hàng.
Cầu thanh khoản: là nhu cầu thanh toán hợp lệ của khách hàng mà ngân hàng
có nghĩa vụ đáp ứng, bao gồm yêu cầu chi trả từ tài khoản tiền gửi, cam kết giải
ngân vốn vay và các nghĩa vụ thanh toán khác (trả lãi, mua lại cổ phiếu, chi phí
cung ứng dịch vụ và chi phí lãi, thanh toán cổ tức cho cổ đông…).
Trong các nhu cầu thanh khoản mà ngân hàng phải đối mặt trên, lượng tiền
cần để giải ngân cho các hợp đồng tín dụng chiếm số lượng lớn.
Trạng thái thanh khoản ròng (NLP): là chênh lệch giữa tổng cung và tổng cầu
5
thanh khoản tại một thời điểm. Tại thời điểm đó, nếu NLP lớn hơn 0, tức là cung
thanh khoản dư thừa để đáp ứng cầu thanh khoản, ngân hàng thặng dư thanh khoản,

ngược lại nếu NLP nhỏ hơn 0, tức là cầu thanh khoản vượt quá mức cung thanh
khoản, có nghĩa ngân hàng thâm hụt thanh khoản hay thiếu hụt tiền mặt để chi trả.
Trường hợp NLP bằng 0 thì ngân hàng có được trạng thái thanh khoản cân bằng,
đây là trạng thái hoàn hảo nhưng rất khó đạt được trong thực tế hoạt động của ngân
hàng.
1.2.2. Rủi ro thanh khoản NHTM
1.2.2.1. Khái niệm rủi ro thanh khoản NHTM
Theo tác giả cuốn sách Commercial banking – the management of risk, Benton
E.Gup thì: Rủi ro thanh khoản là rủi ro về tổn thất phát sinh từ trạng thái thiếu hụt
tiền mặt hoặc các tài sản tương đương tiền, hay nói cách khác rủi ro thanh khoản là
rủi ro về tổn thất phát sinh từ trạng thái thiếu khả năng thu xếp được nguồn tài trợ
với mức độ hợp lý về chi phí, bán hay thu xếp một tài sản với mức giá hợp lý nhằm
trang trải một nghĩa vụ đã được dự định hoặc bất định.
Theo tác giả cuốn sách Quản trị NHTM, Phan Thị Cúc thì: “Đây là loại rủi ro
xuất hiện trong trường hợp các ngân hàng thiếu khả năng chi trả, không chuyển đổi
kịp các loại tài sản ra tiền, hoặc không có khả năng vay mượn để đáp ứng yêu cầu
của các hợp đồng thanh toán”.
Như vậy, có nhiều ý kiến khác nhau về rủi ro thanh khoản, có thể hiểu rủi ro
thanh khoản dưới góc độ NHTM theo khái niệm truyền thống như sau: Rủi ro thanh
khoản là rủi ro phát sinh từ trạng thái mà NHTM không có được đủ vốn khả dụng –
cung thanh khoản vào thời điểm mà NHTM cần để đáp ứng cầu thanh khoản, trạng
thái này tác động xấu tới uy tín, thu nhập và khả năng thanh toán cuối cùng của
NHTM.
1.2.2.2. Nguyên nhân rủi ro thanh khoản NHTM và các nhân tố làm gia
tăng rủi ro thanh khoản.
a) Nguyên nhân gây ra rủi ro thanh khoản:
− Sự không cân xứng về kỳ hạn giữa tài sản và nguyên vốn: Khi tiến hành
6
huy động vốn, không phải lúc nào NHTM cũng huy động được nguồn vốn có kỳ
hạn dài. Thực tế cho thấy, các nguồn vốn huy động được thường có kỳ hạn ngắn,

tuần hoàn chúng để sử dụng cho vay và đầu tư có kỳ hạn dài hơn. Điều này làm mất
cân xứng giữa ngày đáo hạn của các tài sản và nguồn vốn nên dòng tiền vào bên tài
sản thường không trùng khít để trang trải dòng tiền ra bên nguồn vốn. Thực tế là
ngân hàng luôn có một tỷ lệ đáng kể tài sản có có đặc điểm là phải hoàn trả tức thời
nếu người gửi tiền có nhu cầu như tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn có thể
rút trước hạn…Vậy nên, NHTM luôn phải đối mặt với tình trạng thâm hụt hoặc
thặng dư thanh khoản.
