Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

Đề cương ôn thi tốt nghiệp môn triết học Mac Lenin

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (308.6 KB, 28 trang )

Câu 1: Phân tích những điều kiện ra đời của Triết học Mác - Lênin
và nêu những giai đoạn chủ yếu trong sự hình thành và phát triển của
triết học Mác-Lênin.
2.1. Điều kiện và tiền đề ra đời của triết học M -L
- Nghiên cứu tại sao triết học M lại ra đời được và tại sao lại ra đời vào
những năm 40 của thế kỷ 19.
2.1.1. Điều kiện kinh tế - xã hội
* Nền đại công nghiệp cơ khí ra đời và phát triển nhờ cuộc cách mạng
công nghiệp cuối thế kỷ 18 đầu thế kỷ 19:
+ Nước Anh đã trở thành cường quốc tư bản chủ nghĩa lớn nhất với lực
lượng công nghiệp hùng mạnh. Cuộc cách mạng công nghiệp ở Pháp đang
được hoàn thành.
+ Ở Đức và một số nước Tây Âu khác, cuộc cách mạng công nghiệp
cũng làm cho phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa lớn lên nhanh chóng
trong lòng xã hội phong kiến.
Nhờ vậy, tính hơn hẳn của chế độ tư bản chủ nghĩa so với chế độ phong
kiến được thể hiện một cách rõ rệt.
* Cùng với nền đại công nghiệp cơ khí là CNTB được xác lập và giữ địa
vị thống trị. Phương thức sản xuất này gắn liền với sự ra đời của 2 giai cấp
vô sản và tư sản. giai cấp vô sản ngày càng lớn mạnh. Giai cấp tư sản nắm
quyền sở hữu về tư liệu sản xuất còn giai cấp vô sản mặc dù không nắm giữ
tư liệu sản xuất nhưng là một lực lượng sản xuất chính, đông đảo, là lực
lượng lao động chính.
- Do đó 2 giai cấp này có địa vị khác với phương thức sản xuất
+ Tư sản: có quyền sở hữu, quản lý, giữ địa vị thống trị
+ Vô sản: không có quyền sở hữu, chỉ là lực lượng sử dụng tư liệu sản
xuất để tạo ra của cải vật chất cho giai cấp tư sản.
Do đó họ là người làm thuê, bán sức lao động cho giai cấp tư sản.
- 2 giai cấp này mâu thuẫn về lợi ích kinh tế.
* Mặt khác, sự phát triển của chủ nghĩa tư bản làm cho những mâu
thuẫn xã hội vốn có của nó bộc lộ ngày càng gay gắt. Nhiều cuộc đấu tranh


của công nhân đã mang ý nghĩa là:
+ Cuộc khởi nghĩa của thợ dệt ở Lyông (Pháp) năm 1831 -1834
+ Ở Anh có phong trào Hiến chương vào cuối những năm 1930 là
“phong trào cách mạng vô sản to lớn đầu tiên thật sự có tính chất quần
chúng và có hình thức chính trị”.
+ Cuộc khởi nghĩa tự phát của thợ dệt Xilêdi năm 1844 đến sự xuất hiện
“Đồng minh những người chính nghĩa” - một tổ chức vô sản cách mạng.
Thực tiễn xã hội, đặc biệt là thực tiễn cách mạng của giai cấp vô sản nảy
sinh yêu cầu khách quan là phải được soi sáng bằng lý luận khoa học. Sự ra
đời của chủ nghĩa Mác là sự giải đáp về mặt lý luận những vấn đề thời đại
đặt ra trên lập trường của giai cấp vô sản cách mạng.
2.1.2. Tiền đề về lý luận
Có 3 tiền đề về lý luận:
+ Triết học cổ điển Đức: là thành tựu triết học lớn nhất của phương
Tây. Đại biểu: Hêghen, Phơbách
- M&E đánh giá cao tư tưởng biện chứng của TH Hênghen. C. Mác
cho rằng tính chất thần bí mà biện chứng đã mắc phải ở TH Hênghen tuyệt
nhiên không ngăn cản Hêghen trở thành người đầu tiên trình bày một cách
bao quát và có ý thức hình thái vận động chung của phép biện chứng ấy. Ở
Hêghen, phép biện chứng bị lộn ngược đầu xuống đất; chỉ cần dựng nó lại
sẽ phát hiện được cái hạt nhân hợp lý của nó sau lớp vỏ thần bí.
* Kế thừa những giá trị trong CNDV của Phoiơbắc; đồng thời đã cải tạo
chủ nghĩa duy vật cũ, khắc phục tính siêu hình và những hạn chế
lịch sử của nó. Từ đó, M&E xây dựng học thuyết mới, trong đó CNDV
và phép biện chứng thống nhất với nhau một cách hữu cơ gọi là CNDVBC,
một hình thức mới, một giai đoạn phát triển cao của CNDV triết học.
Từ những giá trị của phép biện chứng của Hêghen và CNDV của
Phoiơbắc, M&E đã xây dựng lên học thuyết triết học mới, trong đó CNDV
và phép biện chứng thống nhất với nhau một cách hữu cơ là CNDVBC, một
hình thức mới, một giai đoạn phát triển cao của CNDV triết học.

+ Những học thuyết kinh tế - chính trị cổ điển Anh
- Anh là nước có sự phát triển kinh tế tư bản sớm do đó các nhà tư bản
đã có thể khái quát thành các quy luật.
VD: quy luật cung cầu, quy luật lượng đổi, chất đổi,…
Đại biểu: Adam Smit, Ricado: các nhà nghiên cứ kinh tế đã có công tìm
ra các quy luật kinh tế.
- Đó là lý luận kinh tế học làm cơ sở để M tìm ra nguồn gốc của tư bản,
của giá trị thặng dư đó chính là giá trị sức lao động của người công nhân đã
bị người chủ lấy mất và tiếp tục phát triển để làm ra giá trị thặng dư.
Việc nghiên cứu kt chính trị học là điều kiện, là nguyên nhân quyết định
đưa M & A chuyển từ CNDT sang CNDV mới.
+ Những học thuyết lý luận về chính trị - xã hội của các nhà xã hội
không tưởng của Anh và Pháp.
Đại biểu: Xanhximong, Phurie (pháp) và owen (anh)
- Nó đưa ra mâu thuẫn của xã hội tư bản là một xã hội bất công, giàu có
đối lập với bần cùng.
Nguyên nhân là do chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất và do tích lũy tư
sản vào giai cấp tư bản.
- Họ thí điểm các công xã: giai cấp công nhân làm chủ tư liệu sản xuất
(quy mô nhỏ) nên thất bại.
- Xã hội tư bản được chỉ ra là không tồn tại mãi được nên tiến tới một xã
hội công bằng thay thế cho xã hội tư bản hiện có.
- Giai cấp vô sản là giai cấp bị bần cùng Nhưng lại không thấy giai cấp
vô sản là 1 lực lượng chính trị có thể giải quyết mâu thuẫn.
- Song cũng đã đưa ra xã hội tư bản cần bị xóa bỏ và thay thế vào đó là
một xã hội công bằng. Mà sau này M đã chỉ ra rằng CNXH không phải là
mô hình mà người ta tưởng tượng mà là một hiện thực từ các điều kiện có
thực.
Các nhà CNXH M có thể kế thừa tư tưởng giải phóng con ng, gp nhân
loại, tổ chức một XH mới đồng thời phải phê phán và thay thế quan điểm

duy tâm bằng quan điểm mới để xây dựng mô hình CNXHKH của giai cấp
công nhân. Nhờ đó, triết học Mác trở thành vũ khí lý luận cải tạo xã hội
bằng cách mạng.
2.1.3. Tiền đề về khoa học tự nhiên
- Giữa khoa học tự nhiên và triết học có mối quan hệ chặt chẽ với nhau
- Khoa học tự nhiên thế kỷ 17-18 mới nghiên cứu những bộ phận riêng
biệt của thế giới, những tài liệu chủ yếu là ở các bộ phận riêng biệt, mang
tính chất kinh nghiệm.
VD: sinh vật học, phân loại, tìm ra điểm riêng của từng loại sinh vật.
Vật lý: thay đổi, vận động trong không gian
Từ đó, các thành tựu này được ứng dụng vào cuộc sống
VD: giải thích con người chỉ là 1 cái máy có nhiều bộ phận. Sự vận
động của xã hội là vận động cơ học.
Từ đó nó cũng ảnh hưởng tới quan niệm xã hội về thế giới - quan niệm
siêu hình. - tạo nên chủ nghĩa duy vật siêu hình
- Song, quan điểm siêu hình càng ngày càng không phù hợp với sự phát
triển của xã hội, mâu thuẫn với sự phát triển của thế giới do đó cần phát
triển mới của xã hội để xóa bỏ quan điểm duy vật siêu hình.
- Khoa học có các bước phát triển mới. Những năm 40 đặt ra cần quan
niệm mới về thế giới.
Tiêu biểu là các phát minh:
1. Định luật bảo toàn và chuyển hóa năng lượng: thế giới không phải tồn
tại tách biệt nhau mà phụ thuộc, chuyển hóa lẫn nhau, từ đó nó làm đảo lộn
quan niệm sinh học trong vật lý.
2. Học thuyết tế bào: giữa thế giới thực vật và động vật có mối liên hệ
đó là những cơ thể sống gồm các tế bào. Từ đó nó lật đổ quan niệm sinh học
trong lĩnh vực sự sống
3. Học thuyết tiến hóa của Đacuyn: nghiên cứu quá trình tiến hóa của
động vật trong môi trường, sự thay đổi của cơ thể trong sự biến đổi của môi
trường.

- Động vật có quá trình tiến hóa từ bậc thấp đến bậc cao, con người là
kết quả của quá trình tiến hóa lâu dài, từ đó nó giải thích nguồn gốc tự nhiên
1
của con người. Nó chống lại thế giới quan tôn giáo, quan điểm duy tâm về
nguồn gốc loài người.
Các phát minh này đã đặt ra tư duy của con người về thế giới không thể
là siêu hình nữa mà là duy vật. Thế giới không độc lập mà có mối liên hệ,
vận động, phụ thuộc, và biến đổi không ngừng thành 1 hệ thống. Song nó
khác thời cổ đại là có các bằng chứng khoa học.
Đb là những phát minh KH thâm nhập vào nhau khiến các nhà KH tự
nhiên không thể tự mình khái quát, tổng kết thành các quan điểm TH như
hồi TK18→ đặt ra nhiệm vụ cho các nhà KH tự nhiên là khái quát tổng kết.
TH cổ điển Đức mà khởi sướng là Cantơ đã mở đầu cho việc thực hiện
mệnh lệnh này của KH tự nhiên.
+ Sự phát triển của KH tự nhiên thời kỳ này cho phép TH tách ra thành
một lĩnh vực độc lập
2.2 Vai trò của M & A với tư cách là chủ thể của một nền TH mới.
- Tự do theo M là không chấp nhận tất cả những khuôn khổ, những định
chế hiện có, vượt khỏi tất cả, vươn tới chân trời mới của tư duy, của hành
động.
- Thái độ đối với sự thật và chân lý là thái độcủa nhà KH, phẩm chất của
nhà KH, nhà KH phải coi trọng chân lý.
- Tinh thần dân chủ cách mạng: chống lại sự chuyên chế, áp đặt; đứng
về phía lẽ phải
→ Mác là một nhà dân chủ cách mạng. Ông muốn thay đổi một cách
hiện thực chế độ hiện có. Những yếu tố và phẩm chất tâm lý trên cho phép
M tiếp thu trọn vẹn nền học vấn và văn hóa đương thời; làm chủ những
thành tựu đb là của TH Đức. Với tinh thần dân chủ, ông hướng lý luận vào
thực tiễn, cuối cùng ông bắt gặp tư tưởng cộng sản (trong đó có tư tưởng về
cuộc CM cộng sản). Nhiệm vụ đặt ra cho M là đi tìm lí luận thực hiện cuộc

CM đó. Và khi sang pháp , M phát hiện ra đây là lí luận thực hiện cuộc CM
tương lai. Từ đó sự nghiệp lí luận sáng tạo của M bắt đầu.
2.3. Các giai đoạn chủ yếu trong sự hình thành và phát triển triết
học M-L
Triết học Mác - Lê Nin được chia làm 2 giai đoạn lớn
Giai đoạn 1: Mác - Ănghen
- Là giai đoạn từ những năm 1842 - 1895, giai đoạn Mác - Ănghen hoàn
thiện dần chủ nghĩa tư bản cạnh tranh.
Thời kỳ này lại được chia thành 3 thời kỳ nhỏ
* 1842-1844: là thời kỳ chuyển biến tư tưởng của Mác - Ănghen từ
CNDT và CNDC cách mạng sang CNDV và CNCS.
Các tác phẩm chính: “Góp phần phê phán triết học pháp quyền của
Hegel- lời nói đầu” (Marx), “Lược thảo phê phán khoa kinh tế chính trị”
(Engels).
* 1844-1848: Mác - Ănghen đề xuất và hoàn thiện dần hệ thống quan
điểm của CNDVBC và CNDVLS.
Là quá trình Mác - Ăngghen từng bước xây dựng nguyên lý triết học
duy vật biện chứng và duy vật lịch sử được thể hiện ở các tác phẩm kinh
điển sau: “Bản thảo kinh tế-triết học 1844” (Marx), “Luận cương về
Feuerbach” (Marx viết năm1845), “Gia đình thần thánh” (Marx, Engels viết
1845), “Hệ tư tưởng Đức”(Marx, Engels viết cuối năm 1845 đầu 1846), “Sự
khốn cùng của triết học” (1847) và “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”
(1848) chủ nghĩa Marx được trình bày hoàn chỉnh các quan điểm lý luận
nền tảng với các bộ phận hợp thành của nó.
* 1848-1895: Mác - Ănghen bổ xung và phát triển lý luận triết học
Từ sau Tuyên ngôn của Đảng cộng sản, học thuyết Mác tiếp tục được bổ
sung và phát triển trong sự gắn bó mật thiết hơn nữa với thực tiễn cách
mạng mà Mác và Ăngghen vừa là những đại biểu tư tưởng, vừa là lãnh
tụ thiên tài của phong trào công nhân. Bằng hoạt động lý luận của
mình, Mác và Ăngghen đã đưa phong trào công nhân từ tự phát thành phong

trào tự giác và phát triển ngày càng mạnh mẽ; và chính trong quá trình đó,
học thuyết của các ông cũng không ngừng được phát triển.
Các tác phẩm chủ yếu:
- Marx: “Đấu tranh giai cấp ở Pháp”, “Ngày 18 tháng Sương mù của
Loui Bonaparte”, “Nội chiến ở Pháp”, “Phê phán cương lĩnh Gotha”, “Tư
bản luận”(tập I)
- Engels: “Chống Duhring”, “Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu
và của nhà nước”, “Ludwig Feuerbach và sự cáo chung của nền triết học cổ
điển Đức”. Xuất bản tiếp “Tư bản luận tập II và III”.
Giai đoạn 2: Giai đoạn Lê Nin (từ những năm 90 của TK19 -1942)
- Lê Nin đã phát triển quan điểm của Mác - Ănghen trong thời điểm mới đó
là giai đoạn:
* CNTB chuyển từ tự do cạnh tranh sang tư bản độc quyền
* CMVS do giai cấp công nhân thực hiện đã giành được thắng lợi ở Nga.
* CNXH đã thực sự hình thành và phát triển lớn mạnh
* Giai cấp công nhân Nga đã giành và sử dụng chính quyền về mặt chính
trị và bắt đầu bắt tay xây dựng đất nước mới.
Cùng thời điểm ở giai đoạn này chủ tịch Hồ Chí Minh đã bắt gặp con
đường giải phóng dân tộc.
- Lê Nin đã có rất nhiều công lao trong quá trình phát triển triết học Mác -
Ănghen.
Trong giai đoạn của Lê Nin cũng được chia thành 3 giai đoạn nhỏ:
+ Giai đoạn1: 1893-1907 là thời kỳ truyền bá chủ nghĩa Mác - Ănghen vào
Nga. Bảo vệ thành quả của chủ nghĩa Mác. Tác phẩm tiêu biểu “Những
người bạn dân”.
+ Giai đoạn 2: 1907-1917 là thời kỳ chuẩn bị lực lượng cho cuộc CM
XHCN tháng 10 Nga. Vấn đề nhận thức luận, tác phẩm “CNDV và CN kinh
nghiệm phê phán” – phát triển hướng thiện, vai trò của thực tiễn đối với
nhận thức. Phép biện chứng, tác phẩm “Vũ khí triết học”. Nhà nước và cách
mạng, tác phẩm “Nhà nước và cách mạng”.

- Chuẩn bị chu đáo, đầy đủ về tư tưởng, thời cơ, tổ chức và lực lượng
cách mạng. Do vậy, cách mạng giành thắng lợi là tất yếu.
+ Giai đoạn 1917 - 1924 là thời kỳ Lê Nin lãnh đạo cuộc đấu tranh để
xây dựng chế độ XNCN ở Nga.
- Có những vấn đề lý luận mới nảy sinh.
- Những vấn đề xây dựng văn hóa, đạo đức của con người mới cũng
được Lê Nin đưa ra.
Notes: * Triết học M-L ra đời là 1 bước ngoặt cách mạng trong triết
học:
+ Triết học Mác ra đời trong tính tất yếu của lịch sử, là sản phẩm của
lịch sử:
- Có sự kế thừa, có sự phê phán của toàn bộ lịch sử triết học trước đó
- Ra đời trên cơ sở: Điều kiện kinh tế xã hội
Tiền đề tư tưởng trực tiếp: - CNXH
không tưởng Pháp
- Kinh tế chính trị cổ điển A
- Triết học cổ điển Đức
+ Là một bước ngoặt cách mạng trong triết học là vì:
- Cơ sở của CN M-L là CNDV biện chứng và CNDVLS.
- Triết học Mác đã chỉ ra vai trò quyết định của hoạt động thực tiễn
- Nó đưa ra quan điểm duy vật về lịch sử giải quyết mặt thứ nhất vấn đề
cơ bản của triết học trong lịch sử xã hội.
2
Câu 2: Khái niệm thế giới quan, các hình thức thế giới quan. Nội
dung, bản chất của CNDVBC với tư cách là hạt nhân của thế giới quan
khoa học. Những nguyên tắc phương pháp luận của CNDVBC và việc
vận dụng chúng vào sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay?
1. Khái niệm thế giới quan (TGQ)
Thế giới quan là hệ thống những quan điểm, quan niệm, tư tưởng của
con người về thế giới, về vị trí, vai trò của con người trong thế giới ấy nhằm

để giải đáp, lý giải những vấn đề, những nhu cầu của con người về mục
đích, ý nghĩa của con người.
- TGQ được hình thành và phát triển trong quá trình nhận thức và hoạt
động thực tiễn cải tạo TG của con người.
- TGQ có vai trò quan trọng trong cuộc sống, qua đó con người xem xét,
nhìn nhận thế giới. Từ đó, nó định hướng cuộc sống, chi phối nhận thức và
hoạt động thực tiễn của con người.
2. Các hình thái thế giới quan
- Trong lịch sử hình thành và phát triển thế giới quan, thế giới quan
được biểu hiện ra thành những hình thức khác
- Khái quát có 3 hình thái thế giới quan chủ yếu đó là:
* Thế giới quan thần thoại
* Thế giới quan tôn giáo
* Thế giới quan triết học
Thế giới quan thần thoại:
- Là hình thái thế giới quan đầu tiên trong lịch sử loài người dặc trưng
cho loài người ở giai đoạn nguyên thủy (trạng thái sơ khai của loài người).
- Nó phản ánh những khái quát trong quá trình con người cảm nhận ban đầu
về thế giới trong đó những yếu tố hiện thực và tưởng tượng, cái có thật và
hoang đường, cái lý trí và tín ngưỡng, tư duy và cảm xúc hòa quyện vào
nhau.
VD: điều này được thể hiện qua truyện thần thoại (Sơn Tinh, Thủy Tinh, )
Sự việc có thật: lao động sản xuất, chống lũ lụt, cái thiện luôn thắng cái ác
Sự việc hoang đường: Có các vị thần biểu trưng cho các hiện tượng thiên
nhiên
VD: Chử Đồng Tử
Phản ánh khát vọng hạnh phúc của người Việt Nam; phản ánh tinh thần bình
đẳng; nhưng hoang đường ở chỗ: có khả năng xây dựng nhà trong 1 đêm
VD Thánh Gióng
Hoang đường: Sinh Thánh Gióng, lớn lên như thổi

Sự thật: truyền thống yêu nước anh dũng và người Việt Nam, đã có công cụ
bằng sắt
Tất cả đó thể hiện sự bế tắc trong tư duy: đuổi giặc xong không biết làm gì
- Thế giới quan này còn được tiếp tục ở nhiều giai đoạn phát triển của con
người, nó tồn tại ở nhiều dân tộc.
Thế giới quan tôn giáo:
Bản chất là thế giới quan duy tâm
Mác: Phản ánh hư ảo, sai lệch về thế giới
- Ra đời trong điều kiện trình độ nhận thức và hoạt động thực tiễn thấp
kém của con người.
Do con người không thể giải thích được các hiện tượng xảy ra trong đời
sống xã hội của mình nên con người hoàn toàn bị chi phối bởi lực lượng tự
nhiên. Do đó, con người gắn cho nó một lực lượng vạn năng tuyệt đối.
- Hôm nay vẫn tồn tại do tôn giáo ra đời do nhiêu nguyên nhân khác:
+ Do trình độ nhận thức thấp kém của con người. Con người không giải
thích được các hiện tượng xảy ra trong xã hội. do đó gắn cho nó 1 lực lượng
toàn năng - có sức mạnh quyết định số phận của con người.
+ Do tâm lý của con người: khi có nhu cầu giải thoát sự chán nản luôn
mong có sự giải đáp nhu cầu này
VD: cuối thời đại công xã nguyên thủy, đầu chế độ chiếm hữu nô lệ con
người muốn giải phóng mình khỏi nô lệ, giành tự do.
các cuộc đấu tranh nhưng đều bị dập tắt→tâm lý chán nản có nhu cầu
giải thoát →tìm đến với tôn giáo - 1 lực lượng nào đó có thể giúp mình giải
thoát→tôn giáo do chính con người lao động, bị áp bức phát triển lên.
VD: ở Việt Nam, tại các khu lao động, tôn giáo xu nhập vào năm 1533,
cho đến ngày nay do còn có nhu cầu giải thoát nên tôn giáo vẫn còn.
+ Đáp ứng được nhu cầu cần an ủi.
+ Tồn tại thường xuyên do tâm lý con người đó là tâm lý sợ hãi.
+ Do kéo dài tình trạng nô dịch, áp bức của con người. Do sự xuất hiện
chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, nhưng con người không nhận

ra mà lại cho rằng đó là do 1 lực lượng siêu nhiên áp đặt (tiêu cực).
- Đối tượng cơ bản của thế giới quan tôn giáo là niềm tin vào sự tồn tại
và sức mạnh của các đấng siêu nhiên của thần thánh. Nhưng đồng thời thế
giới quan tôn giáo cũng phản ánh nguyện vọng của con người là giải thoát
mình khỏi những đau khổ và vươn tới hạnh phúc. Mặt tích cực và tiêu cực
của tôn giáo luôn luôn tác động ảnh hưởng đến con người, đến đời sống của
con người
Thế giới quan triết học
- Thế giới quan triết học là lý luận về thế giới quan.
- Thế giới quan triết học biểu đạt những hiểu biết, quan niệm xã hội
không bằng các câu chuyện thần thoại, niềm tin tôn giáo mà bằng các hệ
thống lý luận, các nguyên lý và phạm trù triết học.
- Nó khẳng định những nguyên lý ấy bằng cách chứng minh cho phương
thức tư duy, lý tính.
- Nó là hệ thống quan niệm chung nhất, toàn diện nhất của con người về
thế giới và vai trò của con người trong thế giới ấy. So với các ngành khoa
học khác, triết học có vai trò cung cấp cơ sở lý luận và phương pháp luận
cho hoạt động thực tiễn của con người mà các khoa học khác không có vai
trò này.
- Vị trí của triết học của thế giới quan là hạt nhân của thế giới quan bởi
vì triết học ngoài các quan điểm, quan niệm triết học thì thế giới quan còn
có các quan điểm khác như đạo đức, chính trị, kinh tế,…. Các quan điểm
này đều được xây dựng trên những quan điểm của triết học.
3. Nội dung, bản chất của TGQ duy vật biện chứng.
a. Nội dung: Bao gồm quan điểm duy vật về thế giới và về xã hội
+ Về thế giới: Khẳng định bản chất của thế giới là vật chất, không có
hiện tượng nào khác ngoài vật chất (linh hồn, ma tà cũng là 1 dạng vật chất
mà thôi).
Khẳng định thế giới tồn tại khách quan, không phụ thuộc vào ý
thức của con người, vận động và phát triển theo các quy luật khách quan.

