Báo cáo khoa học Vũ Thị Bích & Bùi Thị
Duyên
A. PHẦN MỞ ĐẦU
I- Lý do chọn đề tài
Nguyễn Công Trứ và Tản Đà sinh ra và lớn lên vào hai giai đoạn khác
nhau của lịch sử. Nhưng xét về bản chất, hai bối cảnh đó lại có những nét
tương đồng: trong lòng xã hội nảy sinh những biến động bão táp làm xuất
hiện nhiều trạng thái tõm lớ, nhiều tư tưởng mang tính chất phản xã hội, bộc
lộ nhu cầu cá nhân Cùng là những con người tài hoa, có cá tính độc đáo
nờn dự khác nhau về thời gian nhưng hai ông lại có những cách biểu hiện,
cách phản ứng lại xã hội tương đối giống nhau. Cả hai nhà thơ đều có một vị
trí quan trọng trong đời sống văn chương thời đó, do hai ụng đó mở ra một
lối sống mới, một cách thể hiện mới làm cho bộ mặt văn chương có phần
thay đổi. Sự nghiệp thơ văn của Nguyễn Công Trứ và Tản Đà chính là sự
phản ánh rõ nhất cuộc đời tài hoa, tài tử, phá phách của hai ông. Từ Nguyễn
Công Trứ đến Tản Đà, chúng ta nhìn thấy một điểm rất chung: cả hai ông đều
thể hiện mình hết sức độc đáo trong văn chương hay nói khác đi, chúng ta
tìm thấy nột “ngụng” trong sáng tác của họ. Do vị trí đặc biệt của họ trên thi
đàn nên việc nghiên cứu về Nguyễn Công Trứ và Tản Đà đã được chú ý từ
rất sớm. Ta có thể điểm qua tên của một số tác giả nghiên cứu về Nguyễn
Công Trứ: GS.TS Nguyễn Đăng Na, GS Phong Lê, PGS.TS Lê Thanh Bình,
Nguyễn Bách Khoa, Lê Thước, Hoàng Ngọc Phách, Trương Chính, Phạm
Vĩnh Cư Về Tản Đà: Trần Đình Hượu, Nguyễn Khắc Xương, Nguyễn
Thiên Thụ, Xuân Diệu, Tầm Dương Số lượng nghiên cứu về hai tác giả thì
khá lớn nhưng việc khai thác nét “ngụng” như là một vấn đề, một luận điểm
thì chưa có công trình nào đề cập đến. Qua quá trình tìm hiểu hai tác giả, và
qua thao tác so sánh đối chiếu, chúng tôi nhận thấy đây là một vấn đề khá
hay, thể hiện được cá tính độc đáo của hai tác giả. Đồng thời qua đó, chúng ta
cũng có thể có cái nhìn sâu sắc hơn về bản chất xã hội. Với mong muốn góp
Líp: K56A - Khoa Ngữ văn Trường ĐHSP
Hà Nội
Báo cáo khoa học Vũ Thị Bích & Bùi Thị
Duyên
một phần nhỏ bé của mình vào kho tàng nghiên cứu về hai tác giả, chúng tôi
mạnh dạn thực hiện đề tài báo cáo khoa học “Cỏi Ngông từ thơ của Nguyễn
Công Trứ đến thơ Tản Đà”.
II. Lịch sử vấn đề
Một nhà thơ lớn Xô Viết Tvardovski nhận xét: " Mỗi thế hệ làm giàu
thêm cho các tác giả cổ điển". Thật vậy, mặc dù còn bị nhiều hạn chế song
cùng với năm tháng qua đi, Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương vẫn
được các thế hệ tiếp nối khai thác và cũng ngày một trở nên phong phú hơn
bao giờ hết. Với Nguyễn Công Trứ và Tản Đà cũng vậy. Tuy các tác giả này
sống chủ yếu vào nửa cuối thế kỷ XIX và đầu nửa đầu thế kỷ XX xong hai
cụng cú những khía cạnh mà các thế hệ sau khai thác mãi không hết.
Đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về hai tác giả này trên nhiều
phương diện khác nhau.
Về Nguyễn Công Trứ - một nhân vật lịch sử nổi tiếng in đậm dấu ấn
không chỉ trong lĩnh vực văn chương mà còn ở nhiều phương diện khác trong
đời sống xã hội Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX. Người viết chỉ tóm lược những
vấn đề có liên quan đến sự nghiệp thi ca của ông. Tác giả Chu Trọng Huyến
đã nghiên cứu khá nhiều về Nguyễn Công Trứ. Hai cuốn sách xuất bản liên
tiếp trong hai năm 1995 và 1996: "Nguyễn Công Trứ con người và sự
nghiệp", "Nguyễn Công Trứ thơ và đời" đã tái hiện được bức chân dung con
người Nguyễn Công Trứ cũng như thấy được tài năng trong sáng tác của ông.
Cuốn sách đã trình bày nhiều vấn đề song chưa đi sâu vào nét đặc sắc độc
đáo trong thơ Nguyễn Công Trứ mà mới chỉ đi sâu về tác giả, cuộc đời. Bên
cạnh đó chúng tôi đánh giá cao ý kiến của Nguyễn Viết Ngoạn trong
"Nguyễn Công Trứ tác giả - tác phẩm giai thoại" và PGS.TS. Nguyễn Đăng
Na trong "Giáo trình văn học trung đại Việt Nam" tập 2. Ở đây các tác giả đi
sâu vào tác phẩm, thâm nhập vào khái quát thành những luận điểm lớn cho
Líp: K56A - Khoa Ngữ văn Trường ĐHSP
Hà Nội
Báo cáo khoa học Vũ Thị Bích & Bùi Thị
Duyên
những mảng đề tài sáng tác của Nguyễn Công Trứ. Đây cũng là những gợi ý
bổ ích cho chúng tôi triển khai đề tài nghiên cứu này. Ngoài ra tác giả Hoàng
Ngọc Hiến với bài viết "Dỏng kiờu và cốt kiêu của Nguyễn Công Trứ", "Con
người tri thức Nguyễn Công Trứ" của giáo sư Phong Lê, "Sự lên ngôi của cỏ
tôi - cá thể của Nguyễn Công Trứ" của giáo sư Nguyễn Đỡnh Chỳ, "Phân tích
triết lý sống của danh nhân Nguyễn Công Trứ từ quan điểm truyền thông đại
chúng nhằm rèn đức kẻ sĩ cho nhà báo hiện đại" của PGS.TS. Lê Thanh Bình.
Đặc biệt gần đây một cuộc hội thảo khoa học quy mô và trang trọng do
trường Đại học KHXH&NV (ĐHQGHN) kết hợp với UBND tỉnh Hà Tĩnh và
Sở văn hóa thông tin du lịch Hà Tĩnh tổ chức đã tựu chung khoảng 40 giáo
sư, tiến sĩ và các nhà nghiên cứu văn học, văn hóa dân gian giàu kinh nghiệm
cùng một số nhà văn, nhà thơ đã tham luận nhiều vấn đề về cuộc đời và sự
nghiệp con người Nguyễn Công Trứ.
Những công trình nghiên cứu về thi sĩ Tản Đà cũng chiếm một số
lượng khỏ nhiều.Chỳng ta phải kể đến cuốn sách " Tản Đà, thực và mộng"
của Nguyễn Thiên Thụ ra đời khá sớm. Tuy còn nhiều hạn chế nhưng đây
cũng là những tiếng nói đầu tiên nghiên cứu về Tản Đà. Tiếp theo là những
tác giả: Trần Đình Hượu, Nguyễn Khắc Xương, Xuân Diệu cũng có nhiều
bài viết khỏ sâu sắc về tác giả này. Nói chung đây là những bài viết mang
tính chất nghiên cứu, tham khảo, quy mô nhỏ nên chưa thể đi sâu cụ thể,
tường tận chính xác quy mô nhỏ từng vấn đề nhưng lại có sức gợi rất lớn,
giúp cho người viết nhiều ý tưởng trong quá trình nghiên cứu khoa học.