− Sự nhạy cảm của tài sản đối với sự biến động lãi suất: là do các tài sản tài
chính có tính nhạy cảm với sự biến động của lãi suất. Lãi suất thay đổi ảnh hưởng
lớn tới tâm lý của người gửi tiền, họ ưa thích lãi suất cao, và đồng thời tác động đến
quyết định của những con nợ, những người muốn lãi suất thấp. Trường hợp lãi suất
tăng, khách hàng sẽ có nhu cầu rút tiền để gửi vào nơi có lãi suất cao hơn còn các
con nợ sẽ rút hết hạn mức tín dụng với lãi suất thấp đã thỏa thuận và giảm tối đa
việc vay mới để tránh trả lãi nhiều hơn. Khi lãi suất giảm thì phản ứng ngược lại.
Trong cả hai trường hợp, biến động lãi suất ảnh hưởng đến cả dòng tiền gửi lẫn cho
vay, cuối cùng đến thanh khoản NH. Ngoài ra, việc lãi suất tăng cũng làm tăng thị
giá của tài sản tài chính đem bán và tăng chi phí đi vay trên thị trường tiền tệ.
− Tính chất đặc biệt của ngành kinh doanh tiền tệ đòi hỏi NHTM phải luôn
sẵn sàng đáp ứng cầu thanh khoản: Bất kỳ một sự trục trặc nào về thanh khoản đều
có thể gây tâm lý lo lắng trong công chúng và nếu NHTM không giải quyết ngay
khó khăn này, khách hàng gửi tiền có thể đồng loạt kéo đến ngân hàng để rút tiền,
trạng thái thanh khoản sẽ trở nên trầm trọng và NHTM có thể bị phá sản. Mặt khác,
trên bảng cân đối kế toán của NHTM, bên TSN luôn có một tỷ lệ nhất định các
khoản tiền gửi không kỳ hạn và tiền gửi có kỳ hạn nhưng có có thể rút trước hạn.
Đây là những TSN mà NHTM có thể nghĩa vụ phải trả ngay lập tức nếu khách hàng
có nhu cầu rút, vì thế NHTM luôn luôn phải sẵn sàng đáp ứng nhu cầu thanh khoản.
− Nguyên nhân bên tài sản nợ: rñi ro thanh kho¶n cã thÓ ph¸t sinh bÊt cø lóc
7
nào khi những ngời gửi tiền thực hiện rút tền ngay lập tức. Khi những ngời gửi rút
tiền đột ngột, buộc ngân hàng phải đi vay bổ sung hoặc bán bớt tài sản thanh khoản

để đáp ứng nhu cầu thanh khoản. Trong tất cả các nhóm tài sản có, thì tiền mặt là
phơng tiện đầu tiên và trực tiếp để đáp ứng nhu cầu thanh khoản. Nhng tiền mặt là
tài sản không đem lại thu nhập lãi suất cho Ngân hàng, do đó các Ngân hàng có xu
hớng giảm thiểu tài sản có ở dạng tiền mặt. Ngân hàng thng đầu t tiền vào các tài
sản ít thanh khoản hơn hoặc những tài sản có thể chuyển hoá thành tiền. Chi phí để
chuyển hoá thành tiền ngay lập tức với các tài sản khác nhau thì rất khác nhau. Khi
phải bán một tài sản ngay lập tức thì giá của nó có thể thấp hơn rất nhiều so với tr-
ờng hợp có thời gian để tìm kiếm ngời mua và thơng lợng về giá. Ngoài thanh lý tài
sản Ngân hàng có thể tìm kiếm các nguồn vốn bổ sung thông qua việc vay trên thị
trờng tiền tệ v c ú th phi chu chi phớ cao hn bỡnh thng.
Nguyờn nhõn bờn ti sn cú: Rủi ro thanh khoản phát sinh liên quan đến
các cam kết tín dụng. Một cam kết tín dụng đợc ngời vay tiền có quyền hành rút tiền
bất cứ lúc nào trong thời hạn của nó. Khi một cam kết tín dụng đợc ngời vay thực
hiện, thì ngân hàng phải đảm bảo có đủ tiền ngay tức thời để đáp ứng nhu cầu của
khách hàng, nếu không Ngân hàng sẽ đối mặt với rủi ro thanh khoản. Tơng tự nh
bên tài sản nợ, để đáp ứng nhu cầu thanh khoản bên tài sản có, Ngân hàng có thể
giảm số d tiền mặt, chuyển hoá các tài sản có khác thành tiền mặt, hoặc đi vay các
nguồn vốn bổ xung trên thị trờng tiền mặt.