Khẳng định tri thức là sản phẩm của 1 dạng vật chất đặc biệt
(Liên hệ bài vật chất và ý thức vào để trả lời)
+ Về xã hội: Xã hội là 1 bộ phận đặc thù của tự nhiên, nó là 1 cơ thể
sống di động
SXVC là nền tảng của đời sống xã hội (QHSX & LLSX)
Khẳng định tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội
Sự phát triển của hình thái KTXH là 1 quá trình lịch sử tự nhiên
Khẳng định quần chúng nhân dân là người sáng tạo ra lịch sử
b. Về bản chất
- Giải quyết đúng đắn vấn đề cơ bản của triết học trên quan điểm thực
tiễn (bản thể luận, nhận thức luận – con người có nhận thức được thế giới
hay không?)
Vấn đề cơ bản của triết học là mối quan hệ giữa tư duy và tồn tại. Ở đây
mối quan hệ này được hiểu là mối quan hệ giữa vật chất và ý thức. Bằng
việc đưa quan điểm thực tiễn vào hoạt động nhận thức, đặc biệt việc thấy
vai trò quyết định của hoạt động sản xuất vật chất đối với sự tồn tại và sự
phát triển của xã hội, các nhà duy vật biện chứng đã khắc phục được hạn
chế của CNDV trước đó để giải quyết thoả đáng các vấn đề cơ bản của triết
học
- Sự thống nhất hữu cơ giữa TGQ duy vật và phương pháp biện chứng
Trước Mác, CNDV và phép biện chứng về cơ bản bị tách rời nhau.
CNDV tuy có chứa đựng một số tư tưởng biện chứng nhất định, nhưng nhìn
chung phương pháp siêu hình giữ vai trò giữ vai trò thống trị đặc biệt trong
CNDV thế kỷ XVII – XVIII.
Trong khi đó, phép biện chứng lại đạt đến đỉnh cao ở chủ nghĩa duy tâm
với quan niệm về sự phát triển của “ý niệm tuyệt đối” trong triết học cổ điển
3
Đức. Việc tách rời giữa thế giới quan duy vật với phép biện chứng đã không
chỉ làm các nhà duy tâm mà ngay cả các nhà duy vật trước Mác không hiểu
về mối liên hệ phổ biến, về sự thống nhất và nối tiếp nhau của các sự vật

hiện tượng trong thế giới vật chất.
Với việc kế thừa những tư tưởng hợp lý của các học thuyết trước đó, với
việc tổng kết thành tựu các khoa học của xã hội đương thời, C. Mac và
Ăngghen đã giải thoát thế giới quan duy vật khỏi hạn chế siêu hình và cứu
phép biện chứng khỏi tính chất duy tâm thần bí để hình thành nên chủ nghĩa
duy vật biện chứng với sự thống nhất hữu cơ giữa thế giới quan duy vật với
phép biện chứng.
- Thể hiện quan niệm CNDV triệt để trong việc lý giải những vấn đề xã
hội mà các hệ thống triết học khác không làm được.
Chủ nghĩa duy vật trước Mác là chủ nghĩa duy vật không triệt để. Khẳng
định sản xuất vật chất là cơ sở của đời sống xã hội, phương thức sản xuất
quyết định quá trình sinh hoạt xã hội, chính trị và tinh thần nói chung, tồn
tại xã hội quyết định ý thức xã hội và coi sự phát triển của xã hội loài người
là một quá trình lịch sử - tự nhiên, chủ nghĩa duy vật biện chứng đã khắc
phục được tính không triệt để của chủ nghĩa duy vật cũ.
- Tính thực tiễn – cách mạng: đây chính là vũ khí lý luận của giai cấp vô
sản để cải tạo thế giới.
+ Chủ nghĩa duy vật biện chứng là vũ khí lý luận của giai cấp vô sản
+ Chủ nghĩa duy vật biện chứng không chỉ giải thích thế giới mà còn
đóng vai trò cải tạo thế giới
4. Nguyên tắc phương pháp luận của CNDVBC
Nguyên tắc luận được rút ra để định hướng cho hoạt động của con người
là: Trong hoạt động thực tiễn và nhận thức, con người phải tôn trọng khách
quan đồng thời phải phát huy tính năng động chủ quan của mình.
4.1. Tôn trọng khách quan: Tôn trọng khách quan là tôn trọng vai trò
quyết định của vật chất. Điều này đòi hỏi trong nhận thức và hành động con
người phải xuất phát từ thực tế khách quan, lấy khách quan làm cơ sở,
phương tiện cho hành động của mình.
- Một số biểu hiện của việc tôn trọng khách quan:
+ Mục đích, đường lối, chủ trương con người đặt ra không được xuất

phát từ ý muốn chủ quan mà phải xuất phát từ hiện thực, phản ánh nhu cầu
chín muồi và tính tất yếu của đời sống vật chất trong từng giai đoạn cụ thể.
+ Tổng kết quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta đã rút ra kết luận
mang tính định hướng là: “Mọi đường lối, chủ trương của Đảng phải xuất
phát từ thực tế, tôn trọng quy luật khách quan”.
- Khi đã có mục đích, đường lối, chủ trương đúng, phải tổ chức được
lực lượng vật chất để thực hiện nó.
4.2. Phát huy tính năng động chủ quan: Phát huy tính năng động chủ
quan là phát huy tính tích cực, năng động, sáng tạo của ý thức và phát huy
vai trò của nhân tố con người trong việc vật chất hoá những tính chất ấy.
- Một số biểu hiện cơ bản của nó là:
Phải tôn trọng tri thức khoa học, phải làm chủ tri thức khoa học và
truyền bá tri thức khoa học vào quần chúng để nó trở thành tri thức, niềm tin
định hướng cho quần chúng hành động.
Như vậy, tôn trọng khách quan, phát huy tính năng động chủ quan vừa
là những ý nghĩa phương pháp luận cơ bản, vừa là những yêu cầu có tính
nguyên tắc trong hoạt động thực tiễn.
5. Vận dụng thế giới quan duy vật biện chứng vào sự nghiệp đổi mới
của đất nước ta hiện nay
- Ở Việt Nam, trong khoảng 10 năm sau khi thống nhất đất nước, bên
cạnh những thành tựu đạt được chúng ta nôn nóng, tách rời hiện thực, vi
phạm nhiều quy luật khách quan trong đó quan trọng nhất là quy luật về sự
phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất
nên đã phạm một số sai lầm trong việc xác định mục tiêu, xác định các bước
xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật, cải tạo XHCN và quản lý kinh tế.
- Ngày nay, với quan điểm cách mạng là sự nghiệp của quần chúng,
chúng ta xác định: “Động lực chủ yếu để phát triển đất nước là đại đoàn kết
toàn dân trên cơ sở liên minh giữa công nhân với nông dân và trí thức do
Đảng lãnh đạo, kết hợp hài hoà các lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội phát
huy mọi tiềm năng và mọi nguồn lực của các thành kinh tế và của toàn xã

hội” cũng chính là tạo lực lượng vật chất để thực hiện nhiệm vụ cách mạng
trong giai đoạn mới.
- Nhận thức sâu sắc về tầm quan trọng của khoa học trong bối cảnh
phức tạp của thế giới hiện nay, đối với cách mạng Việt Nam, Đảng và Nhà
nước ta khẳng định “giáo dục và đào tạo cùng với khoa học công nghệ là
quốc sách hàng đầu”. Việc đầu tư có trọng điểm trong hệ thống giáo dục và
nghiên cứu khoa học, việc chủ trương xã hội hoá giáo dục để “cả nước trở
thành một xã hội học tập”
4
Câu 3: Trình bày lịch sử phát triển của phép biện chứng, những nội
dung cơ bản của phép biện chứng và sự vận dụng những nguyên tắc
phương pháp luận được rút ra từ nó đối với sự nghiệp đổi mới nước ta
hiện nay?.
3.1. Lịch sử phát triển của phép biện chứng
a) Khái niệm phép biện chứng
+ Biện chứng:
- Bắt nguồn từ tiếng Hi Lạp cổ có nghĩa là “nghệ thuật tranh luận”
(dialecktika) là nghệ thuật vạch ra mâu thuẫn trong lập luận của đối phương
buộc đối phương phải phục tùng lập luận của mình.
- Về sau, dialecktika không chỉ dừng lại ở việc tranh luận. Nó mở rộng
ra thành “nghệ thuật phát hiện mâu thuẫn và giải quyết mâu thuẫn đó” và
sau đó nó lại mở rộng ra “Mối quan hệ giữa các sự vật – hiện tượng trong
thế giới”.
Như vậy, biện chứng là cách xem xét về thế giới là có sự liên hệ với
nhau, luôn luôn vận động và biến đổi.
- Quan điểm biện chứng: Các sự vật – hiện tượng không phải chỉ khác
nhau mà còn phụ thuộc nhau, có một số điểm chung nhau.
+ Phép biện chứng:
Khái niệm phép biện chứng là 1 lý thuyết, 1 hệ quan điểm đã được xắp
đặt, hệ thống hóa thành một hệ thống lý luận.

- “Phép biện chứng là 1 môn khoa học nghiên cứu về mối liên hệ chung
nhất của các sự vật – hiện tượng trong tự nhiên, xã hội và trong tư duy”,
(tức là quan điểm biện chứng đã được hệ thống hóa thành 1 lý thuyết)
b) Lịch sử phát triển của phép biện chứng
- Phép biện chứng ra đời vào khoảng 2500 năm cách đây và tồn tại dưới
3 hình thức khác nhau (Có 3 giai đoạn phát triển của phép biện chứng):
1. Phép BC ngây thơ chất phác thời cổ đại:
- Nó thừa nhận thế giới là 1 thể thống nhất, luôn luôn vận động, biến
đổi.
- Quan điểm này dựa trên những tài liệu quan sát trực tiếp của con người
về thế giới, từ đó hình thành quan niệm chung về thế giới: thế giới gồm các
sự vật – hiện tượng khác nhau nhưng nằm trong 1 thể thống nhất, vận động
không ngừng.
Hêracrit: Ví thế giới như ngọn lửa, khi thì bùng cháy, khi thì tắt đi, lửa
như sự tồn tại của thế giới., “Lửa tạo sinh vật như hàng hóa với tiền”.
- Lửa là cơ sở tạo nên mọi sinh vật
- Thế giới như dòng chảy biến đổi không ngừng. “Không thể tắm 2 lần
trên 1 dòng sông” – biện chứng nhưng còn sơ khai.
Những luận điểm đó chỉ dựa vào quan sát sự vật và sự biến đổi của nó
chứ nó chưa hình thành được phạm trù, khái niệm khái quát (tưởng tượng
ra).
- Ở phương Đông có thuyết “Âm Dương – Ngũ Hành” tất cả các sự vật
trên thế giới là do sự biến hóa của 2 thái cực âm – dương. Sự chuyển hóa
không ngừng giữa 2 thái cực này dẫn đến sự biến đổi của sự vật.
VD: (+) phát triển cực thịnh thì biến thành (-)
(+) là đàn ông, là cha, là trời
(-) là đàn bà, là mẹ, là đất
ở nam: trước là (+), sau là âm còn ở nữ thì ngược lại
Hạn chế: Đặc điểm chung của phép biện chứng cổ đại là tính ngây thơ,
tự phát. Do trình độ còn thấp kém về khoa học, nên phép biện chứng cổ đại

mới chỉ là những quan điểm biện chứng mộc mạc, mang tính suy luận,
phỏng đoán trên cơ sở những kinh nghiệm trực giác mà chưa được minh
chứng bằng những tri thức khoa học.
Tích cực: phép biện chứng cổ đại đã coi thế giới là một chỉnh thể thống
nhất; giữa các bộ phận của thế giới có mối liên hệ qua lại, thâm nhập, tác
động và quy định lẫn nhau; thế giới không ngừng vận động, biến đổi và là
cơ sở để phép biện chứng phát triển lên hình thức cao hơn.
Phép biện chứng này tuy còn ở mức độ đơn giản những cũng có giá trị
trong việc chống lại quan điểm siêu hình, duy tâm tôn giáo. Hoạt động của
con người tiến triển đi lên. Càng về sau, quan điểm biện chứng sơ khai này
càng không đóng vai trò quan trọng do nó chỉ nói tới thê giới vạn vật có mối
liên hệ mà chưa giải thích được mối liên hệ đó. Do đó đã bị quan điểm khác
thay thế (Tk 17-18).
2. Phép biện chứng duy tâm trong triết học cổ điển Đức (cuối TK 18
đầu 19)
Phép biện chứng này được khởi đầu từ Cantơ, qua Phichtơ, Sêlinh và
phát triển đến đỉnh cao trong phép biện chứng duy tâm của Heghen.
Trong TH Cantơ: tư tưởng biện chứng cơ bản là tư tưởng về sự thống
nhất giữa các mặt đối lập
Trong TH Phichtơ: tư tưởng về mâu thuẫn là nguồn gốc của sự phát
triển.
Sêlinh: tư tưởng về mối liên hệ phổ biến, sự thống nhất và sự phát triển,
tư tưởng về sự thống nhất biện chứng của tự nhiên, về sự đấu tranh giữa các
mặt đối lập trong tự nhiên.
Hêghen: phép biện chứng duy tâm phát triển đến đỉnh cao với nội dung
và hình thức phong phú.
Các nhà biện chứng cổ điển Đức, mà Heghen là điển hình đã áp dụng
phép biện chứng vào nghiên cứu các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã
hội. Qua đó đã xây dựng được hệ thống phạm trù, quy luật chung, thống
nhất, có logic chặt chẽ của nhận thức tinh thần và một phần nào đó của hiện

thực vật chất.
Hạn chế: phép biện chứng duy tâm trong TH cổ điển Đức “không tránh
khỏi tính chất gò ép, giả tạo, hư cấu, tóm lại là bị xuyên tạc”.Phép biện
chứng này đã hoàn thành cuộc cách mạng về phương pháp nhưng là cuộc
cách mạng ở trên trời chứ không phải dưới trần gian.
Theo Lênin: nếu phép biện chứng cổ đại chủ yếu được đúc rút từ kinh
nghiệm cuộc sống hàng ngày, thì phép biện chứng duy tâm trong TH cổ
điển Đức đã trở thành một hệ thống lý luận tương đối hoàn chỉnh và trong
một chừng mực nhất định, đã trở thành một phương pháp tư duy TH phổ
biến.
3. Phép biện chứng duy vật
Ăngghen: “phép biện chứng là khoa học về sự liên hệ phổ biến” và “là
môn khoa học về những quy luật phổ biến của sự vận động và sự phát triển
của tự nhiên, của xã hội loài ngừời và của tư duy”.
Sự ra đời của phép BCDV là cuộc cách mạng trong phương pháp tư duy
TH. Mỗi luận điểm của phép biện chứng duy vật là kết quả của sự nghiên
cứu rút ra từ giới tự nhiên, cũng như lịch sử xã hội loài người. Mỗi nguyên
lý, quy luật, phạm trù của phép biện chứng đều được khái quát và luận giải
trên cơ sở khoa học.
Chính vì vậy, phép biện chứng duy vật đã đưa phép biện chứng từ tự
phát đến tự giác.
3.2. Nội dung cơ bản của phép biện chứng duy vật
Phép biện chứng duy vật bao gồm 2 nguyên lý cơ bản, những cặp phạm
trù và một số quy luật cơ bản
* Hai nguyên lý cơ bản của phép biện chứng duy vật
- Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến: khái quát bức tranh toàn cảnh
những mối liên hệ của thế giới (tự nhiên, xã hội và tư duy). PBCDV khẳng
định rằng trong tự nhiên, xã hội và tư duy, không có sự vật, hiện tượng nào
tồn tại một cách riêng lẻ, cô lập tuyệt đối, mà trái lại chúng tồn tại trong sự
liên hệ, ràng buộc, phụ thuộc, tác động, chuyển hóa lẫn nhau.

- Nguyên lý về sự phát triển: phản ánh đặc trưng biện chứng phổ quát
nhất của thế giới. Phát triển là sự vận động theo hướng đi lên, từ thấp đến
cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện.
PBCDV khẳng định rằng mọi lĩnh vực trong thế giới (vô cơ và hữu cơ;
tự nhiên, xã hội và tư duy) đều nằm trong quá trình phát triển không ngừng
từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ chưa hoàn thiện đến hoàn
thiện.
Phát triển được coi là khuynh hướng chung, là khuynh hướng chủ đạo
của thế giới.
* Hệ thống các cặp phạm trù: có 6 cặp phạm trù cơ bản
- Cái chung và cái riêng: Là cặp phạm trù quan trọng nhất, cái chung
bao giờ cũng nằm trong cái riêng, cái chung sâu sắc hơn, cái riêng bao quát
cái chung.
5
- Nguyên nhân và kết quả
- Bản chất và hiện tượng
- Nội dung và hình thức
- Tất nhiên và ngẫu nhiên
- Khả năng và hiện thực
* Những quy luật cơ bản: có 3 quy luật cơ bản
- Quy luật lượng chất
+ Quy luật chuyển hoá từ những biến đổi về lượng dẫn tới những biến
đổi về chất và ngược lại (quy luật lượng - chất). Quy luật này phản ánh cách
thức, cơ chế của quá trình phát triển, là cơ sở phương pháp luận chung để
nhận thức và thúc đẩy quá trình phát triển của sự vật với 3 yêu cầu cơ bản
là:
> Thường xuyên và tăng cường tích luỹ về lượng để tạo điều kiện cho
sự thay đổi về chất. Chống chủ nghĩa duy ý chí muốn đốt cháy giai đoạn.
> Khi lượng được tích luỹ đến giới hạn độ, phải mạnh dạn thực hiện
bước nhảy vọt cách mạng, chống thái độ bảo thủ, trì trệ.