Nói chung các tác giả chủ yếu được nghiên cứu riêng rẽ và trên bình diện
khái quát hóa chứ chưa đi vào chi tiết cụ thể. Chưa có ai nghiên cứu về vấn đề
"ngông" trong sáng tác của hai tác giả. Do đó người viết gặp nhiều khó khăn
trong việc triển khai thực hiện đề tài. Nhưng viết viết sẽ cố gắng tiến hành
nghiên cứu vấn đề này để thử sức trên con đường nghiên cứu khoa học.
Líp: K56A - Khoa Ngữ văn Trường ĐHSP
Hà Nội
Báo cáo khoa học Vũ Thị Bích & Bùi Thị
Duyên
III- Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Báo cáo tập trung vào việc luận giải những biểu hiện của cái “ngụng”
trong thơ của Nguyễn Công Trứ và Tản Đà trên cơ sở giới thuyết khái niệm
“ngụng” và “ngụng” trong văn học, từ đó cố gắng làm rõ sự khác nhau giữa
hai tác giả (cả về mặt nội dung biểu hiện và nghệ thuật biểu hiện).
IV - Phương pháp nghiên cứu
+ Phương pháp đối chiếu, so sánh
+ Phương pháp phân tích tổng hợp
+ Phương pháp liệt kê
Líp: K56A - Khoa Ngữ văn Trường ĐHSP
Hà Nội
Báo cáo khoa học Vũ Thị Bích & Bùi Thị
Duyên
B. PHẦN NỘI DUNG
Chương I
GIỚI THUYẾT VẤN ĐỀ “NGÔNG” VÀ BIỂU HIỆN CỦA NÃ TRONG
THƠ CỦA NGUYỄN CÔNG TRỨ VÀ TẢN ĐÀ
I - Vấn đề “ngụng” trong văn học
1. “Ngụng” là gì?
Theo Từ điển Tiếng Việt, “ngụng” có nghĩa là: nói cử chỉ, hành động
ngang tàng, khác hoặc trái với cái thông thường.
Trong cuộc sống, ngông là một vấn đề thuộc về cá tính, phong thái, lối
sống, quan niệm của con người về cuộc sống và những vấn đề tồn tại trong
cuộc sống. Nó là sự ngạo nghễ, khinh bạc có phần ngông nghênh, vượt ra
những quy chuẩn của xã hội. Thuộc về cá tính nên không phải bất cứ ai trong
cuộc đời cũng “ngụng” được. Như một mệnh đề giá trị để khẳng định con
người cá tính độc đáo hơn đời, khác đời, vấn đề “ngụng” là một vấn đề thuộc
về phẩm chất cá tính nhiều hơn. “Con người là tổng hoà các mối quan hệ xã
hội” nên bất cứ ai tồn tại trong xã hội cũng đề chịu những tác động chung của
xã hội mà họ đang sống. Nhưng cách phản ứng của mỗi người không phải ai
cũng như ai. Trước bão táp của cuộc đời, có người khoanh tay đứng nhìn, có
người bế tắc, có người lại đón nhận nó một cách rất bình tâm và coi nó như là
một cuộc thử lửa để nung nấu cho mình những phẩm chất sắt đá, gan góc. Họ
luôn luôn lạc quan có khi đến khinh bạc trước những khó khăn xảy đến với
mình. Con người như vậy là con người nghị lực, con người luôn luôn vượt
lên trên hoàn cảnh và tìm cách chiến thắng nó bằng nội lực bản thân.
Cơ sở của lối sống đó là gì? Trước hết, nó xuất phát từ sự nhận thức
của con người với cuộc sống. Cuộc sống luôn vận động và phát triển theo
những quy luật nội tại của nó, nắm được bản chất của những quy luật đó, con
người sẽ có được thái độ xử sự đúng đắn. Thứ hai, nó xuất phát từ ý thức sâu
Líp: K56A - Khoa Ngữ văn Trường ĐHSP
Hà Nội
Báo cáo khoa học Vũ Thị Bích & Bùi Thị
Duyên
sắc về tài năng. Con người tài năng sẽ bất chấp mọi khuôn khổ, mọi thử thách
của hoàn cảnh. Dù cuộc đời có giăng ra trước mắt họ thiên la địa võng thỡ
cỏnh chim đại bàng vẫn tung bay trên bầu trời cao rộng của nó. Cái “ngụng”
càng lộ diện trong hoàn cảnh mà xã hội cương toả con người, kìm kẹp con
người, xã hội phi cá tính.
2. Vấn đề “ngụng” trong văn học
Trong văn học, vấn đề “ngụng” gắn chặt với việc thể hiện con người cá
nhân, cá tính, con người vượt ra khỏi vòng cương toả của xã hội. Văn học
trung đại Việt Nam từ thế kỉ X đến đầu thế kỉ XVIII, trong khi khẳng định cái
“Ta” như một phẩm chất cao đẹp của con người thỡ nó cũng làm một công
việc tiếp theo nữa là phủ định cá tính của cá nhân đó. Con người giai đoạn này
là con người công dân, trách nhiệm nên ta không đặt vấn đề “ngụng” ở đây.
Chỉ đến giai đoạn cuối thế kỉ XVIII đầu thế kỉ XIX, vấn đề này mới được đặt
ra như một bước phát triển mới trong việc thể hiện con người. Hia tác giả tiêu
biểu là Hồ Xuân Hương và Nguyễn Công Trứ. Không còn là con người “thần,
tiên, thiền” nữa mà là con người trần tục, nhục cảm, vật chất, con người sống
thành thật với chính mình. Ở Hồ Xuân Hương, chúng ta không nói đến vấn đề
“ngụng” một cách trực diện mà gọi là cá tính thì đúng hơn, mặc dù bà là người
phụ nữ dũng cảm dám đứng lên phá bỏ nhiều những quy phạm, những nguyên
tắc của xã hội. Lời tuyên ngôn “Vớ đõy đổi phận làm trai được- Thì sự anh
hùng há bấy nhiờu” được coi như là một sự khẳng định cá tính một cách rõ rệt
nhất. Ở văn học giai đoạn này, người quân tử với ý niêm an bần lạc đạo, giữ
mình trong sạch không còn nữa, nhường chỗ cho con người tài tử, ngợi ca chữ
Tài, chữ Tình, sống hành lạc: “Cuộc hành lạc chơi bao là lãi bấy- Nếu không
chơi thiệt ấy ai bự” (Nguyễn Công Trứ). Chưa bao giờ con người trong văn
học lại buông thả công khai, tự do như thế!
Văn học là sự thể hiện con người một cách sinh động và sâu sắc nhất.
Thời đại nào cũng có những con người thị tài, khoe tài và viết về tài mình
Líp: K56A - Khoa Ngữ văn Trường ĐHSP
Hà Nội
Báo cáo khoa học Vũ Thị Bích & Bùi Thị
Duyên
một cách sảng khoái. Từ cái “ngụng” của Nguyễn Công Trứ trong xã hội
phong kiến đến cái “ngụng” của Tản Đà trong xã hội thành thị buổi giao thời
là sự tiếp nối trong việc thể hiện con người cá nhân của hai nhà nho tài tử
đồng thời lại biểu hiện những cung bậc sắc điệu khác nhau của hai con người,
hai thời đại. Lấy việc thể hiện cái “ngụng” trong văn chương làm bệ phóng
để nhìn sâu sắc hai cuộc đời, hai con người, hai cá tính, đồng thời qua đó có
được cái nhìn sâu sắc hơn về bối cảnh xã hội là vấn đề quan tâm của chúng
tôi trong báo cáo này.
