Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

Tiểu luận môn tài chính quốc tế Tương lai của đồng tiền chung châu Âu trong bối cảnh khủng hoảng nợ công khu vực

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (690.66 KB, 30 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN

Đề tài : Tương lai của đồng tiền chung châu Âu
trong bối cảnh khủng hoảng nợ cơng khu vực.

LỚP

:

CH21H

Nhóm 2 : NGUYỄN QUỐC DŨNG
PHÙNG HỮU HẢI
ĐẶNG THU HẰNG
VŨ THỊ BÍCH HẠNH
TRẦN THỊ HỒNG HẠNH
PHAN HẢI HIỆP


MỤC LỤC
1. Khái niệm tiền tệ:...................................................................................................................4
2. Khái quát về đồng tiền chung Châu Âu (EUR) và các giai đoạn phát triển.....................6
PHẦN II: CUỘC KHỦNG HOẢNG NỢ CÔNG VÀ ẢNH HƯỞNG TỚI ĐỒNG EUR............................................12

1. Cuộc khủng hoảng nợ công ở Châu Âu.............................................................................12
1.1. Các tiêu chí đánh giá nợ cơng..........................................................................................12
1.2. Tình hình nợ công của các nước ở Châu Âu..................................................................13
1.3. Nguyên nhân của khủng hoảng nợ công ở Châu Âu ....................................................14
1.4. Hy Lạp, nền kinh tế trên bờ vực phá sản của Châu Âu................................................15
2. Những ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng nợ công đến vị thể của đồng Euro?.............16
2.1. Sự suy yếu của các nền kinh tế Châu Âu........................................................................16


PHẦN III: TƯƠNG LAI VÀ TRIỂN VỌNG CỦA ĐỒNG EUR.............................................................................22

2. Các giải pháp tăng cường vị thế EUR................................................................................25
PHẦN 5: BÀI HỌC RÚT RA TỪ KHU VỰC ĐỒNG TIỀN CHUNG CHÂU ÂU CHO KHU VỰC CHÂU Á................26
KẾT LUẬN...................................................................................................................................................30


MỞ ĐẦU
Thực trạng nợ công châu Âu qua những con số
14/27 nước thuộc Liên minh châu Âu (có cả Anh và Pháp) có tỷ lệ nợ tương đương hơn 60%
GDP, mức giới hạn an toàn mà Liên minh châu Âu đưa ra.
Hy Lạp không phải nước duy nhất đương đầu với khủng hoảng tín dụng và nợ.

Vấn đề nợ khơng chỉ của riêng Hy Lạp. 14/27 nước thuộc Liên minh châu Âu có tỷ lệ nợ
tương đương hơn 60% GDP, mức giới hạn mà Liên minh châu Âu đưa ra. Trong nhóm này có cả
một số nền kinh tế lớn của khu vực như Anh hay Pháp.
Chi tiêu vào phúc lợi xã hội và một số chương trình khác của chính phủ đã tăng nhanh trong
thập kỷ qua, đẩy tỷ lệ nợ công của khắp các nước trong khu vực lên cao.
Tình hình nợ cơng đã thực sự trở nên nghiêm trọng và đe dọa trực tiếp đến đồng tiền EUR
và các nền kinh tế Châu Âu


PHẦN I: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TIỀN TỆ VÀ ĐỒNG TIỀN CHUNG CHÂU ÂU
1. Khái niệm tiền tệ:
Tiền tệ là một phạm trù kinh tế nhưng cũng lại là một phạm trù lịch sử. Sự xuất hiện của tiền
tệ là một phát minh vĩ đại của loại người trong lĩnh vực kinh tế, nó có tác dụng thúc đẩy nhanh
chóng các hoạt động giao lưu kinh tế, làm thay đổi bộ mặt kinh tế xã hội.
Một truờng phái cho rằng tiền tệ ra đời là kết quả tất yếu khách quan của q trình trao đổi
hang hóa (Trường phái kinh tế chính trị học cổ điển như: Adam Smith, David Ricardo…)
Theo Mác, tiền tệ là một thứ hàng hoá đặc biệt, được tách ra khỏi thế giới hàng hoá, dùng để

đo lường và biểu hiện giá trị của tất cả các loại hàng hố khác. Nó trực tiếp thể hiện lao động xã
hội và biểu hiện quan hệ sản xuất giữa những người sản xuất hàng hóa.
Giá trị và giá cả của tiền tệ
• Tiền tệ có giá trị khơng phải vì nó có giá trị tự thân mà vì những gì tiền tệ có thể trao đổi
được. Giá trị của tiền tệ là số lượnghàng hóa và dịch vụ mua được bằng một đơn vị của tiền tệ, ví
dụ số lượng hàng hóa và dịch vụ mua được bằng một Dollar. Nói cách khác giá trị của tiền tệ là
nghịch đảo của giá cả hàng hóa.
• Giá cả của tiền tệ chính là lãi suất, nói một cách khác, giá cả của tiền tệ là số tiền mà
người ta phải trả cho cơ hội được vay nó trong một khoảng thời gian xác định.
• Giá trị của tiền tệ là 1 lượng vàng nguyên chất nhất định làm đơn vị tiền tệ
Tính chất của tiền tệ
Để có thể thực hiện được các chức năng của tiền, tiền tệ (hay tiền trong lưu thơng) phải có
các tính chất cơ bản sau đây:
• Tính được chấp nhận rộng rãi: đây là tính chất quan trong nhất của tiền tệ, người dân phải
sẵn sàng chấp nhận tiền trong lưu thông, nếu khác đi nó sẽ khơng được coi là tiền nữa. Kể cả một
tờ giấy bạc do ngân hàng trung ương phát hành cũng sẽ mất đi bản chất của nó khi mà trong thời
kỳ siêu lạm phát, người ta không chấp nhận nó như là một phương tiện trao đổi.
• Tính dễ nhận biết: Muốn dễ được chấp nhận thì tiền tệ phải dễ nhận biết, người ta có thể
nhận ra nó trong lưu thơng một cách dễ dàng. Chính vì thế những tờ giấy bạc do ngân hàng trung
ương phát hành được in ấn trông không giống bất cứ một tờ giấy chất lượng cao nào khác.
• Tính có thể chia nhỏ được: tiền tệ phải có các loại mênh giá khác nhau sao cho người bán
được nhận đúng số tiền bán hàng cịn người mua khi thanh tốn bằng một loại tiền có mệnh giá


lớn thì phải được nhận tiền trả lại. Tính chất này giúp cho tiền tệ khắc phục được sự bất tiện của
phương thức hàng đổi hàng: nếu một người mang một con bị đi đổi gạo thì anh ta phải nhận về
số gạo nhiều hơn mức anh ta cần trong khi lại khơng có được những thứ khác cũng cần thiết
khơng kém.
• Tính lâu bền: tiền tệ phải lâu bền thì mới thực hiện được chức năng cất trữ giá trị cũng
như mới có ích trong trao đổi. Một vật mau hỏng khơng thể dùng để làm tiền, chính vì vậy những

tờ giấy bạc được in trên chất liệu có chất lượng cao cịn tiền xu thì được làm bằng kim loại bền
chắc.
• Tính dễ vận chuyển: để thuận tiện cho con người trong việc cất trữ, mang theo, tiền tệ
phải dễ vận chuyển. Đó là lý do vì sao những tờ giấy bạc và những đồng xu có kích thước, trọng
lượng rất vừa phải chứ tiền giấy không được in khổ rộng ví dụ như khổ A4.
• Tính khan hiếm: Để dễ được chấp nhận, tiền tệ phải có tính chất khan hiếm vì nếu có thể
kiếm được nó một cách dễ dàng thì nó sẽ khơng cịn ý nghĩa trong việc cất trữ giá trị và không
được chấp nhận trong lưu thơng nữa. Vì thế trong lịch sử những kim loại hiếm như vàng, bạc
được dùng làm tiền tệ và ngày nay ngân hàng trung ương chỉ phát hành một lượng giới hạn tiền
giấy và tiền xu.
• Tính đồng nhất: tiền tệ phải có giá trị như nhau nếu chúng giống hệt nhau không phân
biệt người ta tạo ra nó lúc nào, một đồng xu 5.000 VND được làm ra cách đây 2 năm cũng có giá
trị như một đồng xu như thế vừa mới được đưa vào lưu thơng. Có như vậy tiền tệ mới thực hiện
chức năng là đơn vị tính tốn một cách dễ dàng và thuận tiện trong trao đổi.
Làm thế nào để đồng tiền của một quốc gia nào trở thành một ngoại tệ mạnh
• - Đảm báo cho đồng tiền thực hiện đúng chức năng của nó: là phương tiện trao đổi hàng
hóa, dịch vụ.
• - Tiền phát hành ra chỉ nên được đưa vào lưu thông thông qua kênh cho các doanh nghiệp
thương mại vay- để tiền thực hiện chức năng trao đổi hàng hoá, giúp cho sự mua bán, trao đổi
hàng hố của mọi người trong xã hội.
• Khơng được lợi dụng dùng trực tiếp nguồn tiền phát hành để phát triển sản xuất, đầu tư
xây dựng hạ tầng kỹ thuật, các cơng trình cơng cộng, tạo sức ép lên lạm phát và làm mất giá
đồng tiền.
Khủng hoảng tiền tệ