> Vận dụng linh hoạt các hình thức nhảy vọt để đẩy nhanh quá trình
phát triển.
- Quy luật mâu thuẫn
Quy luật này là hạt nhân của phép biện chứng, Nó vạch ra nguồn gốc,
động lực của sự phát triển, phản ánh quá trình đấu tranh giải quyết mâu
thuẫn bên trong sự vật. Từ đó, phải vận dụng nguyên tắc mâu thuẫn mà yêu
cầu cơ bản của nó là phải nhận thức đúng đắn mâu thuẫn của sự vật, trước
hết là mâu thuẫn cơ bản và mâu thuẫn chủ yếu, phải phân tích mâu thuẫn và
quá trình đấu tranh giải quyết mâu thuẫn. Đấu tranh là phương thức giải
quyết mâu thuẫn. Tuy nhiên, hình thức đấu tranh rất đa dạng, linh hoạt, tuỳ
thuộc mâu thuẫn cụ thể và hoàn cảnh lịch sử cụ thể.
- Quy luật phủ định của phủ định
Quy luật này khái quát khuynh hướng phát triển tiến lên theo hình thức
xoáy ốc thể hiện tính chất chu kỳ trong quá trình phát triển.
Đó là cơ sở phương pháp luận của nguyên tắc phủ định biện chứng, chỉ
đạo mọi phương pháp suy nghĩ và hành động của con người.
Phủ định biện chứng đòi hỏi phải tôn trọng tính kế thừa, nhưng kế thừa
phải có chọn lọc, cải tạo, phê phán, chống kế thừa nguyên xi, máy móc và
phủ định sạch trơn.
Nguyên tắc phủ định biện chứng trang bị phương pháp khoa học để tiếp
cận lịch sử và tiên đoán, dự kiến những hình thái cơ bản của tương lai.
3.3. Vận dụng
a) Nguyên tắc toàn diện trong nhận thức và thực tiễn
Nguyên tắc toàn diện đòi hỏi chúng ta phải xem xét sự vật, hiện tượng
với tất cả các mặt, các mối liên hệ; đồng thời phải đánh giá đúng vai trò, vị
trí của từng mặt, từng mối liên hệ; nắm được mối liên hệ chủ yếu có vai trò
quyết định.
Vận dụng: Đảng ta tiến hành đổi mới toàn diện, triệt để; đồng thời phải
xác định khâu then chốt. Nắm vững mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế, đổi
mới chính trị và đổi mới tư duy.

b) Nguyên tắc lịch sử-cụ thể trong nhận thức và thực tiễn
Nguyên tắc lịch sử-cụ thể đòi hỏi phải xem xét sự vật hiện tượng trong
quá trình vận động phát triển: nó ra đời trong điều kiện như thế nào? trải qua
những giai đoạn phát triển như thế nào? mỗi giai đoạn có tính tất yếu và đặc
điểm ra sao?
c) Nguyên tắc phát triển trong nhận thức và thực tiễn
Nguyên tắc phát triển đòi hỏi khi xem xét sự vật, hiện tượng phải nhìn
thấy khuynh hướng biến đổi trong tương lai của chúng: cái cũ, cái lạc hậu sẽ
mất đi; cái mới, cái tiến bộ sẻ ra đời thay thế cái cũ, cái lạc hậu.
Câu 4: Phân tích cơ sở lý luận quan điểm toàn diện và quan điểm phát
triển? Vận dụng quan điểm toàn diện và phát triển như thế nào trong
quá trình thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta hiện nay?.
1. Phân tích cơ sở lý luận quan điểm toàn diện và quan điểm phát triển
1.1 Cơ sở lý luận của quan điểm toàn diện
Cơ sở lý luận của nguyên tắc toàn diện dựa trên nguyên lý về mối liên
hệ phổ biến.
- Mối liên hệ phổ biến dùng để khái quát mối liên hệ, sự tác động qua
lại, chuyển hóa lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng hay giữa các mặt, các
giai đoạn phát triển của một sự vật, hiện tượng.
- Các mối liên hệ có tính khách quan, phổ biến và đa dạng, chúng giữ
vai trò khác nhau quy định sự vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng.
- Trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn không nên tuyệt đối
hóa mối liên hệ nào và cũng không nên tách rời mối liên hệ này khỏi các
mối liên hệ khác vì trên thực tế, các mối liên hệ còn phải được nghiên cứu
cụ thể trong sự biến đổi và phát triển của chúng.
- Vì thế, nguyên tắc toàn diện đòi hỏi chúng ta muốn nhận thức được
bản chất của sự vật, hiện tượng cần xem xét sự tồn tại của nó trong mối liên
hệ qua lại giữa các bộ phận, yếu tố, thuộc tính khác nhau trong tính chỉnh
thể của sự vật, hiện tượng ấy và trong mối liên hệ qua lại giữa các sự vật,
hiện tượng đó với sự vật, hiện tượng khác; tránh cách xem xét phiến diện,

một chiều.
- Nguyên tắc toàn diện đòi hỏi phải xem xét, đánh giá từng mặt, từng
mối liên hệ và phải nắm được đâu là mối liên hệ chủ yếu, bản chất quy định
sự vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng; tránh chủ nghĩa chiết trung,
kết hợp vô nguyên tắc các mối liên hệ; tránh sai lầm của thuật ngụy biện,
coi cái cơ bản thành cái không cơ bản, không bản chất thành bản chất hoặc
ngược lại.
- Nguyên tắc toàn diện còn đòi hỏi: để nhận thức được sự vật, hiện
tượng cần xem xét nó trong mối liên hệ với nhu cầu thực tiễn của con người.
Và khi xem xét toàn diện tất cả các mặt của những mối quan hệ của sự vật,
hiện tượng phải chú ý đến sự phát triển cụ thể của các quan hệ đó. Có như
vậy mới thấy được vai trò của các mặt trong trong từng giai đoạn cũng như
của toàn bộ quá trình vận động, phát triển của từng mối quan hệ cụ thể của
sự vật, hiện tượng.
Như vậy, cần xem xét sự vật, hiện tượng cách toàn diện nhưng không
“bình quân, dàn đều” mà có “trọng tâm, trọng điểm”, phải tìm ra vị trí từng
mặt, từng yếu tố, từng mối liên hệ ấy trong tổng thể của chúng.
Việc xem xét các sự vật, hiện tượng phải trải qua nhiều giai đoạn, cơ
bản là đi từ quan niệm ban đầu về cái toàn thể đến cái nhận thức mỗi mặt,
mỗi mối liên hệ cụ thể của sự vật, hiện tượng rồi đến nhận thức nhiều mặt,
nhiều mối liên hệ của sự vật, hiện tượng đó và cuối cùng đi tới những khái
quát những tri thức phong phú đó để rút ra tri thức về bản chất của sự vật,
hiện tượng.
1.2 Cơ sở lý luận của quan điểm phát triển
Cơ sở lý luận của nguyên tắc phát triển dựa trên nguyên lý về sự phát
triển của phép biện chứng duy vật.
- Trong phép biện chứng duy vật, phát triển dùng để khái quát quá trình
vận động từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến
hoàn thiện hơn. Quá trình đó vừa diễn ra dần dần, vừa nhảy vọt làm cho sự
vật, hiện tượng cũ mất đi, sự vật hiện tượng mới về chất ra đời.

- Phát triển là tự thân, động lực của sự phát triển là mâu thuẫn giữa các
mặt đối lập bên trong sự vật, hiện tượng
- Phát triển là trường hợp đặc biệt của vận động. Trong quá trình phát
triển, sự vật, hiện tượng chuyển hóa sang chất mới, cao hơn, phức tạp hơn
làm cho cơ cấu tổ chức, phương thức vận động và chức năng của sự vật
ngày càng hoàn thiện hơn.
- Phát triển có tính khách quan, phổ biến, đa dạng.
Vì thế, để nhận thức được sự tự vận động, phát triển của sự vật, hiện
tượng chúng ta cần thấy được sự thống nhất giữa sự biến đổi về lượng với
sự biến đổi về chất trong quá trình phát triển; phải chỉ ra được nguồn gốc và
động lực bên trong, tìm ra và biết cách giải quyết mâu thuẫn; phải xác định
6
được xu hướng phát triển của sự vật, hiện tượng do sự phủ định biện chứng
quy định; coi sự phủ định là tiền đề cho sự ra đời của sự vật, hiện tượng
mới; sự vật, hiện tượng mới; sự vật, hiện tượng mới ra đời phù hợp với quy
luật vận động và phát triển, vì thế phải ủng hộ cái mới, cái tiến bộ.
- Nguyên tắc phát triển yêu cầu: khi xem xét các sự vật, hiện tượng phải
đặt nó trong trạng thái vận động, biến đổi, chuyển hóa để không chỉ nhận
thức sự vật, hiện tượng trong trạng thái hiện tại, mà còn thấy được khuynh
hướng phát triển của nó trong tương lai.
- Nguyên tắc phát triển yêu cầu phải nhận thức sự phát triển là quá trình
trải qua nhiều giai đoạn. Mỗi giai đoạn phát triển lại có những đặc điểm,
tính chất, hình thức khác nhau. Vì thế, cần có sự phân tích cụ thể để tìm ra
những hình thức tác động phù hợp hoặc để thúc đẩy hoặc để hạn chế sự phát
triển đó.
- Nguyên tắc phát triển đòi hỏi trong hoạt động nhận thức và hoạt động
thực tiễn phải nhạy cảm với cái mới, sớm phát hiện ra cái mới, ủng hộ cái
mới hợp quy luật, tạo điều kiện cho cái mới đó phát triển thay thế cái cũ.
Sự thay thế cái cũ bằng cái mới diễn ra rất phức tạp bởi cái mới phải đấu
tranh chống cái cũ, chiến thắng cái cũ. Trong quá trình đó, nhiều khi cái mới

hợp quy luật chịu thất bại tạm thời, tạo con đường phát triển quanh co, phức
tạp.
Nhận thức được như vậy sẽ giúp ta vững tin ở cái mới, tìm cách vượt
qua cản trở trên con đường phát triển, tạo điều kiện cho cái mới chiến thắng
cái cũ. Trong quá trình thay thế cái cũ phải biết kế thừa dưới dạng lọc bỏ và
cải tạo những yếu tố tích cực đã đạt được, phát triển sáng tạo chúng trong
cái mới.
2. Vận dụng quan điểm toàn diện và phát triển trong quá trình thực hiện
công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta hiện nay
Từ quan điểm toàn diện trong nhận thức, chúng ta cần có cách nhìn
đồng bộ trong hoạt động thực tiễn. Theo đó, muốn cải tạo sự vật, hiện tượng
phải áp dụng đồng bộ hệ thống các biện pháp, các phương tiện khác nhau để
tác động làm thay đổi các mặt, các mối liên hệ tương ứng của sự vật, hiện
tượng.
Song trong từng bước, từng giai đoạn phải nắm đúng khâu trọng tâm,
then chốt để tập trung lực lượng giải quyết.
VD: trước đây trong giai đoạn cách mạng dân tộc, dân chủ ở nước ta,
trên cơ cở phân tích toàn diện bản chất xã hội VN là thuộc địa, nửa phong
kiến, Đảng ta chỉ rõ hai mâu thuẫn cơ bản của xã hội VN là mâu thuẫn giữa
dân tộc ta với đế quốc xâm lược và mâu thuẫn giữa nhân dân ta, trước hết là
nông dân với địa chủ, phong kiến. Trong đó, mâu thuẫn giữa nhân dân với
đế quốc xâm lược và bọn tay sai phản bội dân tộc là mâu thuẫn chủ yếu, cần
tập trung lực lượng giải quyết, sau đó giải quyết các mâu thuẫn khác. Nhờ
đó, cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng
đã giành thắng lợi trọn vẹn.
Ngày nay, trong quá trình lãnh đạo nhân dân ta thực hiện công cuộc đổi
mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, trên cơ sở nhấn mạnh tính
tất yếu phải đổi mới cả lĩnh vực kinh tế và lĩnh vực chính trị, Đảng ta luôn
xác định phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt. Thực
tiễn quá trình đổi mới vừa qua đã chứng minh tính đúng đắn của những

quan điểm đó.
Trong thời kỳ đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới của cách mạng
Việt Nam hiện nay, nếu không phân tích toàn diện những mối liên hệ tác
động, sẽ không đánh giá đúng tình hình và nhiệm vụ cụ thể của đất nước
trong từng giai đoạn cụ thể và do vậy không đánh giá hết những khó khăn,
những thuận lợi trong việc thực hiện nhiệm vụ xây dựng đất nước theo mục
tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Vận dụng quan điểm phát triển trong quá trình thực hiện CNH, HĐH ở
nước ta hiện nay
Vận dụng nguyên tắc phát triển vào việc nhận thức về con đường tiến
lên XHCN ở nước ta có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.
Trên cơ sở phân tích xu hướng phát triển của thời đại và điều kiện cụ thể
của nước ta, Đảng luôn kiên định con đường tiến lên CNXH với mục tiêu
“dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
Nước ta tiến lên CNXH từ một nền kinh tế phổ biến là sản xuất nhỏ, tụt
hậu quá xa so với các nước trên thế giới, vì vậy phải đẩy nhanh tốc độ phát
triển kinh tế. Tuy nhiên, trong quá trình phát triển kinh tế Đảng luôn chú ý
đến vấn đề xã hội, từng bước giải quyết vấn đề công bằng xã hội, đồng thời
phải bảo vệ môi trường nhằm đảm bảo phát triển cách bền vững.
Trong suốt thời kỳ quá độ cũng như từng giai đoạn phát triển của đất
nước, Đảng luôn chú ý phát hiện ra các mâu thuẫn và tìm ra phương hướng
giải quyêt các mâu thuẫn để phát triển đất nước.
Trong thời kì quá độ là thời kỳ đấu tranh phức tạp của dân tộc ta với các
thế lực thù địch, là thời kỳ đấu tranh giữa cái mới với cái cũ và cái mới sẽ
từng bước chiến thắng cái cũ.
Đảng ta cũng xác định động lực phát triển đất nước trong thời kỳ quá độ
lên CNXH.
Về nội lực là đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh giữa công
nhân, nông dân và đội ngũ trí thức do Đảng ta lãnh đạo; là kết hợp hài hòa
các lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội; phát huy mọi tiềm năng và các nguồn

lực của các thành phần kinh tế.
Về ngoại lực, là sức mạnh của thời đại, sức mạnh đoàn kết quốc tế.
Trong đó, nội lực là quyết định, ngoại lực là quan trọng, gắn kết với
nhau thành sức mạnh tổng hợp để phát triển đất nước.
7
Câu 5: Phân tích nội dung quy luật mâu thuẫn của phép biện chứng
duy vật. ý nghĩa phương pháp luận của quy luật này trong việc phát
hiện và phân tích mâu thuẫn ở nước ta hiện nay?
1. Nội dung quy luật
Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập (hay còn gọi là quy
luật mâu thuẫn) là hạt nhân của phép biện chứng.
* Khái niệm mâu thuẫn:
- Là một khái niệm chỉ sự liên hệ và tác động lẫn nhau của các mặt đối
lập tạo ra sự vận động và phát triển.
- Mặt đối lập: là những mặt cùng nằm trong 1 chỉnh thể có các đặc điểm,
các thuộc tính, những khuynh hướng trái ngược nhau, loại trừ nhau nhưng
đòi hỏi phải có nhau để tạo thành 1 chỉnh thể.
VD: âm - dương, đồng hóa - dị hóa, các giai cấp đối lập nhau
* Một số loại mâu thuẫn:
- Mâu thuẫn bên trong, mâu thuẫn bên ngoài (Căn cứ vào quan hệ giữa
các mặt đối lập đối với một sự vật)
Mâu thuẫn bên trong là sự tác động qua lại giữa các mặt, các khuynh
hướng đối lập của cùng một sự vật. VD: sự tác động qua lại giữa đồng hoá
với dị hoá của một sinh vật.
Mâu thuẫn bên ngoài là mâu thuẫn diễn ra trong mối liên hệ giữa sự vật
đó với sự vật khác. VD: sự tác động qua lại giữa cơ thể và môi trường
Vai trò:
Mâu thuẫn bên trong có vai trò quyết định trực tiếp, là nguồn gốc, động
lực của quá trình vận động và phát triển của sự vật.
Mâu thuẫn bên ngoài cũng có vai trò quan trọng và ảnh hưởng đến sự

phát triển của sự vật và hiện tượng.
Sự tác động của mâu thuẫn bên ngoài phải thông qua mâu thuẫn bên
trong. Mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài lại vận động trong sự
tác động lẫn nhau. Vì thế, mỗi bước giải quyết mâu thuẫn này lại tạo điều
kiện để giải quyết mâu thuẫn kia.
- Mâu thuẫn cơ bản, mâu thuẫn không cơ bản (Căn cứ vào ý nghĩa đối
với sự tồn tại và phát triển của toàn bộ sự vật)
Mâu thuẫn cơ bản là mâu thuẫn quy định bản chất của sự vật, quy định
sự phát triển ở tất cả các giai đoạn của sự vật, nó tồn tại trong suốt quá trình
tồn tại của của sự vật. Khi mâu thuẫn cơ bản thay đổi thì bản chất của sự vật
cũng thay đổi.
Mâu thuẫn không cơ bản là mâu thuẫn đặc trưng cho một phương diện
nào đó của sự vật, nó quy định sự vận động và phát triển của một mặt nào
đó của sự vật.
- Mâu thuẫn chủ yếu, mâu thuẫn thứ yếu (Căn cứ vào vai trò của mâu
thuẫn đối với sự tồn tại và phát triển của sự vật trong một giai đoạn nhất
định)
Mâu thuẫn chủ yếu là mâu thuẫn nổi lên hàng đầu ở một giai đoạn phát
triển nhất định của một sự vật, giải quyết nó sẽ tạo điều kiện để giải quyết
mâu thuẫn khác ở cùng giai đoạn (những mâu thuẫn thứ yếu).
Mâu thuẫn thứ yếu là mâu thuẫn không giữ vai trò quyết định trong giai
đoạn đó.
Sự phân biệt giữa mâu thuẫn chủ yếu và mâu thuẫn thứ yếu chỉ có tính
tương đối vì trong giai đoạn này mâu thuẫn này là chủ yếu, nhưng sang giai
đoạn sau nó lại có thể là thứ yếu.
Mâu thuẫn chủ yếu có quan hệ hữu cơ với mâu thuẫn cơ bản, nó thường
là hình thức biểu hiện nổi bật của mâu thuẫn cơ bản ở một giai đoạn nhất
định; việc giải quyết mâu thuẫn chủ yếu tạo điều kiện giải quyết từng bước
mâu thuẫn cơ bản.
- Mâu thuẫn đối kháng, mâu thuẫn không đối kháng (Căn cứ vào tính

chất của các quan hệ lợi ích)
Đây là những mâu thuẫn đặc thù, chỉ tồn tại trong những xã hội có giai
cấp đối kháng. Mâu thuẫn đối kháng là mâu thuẫn giữa những lực lượng,
khuynh hướng xã hội mà lợi ích cơ bản trái ngược nhau không thể điều hoà
được. Ví dụ: mâu thuẫn giữa chủ nô và nô lệ, giữa tư sản và vô sản.
Mâu thuẫn không đối kháng là mâu thuẫn giữa những khuynh hướng,
những lực lượng xã hội mà lợi ích căn bản nhất trí với nhau. Ví dụ: mâu
thuẫn giữa các tầng lớp nhân dân, giữa các bộ phận công nhân khác nhau,
giữa lao động trí óc và lao động chân tay, giữa thành thị và nông thôn…ở
nước ta hiện nay.
Phân biệt mâu thuẫn đối kháng với mâu thuẫn không đối kháng có ý
nghĩa quan trọng trong việc xác định phương pháp giải quyết mâu thuẫn.
* Nội dung quy luật:
+ Mâu thuẫn là một hiện tượng khách quan và phổ biến:
- Khách quan: mâu thuẫn là cái vốn có, không phụ thuộc vào ý thức con
người.
- Phổ biến: mâu thuẫn tồn tại ở tất cả các linh vực: tự nhiên, xã hội và tư
duy.
+ Mâu thuẫn là 1 chỉnh thể trong đó 2 mặt vừa đối lập, vừa thống nhất
vừa đấu tranh với nhau.
- Sự thống nhất của các mặt đối lập là sự liên hệ, quy định ràng buộc lẫn
nhau, mặt này lấy mặt kia làm tiền đề tồn tại của mình.
- Sự đấu tranh của các mặt đối lập là sự xung đột, phủ định, bài trừ lẫn
nhau của các mặt đối lập ấy.
+ Sự vận động, phát triển của sự vật thể hiện trong sự thống nhật biện
chứng giữa 2 mặt: thống nhất và đấu tranh của 2 mặt đối lập. Trong đó,
thống nhất là tạm thời, tương đối còn đấu tranh là tuyệt đối.
Tóm lại: thực chất quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập
là: mọi sự vật và hiện tượng đều chứa đựng những mặt, những khuynh
hướng đối lập tạo thành những mâu thuẫn trong bản thân mình; sự thống

nhất và đấu tranh của các mặt đối lập tạo thành xung lực nội tại của sự vận
động và phát triển, dẫn tới sự mất đi của cái cũ và sự ra đời của cái mới.
2. Ý nghĩa
* Là quy luật cơ bản của phép biện chứng. Vì vậy, nó có ý nghĩa to lớn
đối với việc nhận thức cũng như hoạt động thực tiễn của con người.
- Quy luật cho ta phương pháp để phân tích mâu thuẫn. Trên cơ sở đó
xác định được mâu thuẫn đặc biệt là mâu thuẫn cơ bản, mâu thuẫn chủ yếu.
Từ đó, định ra đường lối chiến lược và sách lược cách mạng của nước ta.
- Cho ta cơ sở lý luận để nhìn nhận sâu sắc các vấn đề trong nước và
quốc tế.
- Ngày nay, trên thế giới và trong nước ta tồn tại rất nhiều mâu thuẫn. Vì
vậy, cầnphải nhận thức rõ ràng từng mâu thuẫn, tìm các hình thức giải quyết
phù hợp với hoàn cảnh cụ thể, tránh tư tưởng cứng nhắc, máy móc, giáo
điều.
* Nhiệm vụ chiến lược của nước ta hiện nay là xây dựng vào bảo vệ Tổ
quốc XHCN để thực hiện 2 nhiệm vụ đó chính là giải quyết 2 mâut huẫn cơ
bản của XH nước ta là:
1. Con đường XHCN mâu thuẫn với trình độ kinh tế còn thấp kém
2. Nhân dân ta mâu thuẫn với mọi lực lượng thù địch muốn nước ta vào
con đường từ bỏ XHCN.
- Trước đây, trong cuộc CMDTDC, Đảng đã phân tích mâu thuẫn giữa
lực lượng XH trong nước và CNĐQ, chỉ ra mâu thuẫn cơ bản, mâu thuẫn
chủ yếu từng thời kỳ, nhờ đó đề ra chiến lược CM đúng đắn, đã đưa CM đến
thắng lợi hoàn toàn (Mâu thuẫn giữa CNĐQ với nhân dân ta, giữa ĐC, PK
và nông dân).
- Trước đổi mới, do không nhận thức đúng mâu thuẫn cơ bản trong lĩnh
vực kinh tế (cho đó là mâu thuẫn giữa LLSX và QHSX) nên áp dụng quá
lâu nền KT nhà nước và tập thể, với cơ chể quản lý quan liêu, bao cấp, kế
hoạch hóa tập trung. Sau đổi mới, đã nhận thức lại đúng đắn hơn mâu thuẫn
cơ bản từ đó thực hiện KT nhiều thành phần, áp dụng cơ chế thị trường có