II. Biểu hiện của cái “ngụng” trong thơ của Nguyễn Công Trứ đến
Tản Đà
Xã hội phong kiến thời Nguyễn Công Trứ có nhiều nhiễu nhương, biến
động đồng thời cũng là bối cảnh để thức dậy nhiều tư tưởng thời đại, thức
dậy nhiều ý niệm mới về con người cá nhân với cá tính, tài năng và sáng tạo.
Nguyễn Công Trứ - một bản lĩnh trong cuộc sống, một cá tính trong văn
chương đã khẳng định mình như một nhà nho sống cao hơn những phép tắc,
luật lệ của xã hội. Cánh buồm thơ của ông phăng phăng lướt trong gió mà
không sợ một sự trở ngại nào. Ông ngông trong cuộc đời bao nhiêu thì văn
chương của ông cũng lộng gió và khác đời bấy nhiêu. Cái “ngụng” của
Nguyễn Công Trứ được thể hiện rõ nét nhất trong những bài hát nói phóng
khoáng, mạnh mẽ, nói lên được cái chí tung hoành của con người toan xẻ núi
lấp sông, coi thường thế tục trần ai, khoả sức vẫy vùng đồng thời được thể
hiện trong những vần thơ “ngất ngưởng”. Cái “ngụng”của Nguyễn Công Trứ
trong cuộc đời và trong văn chương được xem như một sự khẳng định về một
kiểu nhà nho mới trong văn học. Nó được thể hiện ở nhiều phương diện như
quan niệm về chí trai, cái nhìn về hiện trạng xã hội và hành lạc- được xem
như một biểu hiện rõ nhất của cỏi “ngụng” Nguyễn Công Trứ.
1. Cách thể hiện con người cá nhân
1.1. Quan niệm về công danh sự nghiệp của một đấng nam nhi
Líp: K56A - Khoa Ngữ văn Trường ĐHSP
Hà Nội
Báo cáo khoa học Vũ Thị Bích & Bùi Thị
Duyên
Đối với một trang nam tử trong xã hội phong kiến, việc học hành, thi
cử, đỗ đạt và làm quan là một điều tất yếu đặt ra như bổn phận. Chí theo đuổi
lập công danh như ngọn lửa cháy sáng trong suốt cuộc đời mỗi người đọc
sách thánh hiền. Bản thân Nguyễn Công Trứ, dù tài hoa học giỏi nhưng
đường hoạn lộ cũng không phải đã dễ dàng, trôi chảy. Năm 1819, khi 42 tuổi
ông mới trúng giải Nguyên trường thi Nghệ An. Nhưng có một điều đặc biệt
là: trong lịch sử văn học nước ta chưa có một nhà nho nào lại ý thức về việc
lập công danh sâu sắc như ông Thượng Thứ này. Sáng tác của ông có thể nói
là sự khẳng định và đi tìm một cách khẳng định đúng đắn nhất về chữ công
danh trong cuộc đời. Quan niệm về công danh sự nghiệp được Nguyễn Công
Trứ gọi bằng những tên khác nhau: chí nam nhi, đường công danh, nợ công
danh, nợ tang bồng Tìm hiểu sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Công Trứ ta
thấy có khoảng hơn 10 bài thơ ông luận về kẻ sĩ, về chí khí anh hùng, về
công danh sự nghiệp. Và trong những bài thơ đầy trỏng chớ ấy, không lúc
nào nhà thơ quên khẳng định về vị trí, vai trò của mình giữa cuộc đời. Ông
cho rằng, việc mình sinh ra trên đời là việc hữu ý của trời đất:
Thiên phú ngô, địa tỏi ngụ
Thiên địa sinh ngụ nguyờn hữu ý
(Trời che ta, đất chở ta
Trời đất sinh ra ta là có ý)
Ông cho rằng, mình sinh ra là phải làm tròn phận sự, coi mọi việc
trong trời đất đều là việc của ta:
- Vũ trụ chức phận nội
(Việc vũ trụ là phận sự của ta)
- Vũ trụ chi gian giai phận sự
(Những việc trong vũ trụ đều là phận sự của ta)
Đây là một nhân sinh quan tích cực hành động của con người không bao
giờ biết thoái thác trách nhiệm của mình, ụng luôn giơ vai của mình ra mà
Líp: K56A - Khoa Ngữ văn Trường ĐHSP
Hà Nội
Báo cáo khoa học Vũ Thị Bích & Bùi Thị
Duyên
gánh càn khôn. Ở Nguyễn Công Trứ, quan niệm về “nợ cụng danh”cú phần
kiêu căng, hơi ngạo nghễ. Ông dám báo trước những điều ông sẽ làm được:
Hội rồng mây cho phỉ chí tang bồng
Cờ báo tiệc giữa trời bay bướm nhẹ
Tài bộ thế mà công danh lại thế
Nợ trần hoàn quyết trả lúc này xong
Nguyễn Công Trứ nói nhiều đến công danh. Nhưng không bó hẹp
trong hai chữ công danh là lập thân nữa mà ông nhìn lên cao hơn, nhìn ra núi
sông, vũ trụ. Ông mở rộng đường biên đến cõi bao la, vô tận. Công danh của
ông được đặt trong mối tương quan với trời đất. Cũng chính vì vậy mà hình
ảnh kẻ sĩ lên mang một tầm vóc, một kích thước khổng lồ:
Đã mang tiếng ở trong trời đất
Phải có danh gì với núi sông
(Nợ tang bồng)
Có trung hiếu nên đứng trong trời đất
Không công danh thời nát với cỏ cây
(Gánh trung hiếu)
Như vậy, với Nguyễn Công Trứ, người nam nhi lập công danh vừa để
thoả cỏi chớ của mình vừa để trả món nợ cho hoỏ cụng, để góp tiếng nói vào
khúc hợp tấu của vũ trụ. Đây là quan niệm thật hào sảng, nó nâng tầm nhà
nho lên tầm anh hùng cứu thế. Nó đưa kẻ sĩ đến việc “thực hiện một mẫu
người tổng hợp, trong đó cú cỏi đạo đức của Trọng Ni, cái hùng dũng của Tử
Lộ, cái thanh thản của Tăng Điểm. Kẻ sĩ của ông như thành một siờu nhõn”
(Phạm Thế Ngũ). Quan niệm về công danh sự nghiệp không phải là quan
niệm mới mẻ của kẻ sĩ thời trung đại. Nhưng nhắc đến nó như một “đặc sản”
trong thơ thì quả là chỉ thấy trong thơ Nguyễn Công Trứ. Chính tần số xuất
hiện và tính chất của nó đã chứng tỏ và đã khẳng định Nguyễn Công Trứ-
một nhà nho lệch chuẩn. Nổi bật trong tư tưởng của ụng khụng đơn giản là
Líp: K56A - Khoa Ngữ văn Trường ĐHSP
Hà Nội
Báo cáo khoa học Vũ Thị Bích & Bùi Thị
Duyên
nợ quân thân “chưa bỏo lũng canh cỏnh” (Nguyễn Trãi) nữa mà là hùng tâm
trỏng chớ xoay chuyển vẫy vùng trong vũ trụ dọc ngang, ngang dọc. Không
cú gỡ khỏc ngoài ta và vũ trụ! Một cánh buồm thơ lướt đi giữa trận cuồng
phong mang theo khát vọng xẻ núi lấp sông, trả hết “nợ tang bồng” “Chí
nam nhi của Nguyễn Công Trứ xuất hiện dưới nhiều cạnh góc và hướng tới
những mục đích khác nhau, tuỳ theo hoàn cảnh và tâm trạng. Ý chí đó, dù
dưới góc cạnh nào cũng cú tớch cỏch cực đoan độc đỏo” (GS Nguyễn Duy
Diễn). Không thể có một quan niệm về công danh sự nghiệp một cách sâu sắc
và mới mẻ, lớn lao như vậy ở một nhà nho cả đời khắc kỉ phục lễ không biết
vượt thoát khỏi bức tường thép của thể chế. Điều đó chỉ có thể nảy nở từ ý
thức rất sâu sắc có khi tới mức cực đoan của nhà thơ về tài bộ của mình.