b) Nhng nhõn t lm gia tng ri ro thanh khon
Nhõn t khỏch quan:
Chu k kinh doanh l mt tỏc nhõn quan trng. Theo thi v nhng thỏng
cui nm phỏt sinh nhu cu ngun tin ln cỏc doanh nghip y mnh hot
ng kinh doanh, quyt toỏn cụng n cho nhng doanh nghip khỏc, chi tr lng
thng cho cỏn b nhõn viờn, thc hin cam kt gii ngõn cho cỏc i tỏc, gii
quyt hng tn kho, nhp khu hng húa to nờn mt chu k cng thng ngun
vn vo nhng thỏng cui nm. iu ny lm cho dũng tin quay tr li ngõn hng
khụng cao mc dự lói sut cú th tip tc tng núng.
Chớnh sỏch tin t ca NHNN: NHNN s dng ba cụng c bao gm nghip
v th trng m, quy nh v d tr bt buc, v ỏp dng lói sut chit khu v tỏi
chit khu cỏc giy t cú giỏ ca NHTM.

Nghip v th trng m l hot ng ca NHTM mua hoc bỏn cho NHTM
8
trái phiếu chính phủ, trái phiếu kho bạc Nhà nước, trái phiếu của chính NHNN. Khi
muốn tăng cung tiền, NHNN mua trái phiếu từ các NHTM, số tiền mà NHNN trả
cho NHTM làm tăng cung tiền cho nền kinh tế đồng thời cũng làm tăng cung thanh
khoản cho NHTM. Ngược lại, khi muốn giảm cung tiền, NHNN bán trái phiếu cho
các NHTM, số tiền mà NHNN thu về làm cung ứng tiền tệ của nền kinh tế đồng
thời cũng làm giảm cung thanh khoản của NHTM.
Quy định về tỷ lệ dự trữ bắt buộc là biện pháp điều chỉnh mà NHNN bắt buộc
các NHTM phải duy trì một tỷ lệ dự trữ tiền gửi tối thiểu tại NHNN. Nếu tỷ lệ bắt
buộc quy định cao, có nghĩa lượng tiền cho dự trữ sẽ gia tăng, theo đó cầu thanh
khoản của NHTM tăng và ngược lại.
Áp dụng lãi suất chiết khấu và tái chiết khấu là lãi suất mà NHTM áp dụng khi
NHNN chiết khấu hoặc tái chiết khấu các giấy tờ có giá từ NHTM. Nếu lãi suất này
thấp, tức chi phí vay tiền từ NHNN rẻ, đây sẽ là nguồn vốn giá rẻ mà các NHTM có
thể dễ dàng huy động để đáp ứng cầu thanh khoản.
− Ngoài ra, những sự cố khách quan khác cũng có thể là yếu tố làm gia tăng
RRTK cho NHTM. Điều này đã từng xảy ra đối với Ngân hàng thương mại Á Châu
năm 2003. Vào tháng 8, năm 2003, khi có tin đồn Tổng giám đốc ACB bỏ trốn,
khách hàng đã ồ ạt kéo đến các điểm giao dịch của ACB để rút tiền. Mặc dù đây là
tin đồn thất thiệt nhưng việc rút tiền đồng loạt của khách hàng đã gây khó khăn trầm
trọng cho ACB. NHNN đã phải hỗ trợ khẩn cấp nhiều trăm tỷ đồng để ACB có đù
nguồn chi trả cho khách hàng rút tiền. Mất một thời gian đáng kể, sự cố mới được
giải quyết.
 Nhân tố chủ quan từ phía ngân hàng làm gia tăng RRTK:
− Cơ cấu huy động và cho vay tập trung lớn vào một hoặc một nhóm khách
hàng (rủi ro tập trung): Ngân hàng tập trung tín dụng vào một số khách hàng lớn
hoặc tỷ trọng tín dụng cho một ngành, một địa phương nào đó chiếm phần lớn trong
tổng dư nợ hoặc trong tổng huy động có một khách hàng chiếm tỷ trọng lớn, đến
khi họ rút một cách bất ngờ thì dẫn đến rủi ro thanh khoản.