sự quản lý của Nhà nước, nhờ đó đã đưa nền kinh tế phát triển nhanh chóng.
Ở Việt nam, khi bước vào thời kỳ quá độ chưa có chủ nghĩa tư bản phát
triển, cũng chưa có chủ nghĩa tư bản ở trình độ trung bình như ở nước Nga
sau Cách mạng tháng Mười, mà kinh tế tiểu nông là phổ biến. Tuy vậy,
không phải ở Việt nam hoàn toàn không có chủ nghĩa tư bản. Chủ nghĩa tư
bản Pháp đã vào Việt nam từ thế kỉ 19, chủ nghĩa tư bản Mỹ đã ảnh hưởng
lớn đến kinh tế các tỉnh phía Nam Việt nam. Vì vậy, xét cả điều kiện trong
nước và quốc tế, khách quan và chủ quan, ở Việt Nam chỉ có hai xu hướng,
8
hai khả năng, đó là xu hướng và khả năng đi lên chủ nghĩa tư bản và xu
hướng và khả năng đi lên chủ nghĩa xã hội.
- Những xu hướng và khả năng này đã tạo ra những mặt đối lập đấu
tranh với nhau, những nhân tố xã hội chủ nghĩa mới và những nhân tố tư
bản chủ nghĩa trong thời kỳ phát triển kinh tế nhiều thành phần.
Những xu hướng và khả năng trên cũng tạo thành 1 cuộc đấu tranh
xuyên suốt thời kỳ quá độ: cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa xã hội và chủ
nghĩa tư bản. Cuộc đấu tranh ấy có khi diễn ra gay gắt trên lĩnh vực tư tưởng
(giai đoạn lựa chọn con đường), khi thì trên lĩnh vực kinh tế, khi thì trên
lĩnh vực chính trị và có khi trên cả ba lĩnh vực.
- Mâu thuẫn cơ bản trong thời ký quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
nam có thể nói là mâu thuẫn giữa một bên là chủ nghĩa tư bản, với tư cách là
một xu thế phát triển của cơ cấu kinh tế nhiều thành phần, có sự tác động
của các thế lực phản động trong và ngoài nước với một bên là xu hướng xã
hội chủ nghĩa đang hình thành và thể hiện từng bước trong quá trình đi lên
từ một cơ sở kinh tế - xã hội còn ở trình độ thấp (nền sản xuất nhỏ còn phổ
biến).
Sự phát triển này đương nhiên phải xuất phát từ khả năng, nhưng không
chỉ có khả năng bởi vì còn có cả những nhân tố hiện thực đã được tạo ra. Sự
phát triển này có điều kiện khách quan song còn có vai trò của nhân tố chủ
quan, đó là các lực lượng khác nhau. Sự phát triển này không chỉ có nhân tố

bên trong mà còn có những nhân tố bên ngoài.
Mâu thuẫn cơ bản làm nảy sinh những mâu thuẫn trong tất cả các lĩnh
vực khác nhau của đời sống xã hội, những mâu thuẫn trong đối nội cũng
như đối ngoại. Chừng nào chủ nghĩa xã hội chưa thực sự được xác lập,
nghĩa là chưa hết thời kỳ quá độ, mâu thuẫn cơ bản đó vẫn tồn tại. Khi kinh
tế xã hội chủ nghĩa đã giữ ưu thế tuyệt đối (theo đúng nghĩa của nó), mâu
thuẫn trên sẽ mất đi hoặc nếu còn nó cũng không phải là mâu thuẫn cơ bản
của sự vật mới nữa.
9
Câu 6: Phân tích nội dung quy luật từ những thay đổi về lượng dẫn
đến thay đổi về chất và ngược lại. Ý nghĩa phương pháp luận, liên hệ?
1. Nội dung quy luật từ những thay đổi về lượng dẫn đến thay đổi về
chất và ngược lại.
1.1 Phạm trù chất và lượng:
- Chất là 1 phạm trù TH dùng để chỉ tính qui định vốn có của các sự vật
hiện tượng, là sự thống nhất hữu cơ của các thuộc tính, những yếu tố cấu
thành sự vật, nói lên sự vật đó là gì, phân biệt nó với các sự vật hiện tượng
khác.
Vd: Kim loại: dẫn điện, dẫn nhiệt, dát mỏng: thuộc tính vốn có của kim
loại.
- Lượng là khái niệm chỉ tính qui định vốn có của sự vật, hiện tượng về
mặt qui mô, trình độ phát triển của nó, biểu thị con số các thuộc tính, các
yếu tố cấu thành nó, không phụ thuộc vào ý thức con người → khách quan.
1.2 MQH biện chứng giữa lượng và chất
Đặc điểm: Chất có tính gián đoạn, có xu hướng đứng yên. Lượng có tính
liên tục, có xu hướng vận động.
* Lượng đổi, chất đổi:
- Sự biến đổi trong TGKQ bao giờ cũng bắt đầu từ sự biến đổi về lượng
(so với chất, lượng thay đổi trước). Sự biến đổi này diễn ra từ từ, đi từ thấp
đến cao và đến 1 giới hạn nào đó sẽ tạo nên sự biến đổi về chất.

- Cơ chế của sự tác động qua lại giữa lượng và chất:
+ Lượng có 1 độ xê dịch nhất định gọi là độ. Chừng nào lượng chưa
vượt qua độ thì chất của sự vật chưa thay đổi, giữa lượng và chất còn thống
nhất.
+ Khi lượng vượt qua độ tại 1 điểm gọi là điểm nút, thì chất mới thay
đổi, sự thống nhất của chất và lượng bị phá vỡ, sự vật có chất mới → sự vật
có quan hệ lượng – chất mới.
- Bước nhảy: là sự thay đổi về chất, đó là hình thức tất yếu xảy ra trong
quá trình phát triển của sự vật, khi sự thay đổi về lượng đạt tới sự giới hạn
độ.
+ Bước nhảy đột biến: là những bước nhảy diễn ra trong thời gian
nhanh, thậm chí còn diễn ra trong khoảnh khắc
+ BN dần dần là những bước nhảy diễn ra trong thời gian dài, đối với
xã hội có thể hàng trăm năm, đối với sinh học có thể hàng triệu năm
+ BN toàn bộ là sự thay đổi toàn bộ chất của sự vạt, hiện tượng. VD;
trong đời sống xh sự chuyển hóa từ HTKTXH này sang HTKTXH khác.
* Chất đổi, lượng đổi:
Chất mới ra đời tạo ra sự biến đổi căn bản về lượng, làm cho lượng biến
đổi với qui mô lớn hơn, tốc độ nhanh. VD: khi nước bốc hơi, thể tích của
hơi nước lớn hơn nhiều lần thể tích của nước lỏng.
II. Ý nghĩa phương pháp luận
- Mọi sự biến đổi, phát triển đều bắt đầu tự sự biến đổi về lượng nên
trong mọi hoạt động của con người trước hết phải chú ý đến sự tích lũy về
lượng, tránh tư tưởng nôn nóng, đốt cháy giai đoạn.
- Khi lượng đã biến đổi đến điểm giới hạn thì cần thực hiện bước nhảy
để có sự thay đổi về chất là một tất yếu khách quan. Tránh trì trệ, bảo thủ
không dám thực hiện những bước nhảy khi đã đủ điều kiện.
- Cần có thái độ khách quan, khoa học và có quyết tâm thực hiện các
bước nhảy.
III. Liên hệ:

Ở nước ta hiện nay khi LLSX pt phải từng bước điều chỉnh, củng cố,
hình thành QHSX. Điều đó tạo điều kiện cho LLSX phát triển nhanh chóng,
đáp ứng nhu cầu phát triển KT XH.
Chúng ta XD XH XHCN, đòi hỏi phải có 1 LLSX to lớn và có 1 QHSX
XHCN phù hợp. Để đạt được mục tiêu này không thể nôn nóng, phải có tích
lũy dần dần về lượng trong LLSX tương ứng với việc nâng dần trình độ của
QHSX. Hiện nay đang tồn tại nhiều QHSX phi XHCN, nhưng QHSX
XHCN giữ vai trò chủ đạo. Do đó thời kỳ quá độ phải lâu dài và có nhiều
chặng đường để tích lũy về lượng nhằm tạo ra sự chuyển biến về chất, đưa
nước ta trở thành 1 nước XHCN giàu mạnh.
Việc nắm vững nội dung của quy luật về mối quan hệ biện chứng giữa
thay đổi vể lượng và thay đổi về chất cũng như ý nghĩa phương pháp luận
của nó có vai trò to lớn trong việc xem xét và giải quyết những vấn đề do
công cuộc đổi mới theo định hướng XHCN hiện nay ở nước ta đặt ra. Việc
thực hiện thành công quá trình đổi mới trên từng lĩnh vực của đời sống xã
hội sẽ tạo ra bước nhảy về chất trong lĩnh vực đó và điều kiện để thực hiện
thành công quá trình đổi mới toàn diện tất cả các mặt của đời sống nhằm tạo
bước nhảy về chất của toàn xã hội nói chung. Như bất kỳ sự thay đổi về
chất nào khác, những bước nhảy trong quá trình xây dựng CNXH ở VN
cũng chỉ có thể là kết quả của quá trình thay đổi về lượng thích hợp. Ở đây,
bất kỳ sự nông nóng, chủ quan, ảo tưởng nào cũng có thể gây ra tổn thất cho
cách mạng, cản trở cho sự nghiệp xây dựng CNXH.
10
Câu 7: Phân tích nội dung quy luật phủ định của phủ định. Ý nghĩa
phương pháp luận trong việc xây dựng nền văn hóa mới tiên tiến đậm
đà bản sắc dân tộc ở nước ta hiện nay?
1. Nội dung quy luật:
QL phủ định của phủ định vạch rõ khuynh hướng của sự vận động và
phát triển của sự vật, hiện tượng trong thế giới diễn ra theo đường xoáy trôn
ốc.

1.1 Khái niệm và đặc điểm
- Khái niệm:
Phủ định: thế giới vật chất vận động và phát triển ko ngừng: 1 dạng vật
chất sinh ra, tồn tại, mất đị và thay thế bằng 1 dạng khác. Sự thay thế đó gọi
là sự phủ định.
Phủ định biện chứng: tạo điều kiện cho sự phát triển, cho cái mới ra đời
thay thế cái cũ.
- Đặc điểm:
+ Tự thân PĐ: PĐ là 1 yếu tố tất yếu của sự phát triển, mối liên hệ nội
tại của bản thân sự vật tạo ra. Vd: CNXH phủ định CNTB là kết quả của
việc giải quyết mâu thuẫn cơ bản vốn có trong lòng XHTB.
+ Tính thừa kế: PĐBC là kq của sự tự thân phát triển trên cơ sở giải
quyết những mâu thuẫn vốn có của các sự vật, hiện tượng. Cái mới ra đời
trên cơ sở cái cũ, có chọn lọc, giữ lại và cải tạo những yếu tố thích hợp của
cái cũ để chuyển sang cái mới, nó chỉ gạt bỏ ở cái cũ những mặt tiêu cực, lỗi
thời, gây cản trở cho sự phát triển.
1.2 Nội dung qui luật
PĐBC trở thành vòng khâu tất yếu của sự liên hệ và phát triển.
- Cái mới ra đời thay thế cái cũ nhưng rồi nó lại trở thành cái cũ vì bị cái
mới sau phủ định. Quá trình phủ đinh ấy tạo ra 1 khuynh hướng phát triển
từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp theo đường xoáy trôn ốc. Sau 1 số
lần phủ định sự vật dường như lặp lại cái cũ nhưng ở trên cơ sở cao hơn. Nó
tác động trong mọi lĩnh vực: tự nhiên, xã hội và tư duy con người → tính
phổ biến.
- Không phải bất kỳ sự vật nào cư trải qua hai lần phủ định là đã thực
hiện được 1 chu kỳ của sự phát triển. Trong thực tế sự vật có thể phải trải
qua nhiều lần phủ định thì mới quay về điểm xuất phát ban đầu nhưng trên
cơ sở cao hơn → là tính thừa kế, lặp lại, là cái mới về chất, cao hơn, toàn
diện hơn, phong phú hơn cái khẳng định và phủ định lần thứ nhất.
VD: trứng tằm, tằm, nhộng, ngài, trứng tằm

XH loài người: CS nguyên thủy, CHNL, XHPK, TBCN, CNCS
II. Ý nghĩa và phương pháp luận
- Phát triển là 1 quá trình phủ định liên tiếp thông qua các vòng khâu
phủ định, là khuynh hướng chung, là tất yếu của sự vận động của sự vật (cần
phát hiện cái mới và tạo điều kiện cho nó phát triển)
- Phủ định của PĐ đòi hỏi trong thực tiễn và nhận thức khoa học ko
được chủ quan, đơn giản, mà phải có cái nhìn biện chứng, phù hợp với xu
thế của thời đại, phải biết kế thừa những yếu tố tích cực. Phải tuyệt đối tránh
hai khuynh hướng:
+ Khuynh hướng phủ định sạch trơn, tức là tư tưởng loại bỏ hoàn toàn
quá khứ, xem thường thậm chí bôi nhọ lịch sử.
+ Khuynh hướng kế thừa nguyên xi, không đổi mới
* Ý nghĩa trong việc xd một nền văn hóa mới
Ngày nay yếu tố tích cực nhiều nhưng yếu tố tiêu cực cũng lắm (tham
nhũng, suy thoái đạo đức ) nhưng đó là biểu hiện sự đấu tránh giữa cái cũ
và cái mới trong quá trình đi lên, nên có lúc những bước thụt lùi, dẫm chân
tại chỗ, tiến lên rồi lại đi xuống nhưng qui luật phủ định của phủ định cho
rằng tất cả đó là những bước trung gian, cuối cùng xã hội sẽ được khắc phục
để phát triển lên 1 trình độ cao hơn, tốt hơn.
Từ chỗ đang xd CNXH với QHSX XHCN với hai hình thức sở hữu:
Nhà nước và tập thể, ĐH Đảng VI đã đề ra đường lối đổi mới, thực hiện
nhiều hình thức sở hữu, áp dụng cơ chế thị trường định hướng XHCN là 1
bước phát triển phù hợp với quy luật.
Câu 8: Quan điểm TH Mác Lê nin về thực tiễn, nguyên tắc thống
nhất giữa lý luận và thực tiễn. Ý nghĩa và phương pháp luận trong việc
nhận thức con đường đi lên CNXH ở nước ta hiện nay?
1. Quan điểm TH Mac – Lenin về thực tiễn
- Khái niệm: Thực tiễn là phạm trù triết học chỉ toàn bộ hoạt động vật
chất có tính chất lịch sử – xã hội của con người làm biến đổi tự nhiên và xã
hội.

Khi nghiên cứu định nghĩa thực tiễn cần nắm chắc và hiểu rõ một số nội
dung sau:
+ Hoạt động thực tiễn là hoạt động vật chất của con người: chỉ những
hoạt động vật chất của con người mới là hoạt động thực tiễn.
+ Bản chất của hoạt động thực tiễn đó là sự tác động qua lại giữa chủ
thể và khách thể, trong đó chủ thể với tính tích cực của mình làm biến đổi
khách thể. Trong quá trình này không chỉ biến đổi khách thể, mà còn làm
biến đổi ngay cả bản thân chủ thể.
- Hoạt động thực tiễn chia 3 hình thức cơ bản: Hđ sx vật chất; hđ biến
đổi chính trị-xh; hđ thực nghiệm khoa học
+ Hoạt động sản xuất vật chất là hình thức hoạt động cơ bản, đầu tiên
của thực tiễn.
Đây là hoạt động mà trong đó con người sử dụng những công cụ lao
động tác động vào giới tự nhiên để tạo ra những của cải và các điều kiện
thiết yếu nhằm duy trì sự tồn tại và phát triển của mình và xã hội.
+ Hoạt động chính trị xã hội là hoạt động của các tổ chức cộng đồng
người khác nhau trong xã hội nhằm cải biến những mối quan hệ xã hội để
thúc đẩy xã hội phát triển.
+ Thực nghiệm khoa học là một hình thức đặc biệt của thực tiễn. Đây là
hoạt động được tiến hành trong những điều kiện do con người tạo ra gần
giống, giống hoặc lặp lại những trạng thái của tự nhiên và xã hội nhằm xác
định các quy luật biến đổi và phát triển của đối tượng nghiên cứu. Dạng
hoạt động thực tiễn này ngày càng có vai trò quan trọng trong sự phát triển
của xã hội, đặc biệt là trong thời kỳ cách mạng khoa học và công nghệ hiện
đại.
2. Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn
Thực tiễn chính là cơ sở, điều kiện hình thành lên lý luận/nhận
thức.Thực tiễn là cơ sở, là động lực, là muc đích và tiêu chuẩn của lý luận;
lý luận hình thành, phát triển phải xuất phát từ thực tiễn, đáp ứng yêu cầu
thực tiễn:

- Thực tiễn là cơ sở của lý luận: phần lớn những tri thức được khái quát
thành lý luận là kết quả của hoạt động thực tiễn của con người. Mọi tri thức
dù trực tiếp hay gián tiếp đối vơi người này hay người kia, thế hệ này hay
thế hệ khác, ở trình độ kinh nghiệm hay lý luận xét đến cùng đều bắt nguồn
từ thực tiễn
- Thực tiễn là động lực của lý luận: Trong quá trình hoạt động thực tiễn
biến đổi thế giới, con người cũng biến đổi luôn cả bản thân mình, phát triển
năng lực bản chất, năng lực trí tuệ của mình. Nhờ đó, con người ngày càng
đi sâu vào nhận thức thế giới, khám phá những bí mật của thế giới, làm
phong phú và sâu sắc tri thức của mình về thế giới. Thực tiễn còn đề ra nhu
cầu, nhiệm vụ và phương hướng phát triển của nhận thức. Nhu cầu thực tiễn
đòi hỏi phải có tri thức mới, phải tổng kết kinh nghiệm, khái quát lý luận, nó
thúc đẩy sự ra đời và phát triển của ngành khoa học mới- khoa học lý luận.
- Thực tiễn là mục đích của nhận thức: Nhận thức phải quay về phục vụ
thực tiễn. Kết quả nhận thức phải hướng dẫn chỉ đạo thực tiễn. Lý luận,
khoa học chỉ có ý nghĩa thực sự khi chúng được vận dụng vào thực tiễn, cải
tạo thực tiễn.
- Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý: Cần phải hiểu thực tiễn là tiêu
chuẩn của chân lý một cách biện chứng; tiêu chuẩn này vừa có tính tuyệt đối
vừa có tính tương đối.
3. Áp dụng vào thực tiễn VN
Trong quá trình lãnh đạo CM, Đảng ta luôn giải quyết tốt mối quan hệ
giữa lý luận và thực tiễn. Các đường lối, chính sách được xây dựng từ sự
nghiên cứu và tổng kết thực tiễn của xã hội, do đó đã phản ánh đúng qui
luật, đúng tâm tư nguyện vọng của nhân dân. Các đường lối chính sách
11
đúng đã trở thành kim chỉ nam hướng dẫn hành động cách mạng của quần
chúng.
Các nghị quyết của đại hội VI là biểu hiện rất cụ thể của sự vận dụng
mqh này (trước ĐH VI, nước ta rơi vào khủng hoảng, Đảng tổng kết và rút

ra nguyên nhân sau đó đề ra đường lối đổi mới (lý luận) →dẫn đến nhiều
thăng lợi
ĐH VI (1986) của Đảng đã đề ra đường lối đổi mới tòan diện đất nước
trên cơ sở nhận thức đúng hơn công cuộc xây dựng CNXH. ĐH hội chủ
trương phát triển kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường
có sự quản lý của nhà nứoc, coi trọng việc kết hợp lợi ích cá nhân, tập thể và
xã hội, chăm lo toàn diện và phát huy nhân tố con người, được coi là mục
tiêu và động lực của sự phát triển xh. ĐH VI là 1 cột mốc đánh dấu bước
chuyển quan trọng trong nhận thức của Đảng ta về CNXH và con đường đi
lên CNXH.
12
Câu 9: Quan niệm TH Mác Lê nin về thực tiễn, quan hệ giữa thực
tiễn và lý luận? Đảng ta đa vận dụng quan hệ này vào việc đổi mới tư
duy lý luận như thế nào?
A. Q/niệm TH Mác Lê nin về thực tiễn, quan hệ thực tiễn – lý luận
1. Q/niệm về thực tiễn
- Khái niệm: Thực tiễn là toàn bộ những hoạt động mà nhờ đó con
người làm thay đổi hiện thực xung quanh mình và chính bản thân mình.
- Cấu trúc của thực tiễn: cái vật chất; diễn ra trong khuôn khổ một hình
thái xã hội xác định; là hoạt động có ý thức.
- Các loại hình hoạt động thực tiễn: hoạt động sx vật chất; hoạt động
biến đổi chính trị = xh; hoạt động thực nghiệm khoa học.
2. Qhệ giữa lý luận và thực tiễn
- Lý luận và thực tiễn có mqh chặt chẽ với nhau:
+ Thực tiễn là nguồn gốc của lý luận
+ Thực tiễn là cơ sở và động lực của lý luận
+ Thực tiễn là mục đích của lý luận
+ Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý
- Lý luận có chức năng phản ánh một cách khái quát hiện thực khách
quan và phục vụ thực tiễn.