• Hiện chưa có một định nghĩa được chấp nhận rộng rãi nhưng nhìn chung khủng hoảng
tiền tệ được dùng để chỉ hiện tượng giá trị đối ngoại của đơn vị tiền tệ quốc gia bị suy giảm (nói
cách khác là mất giá so với ngoại tệ) một cách nghiệm trọng và nhanh chóng. Chính phủ trở nên
vơ cùng khó khăn khi kiểm soát tỷ giá hối đoái và khi ngân hàng trung ương cố gắng can thiệp tỷ

giá để bảo vệ giá trị của tiền tệ thì dự trữ ngoại hốicủa quốc gia bị mất đi ở quy mô lớn. Đã có
một số mơ hình khủng hoảng tiền tệ được nghiên cứu, một trong số đó là những nhà đầu cơ tấn
công vào tiền tệ của một quốc gia và khi họ có nhiều tiền hơn ngân hàng trung ương của quốc
gia đó thì khủng hoảng tiền tệ sẽ xảy ra.
2. Khái quát về đồng tiền chung Châu Âu (EUR) và các giai đoạn phát triển
Euro (€; mã ISO: EUR), đơn vị tiền tệ chính thức của Liên minh Tiền tệ châu Âu, là tiền tệ
chính thức trong 17 quốc gia thành viên của Liên minh châu Âu (Áo, Bỉ, Bồ Đào Nha, Đức, Hà
Lan, Hy Lạp, Ireland,Luxembourg, Pháp, Phần Lan, Tây Ban Nha, Ý, Slovenia, Malta, Cyprus,
Slovenia, Estonia) với dân số hơn 330 triệu người (bên cạnh đó, cịn có hơn 175 triệu dân trên
thế giới sử dụng các đồng tiền được neo giá với đồng Euro).
Việc phát hành đồng Euro rộng rãi đến người tiêu dùng bắt đầu từ ngày 1 tháng 1 năm 2002.
Tiền giấy Euro giống nhau hoàn toàn trong tất cả các quốc gia. Tiền giấy Euro có mệnh giá 5
Euro, 10 Euro, 50 Euro, 100 Euro, 200 Euro và 500 Euro. Mặt trước có hình của một cửa sổ hay
phần trước của một cánh cửa, mặt sau là một chiếc cầu. Các đồng tiền kim loại euro cùng một
mệnh giá giống nhau ở mặt trước, nhưng có trang trí khác nhau ở mặt sau, đặc trưng cho từng
quốc gia phát hành.
Ra đời từ năm 1999, đồng Euro hiện là đồng tiền chung của 17 nước châu Âu, và được hơn
330 triệu người (tháng 3/2012) trên thế giới sử dụng. Là đồng tiền chung của một khu vực có
quy mơ kinh tế lớn (với mức đóng góp trên 15% GDP tồn cầu, 2011), đồng Euro đã trở thành
một trong những đồng tiền chủ chốt với vai trị và vị thế khơng ngừng được nâng cao trên các thị
trường tài chính quốc tế.
Kể từ khi ra đời, giá trị của đồng EUR so với các đồng tiền chủ chốt (USD, GBP, JPY) đã
không ngừng tăng lên. Tính tốn theo số liệu của Reuters cho thấy, đồng EUR đã tăng 13,6% so
với đồng USD trong giai đoạn 13 năm kể từ khi ra đời (tính đến ngày 25/6/2012). Tuy nhiên,
trong giai đoạn 1999-2012, có thể nhận thấy rõ 3 giai đoạn biến động của đồng EUR: (i) Giai
đoạn 1999-2001 (giá trị đồng Euro giảm liên tục); (ii) Giai đoạn 2002-2008 (giá trị đồng Euro


tăng mạnh); và (iii) Giai đoạn 2008-2012 (đồng Euro biến động mạnh sau khủng hoảng tài chính
tồn cầu. (Hình 1,2,3)

Hình 1. Các giai đoạn biến động tỷ giá EUR/USD kể từ khi đồng Euro ra đời

(Nguồn: Reuters)
Hình2. Biến động tỷ giá EUR/GBP, 1999-2012

Hình
3.
động

Biến
tỷ

giá
EUR/JPY,
1999-2012

(Nguồn: Reuters)


(i)

Giai đoạn 1999-2001 (đồng Euro giảm giá, nhưng vai trò quốc tế cũng từng

bước được định hình):
Trong giai đoạn này, đồng Euro được sử dụng như là một đơn vị hạch tốn trên các thị
trường tài chính, thay thế cho Đơn vị tiền tệ châu Âu cũ (ECU) theo tỷ lệ trao đổi là 1:1. Kể từ
1/1/1999, trái phiếu nhà nước được phát hành bằng đồng Euro và việc chuyển khoản giữa các
ngân hàng được thực hiện bằng đồng tiền quốc gia hoặc bằng đồng Euro.
Mặc dù vậy, việc tiếp nhận đồng Euro trong thanh toán thương mại quốc tế ở giai đoạn đầu
khi đồng tiền này mới ra đời cịn rất khó khăn do đồng Euro khơng tồn tại trên thực tế dưới dạng

tiền mặt. Bên cạnh đó, tình hình kinh tế - xã hội của châu Âu trong giai đoạn 1999-2001 vẫn cịn
nhiều khó khăn và khả năng thu hút vốn đầu tư nước ngồi cịn thấp. Các yếu tố trên khiến đồng
Euro giảm giá mạnh so với hầu hết các đồng tiền chủ chốt (USD, GBP, JPY, CHF, CAD) trong 3
năm đầu khi mới ra đời. Trong giai đoạn 1999-2001, đồng Euro giảm giá 26,5% so với Đôla Mỹ,
giảm 12% so với Bảng Anh, giảm 8,5% so với Yên Nhật, giảm 8,4% so với Franc Thụy Sỹ, và
giảm 22% so với Đơla Canada.
Tuy vậy, vai trị dự trữ quốc tế của đồng Euro cũng đã bước đầu được định hình. Đồng Euro
là đồng tiền chiếm tỷ trọng lớn thứ hai (sau USD) trong cơ cấu dự trữ ngoại hối toàn cầu. Tỷ
trọng đồng Euro trong tổng dự trữ ngoại hối của toàn cầu được nâng từ mức 17,9% (năm 1999)
lên mức 19,2% vào cuối năm 2001, mặc dù con số này còn khá khiêm tốn.
(ii)

Giai đoạn 2002-2008 (đồng Euro tăng giá; vai trò và vị thế được nâng lên):

Kể từ khi được lưu hành chính thức tại châu Âu dưới hình thức tiền giấy và đồng xu tại 12
quốc gia (năm 2002), đồng Euro đã không ngừng tăng giá so với các đồng tiền mạnh khác, đồng
thời, vai trò và vị thế của đồng tiền này cũng từng bước được củng cố và nâng lên. Tính chung
trong giai đoạn 2002-2008, đồng Euro đã tăng giá 48,5% so với Đôla Mỹ, tăng 46,4% so với
Bảng Anh, tăng 12,7% so với Yên Nhật và tăng 21,8% so với Đôla Canada.
Cùng với việc tăng giá trên thị trường tiền tệ, vai trò và vị thế quốc tế của đồng tiền chung
châu Âu cũng tăng lên. Các giao dịch sử dụng đồng Euro đã tăng mạnh trong giai đoạn này,
khiến các ngân hàng trung ương chuyển sang xu hướng tích trữ nhiều hơn các tài sản được định
giá bằng đồng Euro trong dự trữ ngoại hối của mình. Đồng Euro được sử dụng nhiều nhất ở các
nước châu Âu, sau đó đến khu vực Bắc Mỹ. Tỷ trọng của đồng Euro trong dự trữ ngoại hối toàn
cầu đã tăng từ mức 19,2% (2001) lên 23,8% (2002), 26,4% (2008) và thậm chí lên 27,7% vào


cuối năm 2009 – tỷ trọng cao nhất của đồng tiền này trong dự trữ ngoại hối toàn cầu kể từ khi ra
đời.
Giá trị của các chứng khoán nợ được định danh bằng EUR cũng tăng đáng kể, từ khi đồng

tiền này ra đời. Tỷ trọng của EUR trên thị trường chứng khoán quốc tế cũng tăng từ mức 20%
năm 1999) lên hơn 30% vào năm 2009, cao hơn mức 10% của Yên Nhật.
(iii)

Giai đoạn 2008-2012 (đồng Euro biến động mạnh; vai trò và vị thế suy giảm):

Kể từ sau cuộc khủng hoảng tài chính tồn cầu, tỷ giá đồng Euro biến động mạnh hơn và
nhìn chung theo xu thế đi xuống. Vai trò và vị thế của đồng tiền chung này cũng suy giảm theo,
đặc biệt trong bối cảnh cuộc khủng hoảng nợ cơng châu Âu có nguy cơ biến thành cuộc khủng
hoảng xã hội và thể chế, khiến khu vực đồng Euro phải đối mặt với nguy cơ tan rã. Điều này
khiến khả năng tồn tại của đồng Euro cũng được đặt nghi vấn.
Trước đây, với những tiêu chí chặt chẽ để được tham gia khu vực đồng tiền chung Châu Âu
(như thâm hụt ngân sách quốc gia dưới 3% GDP, nợ công dưới 60% GDP, minh bạch về ngân
sách...), đồng Euro đã tạo sự tin cậy khá cao trong giới tài chính quốc tế kể từ khi ra đời vào
ngày 1/1/1999. Tuy nhiên, kể từ khi Hy Lạp, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha rơi vào cuộc khủng
hoảng nợ cơng, cùng với tình trạng nợ cơng ngày càng xấu đi ở các nước thành viên khác, thì giá
trị và sức mạnh của đồng Euro đã bị suy giảm.

