Tải bản đầy đủ (.pdf) (86 trang)

Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng ảo giác trong loạn thần do rượu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.51 MB, 86 trang )


bé gi¸o dôc vμ ®μo t¹o bé y tÕ

TrƯêng ®¹i häc y hμ néi




Th©n v¨n tuÖ




NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG
ẢO GIÁC TRONG LOẠN
THẦN DO RƯỢU



LUẬN VĂN THẠC SỸ Y HỌC












hμ néi – 2008



bộ giáo dục v đo tạo bộ y tế

Trờng đại học y h nội



Thân văn tuệ



NGHIấN CU C IM LM SNG
O GIC TRONG LON
THN DO RU


Chuyên ngành : Tâm thần
Mã số: 60.72.22


LUN VN THC S Y HC



Ngời hớng dẫn khoa học:
PGS.TS. Trần Viết Nghị






h nội 2008

Lời cảm ơn

Tôi xin chân thành cảm ơn Đảng uỷ, Ban giám hiệu, Phòng đào tạo sau
đại học và Bộ môn Tâm thần Trờng Đại học Y Hà Nội đã cho phép, giúp đỡ,
tạo điều kiện cho tôi học tập và hoàn thành các nội dung đào tạo của chơng
trình đào tạo Cao học.
Tôi xin tỏ lòng biết ơn đến Đảng uỷ, Ban giám đốc Bệnh viện Bạch
Mai, Viện Sức khoẻ Tâm thần, đã cho phép, giúp đỡ tôi trong quá trình học
tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn này.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới:
- PGS. TS Trần Viết Nghị, Chủ tịch hội Tâm thần học Việt Nam, Chủ
nhiệm bộ môn Tâm thần Trờng đại học Y Hà Nội.
- PGS.TS. Trần Hữu Bình, Phụ trách Viện Sức khoẻ Tâm thần Bệnh
viện Bạch Mai, Phó chủ nhiệm Bộ môn Tâm thần Trờng đại học Y Hà Nội.
- PGS. TS Nguyễn Viết Thiêm, Phó chủ tịch Hội Tâm thần học Việt
Nam, Nguyên Phó viện trởng Viện Sức khoẻ Tâm thần, Nguyên chủ nhiệm
bộ môn Tâm thần Trờng đại học Y Hà Nội.
- TS. BS CK2 Nguyễn Kim Việt, Phó viện trởng Viện giám định pháp y
Tâm thần Trung ơng, Phó viện trởng Viện Sức khoẻ Tâm thần, Phó chủ
nhiệm Bộ môn Tâm thần Trờng Đại học Y Hà Nội,.
- TS. BS CK2 Đinh Đăng Hoè, Giảng viên Bộ môn Tâm thần Trờng đại
học Y Hà Nội, Trởng phòng khám và điều trị ngoại trú Viện Sức khoẻ Tâm
thần.
Là những ngời thầy đã trực tiếp dạy dỗ, hớng dẫn và giúp đỡ tôi từng

bớc hoàn thành chơng trình học tập và làm luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn toàn thể cán bộ nhân viên Bộ môn Tâm thần,
Viện Sức khoẻ Tâm thân và bạn bè, đồng nghiệp, gia đình đã động viên, giúp
đỡ tôi hoàn thành luận văn này.
Hà nội, tháng 12 năm 2008

Thân Văn Tuệ

Lời cam đoan




Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu, kết quả nghiên cứu nêu trong luận văn này là trung thực và cha từng
đợc ai công bố trong bất kỳ một chơng trình nào.

Tác giả luận văn

Thân Văn Tuệ


MỤC LỤC
ĐẶT VẤN ĐỀ 1
Chương 1: TỔNG QUAN 3
1.1. MỘT SỐ KHÁI NIỆM 3
1.1.1. Ảo giác 3
1.1.2. Các rối loạn tâm thần do rượu 8
1.2. ẢO GIÁC TRONG LOẠN THẦN DO RƯỢU 19 U
1.2.1. Phân loại ảo giác trong loạn thần do rượu 19

1.2.2. Tình hình nghiên cứu về ảo giác do rượu 20
1.2.3. Tiến triển của ảo giác trong loạn thần do rượu 22
Chương 2: ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 23U
2.1. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU 23 U
2.1.1. Tiêu chuẩn lựa chọn nhóm nghiên cứu 23
2.1.2. Tiêu chuẩn loại trừ 24
2.2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 24 U
2.2.1.Thiết kế nghiên cứu 24
2.2.2. Cỡ mẫu nghiên cứu 25
2.2.3. Các tham số và chỉ số nghiên cứu 25
2.2.4. Phương pháp thu thập thông tin 28
2.2.5. Xử lý số liệu 28
2.2.6. Vấn đề đạo đức trong nghiên cứu 28
Chương 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 29U
3.1. ĐẶC ĐIỂM CHUNG CỦA NHÓM NGHIÊN CỨU 29 U
3.1.1. Đặc điểm về tuổi và giới 29
3.1.2. Đặc điểm hôn nhân, nghề nghiệp, nơi sống, kinh tế 30
3.1.3. Đặc điểm về sử dụng rượu 32
3.2. ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG CỦA NHÓM NGHIÊN CỨU 33 U
3.2.1. Loạn thần do rượu có ảo giác so với các loạn thần khác 33
3.2.2. Các thể lâm sàng loạn thần do rượu và có tiền sử loạn thần do
rượu của nhóm nghiên cứu:
34
3.2.3. Các loại ảo giác gặp ở nhóm nghiên cứu 35

3.2.4. Sự kết hợp các loại ảo giác ở nhóm nghiên cứu 37
3.2.5. Đặc điểm ảo thanh 38
3.2.6. Đặc điểm của ảo thị 40
3.2.7. Đặc điểm của ảo giác xúc giác 41
3.2.8. Các loại hoang tưởng, rối loạn cảm xúc và hành vi 43