B. Vận dụng
Công cuộc đổi mới Đảng khởi xướng và lãnh đạo đã đem lại nhiều
thành tựu về mọi mặt của đnứoc. Đó là kquả của sự vận dụng sáng tạo
những quan điểm đúng đắn của CN MLê và TT HCM, trong đó có quan
niệm về mqh giữa thực tiễn và lý luận. Từ thực tiễn tổng kết thành lý luận –
lý luận hướng dẫn thực tiễn - thực tiễn lại tổng kết nâng cao trình độ lý luận.
Cụ thể: trước ĐH VI, từ cuối những năm 70, khi nước ta lâm vào cuộc
khủng hoảng KT-XH, Đảng ta trên cơ sở tổng kết thực tiễn đã đề ra nhiều
chủ trương có tính chất đổi mới từng phần. Việc thực hiện những chủ
trương ấy đã góp phần tăng đáng kể tốc độ ptriển ktế trong 5 năm (81-85).
Nhưng những nhược điểm của mô hình XD CNXH trước đó chưa được
khắc phục về căn bản nên vẫn cản trở sự ptriển. Nhưng những thử nghiệm
đổi mới từng phần đã cung cấp kinh nghiệm qúi báu và từ sự tổng kết thực
tiễn đến ĐH Đảng VI đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện mở ra bước
ngoặt trong công cuộc XD CNXH ở nước ta. Mỗi lần ĐH, Đảng lại tổng kết
thực tiễn, nâng cao trình độ lý luận, chỉ rõ những thiếu sót, yếu kém để khắc
phục, từng bước đưa sự nghiệp CM tiến lên đạt những thành tựu ngày càng
to lớn.
Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức, đòi hỏi chúng ta phải luôn luôn
quán triệt quan điểm thực tiễn. Quan điểm này yêu cầu việc nhận thức phải
xuất phát từ thực tiễn, dựa trên cơ sở thực tiễn, đi sâu vào thực tiễn, phải coi
trọng công tác tổng kết thực tiễn.
Việc nghiên cứu lý luận phải liên hệ với thực tiễn, học đi đôi với hành.
Nếu xa rời thực tiễn sẽ dẫn đến sai lầm của bệnh chủ quan, duy ý chí, giáo
điều, máy móc, quan liêu.
Ngược lại, nếu tuyệt đối hóa vai trò của thực tiễn sẽ rơi vào chủ nghĩa
thực dụng, kinh nghiệm chủ nghĩa: là sự tuyệt đối hoá những kinh nghiệm
thực tiễn trước đây và áp dụng một cách máy móc vào hiện tại khi điều kiện
đã thay đổi. Nguyên nhân xuất phát từ nhận thức, tri thức thấp, thành công
tự phát. Bệnh kinh nghiệm (cùng với bệnh giáo điều) rất nguy hại. Để khắc

phục có hiệu quả, cần quán triệt sâu sắc nguyên tắc thống nhất giữa lý luận
và thực tiễn, bám sát thực tiễn và tăng cường lý luận, lý luận phải gắn liền
với thực tiễn, khái quát từ thực tiễn.
Kinh nghiệm đấu tranh, bảo vệ và xây dựng tổ quốc xã hội chủ nghĩa đã
đem lại cho chúng ta bài học vô giá là: "Đảng phải xuất phát từ thực tế, tôn
trọng và hành động theo quy luật khách quan”. Song song với đó, sự khám
phá về lý luận phải trở thành tiền đề và điều kiện cơ bản làm cơ sở cho sự
đổi mới trong hoạt động thực tiễn. Phải khắc phục tình trạng trước đây
thường vắng bóng lý luận khi thông qua những quyết định quan trọng và do
vậy buộc phải ra quyết định trên cơ sở thuần túy kinh nghiệm. Phải tạo cơ
sở thế giới quan khoa học, tạo niềm tin cho cán bộ, Đảng viên trong quá
trình đổi mới theo định hướng XHCN trước những biến động sâu sắc, đầy
kịch tính của thời đại. Muốn vậy cần phải có triết học khoa học. Không thể
đổi mới thành công nếu thiếu mặt tư duy triết học sâu sắc. Triết học Mác–
Lênin chính là cơ sở thế giới quan và phương pháp luận cho công cuộc đổi
mới của chúng ta.
13
Câu 10: Vai trò quyết định của LLSX đối với QHSX? Luận chứng
cho thấy ngày nay khoa họ đã trở thành lực lượng sx trực tiếp?
1. Khái niệm LLSX và QHSX
- LLSX là mối quan hệ giữa con người với giới tự nhiên, là trình độ
chinh phục tự nhiên của con người, là mặt tự nhiên của PTSX.
LLSX bao gồm: người lao động với kỹ năng lao động của họ; tư liệu sx:
bao gồm tư liệu lao động và đối tượng lao động.
- QHSX là quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất.
+ QHSX gồm 3 măt: qhệ về sở hữu đối với TLSX; qhệ trong tổ chức và
quản lý sản xuất; qhệ trong phân phối sản phẩm sản xuất ra.
+ Ba mặt trên có quan hệ hữu cơ với nhau, trong đó quan hệ sở hữu về
tư liệu sản xuất giữ vai trò quyết định. Bản chất của bất cứ kiểu quan hệ sản
xuất nào trước hết do quan hệ chiếm hữu tư liệu sản xuất quyết định

* MQH biện chứng giữa LLSX và QHSX.
+ Vai trò quyết định của LLSX đối với QHSX: Trong quá trình hoạt
động sản xuất, LLSX không ngừng được hoàn thiện và phát triển mà trước
hết là phát triển công cụ sản xuất. Đến một trình độ nhất định, tính chất của
LLSX thay đổi về cơ bản khi đó QHSX cũ lỗi thời trở thành vật cản đối với
sự phát triển của LLSX. Đến một mức độ nhất định QHSX ấy bị phá vỡ để
xác lập một kiểu QHSX mới cao hơn từ đó một PTSX mới ra đời, một hình
thái kinh tế xã hội mới xuất hiện.
+ Sự tác động trở lại của QHSX đối với LLSX:
> Khi QHSX phù hợp với tính chất và trình độ của LLSX thì nó góp
phần thúc đẩy LLSX phát triển.
> Khi không phù hợp nó sẽ kìm hãm LLSX: QHSX đã lỗi thời trước
trình độ phát triển của LLSX, QHSX xác lập một cách duy ý chí đi quá xa
so với LLSX
2. Vai trò quyết định của LLSX đối với QHSX
- Khi một PTSX mới ra đời, khi đó QHSX phù hợp với trình độ phát
triển của LLSX. Sự phù hợp của QHSX với trình độ phát triển của LLSX là
trạng thái mà trong đó, QHSX là “hình thức phát triển” của LLSX.
- Song, sự phát triển của LLSX đến một trình độ nhất định lại làm cho
quan hệ từ chỗ phù hợp trở thành không phù hợp với sự phát triển của
LLSX. Khi đó QHSX trở thành trở thành “xiềng xích” của LLSX, kìm hãm
LLSX phát triển. Yêu cầu khách quan của sự phát triển của LLSX tất yếu sẽ
dẫn đến thay thế QHSX, thúc đẩy LLSX tiếp tục phát triển. Thay thế QHSX
cũ bằng QHSX mới cũng có nghĩa là PTSX cũ mất đi, PTSX mới ra đời
thay thế.
+ LLSX quyết định QHSX, vì:
- LLSX là yếu tố hoạt động nhất, cách mạng nhất, là nội dung của quá
trình sản xuất, còn QHSX là yếu tố phụ thuộc vào LLSX, nó là hình thức xã
hội của sản xuất nên có tính chất tương đối ổn định, có xu hướng lạc hậu
hơn so với sự phát triển của LLSX.

- LLSX phát triển làm cho QHSX hình thành, biến đổi, phát triển cho
phù hợp với nó. Sự phù hợp của LLSX với QHSX là động lực làm cho
LLSX phát triển.
- Mâu thuẫn giữa LLSX mới với QHSX cũ được giải quyết bằng cách
thay thế QHSX cũ bằng QHSX mới phù hợp với LLSX. Trong xã hội có đối
kháng giai cấp, mâu thuẫn này được giải quyết thông qua đấu tranh giai cấp,
mà đỉnh cao là cách mạng xã hội.
3. Luận chứng cho thấy, ngày nay khoa học đã trở thành LLSX trực
tiếp?
- Theo quy luật thì QHSX phải phù hợp với trình độ phát triển của
LLSX. Trong lịch sử, sự phát triển của LLSX là quá trình không ngừng đổi
mới và hoàn thiện công cụ lao động, đổi mới công nghệ, nâng cao trình độ
người lao động, là quá trình hình thành, phát triển phân công lao động xã
hội, chuyển từ LLSX có tính chất cá nhân lên LLSX có tính chất xã hội. Đặc
biệt, trong thời đại ngày nay, khi khoa học đang trở thành LLSX trực tiếp,
lao động trí tuệ ngày càng đóng vai trò to lớn, LLSX đã mang tính quốc tế,
quá trình chuyển biến đó ngày một rõ ràng hơn.
- Khoa học đã xâm nhập vào tất cả các yếu tố của LLSX → tri thức
khoa học đựoc kết tinh, đựoc vật chất hóa vào mọi thành tố của LLSX,
không chỉ KHTN và KT mà KHXH cũng trở thành LLSX trực tiếp, áp dụng
vào thực tiễn, giúp cho năng suất lao động và chất lượng cuộc sống ngày
càng được nâng cao
- KH đã trải qua một qúa trình ptriển lâu dài gắn liền với sự PT của
LLSX và qua đó đã tác động đến sự ptriển của XH loài người. Sự PT của
KH đã trải qua 3 giai đoạn vói những tính chất và chức năng khác nhau. Thế
kỷ 20 đến nay, KH và KT đã kết hợp với nhau thành 1 thể thống nhất đi sâu
vào nghiên cứu thế giới vi mô, nhờ đó đã phát hiện ra nhiều cấu trúc, thuộc
tính và qui luật vận động của vật chất có thể áp dụng vào SX và đời sống
(điện tử- tin học) đem lại nhiều lợi ích to lớn. Do những biến đổi căn bản về
vai trò của KH đối với SX và đời sống mà KH trở thành LLSX trực tiếp.

14
Câu 11: Qniệm Mác Lê nin về vai trò của khoa học kỹ thuật và
nhân tố con người trong LLSX? Sự vận dụng quan điểm đó ở nước ta?
1. Quan niệm về vai trò của khoa học kỹ thuật và nhân tố con người
trong LLSX
1.1 Vai trò KHKT
- Mác dự đoán rằng KH sẽ trở thành LLSX trực tiếp , trở thành LLSX
độc lập
- KH ngày nay có vai trò quan trọng trong SX, sự PT của KH đã đạt đến
mức trở thành nguyên nhân trực tiếp của những biến đổi to lớn trong sx và
trong đời sống.
- Trong sự phát triển của LLSX, khoa học đóng vai trò ngày càng to lớn.
Sự phát triển của khoa học gắn liền với sản xuất và là động lực mạnh mẽ
thúc đẩy sản xuất phát triển.
- Những phát minh khoa học trở thành điểm xuất phát ra đời những
ngành sản xuất mới, những máy móc thiết bị mới, nguyên vật liệu mới, năng
lực mới.
- Đội ngũ các nhà khoa học trực tiếp tham gia vào quá trình sản xuất lao
động ngày càng đông, tri thức khoa học trở thành một yếu tố không thể
thiếu được của người lao động.
- Sự thâm nhập ngày càng sâu của khoa học vào sản xuất đã làm cho lực
lượng sản xuất có bước nhảy vọt, tạo thành cuộc cách mạng khoa học và
công nghệ hiện đại.
- Có thể nói khoa học và công nghệ hiện đại là đặc trưng cho lực lượng
sản xuất hiện đại.
1.2 Vai trò của con người
LLSX bao gồm: TLSX, người lao động và kỹ năng lao động của họ.
Quan trọng nhất là người lao động.
- Lao động của con người là hoạt động lao động sáng tạo và ngày càng
sáng tạo, con người ngày càng trở thành nguồn lực đặc biệt của sản xuất,

nguồn lực cơ bản, nguồn lực vô tận.
- Ngày nay trong nền sx hiện đại, hình thức lao động chân tay đã được
thay thế dần bằng hình thức lao động trí óc. Nhưng công cụ lao động dù tự
động hóa cao đến đâu cũng phải có người điều khiển, kiểm tra, điều chỉnh
và sửa chữa…
- Trong các yếu tố của lực lượng sản xuất, lực lượng sản xuất hàng đầu
là “người lao động” vì:
- Người lao động là chủ thể của quá trình lao động sản xuất
- Bằng thể lực, tri thức và kỹ năng lao động của mình, người lao động
sử dụng tư liệu lao động, trước hết là công cụ lao động, tác động vào đối
tượng lao động để sản xuất ra của cải vật chất.
- Cùng với quá trình phát triển sản xuất, sức mạnh và kỹ năng lao động
của con người ngày càng được tăng lên, đặc biệt là trí tuệ của con người
không ngừng phát triển, hàm lượng trí tuệ của lao đông ngày càng cao.
- Ngày nay, với cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, lao động trí tuệ
ngày càng đóng vai trò chính yếu.
2. Vận dụng
- Đại hội VIII của Đảng đã vạch ra mục tiêu đối với sự phát triển của
LLSX nói chung, của nền KHCN nước ta nói riêng như sau: Từ nay đến
2020, ra sức phấn đấu để nước ta trở thành 1 nước công nghiệp.
Đảng đã và đang tiếp thu, vận dụng những thành tựu KHKT trên thế
giới, đưa KH vào sản xuất ngày một nhiều hơn trong tất cả các lĩnh vực sản
xuất từ công nghiệp tới nông,lâm nghiệp.
Đảg và nhà nuớc luôn chăm lo đào tạo nguồn nhân lực có đạo đức, có tri
thức để đáp ứng yêu cầu của sự PT KHKT trong SX.
Đảng ta luôn coi con người là nhân tố trung tâm, vừa là mục tiêu, vừa là
động lực của PT xã hội.
2.1 Nhân tố khoa học và kỹ thuật
- Phát triển mạnh, kết hợp giữa hoạt động khoa học và công nghệ với
giáo dục và đào tạo để thực sự phát huy vai trò quốc sách hàng đầu, tạo

động lực đẩy nhanh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và phát triển kinh tế tri
thức.
- Tích cực đẩy mạnh nghiên cứu và ứng dụng thành tựu khoa học và
công nghệ vào sản xuất.
- Quan tâm đến việc đào tạo, bồi dưỡng, trọng dụng nhân tài, các nhà
khoa học đầu ngành, tổng công trình sư, kỹ sư trưởng, kỹ thuật viên lành
nghề và công nhân kỹ thuật… có tay nghề cao.
- Đẩy mạnh hợp tác quốc tế, chuyển giao công nghệ với nước ngoài, thu
hút nguồn lực bên ngoài phát triển khoa học và công nghệ. Khuyến khích tổ
chức, cá nhân nước ngoài đầu tư phát triển khoa học và công nghệ tại Việt
Nam. Thu hút chuyên gia nước ngoài, đặc biệt là chuyên gia giỏi người Việt
Nam định cư ở nước ngoài, tham gia giảng dạy, phát triển khoa học và kỹ
thuật tại Việt Nam.
2.2 Nhân tố con người
- Khi nghiên cứu chủ nghĩa Mác – Lênin, Đảng ta đã nhận ra vai
trò rất quan trọng của nhân tố con người trong lực lượng sản xuất vì vậy
luôn:
- Đảm bảo đời sống vật chất cho người lao động: tăng lương,
thưởng tết….
- Chăm lo đến sức khoẻ của người lao động: thực hiện mua bảo
hiểm sức khoẻ, kiểm tra sức khoẻ định kỳ, động viên người lao động tham
gia tập thể dục
- Nâng cao năng lực của người lao động: thường xuyên mở các
lớp bồi dưỡng nghiệp vụ ngắn hạn, dài hạn, cấp học bổng cho các cán bộ đi
học ở nước ngoài, mở các cuộc thi cho người lao động như “bàn tay
vàng”….
15
Câu 12: Phân tích nội dung qui luật QHSX phù hợp với tính chất và
trình độ phát triển của LLSX? Vận dụng QL này luận chứg tình tất yếu
của sự tồn tại và ptriển của nền KT thị trường định hướng XHCN ở nc

ta?
1. Khái niệm
- LLSX là mối quan hệ giữa con người với tự nhiên , là trình độ chinh
phục tự nhiên của con người, là mặt tự nhiên của PTSX.
LLSX bao gồm: người lao động với kỹ năng lao động; tư liệu sản xuất
bao gồm tư liệu lao động và đối tượg lao động.
- QHSX là quan hệ giữa người với người trong qtrình sản xuất.
QHSX bao gồm 3 mặt: qhệ về sở hữu với TLSX; qhệ trong tổ chức và
qlý sx; qhệ trong phân phối sản phẩm SX.
2. Quy luật QHSX phù hợp với tính chất, trình độ của LLSX
Sự tác động lẫn nhau giữa LLSX&QHSX biểu hiện mối quan hệ mang
tính chất biện chứng. Quan hệ này biểu hiện thành qui luật cơ bản nhất của
sự vận động và phát triển của đời sống xã hội – qui luật về sự phù hợp của
QHSX với trình độ phát triển của LLSX.
Khuynh hướng của sản xuất vật chất xã hội là không ngừng phát triển.
Sự phát triển đó xét đến cùng là bắt nguồn từ sự biến đổi và phát triển của
LLSX, trước hết là công cụ lao động.
Sự phát triển của LLSX được đánh dấu bằng trình độ của LLSX. Trình
độ LLSX trong từng giai đoạn lịch sử thể hiện trình độ chinh phục tự nhiên
của con người trong giai đoạn lịch sử đó. Khái niệm trình độ của lực lượng
sản xuất nói lên khả năng của con người, thông qua việc sử dụng công cụ
lao động thực hiện quá trình cải biến giới tự nhiên nhằm đảm bảo cho sự
sinh tồn và phát triển của mình. Trình độ của lực lượng sản xuất thể hiện ở:
Trình độ của công cụ lao động, trình độ của tổ chức lao động xã hội, trình
độ ứng dụng khoa học vào sản xuất, kinh nghiệm và kỹ năng lao động của
con người, trình độ phân công lao động.
Gắn với trình độ của lực lượng sản xuất là tính chất của lực lượng sản
xuất. Trong lịch sử của sản xuất vật chất, lực lượng sản xuất đã phát triển từ
chỗ có tính chất cá nhân lên tính chất xã hội hóa. Khi sản xuất dựa trên trình
độ thủ công, phân công lao động kém phát triển thì lực lượng sản xuất chủ

yếu có tính chất cá nhân. Khi sản xuất đạt đến trình độ cơ khí, hiện đại phân
công lao động xã hội phát triển thì lực lượng sản xuất có tính xã hội hóa.
Mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất được thể hiện
ở hai nội dung cơ bản.
1.1 LLSX quyết định và làm thay đổi QHSX cho phù hợp với nó
Một phương thức sản xuất mới ra đời, khi đó quan hệ sản xuất phù hợp
với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Sự phù hợp của quan hệ sản
xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là một trạng thái mà
trong đó quan hệ sản xuất là “hình thức phát triển tất yếu” của lực lượng sản
xuất. Nghĩa là trạng thái mà các yếu tố của quan hệ sản xuất “tạo địa bàn
đầy đủ” cho lực lượng sản xuất phát triển. Như vậy, ở trạng thái phù hợp cả
ba mặt của quan hệ sản xuất đạt tới thích ứng với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất, tạo điều kiện tối ưu cho việc sử dụng và kết hợp giữa lao
động và tư liệu sản xuất, do đó lực lượng sản xuất có cơ sở để phát triển hết
khả năng của nó. Trong phương thức sản xuất, thì lực lượng sản xuất là nội
dung kinh tế kỹ thuật, quan hệ sản xuất là hình thức xã hội của quá trình sản
xuất. Nội dung bao giờ cũng quyết định hình thức. Do vậy, lực lượng sản
xuất quyết định quan hệ sản xuất.
Điều này có thể thấy rõ: trong quá trình sản xuất con người luôn có xu
hướng muốn tăng năng suất lao động nhưng lại giảm nhẹ sức lao động, từ
đó họ tìm cách cải tạo công cụ sản xuất hiện có, chế tạo công cụ sản xuất
mới, áp dụng tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất… Điều đó làm cho lực lượng sản
xuất thường xuyên thay đổi, nó có tính cách mạng…
Khi lực lượng sản xuất thường xuyên biến đổi, tới một giai đoạn nào đó,
lực lượng sản xuất chuyển sang trình độ mới, với tính chất xã hội hóa ở mức
cao hơn. Khi đó quan hệ sản xuất lại tương đối ổn định. Lúc đó, quan hệ
sản xuất từ chỗ phù hợp trở thành không phù hợp với sự phát triển của lực
lượng sản xuất. Mâu thuẫn sẽ ngày càng gay gắt và đến một lúc nào đó quan
hệ sản xuất “trở thành xiềng xích của lực lượng sản xuất”.
Sự phát triển khách quan của lực lượng sản xuất tất yếu dẫn đến việc

bằng cách này hay cách khác xoá bỏ quan hệ sản xuất cũ và thay thế nó
bằng một kiểu quan hệ sản xuất mới, phù hợp với tính chất và trình độ của
lực lượng sản xuất đã thay đổi, mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển.
Thay quan hệ sản xuất cũ bằng một quan hệ sản xuất mới cũng có nghĩa là
làm cho phương thức sản xuất cũ bị mất đi phương thức sản xuất mới cao
hơn ra đời, phát triển.
1.2. QHSX tác động trở lại sự phát triển của LLSX
Mặc dù lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất nhưng quan hệ
sản xuất có tính độc lập tương đối, tác động trở lại sự phát triển của lực
lượng sản xuất.
Quan hệ sản xuất là quan hệ giữa người với người trong quá trình sản
xuất, do đó trong quá trình sản xuất xã hội nó qui định tới: Mục đích nền sản
xuất xã hội.
Qui định tới khuynh hướng phát triển các nhu cầu về lợi ích vật chất.
Qui định hệ thống tính chất quản lý sản xuất, quản lý xã hội.
Qui định phương thức sản xuất của cải nhiều hay ít. Qui định khuynh
hướng phát triển các công nghệ. Qua sự tác động đó quan hệ sản xuất tác
động tới:
Thái độ tích cực hay không tích cực của người lao động.
Ảnh hưởng tới việc cải tiến, chế tạo công cụ sản xuất.
Việc áp dụng thành tựu khoa học kỹ thuật vào sản xuất. Sự tác động đó
kìm hãm hay thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển.
Quan hệ sản xuất tác động đến lực lượng sản xuất theo hai hướng: quan
hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là động
lực thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Ngược lại quan hệ sản xuất
không phù hợp với trình độ lực lượng sản xuất: khi nó lỗi thời, lạc hậu, hoặc
“tiên tiến” một cách giả tạo sẽ kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Khi quan hệ sản xuất kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất thì theo
qui luật chung quan hệ sản xuất cũ sẽ được thay thế bằng quan hệ sản xuất
mới tiến bộ hơn để thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển.