1.2 Ý thức sâu sắc về cái Tài
Nguyễn Công Trứ là nhà nho “cú tài và thị tài” (Trần Đình Hượu).
Sáng tác của ông là bài ca ca ngợi tài năng kiệt xuất của bản thân. Trong xã
hội phong kiến, các bậc anh hùng hào kiệt thường hay ý thức về tài mình và
coi đó là cái vốn để lập thân. Nguyễn Công Trứ cực đoan cái tài của mình
trong một ý thức rất cao về bản ngã. ễng khoe tài một cách rất dõng dạc, như
là một sự nổi loạn của cá tính:
Trời đất cho ta một cái tài
Giắt lưng dành để tháng ngày chơi
(Cầm kì thi tửu)
Trong trần ai ai kém ai đâu
Tài bộ thế khoa danh ờ lại có
(Đường công danh)
Không tài tình quang cảnh có ra chi
(Tài tình)
Trước kia, Nguyễn Du cho tài năng là vô ích, là phù phiếm, mang tài là
khổ:”Phàm sinh phụ kì ý- Thiên địa phi sở dụng”(Phàm sinh người có ý lạ-
Líp: K56A - Khoa Ngữ văn Trường ĐHSP
Hà Nội
Báo cáo khoa học Vũ Thị Bích & Bùi Thị
Duyên
Trời đất không có chỗ dung) hay câu “Có tài mà cậy chi tài- Chữ tài liền với
chữ tai một vần”. Quan điểm này thật ngược với Nguyễn Công Trứ- con
người luôn có ý thức lập phẩm rất cao và luôn mang cái tài của mình ra mà
thách thức thiên hạ. Tài của Nguyễn Công Trứ là tài năng và tài tình. Tất cả
những biểu hiện của nó đều được nhà thơ nhấn mạnh đến cực điểm. Chính
quan niệm về cái tài như vậy nên Nguyễn Công Trứ tự cho mình có thể làm
được nhiều điều không tưởng, vượt ra ngoài khả năng của con người bình
thường. Ông khẳng định:
Kộm gì nam bắc tõy đụng
Đường thư kiếm vẫy vùng cho hết đất
rồi: Trong lăng miếu ra tài lương đống
Ngoài biên thuỳ rạch mũi can tương
Điều này làm cho ông trở thành một kiểu mẫu nhà nho tài tử khác hẳn
với kiểu nhà nho hành đạo. Dường như trong cõi đất trời này, chỉ có mình
“hoàng độc thi nhõn”(Đào Tấn) là có tài mà thôi. Thiên hạ như nhỏ bé hơn
dưới cái nhìn bao la của bậc tài tử. Và như thế thì tầm vóc của người quân tử
cũng được nâng lên. Vì cậy tài và khoe tài nên Nguyễn Công Trứ luôn luôn
đắc ý:
Vũ trụ chức phận nội
Đấng trượng phu một túi kinh luân
Mang một “tỳi kinh luõn” đi khắp vũ trụ này, để vá lại càn khôn, để
xoay lại trái đất- đó mới là cỏi chớ của bậc trượng phu quân tử. Chớnh vỡ
quan niệm này mà sáng tác của Nguyễn Công Trứ như một sản phẩm truyền
thống đang trong quá trình vật vã chuyển đổi để tìm và khẳng định thêm
những chuẩn mới. Cái tài của Nguyễn Công Trứ là “tài bộ”: “ễng Hi Văn tài
bộ đã vào lồng”, là cái tài vượt lên mọi chuẩn giá trị, mọi khuôn khổ và nhân
gian luôn phải ngước nhìn. Chính cá tính ngụng đó làm cho Nguyễn Công
Trứ có một quan niệm về cái tài một cách rất riêng như thế. Đồng thời, chính
Líp: K56A - Khoa Ngữ văn Trường ĐHSP
Hà Nội
Báo cáo khoa học Vũ Thị Bích & Bùi Thị
Duyên
quan niệm độc đáo về cái tài lại trở thành biểu hiện rất rõ của cỏi “ngụng”
trong thơ ông. Đặc biệt trong “Bài ca ngất ngưởng” Nguyễn Công Trứ đã đề
ra một “khuynh hướng thơ ngạo nghễ hiếm có trong làng thơ xứ Việt”. Có lẽ
chưa có nhà thơ nào thời đú dám ngang nhiên xưng danh:
Ông Hi Văn tài bộ đã vào lồng
Gồm thao lược đó nờn tay ngất ngưởng
Bài thơ này được Nguyễn Công Trứ viết khi ông cáo quan về hưu
(1848). Nó vừa như một hồi kí cuộc đời vừa như “một tuyờn ngụn” (Trần Thị
Băng Thanh), một “bức chân dung tự hoạ về một cá tính mạnh mẽ, về một
con người xuất chúng dám lấy cách sống ngang tàng, ngông ngạo, trái khoáy
như một phương diện khẳng định bản ngó” (Nguyễn Đăng Mạnh).
Từ ý thức về cái tài đến việc cụ thể hoỏ nó ở mức cực đoan trong sáng
tác như không cần để ý đến cõi nhân gian bé tí ở dưới mình kia. Có thể nói,
việc khẳng định cái tài như Nguyễn Công Trứ đã làm là một điều độc nhất, ta
chỉ gặp trong cuộc đời và sáng tác của ông mà thôi. Nói như thế là để khẳng
định: ngông như Nguyễn Công Trứ thì chỉ có một mà thôi!
2. Cái nhìn về hiện trạng xã hội
Nguyễn Công Trứ sống hàn vi gần nửa kiếp người. Chính những trải
nghiệm thực trong đời cùng những gì mắt thấy tai nghe đó giỳp nhà thơ có
cái nhìn bản chất về hiện trạng xã hội tăm tối đương thời. Nếu là một người
bi quan trong cơn vận cùng thế bĩ ấy chắc sẽ không khỏi chán nản và bế tắc.
Nhưng Nguyễn Công Trứ đã trang bị cho mình một cách xử thế khác người,
hơn đời. Ông vượt thoát ra khỏi bầu không khí u ám của xã hội bằng cái nhìn
lạc quan, có phần khinh bạc, ngạo nghễ. Vì thế, chưa bao giờ ta thấy tầm vóc
nhà thơ trở nên nhỏ bé hay bị lu mờ đi trước hoàn cảnh. Biểu hiện rõ nhất của
cái nhìn về hiện trạng xã hội chính là sự khinh bạc cảnh nghèo và cái nhìn
chua chát về thế thái nhân tình.
