Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

Công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (174.38 KB, 32 trang )

Phần I
Một số nhận thức chủ yếu về Công nghiệp hoá -
hiện đại hoá đất nớc
I. Tính tất yếu khách quan của sự nghiệp công nghiệp hoá
Lu chuyển hàng hoá phát triển của sản xuất xã hội đã chứng minh rằng,
mỗi phơng thức sản xuất của xã hội chỉ có thể đợc xác lập một cách vững chắc
trên một cơ sở vật chất - kỹ thuật thích ứng nhất định, chính cơ sở vật chất - kỹ
thuật này là một trong những nhân tố quan trọng nhất, để xác định phơng thức
sản xuất đó thuộc loại hình xã hội - lịch sử nào và thuộc thời đại kinh tế nào.
Cơ sở vật chất - kỹ thuật của mỗi phơng thức sản xuất của xã hội là tổng
thể hữu cơ các yếu tố vật chất của lực lợng sản xuất đạt đợc trong những điều
kiện lịch sử nhất định của tiến bộ khoa học và công nghệ, dựa trên đó, lực lợng
lao động của xã hội ấy sản xuất ra của cải vật chất để thoả mãn nhu cầu của xã
hội. Trong lịch sử bao giờ phơng thức sản xuất cũng kế thừa cơ sở vật chất - kỹ
thuật của phơng thức sản xuất trớc nó, trên cơ sở đó, cải tạo, phát triển thành cơ
sở vật chất - kỹ thuật cho bản thân mình. Chủ nghĩa xã hội ra đời và phát triển
cũng phải tuân theo tính quy luật đó.
Cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội một mặt, kế thừa những
thành quả đã đạt đợc trong xã hội trớc đó; mặt khác, nó đợc phát triển và hoàn
thiện trên cơ sở những thành tựu của các cuộc cách mạng khoa học - công nghệ
hiện đại và theo nhu cầu của chế độ xã hội mới. Đó chính là nền công nghiệp có
công nghệ tiên tiến, trong đó ngành chế tạo cơ khí giữ vị trí then chốt, có đủ khả
năng trang bị kỹ thuật hiện đại cho các ngành kinh tế quốc dân, nhằm không
ngừng phát triển sản xuất và nâng cao đời sống về mọi mặt cho nhân dân. Trong
điều kiện xu hớng quốc tế hoá, sản xuất phát triển ngày càng sâu rộng thì cơ
cấu của nền công nghiệp hiện đại có sự kết hợp chặt chẽ phân công và chuyên
môn hoá trong nớc và quốc tế, nhằm kết hợp tối u sức mạnh của quốc gia và
quốc tế, của dân tộc và thời đại.
Các nớc đã qua giai đoạn phát triển t bản chủ nghĩa, bớc vào thời kỳ xây
dựng chủ nghĩa xã hội cần điều chỉnh, bổ sung và hoàn thiện cơ sở vật chất - kỹ
thuật đã đạt đợc theo yêu cầu của chế độ mới, của các quy luật khách quan tác