Tuy nhiên việc giải quyết mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và
quan hệ sản xuất phải thông qua việc nhận thức và hoạt động cải tạo xã
hội của con người. Trong xã hội có giai cấp phải thông qua đấu tranh giai
cấp, thông qua cách mạng xã hội.
Tóm lại, qui luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất là qui luật phổ biến tác động toàn bộ tiến trình lịch sử
nhân loại. Sự thay thế, phát triển đi lên của lịch sử xã hội loài người từ chế
độ công xã nguyên thuỷ qua chế độ chiếm hữu nô lệ chế độ phong kiến, chế
độ tư bản chủ nghĩa và đến xã hội cộng sản chủ nghĩa tương lai là sự tác
động của các qui luật xã hội, trong đó qui luật quan hệ sản xuất phù hợp với
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là qui luật cơ bản nhất, nó chi phối
các qui luật khác.
3. Ý nghĩa
- Qui luật về sự phù hợp của QHSX với tính chất và trình độ của LLSX
là qui luật chung, phổ biến của sự phát triển xh loài người →xh loài người
ptriển lần lượt qua các PTSX từ thấp đến cao.
- Quy luật này là cơ sở lý luận chống lại và thoát khỏi quan điểm
CNDT, tôn giáo về ptriển lịch sử
- QL này cơ sở lý luận cho việc hoạch định đường lối, phê phán các chủ
trương, việc làm sai lầm trong việc XD PTSX mới XHCN ở VN trong thời
kỳ quá độ tiến lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN.
4. Vận dụng
Vận dụng quy luật sự phù hợp của QHSX với trình độ phát triển của
LLSX. "Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài
chính sách phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo
cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN; đó
chính là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa".
Theo quan điểm của Đảng ta, "kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế
nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày

càng trở thành nền tảng vững chắc".
16
Xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa vừa phù hợp với xu hướng phát triển chung của nhân loại, vừa phù
hợp với yêu cầu phát triển của lực lượng sản xuất ở nước ta; với yêu cầu của
quá trình xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ kết hợp với chủ động hội
nhập kinh tế quốc tế.
Nước ta tiến lên chủ nghĩa xã hội từ một nền kinh tế phổ biến là sản
xuất nhỏ, lao động thủ công là phổ biến. Chính vì vậy, chúng ta phải tiến
hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Trong thời đại ngày nay, công nghiệp
hóa phải gắn liền với hiện đại hóa. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta
là nhằm xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội. Đó là nhiệm
vụ trung tâm trong suốt thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Gắn liền với phát triển kinh tế, xây dựng nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước,
phải không ngừng đổi mới hệ thống chính trị, nâng cao vai trò lãnh đạo và
sức chiến đấu của Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa,
nâng cao vai trò của các tổ chức quần chúng, phát huy sức mạnh đại đoàn
kết toàn dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Đồng thời với phát triển kinh tế, phải phát triển văn hóa, xây dựng nền
văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc nhằm không ngừng nâng cao đời
sống tinh thần của nhân dân; phát triển giáo dục và đào tạo nhằm nâng cao
dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài; giải quyết tốt các vấn đề xã
hội, thực hiện công bằng xã hội nhằm thực hiện mục tiêu: "Dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh".
17
Câu 13: Phân tích nội dung quy luật QHSX phù hợp với tính chất
và trình độ phát triển của LLSX? Vận dụng qui luật lý giải tính tất yếu
của việc dịnh hướng con đường phát triển xã hội VN hiện nay theo định
hướng XHCN?

1. Khái niệm
- LLSX là mối quan hệ giữa con người với tự nhiên , là trình độ chinh
phục tự nhiên của con người, là mặt tự nhiên của PTSX.
LLSX bao gồm: người lao động với kỹ năng lao động; tư liệu sản xuất
bao gồm tư liệu lao động và đối tượg lao động.
- QHSX là quan hệ giữa người với người trong qtrình sản xuất.
QHSX bao gồm 3 mặt: qhệ về sở hữu với TLSX; qhệ trong tổ chức và
qlý sx; qhệ trong phân phối sản phẩm SX.
2. Mối quan hệ biện chưng giữa LLSX và QHSX
2.1 LLSX quyết định đối với việc hình thành, biến đổi và ptriển QHSX
- Tính chất và trình độ của LLSX như thế nào thì QHSX phải như thế
đó:
+ Tính chất của LLSX là tính chất của TLSX và của LĐ. Nếu t/c TLSX
là công cụ thủ công và t/c LĐ là lđ riêng lẻ →LLSX có tính chất cá nhân.
NGược lại TLSX là máy móc hiện đại và LĐ tạo ra sản phẩm là LĐ hợp tác,
tập thể →LLSX có tính chất xã hội.
+ Trình độ của LLSX: là trình độ phát triển của công cụ lao động, của
kỹ thuật, ở tri thức KH, ở kinh nghiệm và kỹ năng của người lao động; ở
qui mô sx, ở phân công lao động… Trình độ của LLSX càng cao thì sự phan
công lao động càng tỉ mỉ.
+ LLSX thay đổi → QHSX thay đổi, LLSX qui định sự biến đổi của
QHSX.
+ LLSX biến đổi thường xuyên và phát triển đến một mức độ nhất định,
QHSX cũ không còn phù hợp với LLSX →kìm hãm sự phtriển LLSX
→QHSX đó sẽ thay đổi bằng QHSX mới phù hợp với tính chất và trìh độ
của LLSX.
+ Sự thay thế QHSX cũ, lỗi thời = QHSX mới, tiến bộ →PTSX lỗi thời
= PTSX mới tiến bộ, kéo theo sự thay đổi KTTT →→ HT KT-XH cũ = HT
KT-XH mới. Vì vậy trong XH có đối kháng giai cấp thì việc LLSX mới
mâu thuẫn với QHSX lỗi thời sẽ dẫn đến đấu tranh giai cấp, tiền đề tất yếu

của cuộc CMXH.
2.2 Sự tác động trở lại của QHSX đối với LLSX
- QHSX cũng có tính độc lập tương đối và có thể tác động mạnh mẽ trở
lại LLSX. Sự tác động của QHSX có 2 khả năng:
+ QHSX thúc đẩy LLSX nếu QHSX phù hợp LLSx → động lực cơ bản,
trực tiếp thúc đẩy LLSX ptriển
+ Nếu QHSX lỗi thời, ko phù hợp với LLSX → kìm hãm sự ptriển
LLSX (tạm thời).
Cuối cùng QHSX bị thay thế bởi QHSX mới phù hợp LLSX ptriển.
- LLSX và QHSX luôn nằm trong mối quan hệ hữu cơ, gắn bó chặt chẽ
với nhau, tác động qua lại với nhau, tạo thành quy luật cơ bản của toàn XH
loài người, đó là quy luật QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX.
3. Ý nghĩa
- Qui luật về sự phù hợp của QHSX với tính chất và trình độ của LLSX
là qui luật chung, phổ biến của sự phát triển xh loài người →xh loài người
ptriển lần lượt qua các PTSX từ thấp đến cao.
- Quy luật này là cơ sở lý luận chống lại và thoát khỏi quan điểm
CNDT, tôn giáo về ptriển lịch sử
- QL này cơ sở lý luận cho việc hoạch định đường lối, phê phán các chủ
trương, việc làm sai lầm trong việc XD PTSX mới XHCN ở VN trong thời
kỳ quá độ tiến lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN
4. Vận dụng:
Qui luật QHSX phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của LLSX là
qui luật phổ biến chi phối sự phát triển của XH loài người: từ chế độ CS
nguyên thủy, cđ CHNL, Cđ PK, CĐ TBCN đến XHCN và CSCN. Sự phát
triển của LLSX đòi hỏi QHSX phải thay đổi. Sự phát triển của LLSX có
tính chất liên tục, tất yếu, kéo theo sự thay đổi của QHSX diễn ra một cách
gián đoạn và cũng tất yếu và được được lịch sử phát triển của XH loài người
chứng minh rất rõ ràng. Sự chuyển biến của PTSX TBCN lên XHCN đã
được bắt đầu từ CM tháng 10 Nga, được coi là sự khởi đầu của thời kỳ quá

độ từ CNTB lên CNXH trên phạm vi toàn thế giới. Tuy Liên Xô và các
nước XHCN Đông âu đã sụp đổ, hệ thống các nước XHCN tuy có bị thu
hẹp nhưng vẫn tồn tại và lý tưởng XHCN tiếp tục được duy trì và phát triển
trong tương lai của loài người. Vận dụng nguyên lý về sự phát triển, sự sụp
đổ của LXo và một số nước XHCN chỉ là sự đi quanh co, thụt lùi trong sự
phát triển đi lên của lịch sử, có nghĩa con đường tiến lên XHCN là con
đường tất yếu của mọi hình thái KT – XH trên trái đất. Mặt khác, lý luận về
HT KT-XH của CN Mác cũng chỉ ra rằng: trong lịch sử XH loài người đã
có 5 HT KT-XH diễn ra tuần tự, nhưng trong những điều kiện cụ thể ở một
số quốc gia có thể có sự vượt qua 1 HT KT-XH nào đó. Nước là là 1 nước ở
trong tình hình đó: bỏ qua HT KT-XH TBCN lên CNXH.
Sau khi giải phóng dân tộc và giành độc lập, Đảng và nhân dân ta đã
chọn con đường tiến thẳng lên CNXH, bỏ qua giai đoạn CNTB. Đây được
xem là một lựa chọn chưa có tiền lệ, nhưng được xem như là tất yếu.
CNTB ra đời đã thực sự cách mạng hóa những QHSX và do đó, đã cách
mạng hóa toàn bộ những quan hệ xã hội, đã tạo ra những LLSX nhiều hơn
và đồ sộ hơn LLSX của tất cả các thế hệ trước kia gộp lại. LLSX mà CNTB
tạo ra chính là nền đại công nghiệp và gắn liền với nó là giai cấp vô sản. Đó
là LLSX có tính xã hội. C.Mác đã phát hiện ra mâu thuẫn cơ bản của xã hội
tư bản là mâu thuẫn giữa tính chất xã hội hóa của LLSX với chế độ chiếm
hữu tư nhân TBCN về TLSX.
Nhận thấy được thực tế người bóc lột người vẫn tồn tại trong xã hội
TBCN, chúng ta muốn đi tắt một bước đi lịch sử chưa từng chứng kiến, vì
lợi ích của nhân dân. Thực tế những năm 1976 đến 1986 đã cho thấy sự vi
phạm quy luật QHSX phải phù hợp với LLSX đã dẫn đến hậu quả như thế
nào. Việc áp đặt chế độ công hữu để thay đổi QHSX trong xã hội đã khiến
nền kinh tế rơi vào khủng hoảng. Từ 1986, nền kinh tế thị trường tìm lại chỗ
đứng của nó và quy luật phù hợp giữa QHSX với LLSX tiếp tục đúng.
Như vậy con đường phát triển xã hội VN hiện nay theo hướng XHCN
dù sao đi chăng nữa luôn phải tuân theo quy luật này. Vấn đề lớn nhất trên

con đường quá độ là thúc đẩy sự phát triển của LLSX, Đảng ta đã nhận thấy
2 phương pháp cần thiết là: nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội
chủ nghĩa và CNH, HĐH đất nước.
Nếu như cuộc cách mạng công nghiệp ở các nước Tây Âu thế kỷ XVII
– XIX đã tạo ra nền tảng vật chất cho chủ nghĩa tư bản chiến thắng chế độ
phong kiến, thì ngày nay cuộc cách mạng khoa học và công nghệ đang tạo
ra những tiền đề vật chất cần thiết để thay thế CNTB bằng CNXH, chủ
nghĩa cộng sản. Đây là phương tiện thời đại cung cấp để nước ta đi lên
CNXH.
Chủ nghĩa tư bản hiện đang nắm ưu thế về vốn, khoa học và công nghệ,
thị trường, song nó không thể khắc phục nổi những mâu thuẫn vốn có của
xã hội tư bản, đặc biệt là mâu thuẫn giữa tính chất xã hội hoá ngày càng cao
của LLSX với chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản
xuất, mâu thuẫn giữa các nước tư bản phát triển và các nước đang phát
triển… Theo quy luật tiến hoá của lịch sử, loài người nhất định sẽ tiến tới
chủ nghĩa xã hội'' , Đảng ta đã chỉ rõ: con đường đi lên của nước ta là sự
phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là
bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của QHSX và kiến trúc thượng tầng tư
bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt
được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt về khoa học và công nghệ để
phát triển nhanh LLSX, xây dựng nền kinh tế hiện đại.
18
Câu 14: MQH biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng
tầng xã hội? Vận dụng MQH này vào việc luận chứng tính tất yếu của
việc cải cách nền hành chính quốc gia ở nước ta hiện nay?
I. Định nghĩa
- CSHT là toàn bộ những QHSX hợp thành cơ cấu kinh tế của 1 HT KT-
XH nhất định trên đó XD lên KTTT.
CSHT bao gồm: QHSX thống trị (đại diện cho XH có giai cấp thống
trị), QHSX là tàn dư của XH trước để lại, QHSX là mầm mống của XH sau

(là QHSX của XH tương lai này sinh trong lòng XH cũ, mới hình thành).
Trong đó QHSX thống trị giữ vai trò quyết định.
- KTTT là toàn bộ những quan điểm tư tưởng, chính trị, pháp luật, triết
học, đạo đức, nghệ thuật và các thiết chế tương ứng như nhà nước, đảng
phái, giáo hội được hình thành trên cơ sở hạ tầng nhất định.
KTTT bao gồm nhiều yếu tố, mỗi yếu tố có đặc điểm, có qui luật phát
triển riêng nhưng giữa chúng có sự liên hệ, tác động qua lại lẫn nhau và đều
nảy sinh trên CSHT. Nhà nước chính là bộ phận có quyền lực mạnh nhất
của KTTT.
II. Quan hệ biến chứng giữa CSHT và KTTT
1. Cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng:
- CSHT nào thì KTTT đó
CSHT quyết định nội dung, cấu trúc, sự vận động phát triển của KTTT.
- Những thay đổi của CSHT sớm hay muộn cũng dẫn đến biến đổi
KTTT.
CSHT cũ mất đi, CSHT mới hình thành thì sớm hay muộn KTTT cũ sẽ
mất đi, KTTT mới ra đời.
Mâu thuẫn trong CSHT làm nảy sinh mâu thuẫn tương ứng trong KTTT
do vậy để giải quyết triệt để mâu thuẫn trong KTTT phải lấy việc giải quyết
mâu thuẫn trong CSHT làm nhân tố quyết định.
2. Sự tác động trở lại của KTTT đối với CSHT
- KTTT bảo vệ, duy trì, củng cố và phát triển CSHT sinh ra nó
- KTTT thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của CSHT, tuy nhiên sự
kìm hãm chỉ là nhất thời, sớm hay muộn nó cũng bị thay thế bằng KTTT
mới tiến bộ.
- Trong thời đại ngày nay, vai trò của KTTT càng tăng lên rõ rệt, càng
thể hiện là yếu tố có tác động mạnh mẽ đến tiền trình lịch sử. Tuy vậy, nếu
quá nhấn mạnh hoặc thổi phồng vai trò của KTTT phủ nhận tính tất yếu của
KT của đời sống XH sẽ rơi vào CNDT, chủ quan, duy ý chí. Nểu chỉ tuyệt
đối hóa vai trò quyết định của KT sẽ ko thấy được tác động tích cực của

KTTT cũng là sai lầm.
III. Vận dụng
Cải cách hành chính hiểu theo nghĩa hẹp là quá trình thay đổi có chủ
định nhằm cải thiện thể chế của nền hành chính, cơ cấu tổ chức và cơ chế
vận hành của bộ máy hành chính các cấp; và đội ngũ công chức hành chính
để nâng cao hiệu lực và hiệu quả của nền hành chính để phục vụ dân.
Cải cách HCQG là để làm cho bộ máy nhà nước là bộ phận chủ đạo
trong KTTT, nâng cao chất lượng và hiệu lực điều hành để phục vụ tốt hơn
cơ sở KT tức là sự vận hành của các mối QHSX, thúc đẩy sự phát triển của
LLSX theo định hướng XHCN.
Xây dựng hệ thống chính trị xã hội XHCN mang tính giai cấp công
nhân, do đội tiên phong của nó là DCS lãnh đạo, đảm bảo cho nhân dân thực
sự là người chủ xh. Các tổ chức, các bộ máy tạo thành hệ thống chính trị -
xh thực sự là cơ quan phục vụ cho con người, thực hiện lợi ích và quyền lực
của nhân dân. Mục tiêu chủ yếu của đổi mới hệ thống chính trị là nhằm thực
hiện tốt dân chủ XHCN, phát huy đầy đủ quyền làm chủ nhân dân. Trog hệ
thống chính trị, dưới sự lãnh đạo của Đảng CSVN, nhà nước có 1 vai trò rất
quan trọng. Củng cổ nâng cao vai trò của nhà nước có tác động trực tiếp và
mạnh mẽ đối với việc củng cố CSHT, làm cho nó phát triển theo đúng
đường lối của Đảng. Cải cách nền hành chính quốc gia là vấn đề trọng tâm
của việc xd,hoàn thiện nhà nước trong giai đoạn hiện nay bao gồm: đẩy
mạnh xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức theo pháp lệnh cán bộ, công
chức. Đã ban hành qui định về các chức danh, tiêu chuẩn công chức các
ngạch, bậc, thực hiện việc thi tuyển đối với công chức mới và thi nâng
ngạch với công chức trong bộ máy nhà nước, đào tạo, bồi dưỡng công chức
được chú trọng.
- Trước sự yếu kém của nền hành chính nước ta hiện nay, Chính phủ đã
đưa ra mục tiêu “xây dựng một nền hành chính dân chủ, trong sạch, vững
mạnh, chuyên nghiệp, hiện đại hóa, hoạt động có hiệu quả”. Trong một số
năm gần đây, cải cách hành chính (CCHC) đã được triển khai trên cả 4 nội

dung: cải cách thể chế; cải cách tổ chức bộ máy hành chính công; xây dựng
và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức.
- Tuy nhiên, tốc độ CCHC còn chậm, chưa nhất quán, hiệu quả còn
thấp. Nền hành chính có chuyển biến song vẫn tụt hậu so với tốc độ và yêu
cầu cải cách của nền hành chính hiện đại và hội nhập kinh tế quốc tế. Tình
trạng chung là nhiều cán bộ lãnh đạo và cán bộ công chức ngại thực hiện cơ
chế một cửa, do ngại bị bó buộc, ngại bị rút bớt quân số và lợi ích cục bộ…
Mặt khác, trình độ công chức, cán bộ ở bộ phận tiếp nhận và trả kết quả còn
nhiều bất cập, tỷ lệ đạt chuẩn thấp, nhiều nơi chỉ đạt 20-30%. Trên thực tế,
tuy là “một cửa” nhưng vẫn còn nhiều “ổ khóa” do không ít cán bộ, công
chức tiêu cực, nhũng nhiễu tạo ra nên người dân chưa hết phiền hà. Trong
khi đó, sự chỉ đạo thực hiện cải cách lại thiếu kiên quyết và nhất quán ở các
cấp, các ngành; tiền lương mới chỉ đáp ứng được 1/3 nhu cầu đời sống của
cán bộ, công chức. Hội nghị đã tập trung thảo luận các giải pháp đẩy mạnh
CCHC giai đoạn 2, từ 2006-2010.
- Ở Việt Nam, công cuộc đổi mới toàn diện đất nước được bắt đầu từ
năm 1986, tính đến nay đã gần 20 năm. Trong khoảng thời gian đó, đồng
thời với việc đổi mới về kinh tế thì cải cách hành chính cũng được tiến
hành. Cuộc cải cách hành chính được thực hiện từng bước thận trọng và đã
thu được nhiều kết quả rất đáng khích lệ. Cải cách hành chính đang thể hiện
rõ vai trò quan trọng của mình trong việc đẩy nhanh sự phát triển đất nước.
19
Câu 15: Vận dụng MQH biện chứng giữa CSHT và KTTT xã hội để
phân tích vai trò lãnh đao của ĐCSVN đối với sự phát triển xã hội
nước ta?
I. Định nghĩa
- CSHT là toàn bộ những QHSX hợp thành cơ cấu kinh tế của 1 HT KT-
XH nhất định trên đó XD lên KTTT.
CSHT bao gồm: QHSX thống trị (đại diện cho XH có giai cấp thống
trị), QHSX là tàn dư của XH trước để lại, QHSX là mầm mống của XH sau