3.3. TIẾN TRIỂN ẢO GIÁC TRONG QUÁ TRÌNH ĐIỀU TRỊ 44
3.3.1. Các thuốc được dùng trong quá trình điều trị 44
3.3.3. Tiến triển của ảo giác trong quá trình điều trị 46
Chương 4: BÀN LUẬN 47
4.1. ĐẶC ĐIỂM CHUNG 47
4.1.1. Đặc điểm về tuổi và giới 47
4.1.2. Đặc điểm hôn nhân, nghề nghiệp, nơi sống, kinh tế 48
4.1.3. Đặc điểm về sử dụng rượu 50
4.2. ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG NHÓM NGHIÊN CỨU 51 U
4.2.1. Loạn thần do rượu có ảo giác so với các loạn thần khác 51
4.2.2. Các thể lâm sàng loạn thần do rượu và có tiền sử loạn thần do rượu 51
4.2.3. Các loại ảo giác 52
4.2.4. Sự kết hợp các loại ảo giác 55
4.2.5 Đặc điểm của ảo thanh 55
4.2.6. Đặc điểm của ảo thị 58
4.2.7. Đặc điểm của ảo giác xúc giác 60
4.2.8. Các loại hoang tưởng, rối loạn cảm xúc kèm theo ảo giác 61
4.3. TIẾN TRIỂN CỦA ẢO GIÁC TRONG QUÁ TRÌNH ĐIỀU TRỊ 63
4.3.1. Các thuốc được dùng trong quá trình điều trị 63
4.3.2. Thời gian tồn tại của các loại ảo giác 65
KẾT LUẬN 66
KIẾN NGHỊ 68
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC



CÁC CHỮ VIẾT TẮT



CS : Cộng sự
DSM : Bảng Chẩn đoán và Thống kê các rối loạn tâm thần của
Hội Tâm thần học Mỹ (Diagnostic and Statistical
manual of Mental Disorders)
ICD : Bảng Phân loại bệnh Quốc tế
(International clasification of disease)
LTDR : Loạn thần do rượu
AG : Ảo giác
RLTT : Rối loạn tâm thần























DANH MỤC BẢNG

Bảng 3.1: Đặc điểm nhóm tuổi 29
Bảng 3.2: Đặc điểm hôn nhân, nghề nghiệp 30
Bảng 3.3: Nơi sống, kinh tế 31
Bảng 3.4: Đặc điểm thời gian uống rượu: 32
Bảng 3.5. Loạn thần do rượu có ảo giác so với các loạn thần khác 33
Bảng 3.6. Bảng các thể lâm sàng loạn thần do rượu theo ICD-10 34
Bảng 3.7. Bảng các loại ảo giác gặp ở nhóm nghiên cứu 35
Bảng 3.8. Tính chất các ảo giác 37
Bảng 3.9 Sự kết hợp các loại ảo giác ở nhóm nghiên cứu 37
Bảng 3.10 Bảng kết cấu của ảo thanh 38
Bảng 3.11. Số giọng nói, tần số, cuờng độ và khoảng thời gian kéo dài một
lần của ảo thanh
38
Bảng 3.12 Nội dung, thái độ, hành vi của ảo thanh 39
Bảng 3.13. Đặc điểm tần số và cường độ của ảo thị 40
Bảng 3.14. Đặc điểm về nội dung, thái độ, hành vi đối với ảo thị 40
Bảng 3.15. Đặc điểm kết cấu và số lượng ảo giác xúc giác 41
Bảng 3.16. Đặc điểm về nội dung, tần số, thái độ, hành vi của ảo giác xúc giác 42
Bảng 3.17 Hoang tưởng, rối loạn cảm xúc. 43
Bảng 3.18 Các thuốc an thần kinh được dùng trong quá trình điều trị 44
Bảng 3.19. Các thuốc loại thuốc 45
Bảng 3.20. Thời gian tồn tại của các loại ảo giác 46


DANH MỤC BIỂU ĐỒ

Biểu đồ 3.1 Đặc điểm về loại rượu dùng 32

Biểu đồ 3.2: Tiền sử loạn thần do rượu 35
Biểu đồ 3.3. Các loại ảo giác gặp trong các thể bệnh ở nhóm nghiên cứu . 36
- 1 -
ĐẶT VẤN ĐỀ

Sử dụng chất gây hại, đặc biệt là nghiện rượu gây nên những hậu quả
nghiêm trọng không những cho cá nhân mà còn cho cả gia đình và xã hội.
Nghiện rượu mạn tính thường gây nên những hậu quả nặng nề về cơ thể và
tâm thần người nghiện.
Loạn thần do rượu là một trong các hậu quả nặng nề về tâm thần ở các
bệnh nhân nghiện rượu mạn tính. Theo báo cáo của Tổ chức Y tế Thế giới
năm 1990, loạn thần do rượu có ở 10% những người nghiện rượu mạn tính.
Loạn thần do rượu bao gồm sảng rượu, ảo giác do rượu, hoang tưởng do
rượu và bệnh não do rượu.
Trong cơ cấu gi
ường bệnh ở các khu điều trị bệnh nhân tâm thần nội
trú, giường bệnh dành cho bệnh nhân loạn thần do rượu chiếm tỷ lệ khá cao.
Theo báo cáo của Viện Sức khỏe Tâm thần (1994), số lượng bệnh nhân loạn
thần do rượu vào điều trị nội trú ngày càng gia tăng, từ 0,31% năm 1990 đến
6,91% năm 1994 [15].
Ảo giác do rượu là một trong những loạn thần do rượu thường gặp sau
sảng rượu. Ảo giác do rượu dao động từ 5,6% (Katraep - 1973) cho tới
28,8% (Khokhnop - 1974) trong các trường hợp loạn thần do rượu.
Ở Việt Nam, một số nghiên cứu cho thấy tỷ lệ người lạm dụng rượu từ
6,3% đến 16,78% và người nghiện rượu từ 1,17% đến 3,61% dân số [29];
Loại rượu thường dùng chủ yếu là rượu sản xuất thủ công; 30 đến 90%
số người được hỏi cho rằng uống rượu là một tập quán bình thường và
đôi khi có tác dụng bồi bổ cơ thể. Hiện nay đã có một số nghiên cứu về
- 2 -
loạn thần do rượu khác về các chủ đề như suy giảm nhận thức do rượu,