2.1. Khinh bạc cảnh nghèo
Líp: K56A - Khoa Ngữ văn Trường ĐHSP
Hà Nội
Báo cáo khoa học Vũ Thị Bích & Bùi Thị
Duyên
Trong sáng tác của Nguyễn Công Trứ, số lượng những bài thơ viết về
cảnh nghèo, cỏi nghèo chiếm một số lượng không nhỏ. Chỉ sơ qua phần
“Thiên địa sinh ngụ nguyờn hữu ý”, ta có thể thấy: có khoảng gần 10 bài thơ
mà tác giả đặt chữ “nghốo” lờn ngay nhan đề bài thơ (Phận anh nghốo, Vịnh
cảnh nghèo, Than cảnh nghèo, Tết nhà nghèo, Vui cảnh nghèo, Thế tình đối
với người nghèo, Hàn Nho phong vị phú ).Viết về cảnh nghèo, nhà thơ
không chỉ lột tả nỗi khổ của người nghèo: đói cơm, rỏch áo, nợ nần chồng
chất, cuộc sống cùng quẫn, kiểu:
ở thì : Bốn vách tường mo, ba gian nhà cỏ
Đầu kèo mọt tạc vẽ sao, trước cửa nhẹn giăng màn gió
mặc thì: Áo vải thô nặng trịch, lạnh làm mền, nực làm gối,
bốn mùa thay đổi bấy nhiêu
Khăn lau giắt đỏ lòm, trải làm chiếu, vận làm quần
một bộ ăn chơi quỏ thỳ
hay chua chát như: Chẳng phải rằng ngây, chẳng phải đần
Bởi vì nhà khó hoá bần thần
(Vịnh cảnh nghèo)
Do ý thức rất rõ về cảnh nghèo của mỡnh nờn Nguyễn Công Trứ coi
cảnh nghèo chỉ là cuộc thử lửa. Một bên là thở than và oỏn trỏch số phận, chịu
khoanh tay bó gối, một bên là đối diện và vượt qua bằng sức mạnh của cái
nhìn lạc quan, không bao giờ lo lắng và đánh mất hi vọng. Nguyễn Công Trứ
chọn cho mỡnh cỏch thứ hai. Chỉ có ông mới có cái nhìn đặc biệt theo kiểu:
Tin xuõn đó có nhành mai đó
Chẳng lịch song mà cũng biết giêng
Đây là cỏi thú “nghèo mà vẫn sang” của nhà nho tài tử.ễng phủ nhận
hoàn cảnh bằng cách tạo ra một thế giới giàu sang, sung túc của riêng mình.
Hãy tưởng tượng ông ung dung rượu trà, nhưng tựu trung thì:
Gúp lá bàng là vối, pha trà mựi chỏt chỏt, chua chua
Líp: K56A - Khoa Ngữ văn Trường ĐHSP
Hà Nội
Báo cáo khoa học Vũ Thị Bích & Bùi Thị
Duyên
Rồi: Đồ chuyên trà, ấm đất sứt vòi
Cuộc uống rượu be sành chắp cổ
Trầu thì : Têm vỏ mận vỏ dà, buồn miệng nhai nhai, nhổ nhổ
Có người cho rằng, ở đây Nguyễn Công Trứ là “nạn nhân của cuộc
giằng co tranh chấp giữa hũan cảnh túng thiếu với sự lấp liếm giả vờ”. Nhưng
dù thế nào đi chăng nữa, trong suốt 40 năm trời, Nguyễn Công Trứ đã ngang
nhiên cười khẩy với cuộc đời và đương đầu với số mệnh bởi ụng luụn cho
rằng “người giỏi thường nghốo”, “vốn dễ anh hùng mới cú nghốo”. Thật là
ngông, ngông lắm!
2.2. Cái nhìn thế thái nhân tình
Là nạn nhân trực tiếp của đồng tiền và của thế thái nhân tình đen bạc,
nhà nho kiết xác Nguyễn Uy Viễn tướng công lên tiếng phê phán, tố cáo xã
hội tha hoá đầy rẫy xấu xa, bất công, giả dối. Ông như là một hoạ sĩ vẽ nên
bức tranh hiện thực mang tính hoạt kê, ngoại cảnh mang nhiều đường nét tõn
kỡ, ngộ nghĩnh, nhiều khi ta nghĩ là ông đang đùa vậy! Vốn đã thẳng thắn
bao nhiêu với việc bày tỏ ý tưởng, hoài bão của một trang nam nhi cũng như
khẳng định nhân cách sống của một kẻ sĩ trong cuộc đời nghèo khó thỡ ụng
lại càng huỵch toẹt, đốp chát bấy nhiêu với thói đời đen bạc, với bọn người
ươn hèn giả dối. Ông chửi cả xã hội, không trừ một ai.
- Đéo mẹ nhân tình đã biết rồi
Lạt như nước ốc, bạc như vôi
Tiền tài hai chữ son khuyên ngược
Nhân nghĩa đôi đường nước chảy xuôi
(Thế tình bạc bẽo)
- Gớm chết nhân tình thế thái
Gớm cho thế thái nhõn tình
(Nhân tình thế thái)
Ông lên án quan lại rất trực diện, đích đáng:
Líp: K56A - Khoa Ngữ văn Trường ĐHSP
Hà Nội
Báo cáo khoa học Vũ Thị Bích & Bùi Thị
Duyên
Mặc sức đõm thựng rồi thỏo đỏy
Tha hồ tráo đấu lại lừa thùng
Xã hội đương thời dưới con mắt nhà thơ chỉ như một nắm giấy nát mà
nhà thơ vo tròn lại rồi ném đi. Xã hội thật nhỏ bé dưới con mắt nhà thơ. Đem
cả xã hội ra mà mắng chửi, thiết nghĩ, con người ấy cũng chẳng phải tay vừa!
Và từ mệnh đề này ta có thể đi đến việc khẳng định cái “ngụng” của Nguyễn
Công Trứ trong cái nhìn về thế thái nhân tình- một cái nhìn ngạo nghễ và rất
khinh bạc.
3. Hành lạc - một biểu hiện rõ nhất của cỏi ngụng Nguyễn Công
Trứ
Ở các nhà nho khác, khi đường hoạn lộ gập ghềnh hay chốn tường đào
nhiều bụi bặm, họ sẽ hành tàng và chọn cho mình con đường ẩn dật với lối
sống thanh đạm, tri túc quả dục, tĩnh tại và suy tưởng, tâm linh và hướng đạo.
Họ sống ẩn dật nhưng vẫn noi gương theo nhưng bậc thánh hiền, túc nho,
không vượt ra khỏi cương thường lễ giáo như việc Nguyễn Trãi tỡm về với
chốn Côn Sơn, Nguyễn Bỉnh Khiêm lập am Bạch Vân suốt ngày ngâm thơ,
đọc sách thánh hiền. Nguyễn Công Trứ lại hướng cái nhàn vào kiểu sống cho
cá nhân, cho cảm giác nên tuy nhàn mà cũng lại rất nhộn nhịp hăng say.
Nhàn đồng nghĩa với hành lạc, là bày ra những trò vui để hưởng thụ về cảm
giác, từ thú vui thanh cao đến thú vui trần tục nhất. Ở phương diện này
Nguyễn Công Trứ mới thật là phá cách. Ông phá bỏ mọi quy chuẩn của nhà
nho, của xã hội phong kiến quy định cho họ để tự tạo lập cho mình một lối
sống riêng. Đọc thơ Nguyễn Công Trứ chúng ta bắt gặp nhiều thú vui của
ông như: thú ngao du, thú đàn cờ thơ rượu, thú đỏ đen, thú ả đào ca nhi mà
thú vui nào cũng say sưa. Nguyễn Công Trứ có nhiều bài thơ, thậm chí có cả
những chùm thơ về những thú ăn chơi của mình như: Cầm kì thi tửu(3 bài),
Phong lưu, Yên hoa, Thú thanh nhàn, Tài tình, Chơi xuân kẻo hết xuân đi và
xen kẽ trong nhiều bài thơ luận kẻ sĩ hay tự thuật.