Hình 4. Chỉ số giá EUR giai đoạn 2009-2012


(Ghi chú: Chỉ số giá EUR đo lường sự biến động của đồng EUR so với một rổ tiền tệ gồm
6 loại: USD, JPY, GBP, CAD, CHF, SEK.)
Tính chung trong vịng hơn 3 năm sau khủng hoảng tài chính tồn cầu (từ đầu năm 2009 đến
25/6/2012), chỉ số giá EUR đã giảm 16,1% (Hình 4). Đồng Euro giảm giá 8,6% so với Đôla Mỹ,
giảm 15,8% so với Bảng Anh, giảm 20,5% so với Yên Nhật, giảm 19,7% so với Franc Thụy Sỹ
và giảm 24,5% so với Đôla Canada trong giai đoạn 2009-2012. Đặc biệt, chỉ trong vòng 1 năm
trở lại đây (6/2011-6/2012), chỉ số giá đồng Euro giảm 9,8%, trong đó, đồng Euro giảm 12,3%
so với Đơla Mỹ, giảm 10% so với Bảng Anh, giảm 13,7% so với Yên Nhật. (Tính tốn từ số liệu
của Reuters đến ngày 25/6/2012).

Cùng với sự suy giảm về giá trị, vai trò và vị thế quốc tế của đồng Euro cũng chịu tác động
tiêu cực. Bối cảnh kinh tế thế giới có nhiều biến động hơn kể từ sau khủng hoảng tài chính tồn
cầu cũng như cuộc khủng hoảng nợ công châu Âu lan rộng khiến các nước có xu hướng đa dạng
hóa dự trữ ngoại hối nhằm giảm bớt rủi ro. Điều này khiến tỷ trọng dự trữ bằng đồng Euro giảm
từ mức 27,7% (năm 2009) xuống mức 25% vào cuối năm 2011, mặc dù vẫn là đồng tiền dự trữ
quốc tế lớn thứ hai trên thế giới, sau Đôla Mỹ. Trong khi đó, cơ cấu dự trữ của các đồng tiền
khác tăng từ mức 2% (năm 2007) lên 3,9% vào cuối năm 2011 trong bối cảnh các nước tìm kiếm
việc đa dạng hóa rủi ro sau khủng hoảng. (Bảng 1)
Bảng 1. Cơ cấu dự trữ ngoại hối toàn cầu theo loại tiền

Năm

199
9

200
5

200
6

200
7

20
08

Tổng dự trữ ngoại hối
chính thức (nghìn tỷ USD)


20
09

7,
1,8

4,3

5,3

6,7 3

20
10

8,
2

20
11

9,
3

10
,2

Dự trữ thống kê được và
có phân loại tỷ trọng tiền tệ
(nghìn tỷ USD)


4,
1,4

2,8

3,3

4,1 2

4,
6

64
Đôla Mỹ (%)

71,0

66,9

65,5

64,1 ,1

17,9

24,1

25,1


26,3 ,4

2
62

,0
26

Đồng Euro (%)

5,
6
61
,8

27
,7

5,

62
,1

26
,0

25
,0



3,
Yên Nhật (%)

6,4

3,6

3,1

2,9 1

2,
9

4,
Bảng Anh (%)

2,9

3,6

4,4

4,7 0

1,8

1,9

2,0


2,0 3

7
4,

2
2,

Các loại khác (%)

3,
7
3,
9

3,
2

3,

3,
9

4,
6

5,
3


(Nguồn: IMF Statistics Department COFER Database, updated 30 March 2012)
Quan ngại về khả năng đồng Euro sụp đổ đã lên đến đỉnh điểm trên thị trường tài chính quốc
tế khi các nhà đầu tư từ chối mua một số loại trái phiếu Chính phủ châu Âu. Bên cạnh đó, lãi suất
trái phiếu chính phủ nhiều nước thuộc khu vực đồng Euro đã tăng lên mức cao kỷ lục trong
những tháng cuối năm 2011. Lãi suất trái phiếu của Italy đã tăng lên mức 7,6-7,9%/năm để huy
động hơn 7,5 tỷ USD trong khi lãi suất trái phiếu chính phủ kỳ hạn 10 năm của Pháp đã tăng 0,5
điểm phần trăm trong bối cảnh các khoản nợ của Pháp đã chạm ngưỡng 1.700 tỷ Euro, gấn mức
1.900 tỷ Euro của Italia. Lãi suất trái phiếu 10 năm của Đức cũng tăng 0,145 điểm phần trăm lên
2,056%, lần đầu tiên tăng cao hơn chi phí vay của Mỹ kể từ tháng 10/2011, đe dọa nghiêm trọng
đến sự ổn định của khu vực.
Nhằm tăng cường củng cố và bảo vệ đồng Euro, tại Hội nghị Thượng đỉnh EU (kết thúc
ngày 9/12/2011), 26/27 thành viên EU (trừ Anh) đã đồng ý đưa ra một thỏa thuận mới về giám
sát tài chính chặt chẽ hơn. Theo đó, giới hạn thâm hụt cơ cấu sẽ ở mức 0,5% GDP của mỗi nước
thành viên, trong khi đó trần nợ cơng vẫn duy trì ở mức 3% GDP, kèm theo điều luật mới quy
định nếu nước nào vi phạm sẽ tự động bị trừng phạt nặng nề.
Một giải pháp khác cũng được thông qua nhằm cứu nguy cho Khu vực đồng Euro đó là
thành lập quỹ cứu trợ thường trực của khu vực có quy mơ 500 tỷ EUR với tên gọi là Cơ chế Ổn
định châu Âu (ESM), dự kiến có hiệu lực vào tháng 7/2012. ESM sẽ được cấp một giấy phép
hoạt động trong lĩnh vực ngân hàng, giúp ESM có thể tiếp cận thanh khoản của Ngân hàng
Trung ương châu Âu (ECB), nâng cao khả năng của cơ chế này đối phó với cuộc khủng hoảng
nợ của khu vực đồng Euro. ESM cũng có khả năng trực tiếp tái cấp vốn cho các ngân hàng. Mặc
dù vậy, để thỏa thuận này được ký kết vào năm tới với sự tham gia của 17 nước thành viên và 9
nước cịn lại sẽ khơng phải là vấn đề đơn giản, nếu khơng muốn nói là q khó khăn. Do đó,


đồng Euro sẽ còn phải đối mặt với nguy cơ tan rã trong năm 2012 nếu cuộc khủng hoảng nợ
công khơng được kiểm sốt và các nước trong khu vực không ký kết được thỏa thuận chung
Kỳ vọng về đồng tiền chung Châu Âu
- Đối với khu vực đồng Euro (Eurozone), đồng tiền chung ra đời đã thúc đẩy sự phát triển
thương mại giữa các quốc gia thành viên, giúp tối đa hóa lợi ích trao đổi thương mại trong khu

vực nhờ vào việc giảm thiểu biến động tỷ giá và hạn chế chi phí giao dịch liên quan đến chuyển
đổi các đồng tiền khác nhau. Việc niêm yết một đồng tiền chung cũng giúp thị trường tài chính
hoạt động hiệu quả hơn, các chính phủ và doanh nghiệp cũng giảm được chi phí tiếp cận với các
nguồn vốn trên thị trường tài chính.
- Giảm thiểu rủi ro về tỷ giá hối đoái
Với đồng tiền chung Châu Âu, người ta cũng tin rằng giá cả của sản phẩm và dịch vụ sẽ
khơng cịn chênh lệch nhau nhiều nữa. Điều này dẫn đến cạnh tranh mạnh hơn giữa các doanh
nghiệp và vì thế sẽ làm giảm lạm phát và tăng sức mua của người tiêu thụ.
PHẦN II: CUỘC KHỦNG HOẢNG NỢ CÔNG VÀ ẢNH HƯỞNG TỚI ĐỒNG EUR
1. Cuộc khủng hoảng nợ cơng ở Châu Âu
1.1. Các tiêu chí đánh giá nợ cơng
Theo WB (2002) thì nợ cơng là tồn bộ những khoản nợ của Chính phủ và những khoản nợ
được Chính phủ bảo lãnh. Với định nghĩa như thế này, nếu như hiểu nợ của Chính phủ bao gồm
nợ của Chính phủ Trung ương và nợ của chính quyền địa phương thì có thể thấy định nghĩa của
WB giống với định nghĩa được đưa ra trong Luật quản lý nợ cơng của Việt Nam.
Cịn theo IMF (2010), thì nợ cơng được hiểu là nghĩa vụ trả nợ của khu vực cơng. Đi kèm
với đó là định nghĩa cụ thể về khu vực cơng, bao gồm khu vực Chính phủ và khu vực các tổ chức
Cơng
Để đánh giá tính bền vững của nợ cơng, tiêu chí tỷ lệ nợ cơng/GDP được coi là chỉ số đánh
giá phổ biến nhất. Để bảo đảm an tồn của nợ cơng, các nước thường sử dụng các tiêu chí sau
làm giới hạn vay và trả nợ: (i) Giới hạn nợ công không vượt quá 50% - 60% GDP hoặc không
vượt quá 150% kim ngạch xuất khẩu; (ii) Dịch vụ trả nợ công không vượt quá 15% kim ngạch
xuất khẩu và không vượt quá 10% chi ngân sách. Theo khuyến cáo của các tổ chức quốc tế, tỷ lệ
hợp lý với trường hợp các nước đang phát triển nên ở mức dưới 50% GDP. Tuy nhiên, trên thực
tế khơng có hạn mức an tồn chung cho các nền kinh tế; không phải tỷ lệ nợ công trên GDP thấp