hoang tưởng do rượu…Tuy nhiên cho tới nay, chúng ta chưa có nghiên
cứu sâu nào về đặc điểm ảo giác trong loạn thần do rượu. Do vậy chúng
tôi tiến hành nghiên cứu đề tài “Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng của ảo
giác trong loạn thần do rượu” với mục tiêu: “Mô tả đặc điểm lâm sàng
của ảo giác trong loạn thần do rượu”




















- 3 -
Chương 1
TỔNG QUAN

1.1. MỘT SỐ KHÁI NIỆM

1.1.1. Ảo giác
1.1.1.1. Khái niệm ảo giác
Ảo giác (AG) là cảm giác, tri giác như có thật về một sự vật, một hiện
tượng không hề có trong thực tại khách quan. Ảo giác xuất hiện và mất đi
không phụ thuộc vào ý muốn của bệnh nhân. AG có thể kèm theo hay không
kèm theo rối loạn ý thức (mê sảng, mê mộng) hoặc rối loạn tư duy. Bệnh
nhân mất khả năng phê phán về tri giác sai lầm của mình. AG có thể xuất
hiện đồng thời với các rối loạn khác hay xuất hiện riêng lẻ [30].
Đối với người bệnh, AG là một tri giác như có thật, không phải là một
điều gì tưởng tượng. Trong trạng thái AG, người bệnh nghe thấy, nhìn thấy,
ngửi thấy như thật. Ở người có AG, cảm giác chi phối càng trở nên như có
thật, y như những cảm giác bắt nguồn từ thế giới khách quan. AG là một tri
giác xuất hiện, mà không có một kích thích nào của ngoại cảnh phù hợp với
nó [18].
Người thầy thuốc khi khám một bệnh nhân có AG phải dựa vào hành
vi và hình dạng bên ngoài của họ để xác định. Khi có ảo thanh, người bệnh
lắng nghe, quay đầu về phía tiếng nói, đột ngột ngừng nói, bịt tai, trùm chăn,
lẩn trốn. Nếu có ảo thị, cái nhìn của người bệnh trở nên lúc thì chăm chú
say mê, lúc thì lo lắng sợ hãi, tìm đường thoát. Trong trường hợp có ảo khứu,
người bệnh bịt mũi, đi tìm các vật có mùi tương tự mùi mà bệnh nhân ngửi.
Nếu là ảo giác xúc giác, người bệnh sẽ làm các động tác như gỡ côn trùng
- 4 -
tưởng tượng ra khỏi người mình, xoa tay vào vùng mà bệnh nhân có ảo giác
xúc giác [30],
Ảo giác không xuất hiện đơn độc, mà thường đi cùng với những triệu
chứng tâm thần khác, thành những hội chứng như: hội chứng ảo giác –
Paranoid
1.1.1.2. Phân loại ảo giác
Có rất nhiều cách phân loại AG khác nhau, nhìn chung có các cách sau:
Phân loại theo hình tượng và kết cấu của AG:

Ảo giác thô sơ: Là AG chưa hình thành, không có hình thái và kết cấu
rõ rệt. Ví dụ thấy một ánh hào quang, một đám khói, nghe tiếng rì rào, tiếng
động khác thường;
Ảo giác phức tạp: Là ảo giác có hình tượng rõ ràng, sinh động, có vị
trí nhất định trong không gian như thấy người đem dây đến trói mình, nghe
tiếng nói ra lệnh.
Phân loại AG theo các giác quan: Theo cách phân loại này thì ứng
với mỗi giác quan có một loại AG: ảo thanh (AG thính giác), ảo thị (AG thị
giác), ảo khứu (AG khứu giác), ảo vị (AG vị giác) và ảo giác xúc giác. Ngoài
ra còn có cả ảo giác nội tạng và AG sơ đồ cơ thể.
Phân loại theo nhận thức và thái độ của bệnh nhân đối với AG:
Ảo giác thật: là AG có màu sắc, hình thái, đường nét, âm thanh rõ
ràng và có vị trí xác định trong không gian. Bệnh nhân tiếp nhận AG như
những sự vật hiện tượng trong thực tại, không nghi ngờ về tính có thực của
ảo giác, không phân biệt AG với sự thật, không nghĩ rằng có ai làm ra AG
bắt mình phải tiếp thu. AG thật có thể là ảo thanh, ảo thị, ảo khứu, ảo vị, ảo
giác xúc giác và ảo giác nội tạng.
- 5 -
Ảo giác giả: Ảo giác giả thường ít gặp hơn trong loạn thần do rượu so
với ảo giác thật. AG có thể có đủ các loại như AG thật nhưng với tính chất
khác hẳn với AG thật là : Cảm giác bị chi phối (do người khác làm ra); Bệnh
nhân cảm thấy trong tư duy và trí tưởng tượng của mình nhiều hơn là thực tại
khách quan; Bệnh nhân cảm thấy như những biểu tượng hay những hình ảnh
mơ hồ khó mô tả cụ thể, rõ rệt, tiếp nhận qua giác quan. Ảo giác giả thường
gặp là ảo thanh, ảo thị, ảo giác vận động [6], [30], [32],[9] .
1.1.1.3. Cơ chế bệnh sinh của ảo giác
Chưa có giả thuyết nào làm sáng tỏ cơ chế bệnh sinh của ảo giác.
Dưới đây là một số giả thuyết về cơ chế bệnh sinh của AG
Giả thuyết về cơ chế sinh lý học thần kinh cao cấp: Trên quan điểm
sinh lý học, các AG phát sinh do sự hình thành các ổ hưng phấn ì bệnh lý ở