Líp: K56A - Khoa Ngữ văn Trường ĐHSP
Hà Nội
Báo cáo khoa học Vũ Thị Bích & Bùi Thị
Duyên
Trong bài Cầm kì thi tửu, ông viết:
- Ai say ai tỉnh ai thua được
Ta mặc ai mà ai mặc ai
- Đường ăn chơi mỗi vẻ mỗi hay
Thơ một túi phẩm đề câu nguyệt lộ
Rượu ba chung tiờu sỏi cuộc ngân hà
Thú xuất trần tiên vẫn là ta
Sách Hoàng Thạch, Xớch Tùng, ờ cũng đáng
- Thơ một túi gieo vần Đỗ, Lý
Rượu một bầu rút chộn lưu linh
Lấy bút nghiên mà hẹn với non sông
Trong một bài khác, ụng có viết:
Trăm năm trong cõi người ta
Sóc sổ tính ngày chơi đà được mấy
Biết mùi chơi chưa dễ mấy người
Đem ngàn vàng mà đổi lấy tiếng cười
Phong lưu cho bõ kiếp người
Ta thấy đặc biệt làm sao khi đọc mấy câu thơ này:
Ngoài vòng cương toả chân cao thấp
Trong thú yên hà mặt tỉnh say
Liếc mắt coi chơi người lớn bé
Vểnh râu bàn những chuyên xưa nay
Của trời trăng gió kho vô tận
Cầm hạc tiêu dao đất nước này
(Tự thuật - bài 4)
Đọc những vần thơ trên, chúng ta phải tưởng tượng ra cuộc chơi của
Nguyễn Công Trứ, hình dung ra hình dáng, cử chỉ, điệu bộ của ụng thỡ mới
thật thú!
Líp: K56A - Khoa Ngữ văn Trường ĐHSP
Hà Nội
Báo cáo khoa học Vũ Thị Bích & Bùi Thị
Duyên
Nguyễn Công Trứ còn say mê thú hát ả đào, nhưng không phải lúc nào
ông cũng dừng lại ở câu ca tiếng hát có tiếng “cắc tựng” mà còn đắm chìm
vào cỏc tỳ vui vật dục. Nguyễn Công Trứ công khai:
Thú tiêu sầu rượu rót thơ đề
Có yến yến hường mới thú
Khi đắc ý mắt đi mày lại
(Tài tình)
Về vấn đề này, có người cho rằng Nguyễn Công Trứ đã sống quá cỡ:
lúc nghĩ đến công danh là lúc dường như ụng quờn hết tất cả để lập cho được
công danh: “Không công danh thời nát với cỏ cõy”, nhưng lỳc đó lao vào ăn
chơi hưởng lạc lại cũng là lỳc ụng vứt bỏ mọi thứ kể cả chí bình sinh để tận
hưởng mọi lạc thú trần gian, trong đó cú thú “hường hường yến yến”. Quan
niệm hành lạc của Nguyễn Công Trứ được đẩy đến mức cực đoan - đõy
chớnh là biểu hiện của cái “ngụng” họ Nguyễn mà trước đó không ai sánh
kịp. Dự nó cũn nhiều hạn chế nhưng đó là một nét nổi bật trong cá tính của
ông: luôn luôn cực đoan vấn đề đến mức cao điểm. Đõy chớnh là những nét
vẽ của chữ “ngụng” mà thôi!
III. Cỏi ngụng biểu hiện trong thơ Tản Đà.
Chúng ta đều biết, sau khi Tản Đà thi không đỗ trở về, người mình yêu
đi lấy chồng. Thế là “cử tỳ khụng – mà rể cũng khụng”, Tản Đà thực sự buồn
nản.ễng nhỡn sân khấu cuộc đời với phường bất tài, bất trí, thương cho thân
mình: lắm tài hoa mà đành khoanh tay chịu đựng cảnh nghốo… đó nung sụi
lũng bực tức, ông đâm ra ngụng. Ngụng là thói khinh đời ngạo thế. Nó là cái
trạng thái khi cái tri thức bị rượt đuổi đến bước đường cùng. Dường như đó
là sự u uất không sao lý giải nổi, muốn lo cho đời mà đời lại chẳng cho lo,
khiến tâm hồn bị đè nén đâm ra tư tưởng bất cần đời. Nói chung ngông là
một tư tưởng chống đối thời thế đã không chiều lòng người. Chúng tôi đã
nghiên cứu cái ngông của thi sĩ trên ba phương diện sau:
Líp: K56A - Khoa Ngữ văn Trường ĐHSP
Hà Nội
Báo cáo khoa học Vũ Thị Bích & Bùi Thị
Duyên
1. Quan niệm về cái tài, mộng sự nghiệp
Theo Freud “mộng có liên quan mật thiết với đời sống tình cảm và tinh
thần con người”. Tản Đà cũng vậy. Bản chất mộng của thi sĩ đã đưa tiên sinh
vào một chuỗi ngọc bích nối tiếp bằng mộng đẹp: mộng ái ân, mộng khoa
danh, mộng tô bồi bức dư đồ rách. Trong đó, mộng văn chương được xây
dựng trên nền ý thức sâu sắc về tài năng của mình, Tản Đà đã viết những
trang thơ đầy chất ngông.
Tản Đà vốn sinh ra trong một gia đình quan lại và khoa bảng, dòng dõi
trâm anh thế phiệt. Anh của Tản Đà đỗ phó bảng, làm đốc học. Anh rể là
Nguyễn Thiện kế đỗ cử nhân, làm tri huyện; thân phụ là Nguyễn Danh Kế
làm án sát. Do vậy, mà Tản Đà cũng nung nấu khát vọng lập công danh
chẳng kộm gỡ Nguyễn Công Trứ:
- Sung sướng như chúng ta
Thực là nhờ ông cha
Giếng sâu mạch nước tốt
Cây cao bóng rợp xa
(Lờn tám)
- Trời cho ta sẵn thông minh
Chí chuyên cần tuổi xanh chẳng phụ
Tản Đà cũng giống như Nguyễn Công Trứ gặp hội phong vân, bước
ra đời gánh vác giang sơn:
Hội giú mõy xoay vần mấy lúc
Bực tài danh ta có học mà nên
Nếu nguyễn Công Trứ nuôi mộng tang bồng hồ thỉ, lưu danh thiên
cổ thì Tản Đà:
Thân nam tử đứng trong trần thế
Cuộc trăm năm có dễ ru mà
Có đời mà cũng có ta
Líp: K56A - Khoa Ngữ văn Trường ĐHSP
Hà Nội
Báo cáo khoa học Vũ Thị Bích & Bùi Thị
Duyên
Sao cho thân thế không là cỏ cây
Thật là éo le! Hi vọng càng cao thì thất vọng càng lớn.Tản Đà bao
lần hăm hở lều chõng đi thi là một lần bị đỏnh gục.ễng rơi vào trạng huống
chán nản bất cần đời và thốt lên cay đắng:
Càng học để thi, thi cứ hỏng
Thi tàn, học cũng tàn theo thi
Từ đó Tản Đà trở thành một “cuồng sĩ” lang thang, phiêu bạt khắp
nơi.Do vậy, cỏi ngông của Tản Đà sau khi thi hỏng là thái độ phản kháng với
chế độ thi cử bất công, lạc hậu:
Bởi ông hay quỏ ụng khụng đỗ
Không đỗ ông càng tốt bộ ngông
(Tự trào)
Tản Đà tự nhận mình là “ụng” đầy ngạo nghễ, kiêu căng, khinh bạc.
Trong lối xưng hô và cách lập luận ngược đời ấy (không đỗ vỡ quỏ hay) ta
thấy có sự chua chát, bất bình, ngông cuồng ẩn giấu trong lời thơ.