là trong ngưỡng an toàn và ngược lại. Chẳng hạn, Hoa Kỳ có tỉ lệ nợ bằng 96% GDP, nhưng vẫn
được xem ở ngưỡng an toàn bởi năng suất lao động cao nhất thế giới là cơ sở đảm bảo cho việc
trả nợ. Nhật Bản có số nợ tương đương với 200% GDP vẫn được coi là ở ngưỡng an tồn. Trong

khi đó, nhiều nước có tỷ lệ nợ trên GDP thấp hơn rất nhiều nhưng đã rơi vào tình trạng khủng
hoảng nợ như Argentina năm 2001 là 45% GDP; Ukraina năm 2007 với 13 % GDP, và Rumani
là 20% GDP. Mới đây là trường hợp của Hy Lạp với tỷ lệ nợ lên đến 113,5 % GDP, Ireland ước
khoảng 98,5 % GDP. Vì vậy, để đánh giá đúng mức độ an tồn của nợ cơng, khơng thể chỉ quan
tâm đến tỷ lệ nợ trên GDP, mà cần phải xem xét một cách toàn diện trong mối liên hệ với hệ
thống các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô, nhất là tốc độ và chất lượng tăng trưởng kinh tế, năng suất lao
động tổng hợp, hiệu quả sử dụng vốn (qua tiêu chí ICOR), tỉ lệ thâm hụt ngân sách, mức tiết
kiệm nội địa và mức đầu tư toàn xã hội... Bên cạnh đó, những tiêu chí như: cơ cấu nợ công, tỷ
trọng các loại nợ, cơ cấu lãi suất, thời gian trả nợ… cũng cần được phân tích kỹ lưỡng khi đánh
giá tính bền vững nợ cơng.
1.2. Tình hình nợ công của các nước ở Châu Âu
Khủng hoảng nợ công châu Âu là một cuộc khủng hoảng nợ công với điểm bùng nổ đầu tiên
là Hy Lạp vào đầu năm 2010 khi chi phí cho các khoản nợ Chính phủ liên tục tăng lên; cụ thể là
lãi suất trái phiếu Chính phủ kỳ hạn 2 năm của Hy Lạp liên tục tăng cao từ 3,47% vào tháng 01
năm 2010, lên 9,73% thời điểm tháng 07 năm 2010 và nhảy vọt lên 26,65%/năm vào tháng 07
năm 2011. Cuộc khủng hoảng sau đó đã lan sang Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha và tiếp theo là Ý
trong khu vực đồng euro. Pháp đang là quốc gia có nhiều nguy cơ tụt hạng tín dụng. Cộng hịa
Sip cũng đã bị đẩy tới bờ vực để nhận gói cứu trợ.
Từ cuối năm 2009, lo ngại về cuộc khủng hoảng nợ quốc gia gia tăng giữa các nhà đầu tư
liên quan đến một số nước châu Âu, mối lo sợ này tăng lên vào đầu năm 2010. Các quốc gia có
vấn đề về nợ cơng trong khu vực châu Âu bao gồm các thành viên Hy Lạp, Ireland, Ý, Tây Ban
Nha và Bồ Đào Nha, và cũng có một số khu vực châu Âu khơng thuộc Liên minh châu Âu.
Iceland, đất nước trải qua cuộc khủng hoảng tài chính lớn nhất trong năm 2008 khi tồn bộ hệ
thống ngân hàng quốc tế của nó sụp đổ, ít bị ảnh hưởng bởi cuộc khủng hoảng nợ công. Trong
Liên minh châu Âu, đặc biệt là ở các nước nơi các khoản nợ công tăng mạnh do kế hoạch giải
cứu ngân hàng, khủng hoảng niềm tin dấy lên với việc mở rộng lây lan lãi suất trái phiếu và bảo
hiểm rủi ro giao dịch hốn đổi tín dụng mặc định giữa các nước này và các nước thành viên EU
khác, quan trọng nhất là Đức. Ngày 2/5/2010, các nước thành viên khu vực đồng euro và Quỹ
Tiền tệ Quốc tế đã thông qua khoản vay 110 tỷ euro cho Hy Lạp, với điều kiện nước này phải



thực thi các biện pháp thắt lưng buộc bụng khắc nghiệt. Ngày 09/05/2010, Bộ trưởng Bộ Tài
chính châu Âu đã thơng qua gói giải cứu trị giá 750 tỷ euro nhằm đảm bảo sự ổn định tài chính ở
khu vực châu Âu, và lập ra Ủy ban Ổn định Tài chính châu Âu. Tiếp theo đó là gói cứu trợ trị giá
85 tỷ euro cho Ireland vào tháng 11 năm 2010 và 78 tỷ euro cho Bồ Đào Nha vào tháng 5 năm
2011. Cuộc khủng hoảng nợ công đã đe dọa sự tồn tại của đồng tiền euro, gây ảnh hưởng nền tài
chính tồn cầu
1.3. Ngun nhân của khủng hoảng nợ công ở Châu Âu
Nguyên nhân đầu tiên của cuộc khủng hoảng này chính là do dư âm từ cuộc khủng hoảng tài
chính tồn cầu cuối năm 2007 đánh mạnh vào nền kinh tế tại các quốc gia phát triển. Sự suy
thoái kinh tế khiến cho các quốc gia phải thực hiện các biện pháp kích thích kinh tế thơng qua
việc tăng chi và giảm thu ngân sách, khiến cho ngân sách chính phủ thâm hụt mạnh.
Những chính sách tăng trưởng tại các quốc gia này không đi kèm với một chính sách tài
khóa bề vững và sự mất cân đối trong việc vay nợ của mình. Hy Lạp, kể từ khi gia nhập khối
đồng tiền chung Eurozone vào năm 2011 cho đến khủng hoảng tài chính năm 2008 , mức thâm
hụt ngân sách được cơng bố trung bình vào khoảng 5% mỗi năm, trong khi con số này của cả
khối Eurozone chỉ là khoảng 2% (IMF, 2009). Chính vì thế, Hy Lạp đã khơng thể duy trì được
những chỉ số theo quy định chuẩn của Ủy ban kinh tế và tiền tệ của EU (EMU), với mức trần
thâm hụt ngân sách là 3% và nợ nước ngoài là 60%. Tuy nhiên, Hy Lạp không phải là quốc gia
duy nhất , bởi có đến 25 trên 27 thành viên EU khơng đạt được cam kết này.
Sự thâm hụt tài khóa của các quốc gia trong khối PIIGS đến từ nhiều nguyên nhân. Tại Hy
Lạp là việc thu ngân sách không đảm bảo trong khi chính phủ lại chi tiêu quá nhiều. Quốc gia
này được báo chí nhắn nhiều về nạn trốn thuế, khi tăng trưởng GDP danh nghĩa trong giai đoạn
2000-2007 đạt mức trung bình 8.25% thì mức tăng về thu thuế chỉ là 7%. Ngồi mức chi tiêu
cơng thơng thường, Hy Lạp còn phải trả giá cho khoản đầu tư công khổng lồ từ Olympic 2004.
Trường hợp của Ireland, là do chính phủ thực thi để cứu lấy các ngân hàng, biến nợ xấu ngân
hàng thành các khoản nợ công. Trường hợp của Bồ Đào Nha cũng là do sự chi tiêu hoang phí
của chính phủ vào quá nhiều dự án công không bền vững.
Một nguyên nhân nữa liên quan đến chính sách tài khóa chính là sự hạn chế trong cơ chế
phối hợp điều hành trong khu vực sử dụng đồng tiền chung Eurozone. Các quốc gia trong khu

vực chủ yếu hợp tác trong các chính sách tiền tệ, nhằm đảm bảo duy trì giá trị đồng EURO, trong
khi các chính sách tài khóa lại chưa có được một sự đồng thuận và hài lòng tương ứng. Rõ ràng,