vỏ não. Sự hưng phấn các tế bào ở vỏ não có thể đạt tới cường độ tương ứng
vói sự hưng phấn do các tác nhân kích thích thực sự. Sự tâp trung những ổ
hưng phấn ì trong các tế bào trực tiếp thu nhận những kích thích từ các tác
nhân bên ngoài hoặc bên trong (hệ thống tín hiệu thứ nhất) gây ra những AG
về thị giác, xúc giác, nội tạng, cũng như những ảo thanh thô sơ. Sự phát sinh
các AG lời nói được cắt nghĩa bằng sự tập trung những ổ tương tự trong hệ
thống tín hiệu thứ hai [18].
Giả thuyết về rối loạn chuyển hoá não: Rối loạn hoạt động thần
kinh cao cấp phát sinh AG, cũng như các triệu chứng tâm thần khác còn
được quan niệm là do rối loạn chuyển hoá não gây ra. Điều này được xác
minh qua sự phát sinh AG do tác dụng của một số chất đặc biệt, ví dụ
adrenocrom và bufotenin. Có giả thiết cho rằng các chất này hình thành ở
não trong điều kiện sinh lý; chất thứ nhất do phân huỷ adrenalin, chất thứ hai
do phân huỷ serotonin. Nhiều tác giả thấy rằng, ở một số người bệnh, sự ứ
- 6 -
đọng nitơ cũng xảy ra cùng lúc với các thời kỳ thuyên giảm, còn sự tăng tiết
nitơ cùng lúc với thời kỳ tăng các rối loạn tâm thần. Ở một số bệnh nhân
khác lại có những mối tương quan ngược lại: tương ứng thời kỳ thuyên giảm
là hội chứng tăng tiết nitơ và với thời kỳ rối loạn tâm thần là hội chứng ứ
đọng nitơ. Tuy nhiên, những sản phẩm của sự chuyển hoá nitơ ngưng đọng
trong cơ thể còn chưa biết rõ [57] ,[60].
Giả thuyết về stress: Theo Kaplan và Sadock, ảo giác cũng có thể
xuất hiện ở những thời điểm stress đặc biệt đối với cá nhân người bệnh [44].
Giả thuyết về sự nhiễm độc: Cancro và Grebb thấy rằng, cảm giác
kiến bò, côn trùng trườn trên da hoặc dưới da gặp nhiều trong nhiễm độc
cocain, trạng thái ảo giác do rượu. Cảm giác ròi bò trong xương là đặc trưng
phổ biến ở bệnh nhân cai nghiện các chất ma tuý dạng thuốc phiện[34].
Các chất gây ảo giác: Hai chất gây AG tự nhiên được nhiều người
biết đến nhất là psilocybin và mescalin. Ngày nay các nhà khoa học đã tổng
hợp được hàng trăm loại chất gây AG. Chất được tổng hợp đầu tiên là

lysergic acid diethylamin 25 (LSD). LSD, psilocybin và mescalin làm người
sử dụng tri giác về môi trường xung quanh, đặc biệt bằng các khuếch đại các
hình dạng và màu sắc. Các chất trên có cấu trúc rất gần với một số chất dẫn
truyền thần kinh ở não. Mescalin có cấu trúc rất gần với noadrenalin được
lấy từ nụ củ cây trứng sống . LSD có những cấu trúc giống serotonin, ngăn
chặn serotonin tác động lên các vị trí nhận cảm bằng cách chiếm chỗ của nó.
Các sinap bị mất ức chế tự nhiên, sẽ cho qua mọi thông điệp và gây ra trạng
thái quá tăng hưng phấn, quá tải thông tin. Các chất acrylcyclohexylamine
cũng được xếp cùng loại với các chất gây AG gây nghiện. Chất
acrylcyclohexylamine đầu tiên được tổng hợp là phencyclidine. Các chất gây
AG và các chất acrylcyclohexylamine gây ra các triệu chứng giống loạn thần
như AG, mất tiếp xúc với thực tại và những biến đổi khác trong tư duy. Cảm
- 7 -
giác tri giác trở nên sâu sắc một cách bất thường: âm thanh trở nên du dương
hơn, màu sắc rực rỡ óng ánh hơn, căn phòng hình như bé lại hoặc ngược lại
to ra quá mức. Tuy nhiên, các tri giác sai lầm đó người sử dụng còn kiểm
soát được. Các AG chỉ xuất hiện khi dùng liều quá cao. Ví dụ người sử dụng
có thể cảm thấy mình biến thành chim và xử sự như chim. Khái niệm về thời
gian cũng thay đổi rõ rệt, nhanh lên hoặc chậm lại theo kiểu “du hành” của
người dùng ma tuý [5].Đạo đức y học không cho phép tiến hành các nghiên
cứu thực nghiệm trên người nhưng trên những người lạm dụng và sử dụng
các chất nói trên, các nhà khoa học đã phát hiện ra khá đầy đủ các tính chất
gây AG của chúng [46].
Giả thuyết về sự đối vận serotonin – dopamin: Các nhà khoa học đã
phát hiện được rất nhiều chất dẫn truyền thần kinh trong não: acetylcholine,
catecholamine, serotonin, GABA, glycene, các peptide hướng thần kinh.
Năm 1966 Sossium đã đưa ra giả thiết về sự phong tỏa các thụ thể
dopamine để giải thích cơ chế tác dụng của các thuốc an thần kinh mạnh, sự
hoạt động của hệ thống dopamine đi từ vùng trong não đến hồi viền sẽ dẫn
đến các triệu chứng dương tính như hoang tưởng, ảo giác, tăng vận động.