(là QHSX của XH tương lai này sinh trong lòng XH cũ, mới hình thành).
Trong đó QHSX thống trị giữ vai trò quyết định.
- KTTT là toàn bộ những quan điểm tư tưởng, chính trị, pháp luật, triết
học, đạo đức, nghệ thuật và các thiết chế tương ứng như nhà nước, đảng
phái, giáo hội được hình thành trên cơ sở hạ tầng nhất định.
KTTT bao gồm nhiều yếu tố, mỗi yếu tố có đặc điểm, có qui luật phát
triển riêng nhưng giữa chúng có sự liên hệ, tác động qua lại lẫn nhau và đều
nảy sinh trên CSHT. Nhà nước chính là bộ phận có quyền lực mạnh nhất
của KTTT.
II. Quan hệ biến chứng giữa CSHT và KTTT
1. Cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng:
- CSHT nào thì KTTT đó
- Những thay đổi của CSHT sớm hay muộn cũng dẫn đến biến đổi
KTTT.
- CSHT cũ mất đi, CSHT mới hình thành thì sớm hay muộn KTTT cũ sẽ
mất đi, KTTT mới ra đời.
2. Sự tác động trở lại của KTTT đối với CSHT
- KTTT bảo vệ, duy trì, củng cố và phát triển CSHT sinh ra nó
- KTTT thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của CSHT, tuy nhiên sự
kìm hãm chỉ là nhất thời, sớm hay muộn nó cũng bị thay thế bằng KTTT
mới tiến bộ.
- Trong thời đại ngày nay, vai trò của KTTT càng tăng lên rõ rệt, càng
thể hiện là yếu tố có tác động mạnh mẽ đến tiền trình lịch sử. Tuy vậy, neus
quá nhấn mạnh hoặc thổi phồng vai trò của KTTT phủ nhận tính tất yếu của
KT của đời sống XH sẽ rơi vào CNDT, chủ quan, duy ý chí. Nểu chỉ tuyệt
đối hóa vai trò quyết định của KT sẽ ko thấy được tác động tích cực của
KTTT cũng là sai lầm.
III. Phân tích vai trò lãnh đạo của ĐCSVN đối với sự phát triển XH
của nước ta
- Ở Việt Nam, Đảng cộng sản chính là một yếu tố của KTTT. Đảng giữ

vai trò lãnh đạo đối với sự phát triển của xã hội nước ta. Mặc dù giữ vai trò
lãnh đạo, chỉ huy mọi hoạt động của xã hội nhưng không thể nào làm thay
đổi được tiến trình phát triển khách quan của xã hội.
- Thực tế, sự phát triển của xã hội nước ta đã chứng minh một cách rõ
rệt mối quan hệ biện chứng giữa CSHT và KTTT mà cụ thể ở đây là vai trò
lãnh đạo của đảng cộng sản với tư cách là một yếu tố của KTTT. Chúng ta
hãy lấy tình hình xã hội Việt Nam trước và sau đổi mới năm 1986 để phân
tích làm sáng tỏ.
+ Trước đổi mới: ta thấy rằng KTTT không phù hợp với CSHT. Cụ thể
CSHT còn ở một trình độ thấp, như ở trên đã nói CSHT là toàn bộ các
QHSX hợp thành cơ cấu kinh tế của một xã hội cụ thể. Trước đổi mới, học
tập theo mô hình kinh tế của các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu, tiêu
biểu là Liên Xô, đảng cộng sản Việt Nam chủ trương đưa nước ta đi lên chủ
nghĩa cộng sản, bỏ qua giai đoạn TBCN. Do vậy, trong nền kinh tế, chúng ta
thực hiện chế độ kinh tế bao cấp với QHSX là quan hệ sở hữu tập thể về tư
liệu sản xuất. Nền kinh tế tồn tại các thành phần kinh tế nhà nước và tập thể,
các hợp tác xã làm ăn theo mô hình tập thể ra đời.
Tuy nhiên, sau một thời gian dài áp dụng nền kinh tế bao cấp, nước ta
rơi vào sự khủng hoảng trầm trọng về kinh tế. Nhưng Hợp tác xã làm ăn tập
thể làm ăn không có lãi, nhà nước lại bao cấp mọi mặt, nên không phát huy
được sức sáng tạo của cá nhân. Điều này cho thấy rằng, KTTT của chúng ta
đã phát triển không phù hợp với CSHT. Để thoát khỏi cuộc khủng hoảng về
kinh tế, đòi hỏi Đảng cộng sản phải có những điều chỉnh hợp lý.
+ Cuối những năm 1980, các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu rơi vào
cuộc khủng hoảng nghiêm trọng và phải tiến hành các cuộc cải cách, cải tổ.
Đứng trước tình hình ấy, Đảng cộng sản Việt Nam đã xem xét lại đường lối
của mình. Chúng ta vẫn kiên định đi theo con đường CNXH mà Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã lựa chọn. Tuy nhiên, để có thể đi tới Xã hội cộng sản,
chúng ta chỉ bỏ qua Chế độ Tư bản chủ nghĩa chứ không bỏ qua giai đoạn
Tư bản chủ nghĩa. Vì đây là giai đoạn để chúng ta phát triển tiềm lực kinh

tế. Nền kinh tế của chúng ta được xác định là nền kinh tế thị trường, định
hướng xã hội chủ nghĩa, dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam. Đó
là nền kinh tế với nhiều thành phần kinh tế khác nhau, ở đó tồn tại ba hình
thức sở hữu về tư liệu sản xuất đó là sở hữu toàn dân, tập thể và tư nhân. Sự
tồn tại nền kinh tế nhiều thành phần ở Việt Nam trong giai đoạn quá độ lên
CNXH là một tất yếu khách quan. Bởi vì thời kỳ quá độ ở nước ta, do trình
độ lực lượng sản xuất còn rất thấp, tồn tại nhiều thang bậc khác nhau, lại
phân bố không đều giữa các ngành, vùng… nên tất yếu tồn tại nhiều hình
thức sở hữu tư liệu sản xuất, nhiều thành phần kinh tế. Hơn nữa, sự tồn tại
nền kinh tế nhiều thành phần có có vai trò to lớn.
Như thê, Đảng cộng sản đã có những điều chỉnh để cho KTTT có thể
phù hợp với CSHT.
Ngược lại, CSHT quyết định đối với KTTT do vậy, Đảng phải có những
chính sách về luật pháp, chính trị cũng như đạo đức và nghệ thuật phù hợp
với CSHT đã có.
Sự linh hoạt động sự lãnh đạo của ĐCS khiến cho nước ta vượt qua
được sự khủng hoảng về kinh tế, và đạt được nhiều khởi sắc trên nhiều lĩnh
vực. Sự phát triển của xã hội ta trong những năm qua đã khẳng định sự đúng
đắn trong đường lối lãnh đạo của đảng.
20
Câu 16: Phân tích luận điểm của Mác “Tôi coi sự phát triển các
hình thái KT- XH là 1 quá trình lịch sử tự nhiên?” Ý nghĩa phương
pháp luận của luận điểm này?
1. Định nghĩa HT KT - XH
HT KTXH là một phạm trù của CNDV lịch sử dùng để chỉ xh ở từng
giai đoạn phát triển lịch sử nhất định, với những QHSX của nó thích ứng
với LLSX ở một trình độ nhất định và với một kiến trúc thượng tầng được
xd trên những QHSX đó.
2. Sự phát triển của các HT KTXH là 1 quá trình lịch sử tự nhiên.
Phân tích tính liên tục của LLSX (thấp đến cao) ta có 5 HT KTXH: CS

nguyên thủy, CHNL, Phong kiến, TBCN, XHCN.
- Sự vận động, phát triển và thay thế nhau của các HTKTXH ko tách rời
nhau mà có quan hệ biện chứng với nhau hình thành nên những quy luật
khách quan, phổ biến của XH, trong đó quy luật về sự phù hợp QHSX với
trình độ của LLSX giữ vai trò quyết định. Những QHSX lỗi thời được thay
thế bằng QHSX mới cao hơn kéo theo sự thay đổi của KTTT, do đó HT
KTXH cũ = HTKTXH mới cao hơn, tiến bộ hơn. Các quá trình diễn ra theo
qui luật khách quan, không theo ý muốn chủ quan của con người, chính do
sự tác động của các qui luật này mà các HTKTXH vận động và phát triển
thay thế nhau từ thấp đến cao như 1 quá trình lịch sử tự nhiên.
- Theo qui luật chung thì sự phát triển theo tuần tự từ thấp đến cao
nhưng thực tế thì diễn ra ko hoàn toàn như vậy vì mỗi dân tộc có quá trình
lịch sử cụ thể, vô cùng phong phú, có hàng loạt những yếu tố tác động làm
cho quá trình lịch sử đa dạng và thường xuyên biến đổi.
Một quốc gia trong tiến trình phát triển của mình có thể bỏ qua một chế
độ này để lên một chế độ xã hội khác cao hơn (lấy ví dụ đối với lịch sử thế
giới và Việt Nam).
VD: Nước Mỹ đi lên CNTB không trải qua chế độ PK, chính vì những
điều đó khi có những tiền đề lịch sử nhất định trong thời đại ngày nay, một
nước có thể bỏ qua chế độ TBCN, phát triển theo định hướng XHCN
3. Ý nghĩa
- Học thuyết M-L về hình thái KTXH vạch ra nguồn gốc, động lực bên
trong của sự phát triển xh, chỉ ra nguyên nhân và cơ sở cho sự xuất hiện và
biến đổi của các hiện tượng xh, đặt cơ sở cho các khoa học xh, biến khoa
học xh thành 1 KH thực sự, khắc phục mọi quan điểm duy tâm, tôn giáo về
lịch sử.
- Học thuyết HTKTXH trang bị cho con người phương pháp khoa học
để nghiên cứu sự phát triển của XH qua các chế độ xh khác nhau, hiểu rõ cơ
cấu chung của 1 HT KTXH và những qui luật chi phối sự vận động và phát
triển của XH.

- Học thuyết là cơ sở lý luận cho việc hoạch định đường lối cách mạng
của các ĐCS và công nhân quốc tế, đó là cơ sở cho sự lựa chọn con đường
quá độ lên CNXH và việc XD đường lối cách mạng XHCN ở VIệt Nam.
Câu 17: Vận dụng lý luận HT KTXH của Mác, phân tích tính tất
yếu của việc định hướng con đường phát triển xã hội nước ta theo
CNXH, bỏ qua chế độ TBCN?
1. Định nghĩa HT KT - XH
HT KTXH là một phạm trù của CNDV lịch sử dùng để chỉ xh ở từng
giai đoạn phát triển lịch sử nhất định, với những QHSX của nó thích ứng
với LLSX ở một trình độ nhất định và với một kiến trúc thượng tầng được
xd trên những QHSX đó
2. Vận dụng
Lý luận HT KTXH đã vạch ra cấu trúc và các qui luật chung nhất trong
sự vận động của xh là phải trải qua các hình thái KTXH từ thấp đến cao (CS
nguyên thủy, CHNL, Phong kiến, TBCN, XHCN). Tuy nhiên khi vận dụng
lý luận này trong từng trường hợp cụ thể cần phải tính đến hoàn cảnh lịch sử
cụ thể mà có thể “bỏ qua” một hình thái KTXH này, nhảy vọt lên HTKTXH
cao hơn nếu đủ điều kiện.
Việc bỏ qua một hình thái KT-XH nào đó do những yếu tố bên trong
quyết định, song đồng thời còn tuỳ thuộc ở sự tác động của từng nhân tố bên
ngoài.
Ở nước ta cũng có những tiền đề và điều kiện cho phép chúng ta lựa
chọn con đường XHCN, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để
quá độ lên CNXH, nhanh chóng thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu, làm cho đất
nước ngày càng phồn vinh.
Đảng ta chỉ rõ: nước ta quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN, tức
là bỏ qua việc xác lập thống trị của quan hệ sản xuất TBCN và KTT TBCN.
Có nghĩa là không để hình thành giai cấp tư sản và sự thống trị của nó đối
với đời sống chính trị, kinh tế xã hội. Tuy nhiên quá trình này phải trải qua
một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều chặng đường, nhiều hình thức tổ chức

kinh tế, xã hội có tính chất quá độ.
Từ 1 xh vốn là thuộc địa nửa phong kiến, LLSX yếu kém, lại trải qua
hàng chục năm chiến tranh, hậu quả để lại rất nặng nề. Các thế lực thù địch
lại tìm mọi cách phá hoại sự nghiệp XD CNXH và nền độc lập dân tộc của
nhân dân ta. Theo lý luận này, các HT KTXH vận động theo qui luật cơ bản
về sự phù hợp giữa QHSX và LLSX, đưa đến sự phát triển tuần tự của các
HTKTXH TBCN đó là qui luật phổ biến, nhưng dựa trên phép biện chứng
của cái phổ biến và cái đặc thù, dựa vào kinh nghiệm lịch sử, đường lối nói
trên vẫn là phù hợp qui luật, vì nước ta đã có những điều kiện nhát định cho
phép:
• Điều kiện bên ngoài: Cuộc CM KH-CN đã đem lại những thành tựu
to lớn làm cho LLSX trên thế giới tăng lên gấp bội; xu hướng toàn cầu hóa
và hội nhập kinh tế cho phép chúng ta có thể khai thác thành tựu của các
nước để sử dụng các thành tựu đó như những bước trung gian về kinh tế.
• Điều kiện trong nước:
+ ĐCSVN lãnh đạo từ hơn 70 năm nay dựa trên nền tảng của CN Mác
Lê và tư tưởng HCM có đủ bản lĩnh để lãnh đạo đất nước bỏ qua thời kỳ
quá độ.
+ Chúng ta có 1 nhà nước kiểu mới (nhà nước của dân, do dân, vì dân)
và 1 hệ thống chính trị đủ mạng để đưa nền kinh tế đất nước theo định
hướng XHCN.
21
Câu 18: Phân tích nội dung những nhận thức về CNXH và con
đường đi lên CNXH ở VN
1. Nội dung những nhận thức về CNXH
- Dự báo của C.Mac và Lênin về CNXH
C.Mác và Ph.Ăngghen đã vận dụng lý luận HTKTXH để phân tích xã
hội hiện thực là xã hội tư bản. Hai ông tìm ra quy luật phát sinh, phát triển
và diệt vong của nó, đồng thời dự báo về sự ra đời HTKTXH mới cao hơn –
hình thái cộng sản chủ nghĩa – mà giai đoạn đầu là CNXH.

C.Mác và Ăngghen đánh giá cao vai trò lịch sử của CNTB trong việc
phát triển LLSX, tạo ra nền đại công nghiệp cơ khí và gắn liền với nó là giai
cấp vô sản.
Chính sự phát triển của nền đại công nghiệp làm cho nền sản xuất có
tính chất xã hội mâu thuẫn với chế độ chiếm hữu tư nhân TBCN. Sự phát
triển của LLSX có tính chất xã hội đòi hỏi phải “thủ tiêu mâu thuẫn ấy”,
phải “tự giải thoát khỏi cái tính chất tư bản của chúng, đến chỗ thực tế thừa
nhận tính chất của chúng là những LLSX xã hội”.
Điều đó có nghĩa là phải xóa bỏ chế độ chiếm hữu tư nhân TBCN, xác
lập chế độ sở hữu có tính chất xã hội – chế độ công hữu. Do đó, một xã hội
mới ra đời thay thế CNTB – đó là CNXH, chủ nghĩa cộng sản.
Để đi đến CNXH, CNCS, tất yếu phải thông qua CMVS.
Trong khi dự báo CMVS trước hết nổ ra ở các nước TB phát triển, 2 ông
cũng cho rằng, khi giai cấp vô sản ở các nước tiên tiến đã giành được chính
quyền, với kinh nghiệm và sự giúp đỡ của gc vô sản ở các nước đó, các
nước lạc hậu có thể phát triển theo con đường “rút ngắn”, từng bước lên
CNXH, CNCS không qua giai đoạn phát triển TBCN.
LêNin phát hiện ra quy luật phát triển không đều của CNTB, từ đó đi
đến kết luận về CMVS, về sự thắng lợi của CNXH. Theo LêNin sự phát
triển khôn đều về kinh tế và chính trị là quy luật tuyệt đối của CNTB. Do
đó, chúng ta thấy rằng CNXH có thể thắng trước hết là trong một số ít nước
TBCN hoặc thậm chí chỉ trong 1 nước TBCN.
Dự đoán của LêNin đã thành hiện thực khi CMT10 Nga thắng lợi.
Lúc này, LêNin tiếp tục phát triển sáng tạo lý luận về con đường đi lên
CNXH. Ông chỉ ra 2 con đường cơ bản quá độ lên CNXH:
Con đường thứ nhất: quá độ trực tiếp lên CNXH. Đây là con đường tiến
lên CNXH đối với các nước TB phát triển
Con đường thứ hai: quá độ lên CNXH thông qua nhiều khâu trung gian,
nhiều bước quá độ. Đây là con đường tiến lên CNXH đối với các nước lạc
hậu, kinh tế kém phát triển.

- CNXH theo mô hình kế hoạch hóa tập trung và vai trò lịch sử của
mô hình đó
Năm 1924, Lênin mất. Từ đó Liên Xô chuyển dần sang xây dựng
CNXH theo mô hình kế hoạch hóa tập trung. Mô hình đó có những đặc
trưng sau:
+ Dựa trên chế độ công hữu về TLSX chủ yếu dưới hai hình thức: toàn
dân và tập thể.
+ Việc sản xuất cái gì, như thế nào, phân phối cho ai, giá cả như thế nào
được quyết định từ nhà nước và mang tính pháp lệnh.
+ Phân phối mang tính chất bình quân và trực tiếp bằng hiện vật là chủ
yếu, xem nhẹ các quan hệ hàng hóa – tiền tệ.
+ Nhà nước quản lý bằng mệnh lệnh hành chính là chủ yếu, xem nhẹ các
biện pháp kinh tế.
Trong điều kiện Liên Xô bị các nước Tư bản bao vây, mô hình đó đã có
vai trò to lớn trong việc huy động sức người, sức của vào sự nghiệp xây
dựng đất nước.
Chỉ trong một thời gian ngắn Liên Xô đã thực hiện thắng lợi sự nghiệp
công nghiệp hóa.
Đến CTTG 2 nổ ra, Liên Xô phải tiến hành cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ
đại. Trong điều kiện đó, mô hình kế hoạch hóa tập trung lần nữa phát huy
vai trò tích cực trong việc huy động sức người, sức của cho chiến tranh.
Từ những thành tựu mà Liên Xô đạt được, có quan điểm cho rằng, mô
hình kế hoạch hóa tập trung là mô hình kinh tế của CNXH, còn kinh tế thị
trường là mô hình của CNTB.
Nhưng sau đó, mô hình kế hoạch hóa tập trung đã bộc lộ những hạn chế
như: không khai thác được các năng lực sản xuất trong nước, không phát
huy được nhiệt tình và tính chủ động sáng tạo của con người trong quá trình
lao động sản xuất, không đẩy nhanh được tiến bộ khoa học công nghệ,
không mở rộng được quan hệ kinh tế quốc tế
Từ đó, năng suất lao động xã hội thấp, hàng hóa nghèo nàn và chất

lượng kém, lại đẻ ra bộ máy hành chính quan liêu, chủ quan duy ý chí
Điều đó chứng tỏ mô hình đó không đáp ứng yêu cầu phát triển của lực
lượng sản xuất hiện đại, nhất là khi cuộc cách mạng khoa học và công nghệ
đang phát triển mạnh mẽ.
Mô hình đó không còn thích hợp nhưng do chậm nhận thức và đổi mới
đã dẫn đến khủng hoảng kinh tế - xã hội trong hệ thống XHCN.
Đứng trước khủng hoảng, LX tiến hành cải tổ nhưng đã mắc phải sai
lầm dẫn đến sự sụp đổ của CNXH ở LX và các nước Đông Âu.
Thực chất sự sụp đổ đó là sụp đổ của mô hình CNXH tập trung, quan
liêu, bao cấp.
- Những biến đổi của thời đại và vấn đề quá độ lên CNXH
Trong lúc CNXH bị khủng hoảng rồi sụp đổ ở LX và Đông Âu, thì
CNTB lại đạt được nhiều thành tựu to lớn về kinh tế, khoa học – công nghệ
cũng như nhiều mặt khác của đời sống xã hội.
Từ đó, có quan điểm phủ nhận CNXH, lý tưởng hóa CNTB. Vì thực
chất quan điểm đó đã đồng nhất CNXH với mô hình tập trung, quan liêu,
bao cấp; đồng nhất những thành tựu đạt được của nhân loại với CNTB.
Như vậy, đây là sự lẫn lộn giữa hiện tượng với bản chất; giữa ngẫu
nhiên với tất yếu của lịch sử.
Sự sụp đổ của CNXH ở LX và Đông Âu chỉ là sự sụp đổ của một mô
hình cụ thể chứ không phải sự sụp đổ của CNXH với tính cách là 1 xã hội
cao hơn CNTB.
Hơn nữa, việc xây dựng 1 xã hội mới là 1 việc hết sức khó khăn, thậm
chí đổ vỡ tạm thời là điều khó tránh khỏi. Những đổ vỡ đó sẽ mang lại
những kinh nghiệm để nhận thức đúng đắn hơn về CNXH và con đường đi
lên CNXH.
Ngày nay, những thành tựu mà CNTB đạt được gắn liền với cuộc cách
mạng khoa học công nghệ đang là tiền đề vật chất cho sự ra đời của CNXH
khi vai trò lịch sử của CNTB chấm dứt.
Sự ra đời của CNXH là kết quả hợp quy luật do sự phát triển của CNTB

tạo ra. Vì thế, vấn đề quá độ lên CNXH vẫn là xu hướng của thời đại. Vấn
đề đó được đặt ra ở các nước khác nhau với những mức độ khác nhau và sẽ
được giải quyết phù hợp với điều kiện cụ thể của mỗi nước.
2. Con đường đi lên CNXH ở VN
a. Quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN ở VN
Việc Đảng ta luôn kiên định con đường tiến lên CNXH là phù hợp với
xu hướng của thời đại và điều kiện cụ thể của nước ta. Điều đó thể hiện ở
chỗ:
Thứ nhất, mặc dù CNXH bị khủng hoảng và sụp đổ, nhưng đó là sự sụp
đổ của mô hình CNXH tập trung, quan liêu, bao cấp chứ không phải CNXH
với tính cách là 1 xã hội cao hơn CNTB.
CNTB mặc dù chưa hết vai trò lịch sử và đang đạt được nhiều thành tựu
to lớn nhưng chính những thành tựu đó lại trở thành cái phủ định CNTB và
bị thay thế bằng xã hội khác cao hơn – CNXH, CNCS.
Vì vậy, lựa chọn con đường tiến lên CNXH là phù hợp với xu hướng
của thời đại
Thứ hai, độc lập dân tộc gắn liền với CNXH là con đường mà Đảng,
Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn từ năm 1930. Qua thời gian dài thử
thách, mặc dù còn vấp phải nhiều sai lầm nhưng con đường đó đã mang lại
nhiều thành tựu về kinh tế, văn hóa, xã hội và nó vẫn được đại đa số quần
chúng nhân dân vẫn tin tưởng.
Đảng ta đã xác định: “xây dựng CNXH bỏ qua chế độ TBCN, tạo ra sự
biến đổi về chất của xã hội trên tất cả các lĩnh vực là sự nghiệp rất khó khăn,
phức tạp, cho nên phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều chặng
đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội có tính chất quá độ. Trong
22
các lĩnh vực của đời sống xã hội diễn ra sự đan xen và đấu tranh giữa cái
mới và cái cũ”.
b. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ
quá độ tiến lên CNXH ở VN

Nước ta tiến lên CNXH từ một nền kinh tế phổ biến là sản xuất nhỏ, lao
động thủ công là chủ yếu, cái thiếu thốn nhất của chúng ta là chưa có nền
đại công nghiệp. Vì vậy, chúng ta phải tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại
hóa.
Công nghiêp hóa hiện đại hóa ở nước ta nhằm xây dựng cơ sở vật chất
kỹ thuật cho CNXH. Đó là nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kỳ quá độ
tiến lên CNXH ở nước ta.
Hiện nay, đất nước ta đang đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện
đại hóa, phấn đấu đến năm 2020 về cơ bản trở thành một nước công nghiệp.
Đây là yếu tố có ý nghĩa quyết định chống lại nguy cơ tụt hậu xa hơn về
kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới.
Thực hiện thắng lợi sự nghiệp CNH, HĐH là 1 trong những nhân tố có ý
nghĩa quyết định thắng lợi sự nghiệp xây dựng CNXH ở nước ta.
c. Kết hợp giữa phát triển lực lượng sản xuất với xây dựng quan hệ
sản xuất phù hợp trong thời kỳ quá độ tiến lên CNXH ở VN
Trong sự nghiệp xây dựng CNXH ở nước ta, Đảng đã khẳng định: “Phát
triển lực lượng sản xuất hiện đại gắn liền với xây dựng quan hệ sản xuất
mới phù hợp trên cả 3 mặt sở hữu, quản lý và phân phối”
Phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất ở nước ta, Đảng chủ
trương sử dụng “nhiều hình thức sở hữu về TLSX, nhiều thành phần kinh
tế”. Đồng thời, “thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền
kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường, có sự
quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN; đó chính là nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN”.
Xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN vừa
phù hợp với xu hướng phát triển của thời đại, vừa phù hợp với yêu cầu phát
triển lực lượng sản xuất ở nước ta, với yêu cầu của quá trình xây dựng nền
kinh tế độc lập, tự chủ kết hợp với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.
d. Kết hợp giữa kinh tế với chính trị và các mặt khác của đời sống
xã hội trong thời kỳ quá độ tiến lên CNXH ở VN

Xuất phát từ mối quan hệ giữa kinh tế với chính trị và các mặt khác của
đời sống xã hội mà lý luận hình thái kinh tế xã hội đã chỉ ra, trong quá trình
xây dựng CNXH ở nước ta, gắn liền với phát triển kinh tế, xây dựng nền
kinh tế thị trường định hướng XHCN, đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước phải
không ngừng đổi mới hệ thống chính trị, nâng cao vai trò lãnh đạo và sức
chiến đấu của Đảng; xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân
và vì dân; nâng cao vai trò của các tổ chức quần chúng trong sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ Quốc.
Đồng thời với phát triển kinh tế phải phát triển văn hóa, xây dựng nền
văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc nhằm không ngừng nâng cao đời
sống tinh thần của nhân dân; phát triển giáo dục, đào tạo nhằm nâng cao dân
trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài, và theo quan điểm của Đảng ta,
đó là “quốc sách hàng đầu”; giải quyết tốt các vấn đề xã hội, thực hiện công
bằng và dân chủ trong đời sống xã hội.
Câu 19: Quan điểm của CN Mác Lê về mqh giữa vấn đề giai cấp,
dân tộc, nhân loại và sự vận dụng của ĐCSVN trong giai đoạn cách
mạng hiện nay?
1. Khái niệm
1.1. Giai cấp
- Giai cấp là những tập đoàn người to lớn khác nhau về địa vị của họ
trong một hệ thống sản xuất xã hội nhất định trong lịch sử, khác nhau về
quan hệ của họ. Những quan hệ này thường được pháp luật quy định và thừa
nhận đối với tư liệu sản xuất, về vai trò trong tổ chức lao động xã hội. Dẫn
đến khác nhau về cách thức hưởng thụ và về phần của cải của xã hội mà họ
được hưởng.
- Giai cấp là những tập đoàn người mà tập đoàn này có thể chiếm đoạt
lao động của tập đoàn khác, do chỗ các tập đoàn có địa vị khác nhau trong
một chế độ kinh tế xã hội nhất định.
- Nguồn gốc chủ yếu dẫn đến sự hình thành giai cấp là do sự xuất hiện
chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất.