mặc dù đã có những quy định cụ thể về mức thâm hụt ngân sách cũng như nợ công nhưng lại
khơng có một cơ chế giám sát và quản lý hiệu quả đối với từng quốc gia thành viên. Chính vì
vậy, sự vỡ nợ tại một quốc gia là Hy Lạp đã kéo theo khủng hoảng niềm tin lan sang các quốc
gia có chính sách tài khóa lỏng lẻo khác.
Cuối cùng, nguyên nhân khiến cuộc khủng hoảng lan rộng và có nguy cơ trầm trọng hơn
chính là việc thiếu cơ chế phổi hợp ứng phó giữa các quốc gia trong khu vực. Thứ nhất, mức độ
nghiêm trọng cũng như rủi ro của cuộc khủng hoảng kể từ khi bắt đầu chưa được nhận thức đầy
đủ do giới chính trị gia vẫn cố chấp và không chịu thừa nhận thực trạng của nền kinh tế. Ví dụ
như việc Hy Lạp chê giấu thông tin về mức thâm hụt ngân sách của mình. Sự hỗ trợ ban đầu của
EU lại bị từ chối thẳng thừng, để đến khi Hy Lạp chính thức phải cầu cứu viện trợ thì khủng
hoảng niềm tin ngay lập tức đã lan sang các quốc gia thành viên khác. Thứ hai, các quốc gia rơi
vào khủng hoảng cũng khơng có sự đồng thuận nhất trí chung nào trong việc tìm kiếm ngun
nhân và có những chính sách giải cứu thích hợp. Hầu hết các quốc gia đều cố gắng thực hiện
những chính sách của riêng mình trước khi khó khăn chồng chất và phải nhờ đến sự viện trợ của
EU và IMF, khơng hề có một chiến lược xử lý về dài hạn được đưa ra.
1.4. Hy Lạp, nền kinh tế trên bờ vực phá sản của Châu Âu
Hy Lạp là một trong những mắt xích tương đối yếu của trong khối nước sử dụng đồng tiền
chung châu Âu (Eurozone). Hiện tại, vấn đề nợ công quá cao và sự yếu kém của nền kinh tế do
khủng hoảng tài chính khiến Hy Lạp đang đối diện với rủi ro lớn mà khó có thể giải quyết trong
ngắn hạn. Rủi ro này xuất phát từ nợ công cao do thâm hụt ngân sách cao, kéo dài, và thêm vào
đó một tỷ lệ lớn khoản nợ này là các khoản vay từ nước ngoài.
Tiết kiệm trong nước thấp, vay nợ nước ngồi cho chi tiêu cơng. Kinh tế Hy Lạp tăng trưởng
mạnh, bình quân ở mức 4.2%/năm trong giai đoạn 2002-2007. Lợi tức trái phiếu liên tục giảm
nhờ vào việc gia nhập liên minh châu Âu (EU), tạo điều kiện cho chính phủ Hy Lạp tăng cường
vay nợ tài trợ cho chi tiêu cơng. Thêm vào đó, tiết kiệm nội địa của nước này cũng sụt giảm
nhanh chóng. Những năm cuối của của thập niên 90 tỷ lệ tiết kiệm trong nước bình quân chỉ ở

mức 11%, thấp hơn nhiều so với mức 20% của các nước như Bồ Đào Nha, Ý và Tây Ban Nha.
Do vậy, đầu tư trong nước phụ thuộc khá nhiều vào các dòng vốn đến từ bên ngồi.
Chi tiêu kích thích kinh tế sau khủng hoảng năm 2008 làm trầm trọng thêm vấn đề. Năm
2008, khủng hoảng tài chính tồn nổ ra đã ảnh hưởng khá mạnh đến các ngành công nghiệp chủ
chốt của nước này. Ngành du lịch và vận tải biển, doanh thu đều sụt giảm trên 15% trong năm


2009. Kinh tế Hy Lạp cũng lâm vào tình trạng khó khăn, nguồn thu để tài trợ cho ngân sách nhà
nước bị co hẹp mạnh. Trong khi đó Hy Lạp lại phải tăng cường chi tiêu cơng để kích thích kinh
tế. Tính đến tháng 01/2010, nợ cơng của Hy Lạp ước tính lên tới 216 tỷ Euro và mức nợ lũy kế
được dự báo có thể vượt mức 120% GDP.
Tương lai của Hy lạp và xu hướng các nước nợ công trong liên minh EU?
Hy Lạp là một nền kinh tế nhỏ, hàng năm chỉ đóng góp khoảng 2% vào GDP của khu vực
đồng tiền chung châu Âu. Tuy vậy, nếu Hy Lạp mất khả năng thanh tốn thì hậu quả sẽ lan rộng
khắp châu Âu và có thể gây nên một cuộc khủng hoảng nợ trên quy mô lớn. Vì thế các nước
quyết tâm cứu nền kinh tế Hy Lạp thốt khỏi khủng hoảng.
EU thơng qua gói cứu trợ 110 tỷ Euro (tương đương 136 tỷ USD). EU đã lập quỹ chống
khủng hoảng trị giá 750 tỷ Euro (gần 1,000 tỷ USD), trong đó có 250 tỷ Euro từ nguồn IMF,
dành cho các nước EU để ngăn chặn cuộc khủng hoảng nợ của Hy Lạp đe dọa sự ổn định của các
thị trường tài chính tồn cầu.
Ngân hàng Dự trữ Liên bang Mỹ (FED) thông báo mở lại các dịch vụ hoán đổi tiền tệ để
NHTW châu Âu (ECB) tiếp cận dễ dàng hơn các nguồn tài chính bằng đồng USD. Ngoài ra,
ECB cũng đã bắt đầu mua vào trái phiếu của các nước EU trên thị trường thứ cấp, nhằm tăng
cường tính thanh khoản cho thị trường và ngăn chặn sự lan rộng của khủng hoảng nợ công.
Để đổi lại khoản cứu trợ giá trị thực tế 30 tỷ Euro, Hy Lạp sẽ phải chấp nhận “thắt lưng
buộc bụng” để giảm thâm hụt ngân sách từ 13.6% xuống cịn dưới 3% trong vịng ít nhất 3 năm
tới. Cụ thể, Hy Lạp sẽ phải thực hiện khá nhiều quy tắc hà khắc.
2. Những ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng nợ công đến vị thể của đồng Euro?
2.1. Sự suy yếu của các nền kinh tế Châu Âu
Trước đây, với những tiêu chí chặt chẽ để được tham gia khu vực Eurozone (như thâm hụt

ngân sách quốc gia dưới 3% GDP, nợ công dưới 60% GDP, minh bạch về ngân sách...), đồng
Euro đã tạo sự tin cậy khá cao trong giới tài chính quốc tế kể từ khi ra đời. Tuy nhiên, kể từ khi
Hy Lạp, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha rơi vào cuộc khủng hoảng nợ công, cùng với tình trạng nợ
cơng ngày càng xấu đi ở các nước thành viên khác thì giá trị và sức mạnh của đồng Euro đã bị
suy giảm theo.
Tính từ đầu năm 2009 đến 25/6/2012, chỉ số giá Euro đã giảm 16,1%. Đồng Euro giảm giá
8,6% so với USD, giảm 15,8% so với GBP, giảm 20,5% so với JPY, giảm 19,7% so với CHF và


giảm 24,5% so với CAD trong giai đoạn 2009-2012. Đặc biệt, chỉ trong vòng 1 năm trở lại đây,
chỉ số giá đồng Euro giảm 9,8%, trong đó, đồng Euro giảm 12,3% so với USD, giảm 10% so với
GBP, giảm 13,7% so với JPY.
Cùng với sự suy giảm về giá trị, vai trò và vị thế quốc tế của đồng Euro cũng chịu tác động
tiêu cực. Tỷ trọng dự trữ bằng đồng Euro giảm từ mức 27,7% vào năm 2009 xuống mức 25%
vào cuối năm 2011, dù vẫn là đồng tiền dự trữ quốc tế lớn thứ hai trên thế giới.
Lo ngại về khả năng đồng Euro sụp đổ đã lên đến đỉnh điểm trên thị trường tài chính quốc tế
khi các nhà đầu tư từ chối mua một số loại trái phiếu chính phủ châu Âu. Lãi suất trái phiếu
chính phủ nhiều nước thuộc Eurozone đã tăng lên mức cao kỷ lục trong những tháng cuối năm
2011. Lãi suất trái phiếu của Italia đã tăng lên mức 7,6-7,9%/năm ; Lãi suất trái phiếu chính phủ
kỳ hạn 10 năm của Pháp đã tăng 0,5 điểm phần trăm; Lãi suất trái phiếu 10 năm của Đức cũng
tăng 0,145 điểm phần trăm lên 2,056%, đe dọa nghiêm trọng đến sự ổn định của khu vực.
Trong bối cảnh hiện nay từ Hy Lạp, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, cho tới nay là Cộng hịa
Síp, và tương lai khơng xa là Italy, Khối đồng tiền chung châu Âu (Eurozone) đang chết dần chết
mòn bởi hiệu ứng domino khiến cho cuộc khủng hoảng tài chính ngày càng lan rộng.
Năm 1999, các loại tiền tệ truyền thống ở Bắc Âu gặp khó khăn kết hợp với loại tiền tệ linh
hoạt của vùng phía Nam tạo thành một loại tiền mới được đánh giá là mạnh mẽ hơn bất kỳ loại
tiền nào mà nó thay thế. Dưới sự quản lý của Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB) tại
Frankfurt, đồng euro đã trở thành một đồng tiền dự trữ cạnh tranh với USD.
Mặc dù các quốc gia phía Bắc được cho là khơn ngoan, dù khơng phải lúc nào cũng giữ cho
thâm hụt ngân sách nằm trong mức kiểm sốt, nhưng họ ln quản lý nền kinh tế tồn tại được