Hiệu quả lâm sàng của các thuốc an thần kinh có liên quan chặt chẽ với ái
lực của thụ thể dopamine D
2
với thuốc. Thuốc an thần kinh ức chế thụ thể
D
2
càng mạnh thì hiệu quả lâm sàng càng lớn. Thuốc an thần kinh cổ điển
như Haloperidol sẽ phong toả sự gắn kết dopamine với D
2
của tế bào sau
synap, nên có tác dụng điều trị hoang tưởng và ảo giác [41]. Vấn đề về
serotonine đã được đề cập đến từ năm 1954, khi người ta thấy rằng những
người sử dụng LSD là chất đồng vận với serotonine (5-HT), thấy xuất hiện
ảo giác. Những nghiên cứu cho thấy có mối quan hệ chức năng giữa hai chất
trung gian thần kinh serotonine và dopamine trong quá trình phát sinh AG
[35], [42], [10].
- 8 -
1.1.2. Các rối loạn tâm thần do rượu
1.1.2.1. Hấp thu và chuyển hoá rượu
Hấp thu: Sau khi uống, rượu được hấp thu nhanh qua đường tiêu hoá,
chủ yếu tại dạ dày và ruột, đạt được hàm lượng trong máu cao nhất 30-90
phút sau lần uống cuối cùng. Uống khi no sẽ làm chậm quá trình tiêu hoá ở
dạ dày và làm chậm sự hấp thu. Thức ăn giàu chất đạm và chất béo làm giảm
sự hấp thu rượu, nước uống làm tăng sự hấp thu rượu [17].
Chuyển hoá: Sau khi vào máu rượu được phân bố khắp cơ thể và qua
hàng rào máu não rất nhanh. Khoảng 80% chuyển hoá ở gan, 10 % ở dạ dày,
5% bài tiết nguyên dạng qua phổi, mồ hôi và nước tiểu. Tại gan rượu chuyển
hóa theo hai bước: dehydrozenaza rượu xúc tác quá trình oxy hoá thành
acetaldehyd; aldehyd dehydrozenaza sẽ biến đổi acetaldehyd thành acid
acetic, chất này bị phá huỷ thành cacbondioyd và nước. Một đơn vị uống

chuẩn chứa 10 gram cồn tuyệt đối làm tăng nồng độ rượu trong máu khoảng
15-20mg/100 ml (0,015 - 0,02g/100ml). Đây là ước lượng rượu chuyển hoá
trong một giờ ở một người có trọng lượng trung bình [17], [12].
Vandijk đã sơ đồ hoá các giai đoạn dẫn tới nghiện rượu. Ở mỗi giai
đoạn, việc sử dụng rượu có thể là gây hại, hai giai đoạn cuối được coi là
bệnh lý. Chỉ có một số nhỏ ở giai đoạn 3 tiến tới giai đoạn 4 và 5, 2 % đến
15% ở giai đoạn 5 trở lại giai đoạn 3[39]. (Xem ở dưới)







Tiếp xúc
Giai đoạn kinh nghiệm
Giai đoạn thái quá
Giai đoạn đồng hóa
Giai đoạn phụ thuộc
1
3
4
2
5
- 9 -
1.1.2.2. Say rượu thông thường và say rượu bệnh lý
Say rượu thông thường: Say rượu thông thường, còn gọi là say rượu
cấp diễn là hậu quả của nhiễm độc nhất thời do rượu, thường xảy ra ở những
người lạm dụng rượu uống quá ngưỡng dung nạp. Say rượu dẫn đến những
thay đổi hành vi, cảm xúc trong trạng thái ý thức mù mờ. Bệnh nhân còn khả

năng nhận biết xung quanh trừ trường hợp nhiễm độc nặng. Nhiều nghiên
cứu chỉ ra rằng, rượu gây suy giảm cả hai quá trình hưng phấn và ức chế.
Song, tác động vào quá trình ức chế mạnh hơn nhất là ở vỏ não, làm mất cân
bằng giữa hai quá trình và thoát ức chế trung tâm dưới vỏ, cuối cùng làm cho
người say rượu biểu hiện lâm sàng bằng tình trạng hưng phấn với những
hành vi tác phong bất thường, dễ xâm phạm thô bạo… Tùy theo lượng rượu
uống và khả năng dung nạp của từng cá thể, say rượu có thể được thể hiện
dưới ba mức độ:
Say rượu mức độ nhẹ: Say rượu nhẹ có đặc tính làm chậm quá trình
liên tưởng, tư duy nông cạn, giảm tốc độ và chất lượng lao động trí óc.
Người say rượu dễ sai sót trong vận động, khó thao tác những động tác đòi
hỏi chính xác, khéo léo. Tình trạng rối loạn vận động tùy thuộc lượng rượu
uống. Trên nền tảng khí sắc tăng nhẹ, người say rượu nhẹ có cảm giác vô tư,
khoái cảm thô lỗ, hài hước không phù hợp với hoàn cảnh. Người bệnh
thường tự phụ, khoác lác, khoe khoang về mình, dễ dẫn đến gây gổ, tấn
công. Tăng tính chấp nhặt, hay gây sự kiếm chuyện càng làm tăng khả năng
xung đột với người xung quanh. Say rượu nhẹ có thể có giải tỏa bản năng
tình dục, dễ dẫn đến hành vi thô bạo đối với người khác giới.
Say rượu mức độ trung bình: Liên tưởng có đặc tính hỗn độn, cảm
xúc không kiềm chế, dễ tức giận, nổi khùng bởi những kích thích không
- 10 -
đáng kể. Trong trạng thái này, người bệnh thường trở nên mất tế nhị, dẫn đến
thô bạo, khó thực hiện các động tác đòi hỏi khéo léo, đi đứng xiêu vẹo.
Say rượu mức độ nặng: Người bệnh thường có biểu hiện nôn nhiều,
vã mồ hôi, rối loạn thực vật nội tạng, tăng tiết nước bọt, tiểu tiện ra quần.
Nếu lượng rượu uống nhiều, người say có thể hôn mê, mạch nhanh, thở
nông, hạ huyết áp, có thể tử vong nếu không được cấp cứu. Về tiến triển, các
trường hợp ngộ độc rượu cấp nhẹ, sau giai đoạn ngủ sâu, người bệnh tự hồi
phục nhưng có quên từng mảng. Trong những trường hợp ngộ độc rượu cấp
nặng, phải thực hiện cấp cứu tại các trung tâm cấp cứu gần nhất, và phải có