− Rủi ro từ khả năng chuyển đổi thành tiền của tài sản không ổn định: Một
9
NHTM có thể mất khả năng thanh khoản nếu chỉ số tín nhiệm tín dụng của ngân
hàng này giảm sút, ngân hàng này đối mặt với tình trạng lượng tiền ra ồ ạt không dự
kiến được trước hay một sự kiện nào đó khiến cho các đối tác không muốn giao
dịch hoặc cho vay đối với ngân hàng đó, đồng thời cũng đối mặt với RRTK nếu thị
trường hoạt động của ngân hàng này có nguy cơ mất khả năng thanh khoản. RRTK
thường đi kèm với nhiều rủi ro khác. Nếu một đối tác vay tiền của ngân hàng có nguy
cơ vỡ nợ thì ngân hàng sẽ phải huy động tiền từ những nguồn khác để thanh toán
khoản đi vay của ngân hàng, bù đắp vào chi trả này. Nếu ngân hàng không có khả năng
huy động tiền từ các nguồn khác để thanh toán khoản nợ thì chính ngân hàng này cũng
phải đối mặt với rủi ro vỡ nợ. Như vậy, RRTK gắn liền với rủi ro tín dụng.
RRTK là một loại rủi ro quan trọng bậc nhất đối với một tổ chức kinh tế, đặc
biệt là đối với các tổ chức tài chính. Trong thực tế, có rất nhiều trường hợp, một tổ
chức kinh tế có tài sản rất nhiều, nợ rất ít nhưng hoàn toàn có thể phá sản do yếu tố
RRTK này khi “tính lỏng” của tài sản không bù đắp nổi khả năng thanh toán trong
thời điểm đó. Ở mức nhẹ hơn, rủi ro này có thể gây nên khó khăn hoặc đình trệ hoạt
động kinh doanh của tổ chức đó trong một thời điểm cụ thể.
0)7) Qd@E`e`HF`aEAI@AcAad@#
1.3.1. Khái niệm về quản trị rủi ro thanh khoản của NHTM
1.3.1.1. Khái niệm quản trị rủi ro
Định nghĩa chung về quản trị rủi ro: là việc xác định, đo lường, giám sát và
kiểm soát, xử lý rủi ro nhằm đảm bảo rủi ro của tổ chức nằm trong giới hạn cho
phép, các quyết định có liên quan tới rủi ro phải tương xứng với mục tiêu và chiến
lược kinh doanh do Hội đồng Quản trị đề ra và có đủ nguồn lực để bù đắp được các
loại rủi ro dự kiến sẽ xảy ra.
1.3.1.2. Khái niệm Quản trị RRTK
QTRRTK là quá trình nhận dạng, đo lường, kiểm soát và xử lý những nguy cơ
rủi ro về việc ngân hàng không thể đáp ứng kịp thời và đầy đủ các nhu cầu thanh
khoản cho khách hàng.

Quản trị rủi ro không có nghĩa là né tránh mà là đối diện với rủi ro để lựa chọn
10
mức giới hạn rủi ro có thể chấp nhận được nhằm tăng tối đa khả năng sinh lợi cho
ngân hàng.
1.3.2. Bản chất của công tác quản trị rủi ro thanh khoản NHTM
Các dòng tiền vào và ra liên tục và không bao giờ hoàn toàn cân bằng nhau
nên NH luôn luôn phải đối mặt với tình trạng thâm hụt hoặc thặng dư thanh khoản.
Theo đó quản trị RRTK là đảm bảo sự cân đối của các dòng tiền.
Luôn tồn tại sự đánh đổi giữa thanh khoản và khả năng sinh lời. Điều này
nghĩa là khi NH chọn mục tiêu thanh khoản bằng cách duy trì trạng thái thanh
khoản thặng dư tức là có một lượng vốn không được đưa vào đầu tư sinh lời, lượng
vốn này càng lớn thì lợi nhuận tiềm năng càng giảm. Ngược lại nếu NH chọn mục
tiêu lợi nhuận cao bằng cách sử dụng tối đa các nguồn vốn có được vào đầu tư kiếm
lời có thể sẽ đẩy NH vào tình trạng thiếu hụt thanh khoản gây bất lợi cho hoạt động
NH.
Tóm lại, thanh khoản của ngân hàng liên quan trực tiếp đến an toàn và sinh
lợi. Duy trì an toàn thanh khoản - tức khả năng đáp ứng kịp thời nhu cầu thanh
khoản là mục tiêu quan trọng và xuyên suốt trong hoạt động ngân hàng. Để duy trì
nó, ngân hàng phải chấp nhận một khoản chi phí nhất định. Ngân hàng luôn phải
cân nhắc sự đánh đổi giữa mức độ an toàn của thanh khoản và khả năng sinh lời. Để
gia tăng an toàn thanh khoản, chi phí cũng gia tăng. Do vậy, mục đích của
QTRRTK không phải là nhằm né tránh rủi ro mà là đối diện với nó, phòng ngừa,
kiểm soát và hạn chế được RRTK đối với hoạt động kinh doanh ngân hàng với mức
chi phí thấp nhất có thể. Từ đó, đề ra các chiến lược kinh doanh, phát huy lợi thế
cạnh tranh, đo lường vốn tối thiểu và khả năng thanh toán, giúp lãnh đạo ra quyết
định, giúp các phòng ban liên quan định giá lại các khoản mục kinh doanh, báo cáo
và kiểm soát rủi ro, quản lý danh mục đầu tư.