trong sư suy thối tồn cầu tồi tệ nhất từ trước đến nay. Ngược lại, sự hoang phí của các quốc gia
phía Bắc, cùng với hệ thống ngân hàng khơng hồn thiện của mình, đã tạo ra một điểm nóng cho
cuộc khủng hoảng kéo dài 3.700 km từ Lisbon cho đến Nicosia.
Các cuộc khủng hoảng này sẽ xảy ra ngắn hơn rất nhiều nếu các quốc gia liên quan như Hy
Lạp, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Síp, Slovenia và tới đây có thể là Italy sở hữu đồng tiền của
riêng mình. Tuy nhiên, tất cả các nước kể trên đều sử đụng đồng euro, do đó, chính sách tiền tệ
của họ được thiết lập ở Frankfurt, tại ECB. Thay vì phá giá đồng tiền của họ để kích thích xuất
khẩu và dễ dàng trả nợ, tất cả các quốc gia này đã phải trải qua một số sự kết hợp của nền tài
chính thắt lưng buộc bụng, giảm phát, và đáng chú ý nhất là trong trường hợp của Cộng hịa Síp,
mất mát tài sản.


Thật dễ hiểu khi người dân ở miền nam châu Âu cảm thấy khơng hài lịng. Nếu nền kinh tế
xấu đi xuất phát thực sự từ những lý do có nguồn gốc ở trong nước, họ sẽ không thấy cay đắng.
Tuy nhiên, hiện nay, họ đang cảm thấy sự khó khăn trong nền kinh tế của quốc gia mình là do
các quan chức, chính trị gia ở Frankfurt, Brussels và các thủ đơ phía Bắc. Cách đây khơng lâu,
một số quan chức và các chính trị gia – những người thu hút miền nam tham gia vào eurozone,
thường rất ít chú ý đến các tình huống tài chính có vấn đề của chính họ.
Chính sự chia cắt trong nội bộ chính trị của các quốc gia miền bắc là một trong những lý do
khiến cho cuộc khủng hoảng tiền nợ của khối bắt đầu và lan rộng. Yếu tố quyền lực chính trị
mỏng dần, khơng cịn tập trung ở Hy Lạp, Tây Ban Nha khiến các mắt xích eurozone bắt đầu rạn
nứt.
Hậu quả của những thiếu sót trong chính trị của eurozone không giới hạn với các nước miền
nam châu Âu. Tại Anh, Đảng Bảo thủ đã sử dụng ảnh hưởng của đồng euro để hùng biện cho sức
mạnh của mình hiện bị hồi nghi và tạo áp lực bởi thành viên của các bên phản đối đang ngày
càng mạnh lên. Ngay cả ở Đức, quốc gia then chốt của eurozone, cũng đã đưa ra đề nghị hủy bỏ
đồng tiền chung, chỉ giữ lại khối liên minh về chính trị.
Đã có nước trong khối Euro zone tính chuyện rút ra khỏi đồng tiền chung Euro, làm dấy nên
mối lo ngại về sự tan rã của khu vực ở tuổi lên 10. Tuy nhiên, điều đó sẽ khơng xảy ra khi các
nước châu Âu coi việc giữ vững Euro là nhiệm vụ quan trọng số một thời điểm này.

Ủy ban châu Âu trong một báo cáo công bố hồi đầu tháng 5/2013 cũng tiên đoán rằng, kinh
tế của 17 nước thành viên Euronze sẽ co cụm trong năm 2013, còn 27 thành viên EU thì tăng
trưởng ít, ở mức 0,1%, giảm 0,3% so với mức tiên đốn trước đó.
Đáng chú ý là những dữ liệu thất vọng nhất lại đến từ Pháp – quốc gia có nền kinh tế lớn thứ
2 châu Âu. EC dự đoán, tăng trưởng kinh tế của Pháp chỉ còn khoảng 0,1% trong năm 2013, còn
tỷ lệ thất nghiệp thì ở mức 10,7%. Ngay cả Đức, nền kinh tế lớn nhất châu Âu cũng chỉ hy vọng
tăng 0,5% trong năm nay.
Nhiều chuyên gia kinh tế còn cảnh báo, kinh tế Đức đang bộc lộ những yếu điểm nghiêm
trọng, đủ để biến nước này trở thành “con bệnh kinh tế” của châu Âu. Nguyên nhân của nguy cơ
này xuất phát từ việc trong gần 3 năm qua, Đức đã phải chi tới 300 tỷ euro để cứu khu vực
Eurozone...


Trong số các quốc gia có nền kinh tế phát triển mạnh ở EU, chỉ có Anh là được dự báo tăng
trưởng kinh tế đạt gần 1% trong năm 2013. Nhưng điều đó khơng có nghĩa là xứ sở sương mù
thốt được vịng cương tỏa của nợ cơng.
Ngược lại, cơ quan Thống kê quốc gia Anh cho hay, nợ công của nước này trong năm tài
khoá 2012 - 2013 đã lên mức 120,6 tỷ bảng, chỉ thấp hơn 0,3 tỷ bảng (0,48 tỷ USD) tài khóa
trước và chiếm gần 75% GDP.
Nhiều chuyên gia kinh tế nhận định, tình hình tài chính cơng của nước này vẫn cịn khá lo
ngại khi tuần trước, hãng xếp hạng tín nhiệm quốc tế Fitch đã hạ mức tín nhiệm của Anh từ mức
AAA xuống AA+ và rằng Chính phủ Anh cịn "một chặng đường dài phía trước" để có thể xóa
bỏ được thâm hụt ngân sách.
IMF thì kêu gọi Anh giảm tốc độ triển khai chương trình "thắt lưng buộc bụng" do thực
trạng nền kinh tế nước này đang trở nên yếu kém hơn. Điều đó cũng có nghĩa là khoản tiền 100
tỷ bảng mà Bộ Tài chính Anh và Ngân hàng trung ương nước này dự kiến bổ sung vào hệ thống
ngân hàng để tăng cường khả năng tín dụng, tránh nguy cơ suy thoái do tác động tiêu cực của
"bão" khủng hoảng nợ công từ Eurozone chưa thực sự phát huy hiệu quả
Thứ nhất, sự bất cập trong việc góp vốn vào các quỹ cứu trợ. Quỹ cứu trợ ngắn hạn (EFSF)
trị giá khoảng 440 tỷ Euro (tương đương 610 tỷ USD) với thời hạn hoạt động 3 năm nhưng đến

tháng 3/2011, các nước mới chỉ đóng góp được 50%. Trong khi đó, các Bộ trưởng tài chính của
27 nước thành viên EU lại quyết định tăng gấp đôi khả năng cho vay thực tế của Quỹ. Đức và
Pháp là những quốc gia đóng góp nhiều nhất cho Quỹ EFSF, nhất trí ủng hộ việc mở rộng Quỹ
nhưng với điều kiện phải dùng quỹ để mua trái phiếu chính phủ của các nước sử dụng đồng Euro
trên thị trường mở. Tuy nhiên, yêu cầu này của Đức và Pháp lại gặp phải sự chống đối của các
nền kinh tế khác trong khu vực, bởi lẽ họ cho rằng, biện pháp này có thể làm chệch hướng các nỗ
lực giám sát của Ủy ban châu Âu (EC).
Các Bộ trưởng Tài chính châu Âu ngày 21/3/2012 đã đạt được sự đồng thuận về các phương
thức của ESM - Cơ chế ổn định châu Âu, một dạng quỹ cứu trợ tài chính thường trực với số vốn
cơ bản lên tới 700 tỷ Euro nhằm tránh tái diễn các cuộc khủng hoảng tài chính trong tương lai.
Quỹ cứu trợ dài hạn EMS đã bắt đầu đi vào hoạt động (10/2012). Theo giới lãnh đạo tài chính
Eurozone, EMS là một phần của kế hoạch tổng thể nhằm kiểm sốt chặt chẽ hoạt động tài chính
ở Eurozone và hỗ trợ các nước thành viên gặp khó khăn tài chính. Tuy nhiên, theo IMF, nếu các