Chính sự thất bại của mộng khoa danh đã đưa Tản Đà đi vào giấc
mộng văn chương. Tản Đà chính là người đầu tiên sống bằng nghề viết văn,
viết báo. Văn chương không phải là một thú chơi tiêu khiển nữa mà thực sự
đã thành một nghề, gánh nặng cơm áo đè nặng lên vai người thi sĩ:
Còn non còn nước còn trăng gió
Cũn có thơ ca bán phố phường
Với “túi thơ đeo khắp ba kỳ”, Tản Đà ôm trọn giấc mộng lớn nhưng
cũng lắm truân chuyên. Tản Đà từng viết bài thơ:” Dạm bán áo đoạn” để mỉa
mai tình cảnh của mình:
Thơ lưng chất nặng, tay buồn rỗi
Bỏn áo mà mua giấy viết ngông
Bán áo để mua giấy đã là hành động ngông lắm rồi và những điều
viết lên mặt giấy kia sẽ cũn ngụng đến mức nào? Hành động ngông, cử chỉ
Líp: K56A - Khoa Ngữ văn Trường ĐHSP
Hà Nội
Báo cáo khoa học Vũ Thị Bích & Bùi Thị
Duyên
ngông dường như cả cái giấc mộng kia sẽ thành ngông nốt! Vỡ nó luụn đem
lại sự thất bại, sự bế tắc mà mỗi lần như vậy Tản Đà càng thêm bất cần đời,
càng ngông nghênh, ngạo nghễ hơn. Đến gần cuối đời, khi “Tiễn ông Công
lên chầu trời” nhà thơ đã nghiệm ra đầy đau xót:
Khi làm chủ bỏo lỳc viết mướn
Hai chục năm dư cảnh khốn cùng
Ngày xanh như ngựa đầu xanh bạc
Chán cả giang hồ hết cả ngông
Ông tự nhận mình có tài ngông:
Thiên tào tra sổ xét vừa xong
Đệ sổ lờn trỡnh thượng đế trông
- Bẩm quả có tên Nguyễn Khắc Hiếu
Đày xuống hạ giới về tội ngông
(Hầu trời)
Nhưng cuối cùng thi sĩ nhận ra rằng: “chán cả giang hồ hết cả ngụng”.
Rõ ràng, ngông là bản lĩnh của Tản Đà, gần như một thuộc tính của Tản Đà.
Chớnh trong xã hội phong kiến mới sinh ra tội ngông. Tản Đà ngông cũng
chính là một cách phản đối lại với đời.ễng khinh bạc tất cả.Giọng văn đầy
khẩu khí, ngụng nghờnh.Tuy biết rằng mỡnh nghốo nhưng Tản Đà cất cao
giọng mỉa mai đầy tự mãn, đầy chất ngông về bản thân:
Làm quan vớ cú dễ như chèo
Tớ đến năm nay đã chẳng nghèo
(Lo văn ế)
Hay: Người ta hơn tớ cái phong lưu
Tớ cũng hơn ai cái sự nghèo
(Sự nghèo)
Có người viết về cỏi ngụng của Tản Đà như sau:”Nếu đọc thơ Tản Đà
trên mọi khía cạnh mà không đọc những bài thơ cũng như những đoạn văn về
Líp: K56A - Khoa Ngữ văn Trường ĐHSP
Hà Nội
Báo cáo khoa học Vũ Thị Bích & Bùi Thị
Duyên
ngông của ụng thỡ thật là lỗi lầm rất lớn và có thể cho rằng như vậy chính là
chưa đọc hết thơ Tản Đà”. Trần Tú Xương 18 năm về trước suốt đời lận đận
lao đao vì khoa cử công danh mà nảy ra tư tưởng chán đời:
Một ngọn đèn xanh một quyển vàng
Bốn con làm lính bố làm quan
Quạt nước chưa xong con nhảy ngựa
Trống chầu chưa dứt bố leo thang
Tản Đà tiếp tục cái sự ngông ấy. Cỏi ngông trong thơ Tản Đà gần như
là một vấn đề cần phải có đối với ụng vỡ nó đó phản ánh được cá tính cũng
như cuộc sống lúc bấy giờ của tác giả.
2. Thi sĩ của những vần thơ say
Thi sĩ Tản Đà cũng là một “tửu đồ”.Trong trạng huống say, Tản Đà đã
sáng tác nên rất nhiều bài thơ tuyệt tác. Say ở đây không phải là cái say ẩm
thực tầm thường mà là cái say của tao nhân mặc khách, cái say vì nhân thế, vì
cảnh đời. Bao nhà thơ nói rất hay về rượu, lập luận cho việc say sưa của
mình. Nho gia xưa từng đem nhàn lạc vào thi văn “Cầm kỳ thi tửu khách,
phong vân tuyết nguyệt nhiờn”. Nguyễn Công Trứ “đỏnh ba chén rượu
khoanh tay giấc”.Cao Bỏ Quỏt “uống mấy chung lếu lỏo”cho” tiêu sầu”.Cũn
Tản Đà thì:
- Say sưa nghĩ cũng hư đời
Hư thời hư vậy, say thời cứ say
Đất say đất cũng lăn quay
Trời say mặt cũng đỏ gay ai cười
(Lại say)
- Cảnh đời giú giú, mưa mưa
Buồn trông ta phải say sưa đỡ buồn
Rượu say ta lại khơi nguồn
Nên thơ rượu cũng thêm ngon giọng tình
Líp: K56A - Khoa Ngữ văn Trường ĐHSP
Hà Nội
Báo cáo khoa học Vũ Thị Bích & Bùi Thị
Duyên
Rượu thơ mình lại với mình
Khi say quên cả cái đỉnh phù du
Trăm năm thi sĩ tửu đồ là ai?
(Thơ rượu)
Dường như say là một trạng thái tất nhiên của một tâm hồn kết tụ bởi
buồn chán và bực tức. Nhưng về cơ bản nó cũng bắt nguồn từ cỏi ngụng.
“Say” và “ngông” đi với nhau.Tản Đà buồn cho tình ái lỡ dở, chán cho tình
đời đen bạc nên mới mượn câu thơ cùng chén rượu để quên sự đời và sự thực
ụng đó tìm thấy khoảnh khắc sung sướng của tâm hồn:
Trời đất nhỉ? Cái say là sướng thế
Vợ khuyên chồng ai dễ đã chừa ngay
Muốn say lại cứ mà say
(Lại say)
Có thể nói chữ “say” xuất hiện khá nhiều trong thơ Tản Đà.ễng ngông
nghênh, ngạo thế với bầu rượu, đặt rượu bên tình ái, đặt rượu bên thơ ca.Thi
nhân say để mong quên đi nỗi buồn, thân thế và sự nghiệp nhưng cuối cùng
lại càng chua chát thêm. Biết say sưa là hư đời nhưng ông vẫn cứ say, trở
thành một tửu đồ quên đỉnh phù du và cảm nhận niềm sung sướng của trạng
huống say. Nhưng cũng có khi thi sĩ đành ngậm ngùi tự hỏi:
Đời đáng chán hay cũng đáng chán?
Cất chén quỳnh riêng hỏi bạn tri âm
Ai là người bạn tri âm của con người tài hoa ấy? Phải chăng thi sĩ cô
đơn? Cô đơn nên mới tìm đến hơi men để xóa đi những nỗi buồn chán, để
say, để làm thơ:
Công danh sự nghiệp mặc đời
Bên thời be rượu bên thời bài thơ
(Tản Đà xuân sắc)
Tản Đà - nhà nho bất đắc chí, thất bại trong cuộc sống:
Líp: K56A - Khoa Ngữ văn Trường ĐHSP
Hà Nội
Báo cáo khoa học Vũ Thị Bích & Bùi Thị
Duyên
Mỗi phen ra đời lại phen thất bại
Mỗi phen thất bại, đầu tóc lại bạc thêm
Nhưng thái độ ngụng đó giỳp thi nhân vượt lên trên hoàn cảnh. Người
ngông ít nhất phải tự thấy mình cao hơn đời, giỏi hơn đời, chỉ vì không gặp
hoàn cảnh thuận tiện nên thất bại. Ngông chỉ là một biến thể của kiêu ngạo.