1.3.3. Tổ chức quản trị rủi ro thanh khoản
Tổ chức quản trị RRTK phản ánh việc ngân hàng tổ chức, sắp xếp các nguồn
lực của ngân hàng nhằm quản lý RRTK bao gồm:

Phân định rõ trách nhiệm tham gia của các cấp, các cá nhân của ngân hàng từ
11
cấp quản lý cao nhất là Hội đồng quản trị đến các cấp quản lý điều hành (ban tổng
giám đốc và các cấp quản lý trung gian) và các bộ phận thực thi trực tiếp đối với
hoạt động quản trị RRTK.
Quy định cụ thể trình tự các bước phải tiến hành, thẩm quyền và trách nhiệm
của từng bộ phận, cá nhân trong quản trị RRTK.
Quản trị rủi ro thanh khoản nằm trong thể thống nhất của hệ thống quản trị rủi
ro và là một trong những hoạt động trọng tâm của quản trị tài sản – nguồn vốn
(ALM) tại NHTM. Thông thường, theo mô hình quản trị các ngân hàng hiện đại,
QTRRTK cần được thực hiện bởi các bộ phận sau:
- Hội đồng quản lý rủi ro (RMC) trực thuộc hội đồng quản trị thực hiên giám
sát và đưa ra các chính sách tổng thể, các hạn mức về toàn bộ rủi ro của ngân hàng,
trong đó phải bao gồm RRTK. Hội đồng này còn chịu trách nhiệm hỗ trợ HĐQT
trong việc xác định khẩu vị rủi ro cho toàn ngân hàng.
- Hệ thống quản trị tài sản – nguồn vốn có trách nhiệm quản lý cấu trúc bảng
cân đối để đạt được lợi nhuận lớn nhất mà vẫn dảm bảo tuân thủ định hướng chung
về rủi ro của ngân hàng, từ đó có vai trò chính trong việc QTRRTK của ngân hàng.
Các bộ phận liên quan trong hệ thống này bao gồm:
+ Hội đồng quản lý tài sản-nợ (ALCO) là cơ quan có trách nhiệm chính trong
việc điều hành bộ máy ALM, có thể bao gồm ALCO ở cấp lãnh đạo (Board ALCO)
và ALCO ở cấp quản lý (Management ALCO). Các ngân hàng vừa và nhỏ hoặc chỉ
hoạt động tại một quốc gia có thể chỉ xây dựng một ALCO ở cấp quản lý.
+ Bộ phận ALM (ALM unit/desk) là nơi ứng dụng và phát triển chương trình
quản trị rủi ro; nhận biết, đo lường và theo dõi trạng thái bảng cân đối cũng như
nguy cơ rủi ro thanh khoản (và rủi ro lãi suất) từ hoạt động của ngân hàng; kiểm
định tính thích hợp của các chính sách và quy trình quản trị rủi ro thanh khoản hàng
năm cũng như đưa ra các đề xuất về hạn mức rủi ro thanh khoản. ALM cũng là bộ
phận thực hiện các cuộc thử nghiệm khả năng chi trả và phân tích tình huống. ALM
có thể nằm trong khối tài chính, khối quản trị rủi ro hoặc khối nguồn vốn của ngân

hàng, tuy nhiên lí tưởng nhất vẫn là thuộc khối tài chính hoặc khối nguồn vốn.
12
+ Khối Nguồn vốn dưới sự chỉ đạo của Ban điều hành, có thể bao gồm (nhưng
không giới hạn) các phòng kinh doanh (kinh doanh trên thị trường vốn, thị trường
ngoại hối, thị trường tiền tệ) và bộ phận ALM. Các phòng kinh doanh là nơi chịu
trách nhiệm thực hiện kinh doanh vốn, tiền tệ của ngân hàng, qua đó cung cấp số
liệu thường xuyên cho bộ phận ALM.
+ Bộ phận quản lý rủi ro: thực hiện kiểm tra và đánh giá tính hiệu quả của các
chính sách, khung QLRR; đảm bảo tính tuân thủ của quy trình QLRR và chất
lượng, nội dung các phương pháp đo lường.