nước trong khu vực không nỗ lực “thắt lưng buộc bụng”, thì EMS vẫn khơng thể san bằng núi nợ
cơng ở châu Âu.
Thứ hai, sự khác biệt về tốc độ tăng trưởng kinh tế giữa các nước thành viên. Sau một số
năm gia nhập EU, khoảng cách và sự chênh lệch về phát triển kinh tế - xã hội của khu vực này
khơng những khơng thu hẹp mà cịn nới rộng hơn, trong khi các nước Nam Âu tăng trưởng rất
chậm, thì Đức nhanh chóng trở thành “đầu tàu kinh tế” của châu Âu. Thực tế này đòi hỏi ECB
phải đưa ra được chính sách tiền tệ phù hợp cho các nền kinh tế trong khu vực. Tuy nhiên, việc
tìm được một chính sách tiền tệ như thế là rất khó khăn.
Thứ ba, thiếu ý chí chính trị chung trong giải pháp ứng phó khủng hoảng nợ cơng. Điều mà
châu Âu cần là phải thiết lập các thể chế, các cơ chế phát triển để đảm bảo tính ổn định của đồng
tiền châu Âu. Khu vực Eurozone không thể tiền tệ hóa số nợ cơng như trường hợp của Nhật Bản
(do châu Âu bao gồm nhiều Chính phủ và nhiều lợi ích quốc gia khác nhau). Dù ECB có khả
năng chấm dứt khủng hoảng nhưng họ không thể hành động chỉ dựa trên lợi ích của những quốc
gia đang gặp khó khăn (Italia, Hy Lạp…). Đó là lý do khiến cho giải pháp nợ công của khu vực
đồng Euro gặp nhiều khó khăn. Khủng hoảng nợ cơng châu Âu khơng phải là một cuộc khủng

hoảng kinh tế mà là cuộc khủng hoảng chính trị bởi lẽ tiền tệ hóa số nợ công ở châu Âu đã gặp
phải sự phản đối chính trị, tư tưởng và tâm lý khơng chỉ của ECB mà của cả các nước phát triển
mạnh khác như Đức, Pháp.
Thứ tư, mâu thuẫn trong phương thức giải quyết khủng hoảng. Cuộc khủng hoảng nợ công
tại khu vực Eurozone đang làm gia tăng sự mâu thuẫn, chia rẽ trong liên minh châu Âu (giữa 17
nước thành viên Eurozone và với 10 nước EU cịn lại). Hai quốc gia có nhiều ảnh hưởng trong
mọi quyết định tài chính của EU là Đức và Pháp yêu cầu các quốc gia trong khu vực phải triển
khai các chính sách kinh tế giống nhau và tuân thủ các nguyên tắc về thỏa thuận cạnh tranh. Tuy
nhiên, đề xuất của hai nền kinh tế đầu tàu khu vực vấp phải sự phản đối của các thành viên nhỏ
hơn vì cho rằng kế hoạch đó tước mất quyền tự quyết của họ và là “áp đặt”.
Trong số những giải pháp khắc phục khủng hoảng nợ cơng, thì 2 biện pháp được xem là cơ
bản nhất đó là chính sách “thắt lưng buộc bụng” và chiến lược mua trái phiếu của những quốc
gia mắc nợ của ECB để giúp họ tái thiết nền kinh tế.
Tuy nhiên, trong bối cảnh nền kinh tế thế giới và bản thân nền kinh tế châu Âu đang hết sức
khó khăn do suy thối thì biện pháp “thắt lưng buộc bụng” lại càng đẩy nền kinh tế vào khó khăn
lớn hơn và có thể tiếp tục lún sâu vào suy thối. Điều này cũng đồng nghĩa với sản xuất đình


đốn, thất nghiệp gia tăng… Theo đánh giá của Viện nghiên cứu IMK (Đức), áp dụng chính sách
khắc khổ một cách toàn diện đối với tất cả thành viên Eurozone là một sai lầm và hậu quả là liều
thuốc đó sẽ bóp chết đà phục hồi kinh tế của EU chỉ mới vừa “manh nha”.
Thứ năm, chia rẽ trong nội bộ khu vực châu Âu ngày càng tăng. Càng bị khủng khoảng,
châu Âu và Eurozone càng bị “chia rẽ” khi nhiều quốc gia có nền kinh tế ổn định lại phải chung
tay gánh vác các quốc gia gặp khủng khoảng. Mọi giải pháp đều liên quan và phải có sự đồng
thuận của các nước thành viên nhưng thực tế không phải lúc nào sự đồng thuận cũng ở mức cao
nhất.
Liên minh châu Âu hay khu vực Eurozone không phải là quốc gia thống nhất nên khơng có
cơ chế kiểm sốt và can thiệp thống nhất để tránh khủng hoảng. Không như hệ thống ngân hàng
tại Mỹ và Nhật Bản (nơi doanh nghiệp chủ động tìm vốn trên thị trường chứng khốn), hệ thống
ngân hàng châu Âu giữ vị trí trọng yếu trong việc tài trợ doanh nghiệp. Các doanh nghiệp châu

Âu trông cậy vốn vào ngân hàng. Khi ngân hàng thiếu vốn thì doanh nghiệp châu Âu cũng gặp
khó khăn. Tuy nhiên, giải pháp nâng vốn ngân hàng để tăng thêm khả năng trả nợ và để trấn an
thị trường cũng chưa hoàn toàn thuyết phục được giới ngân hàng và các chuyên gia tài chính.
Giải pháp này chỉ tạo thêm hoảng loạn trên thị trường thay vì trấn an dư luận và các nhà đầu tư.
Trên thực tế, nhiều ngân hàng châu Âu không thiếu vốn để phải huy động thêm vốn. Các cơ quan
tài chính chỉ tạm đóng van tín dụng để chờ Liên minh châu Âu có giải pháp rõ ràng trong chính
sách giải quyết khủng hoảng.
Tóm lại, triển vọng kinh tế và sự ổn định tài chính cũng như cuộc khủng hoảng nợ cơng
nghiêm trọng hiện nay của châu Âu đang là mối đe dọa lớn nhất đối với sự phục hồi kinh tế toàn
cầu. Để giải quyết những bất ổn này, châu Âu cần có giải pháp tồn diện gồm cả tài chính cơng,
sức cạnh tranh của nền kinh tế và cơ chế ổn định trong tương lai. Tuy nhiên, giải pháp này sẽ
không thể đạt được nếu từng quốc gia châu Âu vẫn tiếp tục đặt lợi ích cá nhân lớn hơn mục tiêu
chung của khu vực. Nghĩa là, EU cần đoàn kết hơn nữa, hy sinh quyền lợi riêng, vì lợi ích chung
tồn khối, mới mong sớm thốt khỏi “bão” nợ cơng.
2.2. Sự suy yếu của đồng tiền EUR
Trước đây, với những tiêu chí chặt chẽ để được tham gia khu vực Eurozone (như thâm hụt
ngân sách quốc gia dưới 3% GDP, nợ công dưới 60% GDP, minh bạch về ngân sách...), đồng
Euro đã tạo sự tin cậy khá cao trong giới tài chính quốc tế kể từ khi ra đời. Tuy nhiên, kể từ khi
Hy Lạp, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha rơi vào cuộc khủng hoảng nợ cơng, cùng với tình trạng nợ


công ngày càng xấu đi ở các nước thành viên khác thì giá trị và sức mạnh của đồng Euro đã bị
suy giảm theo.
Tính từ đầu năm 2009 đến 25/6/2012, chỉ số giá Euro đã giảm 16,1%. Đồng Euro giảm giá
8,6% so với USD, giảm 15,8% so với GBP, giảm 20,5% so với JPY, giảm 19,7% so với CHF và
giảm 24,5% so với CAD trong giai đoạn 2009-2012. Đặc biệt, chỉ trong vòng 1 năm trở lại đây,
chỉ số giá đồng Euro giảm 9,8%, trong đó, đồng Euro giảm 12,3% so với USD, giảm 10% so với
GBP, giảm 13,7% so với JPY.
Cùng với sự suy giảm về giá trị, vai trò và vị thế quốc tế của đồng Euro cũng chịu tác động
tiêu cực. Tỷ trọng dự trữ bằng đồng Euro giảm từ mức 27,7% vào năm 2009 xuống mức 25%

vào cuối năm 2011, dù vẫn là đồng tiền dự trữ quốc tế lớn thứ hai trên thế giới.
Lo ngại về khả năng đồng Euro sụp đổ đã lên đến đỉnh điểm trên thị trường tài chính quốc tế
khi các nhà đầu tư từ chối mua một số loại trái phiếu chính phủ châu Âu. Lãi suất trái phiếu
chính phủ nhiều nước thuộc Eurozone đã tăng lên mức cao kỷ lục trong những tháng cuối năm
2011. Lãi suất trái phiếu của Italia đã tăng lên mức 7,6-7,9%/năm ; Lãi suất trái phiếu chính phủ
kỳ hạn 10 năm của Pháp đã tăng 0,5 điểm phần trăm; Lãi suất trái phiếu 10 năm của Đức cũng
tăng 0,145 điểm phần trăm lên 2,056%, đe dọa nghiêm trọng đến sự ổn định của khu vực.
PHẦN III: TƯƠNG LAI VÀ TRIỂN VỌNG CỦA ĐỒNG EUR
1. Dự báo tương lai EUR trong bối cảnh khủng hoảng nợ cơng châu Âu
Nhìn chung, các giải pháp chính sách tích cực của các nhà lãnh đạo châu Âu đưa ra trong
năm 2011 và nửa đầu 2012 đã tạo nên những bước tiến quan trọng trong việc giải quyết cuộc
khủng hoảng nợ công, tuy nhiên, hầu hết các giải pháp chưa đi vào giải quyết vấn đề dài hạn của
khu vực này.
Trong bối cảnh cuộc khủng hoảng nợ công vẫn cịn có thể lan rộng và gây hậu quả nghiêm
trọng, hầu hết các dự báo đều cho rằng đồng Euro sẽ tiếp tục mất giá so với các đồng tiền chủ
chốt trong năm 2012-2013.
Kết quả khảo sát ngày 7/6/2012 do Reuters thực hiện đối với 55 tổ chức, ngân hàng, cơng ty
tài chính cho thấy đồng Euro sẽ yếu đi so với USD, JPY và GBP trong vòng 1 năm tới. Tỷ giá
Euro/USD sẽ giảm xuống mức 1,24 Euro/USD trong vòng 3 tháng tới và tiếp tục giảm xuống
1,253 Euro/USD trong vòng 12 tháng tới.
Dự báo của các tổ chức, tập đồn tài chính gồm Morgan Stanley, Barclays Capital, Nomura,
Scotiabank (tháng 6/2012) cho thấy triển vọng còn bi quan hơn của đồng Euro trong vịng 1 năm
tới. Theo đó, tỷ giá Euro/USD sẽ giảm xuống mức 1,21-1,23 trong vòng 3 tháng tới, tiếp tục giảm