chế độ theo dõi, chăm sóc toàn diện, thích hợp [50].
Say rượu bệnh lý: Say rượu bệnh lý là một trạng thái ngộ độc rượu
cấp rất đặc biệt, hiếm gặp, có thể xảy ra ở những người uống lượng rượu
không lớn. Say rượu bệnh lý có nhiều tên gọi khác: “say rượu loạn thần”;
“say rượu biến chứng” hay “say rượu dạng động kinh”. Theo Korsacof, say
rượu bệnh lý là tình trạng loạn thần cấp, diễn ra trong một thời gian ngắn với
những triệu chứng rối loạn ý thức sâu sắc kiểu mù mờ, kèm theo trạng thái
căng thẳng cảm xúc do hoang tưởng và ảo giác chi phối dẫn đến những tác
phong sai phạm, nguy hiểm. Về lâm sàng, say rượu bệnh lý dễ xảy ra trong
các điều kiện như mệt nhọc, thiếu ngủ, đói ăn, suy kiệt, nóng quá mức, khát
quá mức, có bệnh nhiễm trùng, lo âu, sợ sệt và căng thẳng. Sau một chuyến
đi dài, trong điều kiện tầu xe không thuận lợi, đường xấu, có sự lắc lư. Say
rượu bệnh lý phát sinh không phụ thuộc nhiều vào số lượng và loại rượu
uống, có khi chỉ một lượng nhỏ rượu vang, cũng có khi là lượng lớn rượu
mạnh. Say rượu bệnh lý thường khởi phát nhanh từ vài phút đến một giờ.
Người bệnh lâm ngay vào rối loạn ý thức trầm trọng, mất định hướng, không
duy trì được sự tiếp xúc với những người xung quanh, thường là rối loạn ý
thức kiểu hoàng hôn. Người say rượu bệnh lý thường phát sinh cảm giác bất
- 11 -
an, lo âu, hoảng sợ tới mức khủng khiếp; cảm xúc không thoải mái về quá
khứ, ấn tượng đã trải nghiệm, các hồi tưởng được chế biến một cách bệnh lý.
Chúng tạo nên một cảm giác bị đe dọa, nguy hiểm sắp xảy ra, đặc biệt từ
những người xung quanh. Điều đó dẫn đến những nhận định mang tính
hoang tưởng, kèm theo tri giác hoang tưởng và nhiều ảo tưởng, ảo giác rùng
rợn, khiếp sợ, và bệnh nhân thường có những hành vi tấn công nguy hiểm
đối với xung quanh. Phân biệt với say rượu thông thường, trong say rượu
bệnh lý, sự phối hợp vận động còn tốt, vẫn duy trì được thăng bằng, còn khả
năng di chuyển nhanh gây ấn tượng như là người bệnh không còn bị ảnh
hưởng của rượu. Trạng thái say rượu bệnh lý thường kéo dài khoảng một
giờ, đôi khi vài giờ và kết thúc bằng ngủ sâu. [19].

1.1.2.3. Nghiện rượu
Lạm dụng rượu lâu ngày thường đưa đến chứng nghiện rượu. Nghiện
rượu đã được nghiên cứu từ giữa thế kỷ thứ XIX, và cho tới nay vẫn là vấn
đề thời sự vì số người nghiện rượu ngày càng gia tăng. Nghiện rượu là một
bệnh lý nghiện chất, có các triệu chứng cơ bản đặc trưng cho nhóm bệnh này
là [8], [52], [48]:
Hội chứng nghiện: Chẩn đoán xác định nghiện rượu khi có từ ba trở
lên các đặc điểm sau:
1) Thèm muốn mạnh mẽ hoặc cảm thấy buộc phải sử dụng rượu.
2) Khó khăn trong việc kiểm tra tập tính sử dụng rượu về mặt thời
gian bắt đầu, kết thúc hoặc mức sử dụng rượu.
3) Một trạng thái cai sinh lý (xem phần hội chứng cai) khi việc sử
dụng rượu bị ngừng lại hay bị giảm bớt.
4) Có hiện tượng tăng dung nạp rượu (Người nghiện rượu có thể dùng
hàng ngày những lượng rượu lớn đủ để làm say hoặc gây ngộ độc nguy hiểm
cho những người không nghiện rượu).
- 12 -
5) Dần dần sao nhãng các thú vui trước đây để đi tìm và sử dụng rượu,
dành thời gian ngày càng nhiều hơn để tìm kiếm hay sử dụng rượu.
6) Tiếp tục sử dụng rượu mặc dù đã có hậu quả có hại đối với gan và
nhiều cơ quan khác do uống rượu. Có các trạng thái khí sắc trầm tiếp theo
sau những thời kỳ sử dụng rượu nặng, hoặc suy giảm nhận thức do tác hại
của rượu.
Hội chứng cai: Hội chứng cai là biểu hiện chủ yếu của chứng nghiện
rượu, hội chứng này xuất hiện khi bệnh nhân giảm hoặc ngừng uống rượu.
Người bệnh có khí sắc trầm, bồn chồn, bứt rứt, khó chịu, đứng ngồi không
yên; lo âu, sợ hãi một cách mơ hồ, các ý tưởng liên hệ thô sơ; Rối loạn giấc
ngủ như ngủ nông, dễ giật mình, dễ thức giấc, hoặc ác mộng, có khi mất ngủ
hoàn toàn; Run, rối loạn thần kinh thực vật như vã mồ hôi, tim đập
nhanh,…Trong hội chứng cai rượu nặng, người bệnh có thể có cơn co giật