1.3.4. Các tín hiệu thị trường để nhận biết rủi ro thanh khoản
Điều kiện tiên quyết để quản trị rủi ro là phải nhận dạng được rủi ro. Nhận
dạng rủi ro là quá trình xác định liên tục và có hệ thống các hoạt động kinh doanh
của ngân hàng, bao gồm: Việc theo dõi, xem xét, nghiên cứu môi trường hoạt động
và toàn bộ hoạt động của ngân hàng nhằm thống kê được tất cả các loại rủi ro, kể cả
dự báo những loại rủi ro mới có thể xuất hiện trong tương lai, để từ đó có các biện
pháp kiểm soát, tài trợ cho từng rủi ro phù hợp.
Không một ngân hàng nào có thể khẳng định một cách chắc chắn rằng dự trữ
thanh khoản của họ là hợp lý và đủ để không bị rơi vào tình trạng RRTK nếu chưa
vượt qua những thử thách của thị trường. Những thử thách này được biểu hiện qua
những dấu hiệu nhận dạng sau:
- Lòng tin của công chúng: Sự tin tưởng của công chúng là một trong những
dấu hiệu quan trọng để đánh giá khả năng thanh khoản của một ngân hàng tốt hay
xấu. Nếu công tác quản lý thanh khoản của ngân hàng yếu kém, không duy trì đủ
lượng tiền mặt hoặc không có khả năng hoàn trả các khoản tiền mà khách hàng yêu
cầu ngay lập tức thì điều này sẽ xói mòn lòng tin của công chúng vào ngân hàng.
Một khi uy tín sụt giảm, ngân hàng sẽ mất dần những khách hàng là người gửi tiền,
khả năng khách hàng rút tiền với số lượng lớn là rất cao, dễ đẩy NH vào tình trạng
RRTK cao. Ngược lại, nếu một ngân hàng có được sự tin tưởng của người gửi tiền
thì điều này có nghĩa rằng khách hàng đã đặt niềm tin vào khả năng hoàn trả cả gốc

và lãi của ngân hàng hay đồng thời với việc ngân hàng đó thừa nhận là có khả năng
13
thanh khoản cao. Do đó NH cần nắm được các thông tin về mức độ tin cậy của các
cá nhân và tổ chức, đặc biệt là khách gửi tiền, đánh giá mức độ này có giảm sút do
họ mất lòng tin vào khả năng thanh toán các khoản tiền gửi đến hạn của NH hoặc
nghi ngờ NH đang thiếu tiền mặt hay không.
- Sự biến động giá cổ phiếu của ngân hàng: Vì tâm lý nhà đầu tư trước mỗi
biến động của thị trường đều được phản ánh qua thị giá cổ phiếu. Khi giá cổ phiếu
của ngân hàng có xu hướng giảm, chứng tỏ tính hấp dẫn của chúng đối với nhà đầu
tư đã giảm đi, ảnh hưởng lớn đến tâm lý của người gửi tiền. Người dân có xu hướng
rút tiền khỏi ngân hàng để gửi tiền sang ngân hàng khác hoặc đầu tư vào những
kênh có lợi nhuận cao hơn, trong khi đó các khoản cho vay đến hạn thanh toán
không được thanh toán hoặc không đáp ứng được nhu cầu thanh khoản, dẫn đến cầu
thanh khoản lớn hơn cung thanh khoản khiến cho ngân hàng rơi vào tình trạng
RRTK. Ngược lại, giá cổ phiếu hoặc tăng hoặc giữ nguyên được thì sẽ củng cố lòng
tin và tâm lý nơi công chúng vào khả năng thanh toán của ngân hàng. Do đó cần
phải tìm hiểu xem liệu có phải họ lo ngại về tình hình hoạt động không khả quan
của NH và nguy cơ khủng hoảng thanh khoản trong tương lai hay không.
- Áp dụng mức lãi suất huy động cao hơn thị trường: là các mức lãi suất
ngân hàng đang sử dụng. Nếu mức lãi suất huy động ngân hàng áp dụng hoặc
mức lãi suất đi vay ngân hàng chấp nhận cao hơn mức lãi suất chung của thị
trường một cách bất thường thì đó rất có thể là dấu hiệu cho thấy ngân hàng đang
thiếu vốn và phải huy động với chi phí cao. Nếu xảy ra tình trạng như vậy thì
chứng tỏ một dấu hiệu là ngân hàng đang gặp khó khăn thanh khoản trong hoạt
động kinh doanh của mình.