Ngông để mà khinh. Những cái gì người đời ưa chuộng, tiên sinh khinh.Tản
Đà chìm vào thơ rượu, đầy ngất ngưởng:
- Trời đất sinh ta rượu với thơ
Không thơ không rượu sống như thừa
(Thơ rượu)
Say chẳng biết phen này là mấy
Quái! Say sao? Say mãi thế này?
Say lúy túy nhỏ to đều bất kể
(Lại say)
Thật, Tản Đà tự nhận mình là thi sĩ tửu đồ quả không sai. Một cơn say
dài, say mãi theo thời gian suốt cả đêm ngày.Tưởng rằng người say đã không
còn ý thức nhận ra “phen này là mấy”, chẳng nhìn ra non xanh nữa nhưng kỳ
thực, Tản Đà vẫn đứng cao hơn đời, ngạo nghễ:
Việc trần ai, ai tỉnh, ai lo
Say túy lúy, nhỏ to đều bất kể”
Tản Đà say túy lúy, say khướt, tức là rất say rồi. Nhưng ông vẫn nghĩ
đến việc đời. Mặc dù đó là thái độ bất cần đời nhưng vẫn hoàn hàm chứa một
chút tiếc nuối, sự đau đời nhưng kệ đời.
Có thể nói hình ảnh thi sĩ Tản Đà hiện lên qua những vần thơ say đầy
cao ngạo, đậm chất ngông. Có thể trên thi đàn Việt Nam có rất nhiều nhà thơ
tìm đến rượu và có những vần thơ say. Nhưng Tản Đà đã làm nên những vần
say gắn liền với cỏi “Tụi” ngụng đầy bản lĩnh. Cái say ấy đặc trưng cho
phong cách, con người của Tản Đà. Mức độ say cũng rất mạnh mẽ, quyết liệt
Líp: K56A - Khoa Ngữ văn Trường ĐHSP
Hà Nội
Báo cáo khoa học Vũ Thị Bích & Bùi Thị
Duyên
“say sưa”;”say túy lỳy”… Qua đó ta cũng thấy được vẻ đẹp tâm hồn của Tản
Đà, thi nhân đa cảm nhưng không yếu đuối mà rất ngang tang, cá tính mạnh
mẽ, đụi chút yếm thế bất cần đời. Đú chính là cỏi ngụng thể hiện trong những
vần thơ say của Tản Đà.
3. Tản Đà – thi sĩ của “cũn chơi” và phiêu lưu tình ái
Có ý kiến cho rằng: Tản Đà là một tín đồ Epicure (tôn thờ khoái lạc).
Chính tư tưởng tôn thờ khoái lạc này phần lớn đã xua đuổi trạng thái chán
đời ra khỏi tâm hồn thi sĩ Tản Đà. Nó được kết tinh rõ rệt nhất trong bài “Cũn
chơi” của ông và luôn làm giường cột luân lý trong đời thi sĩ. Tư tưởng này
biểu lộ trong ba tâm lý:1- Sợ gì; 2- Sợ chết; 3-Khát sống. Bởi sợ gỡ nờn tiếc
xuân. Bởi sợ chết nờn khỏt sống mà sự sống lại vô tận nên phải đem rất nhiều
nghệ thuật vào cách sống.Mục đích là hưởng được rất nhiều khoái lạc trong
một thời gian rất ngắn. í kiến trên cũng không phải hoàn toàn là đúng. Nếu ta
chỉ coi Tản Đà chỉ tôn thờ khoái lạc thỡ đó dung tục hóa ý thơ của
ụng.Chỳng ta nên biết Tản Đà ý thức về cái Tôi của mỡnh sõu sắc.Trong tản
văn của mình, Tản Đà nhiều lần triết lý về cái gọi là “thằng người”.ễng nhận
thấy đó là một danh xưng cao quý và vì thế công khai giữ một thái độ khinh
bạc, một thái độ ngông, một giấc mộng như để thám hiểm những chân trời
mới lạ trong thế giới tinh thần của cái tôi.
Vấn đề “chơi” trong thi ca không phải đến Tản Đà mới cú.Cao Bỏ
Quỏt từng nói “chơi cho lăn lóc đỏ”. Mấy người cùng thời cũng từng muốn
“tuyết nguyệt phong hoa cho phỉ chớ”. Nhưng chưa ai ca tụng thú ăn chơi
một cách say mê và tỉ mỉ như Tản Đà.ễng tuyên ngôn về nó một cách tự tin
và ngông ngạo:
Chơi cho biết mặt sơn hà
Cho sơn hà biết ai là mặt chơi
(Chơi Huế)
Líp: K56A - Khoa Ngữ văn Trường ĐHSP
Hà Nội
Báo cáo khoa học Vũ Thị Bích & Bùi Thị
Duyên
Tản Đà trở thành một “cuồng sĩ” vui thú với cái chơi trong thú giang
hồ xê dịch - ở đó cái Tôi của ông tìm thấy mình trong cảnh sắc non nước.Cỏi
mới mẻ là Tản Đà đến với thiên nhiờn như một du khách để tìm kiếm và
thưởng ngoạn cái đẹp như trong một số bài thơ: Chơi Hòa bình; Chơi Huế;
Nhớ cảnh cầu Hàm Rồng… Những điểm như hồ Frie, thác nước Nagara;
những chiếc quạt nước ở miền thượng lưu song Madison… là những nơi mà
Tản Đà chỉ biết qua sách vở. Tuy nhiờn chớnh chớnh khao khát phiêu du để
kiếm tìm và thưởng ngoạn những điều mới lạ đã khiến những trang viết của
Tản Đà tràn đầy rung động mãnh liệt.Nhờ vào đó, cảnh vật phương xa hiện
lên sống động trong những màu sắc, âm thanh quyến rũ như mọi chân trời
hấp dẫn, một tiếng mời gọi đầy mãnh liệt đối với chủ thể.
Những cuộc chơi của Tản Đà thật đa dạng và khoái hoạt. Lối chơi của
nhà thơ giang hồ như muốn đánh lận thời gian:
Chơi xuân kể lại hành trình
Ngày ba mươi tết hứng tình ra đi
Tản Đà say sưa với cảnh đời, muốn tận hưởng cuộc đời. Bài thơ “Thú
ăn chơi” đọc lờn đó thấy giấc mộng ăn chơi của thi sĩ hiện lên rõ rệt:
Túi thơ đeo khắp ba kỳ
Lạ chi rừng biển thiếu gì gió trăng
“Thỳ ăn chơi” ở đây chính là việc đem túi thơ của mình đi khắp ba
miền Bắc, Trung, Nam, rừng biển, gió trăng đều biết cả. Sự phong lưu, lãng
du của thi nhân chẳng ai trên thế gian này có thể so sánh bằng. Qua đó ta
càng thấy khâm phục lối chơi “giang hồ xê dịch” của nhà thơ.
Chơi ở đây là phạm trù khá lạ trong thi ca. Nó không phải là chơi lông
bông, không làm gì mà chơi ở đõy chính là một cách hưởng thụ của những
bậc tao nhân mặc khách. Tản Đà tuy xuất thân là một nhà nho nhưng không
phải là nhà nho chính thống mà thuộc lớp nhà nho tài tử nên đời sống tinh
thần cũng thoáng hơn, lãng mạn hơn, đời hơn. Dường như chính xã hội
Líp: K56A - Khoa Ngữ văn Trường ĐHSP
Hà Nội