động kinh, cũng như các ảo giác về thị giác, thính giác, đặc biệt về chiều và
đêm. Đặc trưng cho hội chứng cai rượu là những biểu hiện trên dịu đi hoặc
biến mất khi được uống rượu [54], [37].
Hội chứng cai rượu kéo dài từ vài giờ đến 3-4 tuần tùy mức độ nghiện
rượu nặng hay nhẹ:
Khả năng dung nạp rượu: Đồng thời với sự phát triển của hội chứng
cai rượu, ngưỡng dung nạp rượu của người bệnh cũng thay đổi. Ở giai đoạn
đầu, người nghiện uống lượng rượu ngày một tăng. Nhưng càng về sau,
lượng rượu ngày một giảm dần, có khi chỉ một lượng nhỏ rượu, người bệnh
đã say.
Rối loạn tâm thần: Thay đổi cảm xúc như rối loạn khí sắc, khoái cảm
chiếm ưu thế, khoan khoái dễ chịu, nói năng luyên thuyên, khoác lác, hay
đùa cợt, sàm sỡ, hoặc cáu gắt, buồn rầu, sợ hãi, công kích dọa nạt, chửi bới,
- 13 -
tấn công người khác. Trạng thái khí sắc này có thể thay đổi trong ngày. Về
đêm, người nghiện thường thấy những mộng mị rời rạc hoặc những ảo giác
lẻ tẻ, thường là ảo thị như nhìn thấy rắn rết, sâu bọ, hổ báo … đang rượt đuổi
bệnh nhân, khiến bệnh nhân hốt hoảng, sợ hãi, la hét. Trí tuệ, trí nhớ, khả
năng sáng tạo, sáng kiến đều giảm, tư duy trở nên bảo thủ, người bệnh đi dần
vào sa sút tâm thần.
Biến đổi nhân cách do rượu:
Đối với gia đình: Người bệnh ngày càng mất đi những thích thú cũ, trở
nên ích kỷ, lãnh đạm với người thân, đòi hỏi có tính chất vị kỷ. Không tôn
trọng tình cảm đạo đức, không quan tâm đến gia đình, tiêu xài tất cả tiền
lương để mua rượu, suốt ngày chăm lo đến việc làm thế nào để có rượu
uống. Người bệnh không cảm thấy xấu hổ vì đã phải ăn bám vợ con. Hơn
nữa, người bệnh cũng chẳng ân hận khi lấy cắp tiền của người thân để uống
rượu, thậm chí còn bán cả những vật dụng cần thiết của gia đình. Cuộc sống
tạm bợ, bê tha, hay nói dối, cuộc sống buông thả, nợ nần chồng chất, hứa
hão, bịa ra đủ thứ lý do để vòi tiền. Những cá tính tinh tế bị mất đi, do giảm

khả năng nắm bắt thực tại và ứng xử các tình huống. Khả năng phê phán
giảm rõ rệt. Bệnh nhân ngày càng thiếu lịch sự và hành động quá khích, thô
bạo. Bệnh nhân thường phủ nhận là mình đã dùng rượu quá mức. Người
bệnh thường hứa bỏ rượu, cam đoan rằng điều đó đối với họ chẳng khó khăn
gì, song thực tế bệnh nhân không đủ ý chí để từ chối những lời mời của các
bạn rượu. Trong nghiện rượu mạn tính, thời kỳ đầu người bệnh chỉ dùng
rượu từng lúc, về sau thường cảm thấy cồn cào vào buổi sáng và cả buổi
chiều. Lúc đầu chỉ uống vào những ngày nghỉ, ngày lễ khoảng 1-2 lần trong
tuần hoặc gặp thì uống, sau đó là tình trạng uống và say liên miên. Khi uống
rượu, người bệnh trở nên dễ bực dọc, hay gây sự, vô cớ cãi cọ, tục tằn,
thường tấn công, đập phá đồ đạc, đánh đập người thân, đe dọa tính mạng
- 14 -
người thân khiến cả gia đình luôn trong tình trạng hoảng loạn. Giai đoạn
nghiện rượu kéo dài về sau, khả năng dung nạp bắt đầu giảm xuống. Trong
vài năm liền đang uống hàng ly rượu lớn, người bệnh buộc phải giảm liều
hoặc phải ngừng uống rượu hẳn vì các rối loạn toàn thân nặng. Cứ như vậy
lúc tăng, lúc giảm, lúc buộc phải ngừng rồi lại uống lại, Cuối cùng, người
bệnh ngày càng suy nhược phải nằm tại giường (Theo nhận định của M.
Soyka, và cộng sự (2008)) [60].
Đối với công việc: Người bệnh nghỉ việc thường xuyên, hay xảy ra sự
cố trong công việc, trong quan hệ với đồng nghiệp, năng suất công việc giảm
sút, không hoàn thành nhiệm vụ, … làm cho bệnh nhân dễ bị buộc thôi việc.
Công việc không có, tiền kiếm được ngày một giảm sút. Bệnh nhân chán
nản, uống rượu nhiều hơn, sinh hoạt càng bê tha, càng không kiếm được việc
làm,
Đối với xã hội: Địa vị xã hội của người bệnh dần dần bị hạ thấp, mối
quan hệ xã hội bị thu hẹp dần, người bệnh mất dần những bạn bè thân thích,
đặc biệt những người bạn tốt muốn gần gũi khuyên can bệnh nhân từ bỏ
rượu, chỉ còn những bạn rượu chia sẻ thú uống rượu nhất thời. Phẩm chất xã
hội thoái hóa dần, thường vi phạm pháp luật, dễ gây tai nạn giao thông.