- Giá tài sản ngân hàng bán ra: Việc ngân hàng phải chấp nhận bán tài sản vội
vàng và với giá thấp mặc dù phải chịu lỗ lớn để có thể bù đắp vào cung thanh khoản
là dấu hiệu cho thấy ngân hàng đang gặp rủi ro thanh khoản. Bán tài sản có nghĩa là
ngân hàng sẽ phải chấp nhận mất đi những khoản thu nhập tạo ra từ tài sản trong
tương lai cũng như các chi phí giao dịch trả cho người môi giới liên quan đến việc

bán tài sản. Dựa vào tần suất bán tài sản theo phương thức này suy đoán tính trầm
14
trọng của tình hình thanh khoản.
- Khả năng đáp ứng nhu cầu vay vốn của khách hàng: Cho vay là một trong
những hoạt động quan trọng nhất của ngân hàng vì hoạt động này tạo nhiều lợi
nhuận nhất và kéo theo các nghiệp vụ khác phát triển. NH cần nắm rõ tình hình cấp
tín dụng để kịp thời phát hiện những trường hợp không thể giải quyết cấp tín dụng
hoặc giải ngân cho khách hàng mặc dù đáp ứng đủ các điều kiện và có hệ số tín
nhiệm cao. Điều này xảy ra có thể là do NH đang phải chịu áp lực về thanh khoản.
- Vay vốn từ ngân hàng trung ương (NHTW): NHTW giữ vai trò là người cho
vay cuối cùng đối với các NHTM. Cho nên, khi một ngân hàng có dấu hiệu buộc
phải đi vay NHTW với khối lượng lớn và thường xuyên thì ngân hàng đó cần phải
xem xét lại chính sách quản lý thanh khoản của mình để lấy lại niềm tin của công
chúng.
Nếu như xuất hiện bất cứ một dấu hiệu thị trường nào nêu trên đây mà không
có các biện pháp củng cố khả năng thanh khoản kịp thời thì nguy cơ ngân hàng đó
rơi vào tình trạng mất khả năng thanh khoản là không nhỏ. Các nhà quản trị ngân
hàng cần phải tập trung xem xét lại một cách các chính sách và thực tiến công tác
quản lý thanh khoản của ngân hàng để giải quyết xem những thay đổi gì cần phải
thực hiện để cải thiện khả năng thanh khoản và lấy lại niềm tin nơi công chúng.
1.3.5. Đo lường rủi ro thanh khoản
Công việc lượng hóa RRTK một cách chính xác là một thử thách lớn với
các nhà quản trị. Tuy vậy, dựa vào một số các giả thuyết, các nhà quản trị có thể
ước lượng gần đúng mức độ rủi ro tại thời điểm nhất định bằng nhiều công cụ
khác nhau. Trong số đó, ngân hàng có thể lựa chọn một hoặc một nhóm các
phương pháp sau :
a. Phương pháp tiếp cận nguồn vốn và sử dụng vốn
Phương pháp tiếp cận nguồn vốn và sử dụng vốn bắt đầu từ hai thực tế đơn
giản: (i) khả năng thanh khoản tăng khi tiền gửi tăng và cho vay giảm, (ii) khả năng
thanh khoản giảm khi tiền gửi giảm và cho vay tăng. Theo đó, phương pháp này

hướng tới xác định NLP bằng cách đo lường chênh lệch giữa nguồn cung thanh
15
khoản (chủ yếu từ tiền gửi) và sử dụng thanh khoản (phần lớn để giải ngân các
khoản tín dụng), trong đó có tính đến các yếu tố thay đổi dự tính. Thực chất phương
pháp này là việc đo lường các thay đổi dự tính được của tổng lượng tiền gửi và cho
vay từ đó xác định NLP kì kế hoạch dựa vào chênh lệch.
Phương pháp này có thể được gói gọn lại trong ba bước chính:
− Ước lượng nhu cầu vay vốn và gửi tiền trong kì kế hoạch thông qua phương
pháp xây dựng các mô hình dự báo hoặc xây dựng đường xu hướng.
+ Việc xây dựng các mô hình dự báo được thực hiện qua việc áp dụng các
mô hình kinh tế lượng. Các nhân tố ảnh hưởng đến nhu cầu vay vốn và gửi tiền của
khách hàng được xác định, từ đó lập ra hàm tổng cho vay và hàm tổng tiền gửi.