1.2 Dân tộc
- Khái niệm:
+ Dân tộc là cộng đồng xã hội- tộc người ổn định bền vững, là sự kết
tinh độc đáo các thể cộng đồng về ngôn ngữ, về lãnh thổ, về sinh hoạt kinh
tế, chính trị, tâm lý, tính cách và đời sống văn hóa.
+ Dân tộc là hình thức cộng đồng gắn liền với xã hội có giai cấp, có nhà
nước và các thể chế chính trị. DT có thể từ một bộ tộc phát triển lên, song
đa số trường hợp được hình thành trên cơ sở nhiều bộ tộc hợp nhất lại.
- Đặc trưng:
+ Cộng đồng về ngôn ngữ.
+ Cộng đồng về lãnh thổ.
+ Cộng đồng về kinh tế.
+ Cộng đồng về văn hóa, tâm lý, tính cách.
Các quan hệ cộng đồng này quan hệ nhân quả với nhau, tác động lẫn
nhau, kết hợp chặt chẽ trong lịch sử lâu dài hình thành và phát triển cộng
đồng.
1.3 Nhân loại
Nhân loại là khái niệm chỉ toàn thể công đồng người sống trên trái đất,
không phân biệt dân tộc, chủng tộc, tôn giáo, g/c.
2. Mqh giữa dân tộc, giai cấp và nhân loại
* MQH giữa giai cấp và dân tộc:
Giai cấp và dân tộc là những phạm trù chỉ các quan hệ xã hội khác nhau,
mỗi nhân tố có vai trò lịch sử trong sự phát triển xã hội. Trong lịch sử nhân
loại, có khi giai cấp có trước dân tộc hàng nghìn năm. Khi giai cấp mất đi,
dân tộc vẫn tồn tại lâu dài.
- Vai trò g/c đối với dân tộc:
+ Quan hệ g/c xét cho cùng quy định sự hình thành dân tộc, xu hướng,
bản chất xá hội , tính chất quan hệ giữa các dân tộc.
+ Áp bức g/c là nguyên nhân căn bản và sâu xa của áp bức dân tộc.
+ Nhân tố g/c là nhân tố cơ bản trong phong trào giải phóng dân tộc.

- Vai trò dân tộc đối với g/c:
+ Dân tộc là địa bàn trực tiếp của các quá trình kinh tế- xã hội, các cuộc
đấu tranh giai cấp, các biến cố chính trị, các cuộc cách mạng xã hội.
+ Vấn đề dân tộc là vấn đề hàng đầu của cmvs.
+ Áp bức dân tộc tác động mạnh mẽ tới áp bứcg/c, nuôi dưỡng áp bức
g/c, làm sâu sắc thên áp bức g/c.
+ Nếu áp bức giai cấp là nguyên nhân sâu xa cua áp bức dân tộc thì áp
bức dân tộc tác động mạnh mẽ trở lại áp bức giai cấp. Nó nuôi dưỡng áp
bức giai cấp và làm sâu sắc thêm áp bức giai cấp.
+ Dân tộc là cơ sở của g/c, nuôi dưỡng đấu tranh g/c, tạo cơ sở sức
mạnh g/c.
- Giai cấp tồn tại trong lòng dân tộc, tác động trở lại theo hai hướng tích
cực và tiêu cực
- Đấu tranh giai cấp diễn ra trên địa bàn dân tộc, thúc đẩy dân tộc phát
triển. Mặt khác, nội dung, tính chất của cuộc đấu tranh giai cấp mang đậm
dấu ấn dân tộc.
23
- Phong trào dân tộc tiến bộ góp phần thúc đẩy đấu tranh giai cấp.
Ngược lại, phong trào dân tộc lạc hậu sẽ kìm hãm đấu tranh giai cấp.
* MQH dân tộc và nhân loại:
- Cộng đồng dân tộc thuộc về cộng đồng nhân loại
- Nhu cầu, lợi ích nhân loại được thể hiện qua từng dân tộc
- Việc thực hiện lợi ích dân tộc tác động đến thực hiện lợi ích chung
toàn nhân loại
- Trình độ phát triển của văn minh nhân loại thúc đẩy dân tộc phát triển
* MQH giữa giai cấp và nhân loại:
- Sự phát triển của các giai cấp, cá nhân gắn liền với sự phát triển của
toàn nhân loại.
+ Con người là một thực thể sinh vật, xã hội do đó, nhân loại là cộng
đồng của những thực thể sinh vật- xã hội.

Các cá nhân, các dân tộc, các gai cấp không thể tồn tại và phát triển
được nếu tách rời sự tồn tại và phát triển của nhân loại.
Trong mỗi thời kỳ lịch sử nhất định, giai cấp cách mạng, tiên tiến là giai
cấp đại diện cho dân tộc và nhân loại thời kỳ lịch sử đó. Nếu xem lợi ích
toàn nhân loại là lợi ích của mọi giai cấp thì quan hệ giữa lợi ích nhân loại
và lợi ích giai cấp là quan hệ giữa cái chung và cái riêng.
Trong xã hội có giai cấp, lợi ích nhân loại không tồn tại một cách cô lập
ngoài lợi ích giai cấp. Những vấn đề toàn cầu được người ta xem xét và giải
quyết khác nhau, trong đó, sự chi phối của lợi ích giai cấp đóng vai trò quan
trọng nhất.
+ Lợi ích nhân loại và lợi ích giai cấp có khi thống nhất với nhau, có khi
mâu thuẫn với nhau.
Đối với các giai cấp lạc hậu, đã mất vai trò lịch sử thì lợi ích giai cấp về
căn bản là mâu thuẫn với lợi ích nhân loại. Đối với giai cấp tiến bộ thì lợi
ích giai cấp về căn bản là phù hợp với lợi ích nhân loại.
- Trong xã hội có giai cấp, “cái giai cấp” là phương tiện để thực hiện
mục tiêu cuối cùng là “cái nhân loại”.
+ Mục tiêu cuối cùng là vì con người, giải phóng con người khỏi áp bức
bóc lột, vì hạnh phúc của con người. Trong xã hội có giai cấp, mục tiêu này
phải thông qua cuộc đấu tranh của những tập đoàn người có lợi ích cơ bản
đối lập nhau. Đấu tranh giai cấp vừa là phương thức vừa là động lực trong
sự phát triển của xã hội và con người.
+ Một xã hội trong đó tất cả mọi người đều có điều kiện phát triển toàn
diện những năng lực bản chất của mình, với sự phát triển của mọi người là
điều kiện cho sự phát triển của tất cả mọi người. Vì vậy để giải quyết vấn đề
nhân loại một cách triệt để không thể không giải quyết vấn đề giai cấp.
- Ngày nay, lợi ích của giai cấp công nhân thống nhất với lợi ích của
toàn dân tộc và lợi ích của toàn nhân loại.
+ Trong thời đại ngày nay, vấn đề nhân loại đặt ra yêu cầu bình đẳng
không chỉ còn giới hạn trong những quyền lợi chính trị mà là mở rộng đến

địa vị của mỗi cá nhân, phải bình đẳng hoàn toàn nghĩa là bình đẳng cả ở
lĩnh vực kinh tế và xã hội. Do đó, giai cấp công nhân chỉ được giải phóng
khi mà tiêu diệt mọi điều kiện sinh hoạt phi nhân tính của xã hội hiện đại,
nghĩa là xóa bỏ mọi hình thức áp bức bọc lột.
- Đấu tranh giai cấp thắng lợi thúc đẩy nhân loại tiến lên
- Trình độ phát triển của nhân loại, hoàn cảnh thời đại sẽ ảnh hưởng tới
quá trình đấu tranh giai cấp ở từng nước theo cả hai hướng tích cực và tiêu
cực.
- Việc giải quyết vấn đề toàn nhân loại luôn bị chi phối bởi lợi ích các
giai cấp.
- Nhân loại phát triển tạo điều kiện cho việc giải quyết vấn đề dân tộc và
giai cấp.
2. Sự vận dụng của Đảng ta
- Nhân tố quan trọng đưa cách mạng Việt Nam đến thắng lợi vẻ vang đó
là ĐCSVN đứng đầu là HCM đã giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa giai
cấp, dân tộc và nhân loại trong từng điều kiện lịch sử cụ thể. Nét đặc biệt
nhất của việc giải quyết mối quan hệ đó là gắn liền độc lập dân tộc với chủ
nghĩa xã hội. Mối liên hệ này xuyên suốt tiến trình cách mạng Việt Nam, chi
phối các mặt khác của cuộc cách mạng.
- Để tận dụng thời cơ, đẩy lùi thách thức, đưa sự nghiệp cách mạng Việt
Nam tiến lên, vấn đế quan hệ giai cấp, dân tộc, nhân loại ở Việt Nam cần
đảm bảo những nội dung sau:
+ Giải quyết tốt mối quan hệ giai cấp với đoàn kết dân tộc.
+ Giải quyết mối quan hệ giữa xây dựng và phát triển nền kinh tế thị
trường với đoàn kết dân tộc
+ Giải quyết mối quan hệ giữa giữ vững độc lập tự chủ với mở rộng
quan hệ hợp tác quốc tế, phát huy sức mạnh nội lực của dân tộc với tranh
thủ sức mạnh của thời đại.
+ Đảng ta luôn kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH trên nền tảng
CN Mác Lê tư tưởng HCM

+ Luôn kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, kết hợp phát
huy nội lực và mở rộng hợp tác quốc tế
+ Thực hiện đại đoàn kết dân tộc:
Không phân biệt dân tộc, tôn giáo, giai cáp, tầng lớp, lứa tuổi, trog
Đảng, ngoài Đảng.
Giải quyết hài hòa các mối quan hệ lợi ích giữa các dân tộc, các giai
cấp, tầng lớp xã hội.
24
Câu 20: Quan niệm của CN Mác Lê về nguồn gốc và bản chất nhà
nước? Nêu quá trình hình thành tư tưởng về nhà nước pháp quyền
trong lịch sử tư tưởng? Những đặc trưng của nhà nước pháp quyền?
1. Nguồn gốc và bản chất nhà nước
1.1 Nguồn gốc nhà nước:
NN xuất hiện khi xã hội có sự phân chia giai cấp: chế độ tư hữu ra đời
dẫn đến phân chia giai cấp, mâu thuẫn giai cấp xuất hiện, dẫn đến đấu tranh
giai cấp. Giai cấp chủ nô lập ra bộ máy bạo lực để trấn áp bộ máy nhà nước.
Nhà nước đầu tiên trong lịch sử là nhà chiếm hữu nô lệ.
Định nghĩa nhà nước: NN là sản phẩm biểu hiện của những mâu thuẫn
giai cấp ko thể điều hòa được.
* Đặc trưng của nhà nước:
- Bản chất của NN là nền chuyên chính của 1 giai cấp này đối với 1 giai
cấp khác và đối với toàn xã hội
- Nhà nước quản lý dân cư theo lãnh thổ và thực hiện quyền quản lý của
mình trong phạm vi lãnh thổ.
- NN là cơ quan quyền lực công cộng. NN ban hành luật pháp và cưỡng
chế mọi thành viên trong xã hội thực hiện.
- Hình thành hệ thống thuế khóa để nuôi bộ máy nhà nước
1.2. Bản chất của nhà nước
+ Là nền chuyên chế của g/c này đối với g/c khác và đối với toàn xã hội.
Nói khác đi, nhà nước là tổ chức trính trị của g/c thống trị về kinh tế nhằm

bảo vệ trật tự hiện hành phù hợp với lợ ích của mình và đàn áp sự phản
kháng của các g/c khác.
+ Trong xã hội có g/c đối kháng, g/c nào thống trị về kinh tế sẽ nắm
chính quyền nhà nước trong tay vì chỉ có g/c ấy mới có khả năng vật chất,
để tổ chức, duy trì bộ máy nhà nước. G/c bị trị xét về bản chất không có nhà
nước.
+ Xét về bản chất, nhà nước chỉ là công cụ chuyên chính của một g/c,
không có nhà nước đứng trên g/c, đứng ngoài g/c, là công cụ bảo vệ lợi ích
của g/c thống trị về kinh tế nhằm trấn áp các g/c khác và toàn xã hội.
2. Quá trình hình thành tư tưởng về nhà nước pháp quyền trong lịch
sử tư tưởng
Nhà nước pháp quyền là một hình thức tổ chức nhà nước đặc biệt mà ở
đó có sự ngự trị cao nhất của pháp luật với nội dung thực hiện quyền lực
thuộc về nhân dân.
* Từ thời cổ đại, mầm mống về tư tưởng NNPQ đã xuất hiện cả ở
phương Đông và ở phương Tây.
- Ở phương Đông, đó được xem là tư tưởng pháp trị của các nhà pháp
gia như: Quản Trọng, Thương Ưởng, Hàn Phi Quản Trọng chủ trương đề
cao "Luật, lệnh, hình, chính", vua phải giữ pháp, "không vì vua muốn mà
thay đổi lệnh, lệnh đáng tôn hơn vua".
- Ở phương Tây, mầm mống tư tưởng pháp quyền lúc bấy giờ là chống
lại "thuyết đặc miễn trách nhiệm của nhà vua", tư tưởng về NNPQ ra đời
chống lại sự chuyên quyền, độc đóan, gắn liền với việc xác lập và phát triển
nền dân chủ; bạo lực, lộng quyền và hỗn lọan là cái tương phản với công
bằng, pháp luật, cần phải xóa bỏ. Các nhà tư tửơng pháp quyền thời kì này
tiêu biểu là Solon, Heraclite, Socrate, Platon, Aristote, Ceceron
* Thời trung cổ, đa số các nhà nghiên cứu cho rằng thời kì này không có
mầm mống tư tưởng về NNPQ vì sự ngự trị của bóng đêm thần học. Tuy
nhiên,cũng có người cho rằng vẫn có những mầm mống về NNPQ trong
chính các nhà tư tưởng thần học. Các nhà thần học thời kì này tiếp thu tư

tưởng từ các triết gia cổ đại. Cần kể đến: Saint Augustin và Saint Thomas
D'Aquin
* Thời kì cận đại, tư tưởng về NNPQ thực sự có bước phát triển mới.
Nó đã trở thành một học thuyết và đã trở thành hiện thực, được vận dụng ở
một số quốc gia phương Tây, mà ta gọi là NNPQ TBCN hay NNPQ Tư sản
để phân biệt với NNPQ XHCN sau này. Sự phát triển lí luận học thuyết
NNPQ Tư sản chịu ảnh hưởng của hai luồng tư tưởng: Một là, sự khẳng
định ngày càng cao những quan điểm mới về tự do của con người, thông
qua việc tôn trọng tính tối cao của pháp luật - pháp luật tự nhiên. Hai là, xác
lập mối tương quan giữa quyền lực chính trị mới giữa giai cấp tư sản đang
lên và chế độ phong kiến đã lỗi thời. Hơn nữa, cần loại trừ tình trạng (khả
năng ) độc quyền, bán quyềnlực trong cơ quan hay cá nhan cụ thể. Học
thuyết NNPQ vì lẽ đó gắn liền với chủ nghĩa lập hiến tư sản.
Thời kì này, học thuyết NNPQ được bổ sung, hoàn thiện, phát triển qua
các giai đoan lịch sử khác nhau. Đó là lí thuyết về pháp quyền tự nhiên của
các nhà triết học Hà Lan thế kỷ XVI-XVII với các đại diện: B. Spinoza , H.
Grotius;lí thuyết về tự do của các nhà duy vật Anh thế kỷ XVII với các đại
diện như : J. Locke -"người thể hiện rõ rệt nhất các quan điểm pháp quyền
của xã hội TBCN", T. Hobbs, J.S.Mill; lí thuyết về phân quyền, chủ quyền
nhân dân và khế ước xã hộ của các nhà khai sáng Pháp thé kỷ XVIII với các
đại diện: Montesquieu - người đưa ra học thuyết phân quyền được các nước
Tư sản sau này áp dụng dưới các hình thức khác nhau, Rousseau - người
đưa ra lí thuyết về chủ quyền nhân dân và "khế ước xã hội"; lí thuyết về
pháp quyền của các nhà triết học cổ diển Đức với các dại diện như : I. Kant,
Hegel …Bước sang thế kỷ XIX-XX, lí thuyết về NNPQ tiếp tục được các
nhà triết học Đức quan tâm như: Mohn và Valker, Stein
Mặc dù với những góc nhìn và quan niệm hết sức đa dạng nhưng các
học thuyết này đều mang những nội dung cơ bản và chung nhất sau: Sự hiện
diện của chủ nghĩa lập hiến và coi đó là bằng chứng hữu hình về sự đồng
thuận của người dân; Nhà nước phải tự đặt dưới pháp luật không hành động

độc đóan; Nhà nước phải tôn trọng và bảo vệ các quyền tự do của con người
và quyền công dân; quyền lực Nhà nước được chia thành ba quyền: quyền
lập pháp, hành pháp, tư pháp giao cho ba cơ quan Nhà nước tương ứng theo
nguyên tắc quyền lực giám sát kiềm chế quyền lực
Học thuyết NNPQ không chỉ có những tư tưởng của các triết gia tư sản
mà còn có cả sự đóng góp của những nhà kinh điển CNXH. Marx, Engels
và Lenin dù không chính thức nói đến NNPQ như là một trong những nội
dung chính yếu trong học thuyết của mình nhưng các ông luôn quan tâm đến
Nhà nước và cách mạng, Nhà nước và pháp luật. Trong các bài viết,bài nói
ít nhiều họ đã thể hiện tư tưởng về pháp quyền. Đó là những tư tưởng đầu
tiên về NNPQ XHCN. Quan điểm của Marx và Engels được thể hiện trong
các tác phẩm như: "Sự khốn cùng của triết học", "Phê phán triết học pháp
quyền Hegel".
Marx và Engels đặt vấn đề xây dựng một xã hội mới, trong đó "tự do
của mỗi người là điều kiện phát triển tự do của tất cả mọi người", là "sự phát
triển tòan diện của con người". Có thể nói,"vì con người" và "giải phóng
con người" là mục tiêu của một NNPQ kiểu mới.
Về mặt Nhà nước, Marx và Engels chủ trương xác lập một chế độ dân
chủ triệt để, "do nhân dân tự quy định". Trong xã hội mới sẽ tạo ra nhiều
điều kiện để giải phóng cá nhân, rằng "xã hội sẽ không giải phóng cho mình
được nếu không giải phóng mỗi một cá nhân riêng biệt" (Engels) và xã hội
đó phải được xây dựng trên cơ sờ pháp luật.
Lenin tiếp thu và phát triển tư tưởng của Marx và Engels và đã đưa học
thuyết của các ông đến mức độ hoàn bị hơn. Về NNPQ, trong tư tưởng về
Nhà nước và cách mạng, về xây dựng xã hội mới của Lenin cũng có chứa
yếu tố pháp quyền.Lenin hướng đến một xã hội dân chủ rộng rãi, giải phóng
con người và phát triển tòan diện con người.
Như vậy, NNPQ là một Nhà nước thượng tôn pháp luật và phải bảo đảm
dân chủ. Lịch sử NNPQ đã có từ xa xưa và ngày càng hoàn thiện qua các
giai đọan lịch sử khác nhau và trở thành học thuyết vào thế kỷ XVII- XVIII,

gắn liền với Nhà nước Tư sản, nền dân chủ Tư sản.
Bên cạnh đó, các nhà kinh điển của CNXH cũng đã có sự đóng góp nhất
định vào học thuyết NNPQ nói chung, và định hướng cho việc xây dựng
Nhà nước kiểu mới ở các nước XHCN - NNPQ XHCN của dân, do dân, vì
dân sau này.
3. Những đặc trưng của NN pháp quyền?
- Nhà nước pháp quyền trước hết là nhà nước hợp hiến, hợp pháp; nhà
nước quản lý xã hội bằng pháp luật, trong đó các đạo luật chiếm ưu thế
trong hệ thống pháp luật;
Pháp luật của nhà nước pháp quyền là pháp luật chứa đựng tính nhân
văn, nhân đạo, pháp luật vì con người, vì số đông trong xã hội, pháp luật
25

×