xuống mức 1,19-1,23 Euro/USD trong vòng 6 tháng tới và thậm chí giảm tiếp cịn 1,15 – 1,18
Euro/USD(theo Barclays Capital and Morgan Stanley) trong vòng 1 năm tới.
Bảng 1: Khảo sát của Reuters về dự báo tỷ giá EUR/USD trong năm 2012-2013

Tỷ giá dự báo bình quân


1 tháng tới

3

tháng

6 tháng tới

12 tháng tới

tới
EUR/USD

1,240

1,240

1,250

1,253

EUR/JPY

98,4

99,0

101,3


105,0

EUR/GBP

0,801

0,800

0,803

0,800

58

56

54

55

Số ngân hàng, tổ chức tài
chính tham gia dự báo

(Nguồn: Reuters, ngày 25/6/2012)
Bảng 2. Dự báo về tỷ giá USD/EUR của Financial Forecast
Tỷ

giá

dự


T5/20

báo bình quân12

T6/20
12

T7/20
12

T8/20
12

T9/20
12

T10/2
012

T11/2
012

tháng
EUR/USD

1,280

1,260


1,272

1,244

1,210

1,216

1,239

6
(Nguồn: Financial Forecast Center, 6/6/2012)
Bảng 3. Dự báo tỷ giá EUR/USD trong năm 2012-2013 của các tổ chức tài chính

Tỷ giá dự báo bình quân

1 tháng tới

3

tháng

6 tháng tới

12 tháng tới

tới
Barclays Capital

1,250


1,210

1,190

1,150

Morgan Stanley

1,280

1,240

1,210

1,180


Nomura

1,280

1,260

1,237

1,220

Scotiabank


1,220

1,230

1,230

1,220

Deutsche Bank

1,250

1,300

1,350

1,250

Triển vọng của đồng Euro còn phụ thuộc vào diễn biến của cuộc khủng hoảng nợ công châu
Âu vẫn chưa đến hồi kết và dự báo về khả năng khu vực Eurozone có vượt qua được khủng
hoảng bằng các biện pháp cải cách của mình hay khơng, hay phải buộc tách nhóm (một số nước
khủng hoảng trầm trọng như Hy Lạp, Tây Ban Nha có thể rút ra khỏi khu vực đồng tiền chung)
hoặc thậm chí tan rã - theo như kịch bản xấu nhất được dự báo.
Đồng EUR là đồng tiền chung của Châu Âu. Vì thế, nhất định các quốc giá sẽ tìm mọi biện
pháp để vực dậy đồng tiền này. Khu vực Eurozone sẽ hướng đến cải cách mạnh mẽ nhằm vượt
qua khủng hoảng có phần khả thi hơn cả trong bối cảnh hai nước lớn là Đức và Pháp, cùng với cả
khu vực đang rất nỗ lực với hàng loạt các biện pháp cải cách (thành lập Quỹ bình ổn châu Âu,
nâng cao vai trị của ECB, tái cơ cấu các nền kinh tế yếu kém, kiểm sốt chặt chẽ hệ thống tài
chính ngân hàng và chi tiêu công của các nước thành viên). Mặc dù vậy, ngay cả trong kịch bản
lạc quan nhất này, khu vực Eurozone vẫn phải đối mặt với những khó khăn và thách thức trong

nỗ lực cải cách, xuất phát từ nhiều khía cạnh:
(i) Một là, nợ của các nước PIIGS (gồm Bồ Đào Nha, Italia, Ailen, Hy Lạp và Tây Ban Nha)
đã tăng từ mức 75% năm 2007 lên mức 87% trong năm 2011. Trong số 2.200 tỷ Euro mà các thể
chế tài chính và các ngân hàng EU ngồi nhóm PIIGS cho các nước này vay, có 567 tỷ Euro là nợ
chính phủ, 534 tỷ Euro là cho các công ty phi ngân hàng vay và 1.000 tỷ Euro cho các ngân hàng
vay. Việc các ngân hàng thương mại châu Âu (trong đó có cả ECB) nắm giữ một lượng lớn nợ
của các nước PIIGS sẽ khiến nợ xấu của các ngân hàng này tăng mạnh và làm lan truyền rủi ro
cho cả hệ thống ngân hàng châu Âu.
(ii) Hai là, Hiệp ước Maatstrict thiết lập một đồng tiền chung dựa trên liên minh tiền tệ và
các quy tắc ngăn chặn tình trạng mất cân bằng ở khu vực cơng, nhưng chưa tính đến các quy tắc
điều chỉnh đối với các thể chế tài chính ngân hàng của khu vực cũng như biến động trên thị
trường tiền tệ;
(iii) Ba là, khả năng thanh khoản và định mức tín nhiệm của các ngân hàng trong khu vực


đồng Euro đã và đang giảm sút, nguy cơ khủng hoảng ngân hàng tăng lên;
(iv) Bốn là, để vượt qua khủng hoảng, khu vực này cần điều chỉnh được tình trạng mất cân
bằng trong một thập kỷ qua để hướng đến cải cách tài chính bền vững hơn, lấy lại niềm tin của
các thị trường tài chính.
Nếu khơng vượt qua được những thách thức trên, khu vực Eurozone và đồng Euro có thể sẽ
phải đối mặt với sự tan rã trong những năm tới. Theo như nhận định của ông Joseph Stiglitz chuyên kinh tế đoạt giải Nobel thì: “Các chun gia kinh tế sẽ khơng cịn phải thảo luận câu hỏi
liệu đồng Euro có sụp đổ hay khơng nữa mà là khi nào và bao giờ điều đó sẽ xảy ra”.
EU đang ngày càng yếu đuối, biểu hiện là 17 quốc gia trong eurozone đang khiến EU có
nguy cơ chìm sâu vào suy thối.
Về lâu dài, các vấn đề nội bộ eurozone sẽ chỉ ngày càng tồi tệ hơn. Các quốc gia phía Nam
đã xây dựng được một chế độ lương hưu cho tương lai, và nền kinh tế của họ có xu hướng làm
các cơng việc đơn giản, khuyến khích tinh thần kinh doanh và đổi mới. Nói chung, họ phải đối
mặt với rủi ro lớn hơn và cơ hội nhỏ hơn so với các nước láng giềng phía bắc. Thậm chí, nếu
đồng euro sống sót sau khủng hoảng hiện tại, những triển vọng phát triển của họ tiếp tục mờ
nhạt.

Đồng euro được cho là mang lại cho các quốc gia trong EU xích lại gần nhau hơn, tạo điều
kiện thuận lợi cho thương mại và đồng bộ hóa chu kỳ kinh doanh. Nhưng vì thế, đồng euro cũng
kéo dài và đào sâu cuộc khủng hoảng kinh tế.
2. Các giải pháp tăng cường vị thế EUR
Nhằm tăng cường củng cố và bảo vệ đồng Euro, tại Hội nghị Thượng đỉnh EU tháng
12/2011, 26/27 thành viên EU (trừ Anh) đã đồng ý đưa ra một thỏa thuận mới về giám sát tài
chính chặt chẽ hơn. Theo đó, giới hạn thâm hụt cơ cấu sẽ ở mức 0,5% GDP của mỗi nước thành
viên, trong khi đó trần nợ cơng vẫn duy trì ở mức 3% GDP, kèm theo điều luật mới quy định nếu
nước nào vi phạm sẽ tự động bị trừng phạt nặng nề.
Một giải pháp khác cũng được thơng qua nhằm cứu nguy cho khu vực Eurozone đó là thành
lập quỹ cứu trợ thường trực của khu vực có quy mơ 500 tỷ Euro với tên gọi là Cơ chế Ổn định
châu Âu (ESM), dự kiến có hiệu lực vào tháng 7/2012. ESM sẽ được cấp một giấy phép hoạt
động trong lĩnh vực ngân hàng, giúp ESM có thể tiếp cận thanh khoản của Ngân hàng Trung
ương châu Âu (ECB), nâng cao khả năng của cơ chế này đối phó với cuộc khủng hoảng nợ của


×