+ Việc xây dựng đường xu hướng được thực hiện qua việc đánh giá sự tăng
trưởng của tiền gửi và cho vay thành 3 bộ phận chính là:
• Phần xu hướng: mức tăng theo tốc độ tăng trưởng trong dài hạn, được tính
bằng việc thu thập số liệu thực tế trong nhiều năm và chạy mô hình kinh tế lượng để
có được hàm tăng trưởng bình quân hàng năm.
• Phần mùa vụ : mức tăng trưởng khác so với xu hướng do tác động của các
yếu tố mùa vụ tại những thời điểm nhất định, được tính bằng việc thu thập số liệu
trong quá khứ và giả định tốc độ tăng kì kế hoạch bằng tốc độ tăng kì trước đó.
• Phần chu kì: mức chênh lệch giữa thực tế và dự báo, được tính bằng chênh
lệch giữa dự tính bằng xu hướng và mùa vụ của kì trước với thực tế tiền gửi, cho
vay của kì đó.
+ Tổng TG, CV dự tính trong tháng (hoặc kì kế hoạch) bằng tổng TG, CV
thực tế tháng trước (kì trước) cộng với phần xu hướng cộng với phần mùa vụ cộng
với phần chu kì.
- Tính toán các thay đổi dự tính trong kì kế hoạch theo phương pháp đường
xu hướng: Δ(TG, CV) = Tổng TG, CV dự tính trong tháng (hoặc kì kế hoạch)-
Tổng TG, CV trong tháng trước (hoặc kì trước)
- Xác định trạng thái thanh khoản ròng của ngân hàng trong kì kế hoạch :

Khe hở thanh khoản = Nguồn cung TK - Nhu cầu TK = Δ(tiền gửi) - Δ(cho vay)
16
Khe hở thanh khoản lớn hơn 0, ngân hàng thăng dư thanh khoản. Khe hở
thanh khoản nhỏ hơn 0, ngân hàng thâm hụt thanh khoản. Khe hở thanh khoản bằng
0, ngân hàng có trạng thái thanh khoản lí tưởng, tuy nhiên đây là trường hợp hiếm
khi xảy ra trên thực tế.
b. Phương pháp tiếp cận cấu trúc nguồn vốn
Đối với phương pháp này, các nhà quản lý không quan tâm đến các nguồn
cung thanh khoản mà chỉ quan tâm đến nhu cầu thanh khoản, tức là thực thiện ước
lượng dự trữ thanh khoản kì kế hoạch cho hai nhu cầu chính là hoàn trả các khoản
tiền gửi, tiền vay và giải ngân cho các khoản tín dụng. Trong đó, nguồn vốn được
chia thành các nhóm dựa trên khả năng bị rút ra khỏi ngân hàng với mức dự trữ
thanh khoản được tính cho từng nhóm theo tỉ lệ dự trữ khác nhau. Có thể chia thành
3 nhóm:
- Nhóm nguồn vốn nóng gồm các khoản tiền gửi, tiền vay rất nhạy cảm với
lãi suất hoặc được dự tính chắc chắn sẽ bị rút khỏi NH trong kỳ kế hoạch.
- Nhóm nguồn vốn kém ổn định gồm các khoản tiền gửi, tiền vay của NH mà
một phần đáng kể (25%-30%) được dự tính sẽ bị rút trong kì kế hoạch.
- Nhóm nguồn vốn ổn định gồm các khoản tiền gửi, tiền vay của NH được tin
tưởng chắc chắn, ngoài một bộ phận không đáng kể, sẽ ít có khả năng bị rút ra trong
kì.
Tương ứng với từng nhóm nguồn vốn cần xác định mức dự trữ phù hợp. Yêu
cầu dự trữ thanh khoản đối với mỗi nhóm vốn được tính dựa vào tỉ lệ dự trữ thanh
khoản của từng nhóm. Tỉ lệ dữ trữ này được xác định tỉ lệ nghịch với mức độ ổn
định của nguồn vốn, thường ở mức 90%-95% nguồn vốn nóng còn lại sau khi trích
DTBB, 30% nguồn vốn kém ổn định sau khi trích DTBB và 15% nguồn vốn ổn
định sau khi trích DTBB.
Cầu thanh khoản cho tiền gửi của khách hàng và tiền vay của ngân hàng
được tính bằng tổng yêu cầu thanh khoản của các nhóm nguồn vốn trên. Dự trữ
thanh khoản cho tiền gửi, tiền vay = 95% (vốn nóng- DTBB)+ 30% (vốn kém ổn

định - DTBB)+ 15% (vốn ổn định - DTBB)
17

×