1.1.2.4. Sảng rượu
Sảng rượu là một trạng thái loạn thần cấp tính và trầm trọng, xuất hiện
ở những người nghiện rượu nặng mạn tính ít nhất sau năm năm, khi cơ thể bị
suy yếu vì quá mệt nhọc hay vì một bệnh lý cơ thể nào đó như nhiễm khuẩn,
chấn thương, … Sảng rượu cũng thường khởi đầu sau khi cai rượu tương đối
hoặc tuyệt đối. Trong một số trường hợp, sảng rượu xuất hiện trong một giai
đoạn uống nhiều rượu. Sảng rượu cấp thường gặp ở lứa tuổi trên 30. Nam
gặp nhiều hơn nữ. Theo Sumski, sảng rượu chiếm 1/2-3/4 loạn thần do rượu
- 15 -
ở những người nghiện rượu trên năm năm. Biểu hiện của sảng rượu là [16],
[54], [43]:
Giai đoạn khởi phát:
Sảng rượu có thể khởi phát cấp tính hay từ từ. Giai đoạn khởi phát có
thể kéo dài vài ngày đến hàng tuần. Trong giai đoạn này, biểu hiện chủ yếu
là mệt mỏi, chán ăn, rối loạn giấc ngủ, ác mộng, rối loạn thần kinh thực vật,
run rẩy, chếnh choáng. Thay đổi cảm xúc biểu hiện bằng lo lắng hay trầm
cảm. Bệnh nhân vẫn còn khả năng phê phán, song có thể có rối loạn định
hướng thoáng qua về không gian, thời gian. Hoạt động mất linh hoạt. Chú ý
kém tập trung.
Giai đoạn toàn phát:
Tam chứng cổ điển bao gồm: ý thức mù mờ và lú lẫn, các ảo tưởng và
ảo giác sinh động ở bất kỳ giác quan nào, triệu chứng run nặng. Các triệu
chứng khác thường gặp như hoang tưởng, kích động, mất ngủ hoặc đảo lộn
nhịp thức ngủ, tăng mạnh hoạt động thần kinh tự trị.
Trong mê sảng nặng người bệnh có rối loạn năng lực định hướng thời
gian và không gian, định hướng xung quanh đôi lúc bị lệch lạc, còn giữ được
định hướng bản thân. Người bệnh nhận thức xung quanh như là ảo ảnh, hoàn
toàn mất khả năng phê phán. Rối loạn ý thức thường tăng về chiều tối. Đôi
khi do sự lôi cuốn chú ý, người bệnh có thể trả lời đúng câu hỏi nhưng trạng
thái này không duy trì được lâu [61].

Có nhiều loại ảo giác như ảo thị, ảo thanh, ảo giác xúc giác… Các ảo
giác chiếm vị trí chủ yếu và có nội dung làm người bệnh ghê sợ, hốt hoảng.
Các ảo thị là những hình người, những sinh vật có kích thước bị thu nhỏ lại.
Đôi khi người bệnh cảm thấy các côn trùng đang bò trên cơ thể. Đôi khi
người ta gặp sảng nghề nghiệp: người bệnh thấy mình đang ở trong hoàn
- 16 -
cảnh nghề nghiệp thông thường, đang tiến hành những thao tác công việc
của mình. Hành vi người bệnh phù hợp với nội dung của ảo giác: khi thì
chăm chú nhìn vào một chỗ nào đó, khi thì có tư thế bảo vệ, khi lẩn trốn, khi
đi tìm, nét mặt có khi sợ hãi, có khi ngạc nhiên, đăm chiêu. Các rối loạn
hành vi nặng lên về ban đêm và có thể có trạng thái kích động. Hoang tưởng
trong sảng rượu cấp bao giờ cũng có. Đó là hoang tưởng mang tính chất cảm
thụ, nội dung có liên quan đến nội dung và sự biến đổi của ảo giác.
Các rối loạn toàn thân: a) Run chân tay, run lưỡi, và run toàn thân là
triệu chứng thường gặp. Do đó, sảng rượu còn được gọi là sảng run. Đó là
run ở cuối chi, nhanh và lan truyền mà người ta cảm thấy nhiều hơn là trông
thấy. Sự run rẩy cũng có trên mặt và lưỡi làm cho bệnh nhân khó nói. b) Rối
loạn thực vật: người bệnh đổ mồ hôi đầm đìa, sốt nhẹ. Trong trường hợp
nặng hơn, có thể sốt cao, mạch nhanh, huyết áp cao. Trong nước tiểu thường
có albumin. Trong máu, tỷ lệ bilirubin tăng, tốc độ máu lắng tăng. Trường
hợp nặng, có thể tử vong do thiểu năng tim mạch hoặc mắc thêm bệnh viêm
phổi. Trong trường hợp nhẹ hơn, bệnh thường kéo dài không quá 3-8 ngày.
Các biểu hiện bệnh nhẹ dần, trước tiên vào buổi sáng và ban ngày. Khả năng
phê phán đôi khi khôi phục muộn hơn. Trong trường hợp hãn hữu, sảng rượu
cấp có thể chuyển thành loạn thần Korsakoff hoặc trạng thái ảo giác do rượu.
1.1.2.5. Loạn thần do rượu
Loạn thần xuất hiện và phát triển do hậu quả tác động trực tiếp và kéo
dài của rượu lên não. Loạn thần xuất hiện không những do nồng độ rượu cao
trong cơ thể mà ngay cả khi lượng rượu trong máu không có hoặc có rất
thấp. Loạn thần do rượu với hoang tưởng và ảo giác chiếm ưu thế thường

gặp ở lứa tuổi 30-40, gặp ở nam nhiều hơn nữ (Tỷ lệ nam/nữ là 4/1). Loạn
thần do rượu thường gặp ở những người nghiện rượu mạn tính sau 10 năm
[13], [8].

×