1
động trong nền kinh tế có bản chất kinh tế - xã hội mới, và tiếp tục ứng dụng
những công nghệ mới nhất, hiện đại nhất.
Các nớc có nền kinh tế phát triển cha cao, các nớc nông nghiệp lạc hậu,
sản xuất nhỏ còn phổ biến thì tiến lên chủ nghĩa xã hội nhất thiết phải tiến hành
công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa, để xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ
nghĩa xã hội, nhằm thay thế lao động thủ công bằng lao động cơ khí hoá và một
phần tự động hoá (khi có điều kiện) trong các ngành của nền kinh tế quốc dân;
đồng thời trên cơ sở trình độ đã đạt đợc của cơ sở vật chất - kỹ thuật mới mà cải
biến cơ cấu kinh tế lạc hậu, què quặt, thúc đẩy quá trình phân công lao động xã
hội, mở rộng thị trờng, phát triển sản xuất và lu thông hàng hoá trong nớc và
quốc tế. Công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa là một tất yếu khách quan trong thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, là con đờng tạo ra sức sản xuất mới nhằm khai
thác và phát huy tốt nhất các nguồn lực bên trong, sử dụng có hiệu quả các
nguồn lực bên ngoài. Mỗi bớc tiến của quá trình công nghiệp hoá là một bớc
tăng cờng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội; đồng thời mỗi bớc phát
triển của cơ sở vật chất - kỹ thuật lại làm cho quan hê sản xuất xã hội chủ nghĩa
ngày càng đợc củng cố và hoàn thiện, nền sản xuất xã hội không ngừng đợc
phát triển, đời sống vật chất, văn hoá, tinh thần của nhân dân không ngừng đợc
nâng cao.
Thực hiện công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa không những bắt nguồn từ
yêu cầu của sự phát triển kinh tế, mà còn bắt nguồn từ yêu cầu của sự phát triển
các mặt khác của đời sống xã hội, của toàn bộ sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã
hội.
Với cơ sở vật chất - kỹ thuật ngày càng cao trong quá trình công nghiệp
hoá xã hội chủ nghĩa, giai cấp công nhân có thêm điều kiện để giúp đỡ nông
dân đi lên chủ nghĩa xã hội; liên minh giữa giai cấp công nhân và nông dân
ngày càng đợc củng cố, làm cơ sở vững chắc cho chế độ xã hội mới. Gắn liền
với các giai đoạn phát triển của công nghiệp, giai cấp công nhân trởng thành cả
về số lợng và chất lợng, vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân ngày càng đợc

nâng cao trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Nhờ đó, sự giúp đỡ của công
nghiệp và thành thị đối với nông nghiệp và nông thôn đợc tăng cờng và có hiệu
quả hơn.
2
Những thành tựu đạt đợc trong quá trình công nghiệp hoá còn tạo ra nhiều
điều kiện để thực hiện sự bình đẳng về kinh tế giữa các dân tộc, giữa các tầng
lớp dân c, giữa các vùng trong nớc. Điều đó đa đến sự thống nhất ngày càng cao
về chính trị và tinh thần trong xã hội.
Tiến hành công nghiệp hoá để xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ
nghĩa xã hội, đòi hỏi trình độ giác ngộ cách mạng, trình độ văn hoá, khoa học,
kỹ thuật của ngời lao động ngày càng cao, trong đó có sự đóng góp tích cực, to
lớn của đội ngũ trí thức. Đồng thời, mỗi bớc phát triển mới của cơ sở vật chất -
kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội do quá trình công nghiệp hoá đem lại, sẽ tạo ra
những điều kiện mới cho việc xây dựng nền văn hoá mới, con ngời mới xã hội
chủ nghĩa phát triển toàn diện.
Công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa còn là yêu cầu khách quan của quốc
phòng, của sự thống nhất giữa sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ
nghĩa.
Công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa còn là yêu cầu khách quan của việc mở
rộng quan hệ kinh tế đối ngoại, tăng cờng tham gia vào phân công và hợp tác
kinh tế quốc tế với các nớc trên thế giới.
Từ tính tất yếu khách quan nói trên, có thể khẳng định rằng, thành công
của sự nghiệp công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa là nhân tố quyết định sự thắng
lợi của chủ nghĩa xã hội.
Chính vì thế, qua các Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III, IV, V, VI,
VII, VIII của Đảng luôn luôn khẳng định công nghiệp hoá là nhiệm vụ trung
tâm trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nớc ta. Đồng thời, qua mỗi
lần đại hội, Đảng ta lại nhận thức và cụ thể hoá thêm nhiệm vụ này cho thích
hợp với điều kiện và hoàn cảnh của đất nớc ta trong từng thời kỳ. Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng đã xác định lại: "xây dựng cơ sở vật chất -

kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, thực hiện công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa là
nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kỳ quá độ"1 và "giai đoạn từ nay đến năm
2000 là bớc rất quan trọng của thời kỳ phát triển mới - đẩy mạnh công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nớc"
3
II. Nội dung cơ bản của công nghiệp hoá, hiện đại hoá xã
hội chủ nghĩa ở nớc ta
1. Công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa là quá trình xây dựng cơ sở vật
chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, thực hiện cơ khí hoá nền sản xuất xã hội
và ứng dụng những thành tựu của cách mạng khoa học - công nghệ.
Công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa và cách mạng kỹ thuật (ngày nay gọi là
cách mạng khoa học - công nghệ) là hai khái niệm khác nhau. Công nghiệp hoá
chỉ tiến hành ở những nớc kinh tế phát triển cha cao.
Cách mạng kỹ thuật không những đợc tiến hành ở các nớc kinh tế kém
phát triển, mà còn đợc thực hiện ở các nớc có nền công nghiệp hoàn chỉnh, phát
triển cao và sẽ đợc tiến hành không ngừng với tình độ ngày càng cao. Tuy
nhiên, trong điều kiện một nớc sản xuất nhỏ, lao động thủ công còn phổ biến
tiến lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ t bản chủ nghĩa nh nớc ta thì cả công
nghiệp hoá và cách mạng khoa học - kỹ thuật đều có một nội dung quan trọng,
giống nhau về cơ bản. Đó là thực hiện cơ khí hoá nền kinh tế quốc dân, thay thế
lao động thủ công bằng lao động sử dụng máy móc.
Công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa thực chất là xây dựng cơ sở vật chất -
kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội. Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ơng
(khoá VII) đã nêu rõ nội dung cơ bản của công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đó là
"quá trình chuyển đổi căn bản toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh,
dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính, sang
sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phơng tiện và ph-
ơng pháp tiên tiến, hiện đại dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ
khoa học - công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội cao".
Đối tợng cơ khí hoá là tất cả các ngành kinh tế quốc dân, bao gồm công

nghiệp, nông nghiệp, giao thông vận tải, xây dựng cơ bản v.v.. Việc cơ khí hoá
trớc các ngành nông nghiệp, công nghiệp nhẹ, công nghiệp thực phẩm có vị trí
quan trọng. Vì lao động trong các ngành này đợc cơ giới hoá cao, năng suất lao
động càng tăng lên thì lao động tất yếu của xã hội càng giảm, lao động thặng d
- nguồn gốc giàu mạnh của đất nớc càng nhiều. Từ đó, có vốn đầu t sang công
nghiệp nặng. Cơ khí hoá các ngành công nghiệp, nông nghiệp đòi hỏi phải cơ
khí hoá tơng ứng, đồng bộ các ngành kết cấu hạ tầng (giao thông vận tải, xây
dựng cơ bản v.v..) và tất cả các ngành kinh tế khác. bảo đảm tính tơng ứng và
4
đồng bộ trong việc cơ khí hoá các ngành, các khâu là điều kiện cho nền sản
xuất xã hội phát triển thuận lợi với tốc độ nhanh, đồng thời mới phát huy đợc
hiệu quả của chính quá trình cơ khí hoá.
Sự nghiệp công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa là xây dựng cơ sở vật chất -
kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội. Cơ khí hoá toàn bộ nền kinh tế quốc dân là một
quá trình lâu dài, phải đợc thực hiện từng bớc, có trọng tâm, trọng điểm. Trong
bối cảnh quốc tế hoá đời sống kinh tế, do trình độ lực lợng sản xuất của nớc ta
còn thấp, lao động d thừa còn nhiều, vốn đầu t còn hạn chế, do đó Đảng ta chủ
trơng:
- Kết hợp những bớc tiến tuần tự về công nghệ với việc tranh thủ những cơ
hội "đi tắt', "đón đầu", hình thành những mũi nhọn phát triển theo trình độ tiên
tiến của khoa học - công nghệ thế giới.
- Mức độ và tốc độ tiến hành cơ khí hoá, trang bị lại kỹ thuật không giống
nhau giữa các ngành, các vùng, các khâu trong quá trình sản xuất. Tuỳ theo
điều kiện, yêu cầu và khả năng của từng thời kỳ mà lựa chọn ngành, vùng, khâu
cần u tiên, lựa chọn hớng kỹ thuật, công nghệ phát triển. Do đó, ở nớc ta hiện
nay cần giải quyết đúng đắn, sáng tạo các mối quan hệ sau đây:
Một là, quan hệ giữa ứng dụng công nghệ hiện đại và cải tiến công nghệ
hiện có.
Thực hiện cơ cấu công nghệ kết hợp nhiều trình độ, khai thác tối đa năng
lực sản xuất và công nghệ hiện có, tranh thủ đổi mới, hiện đại hoá công nghệ,

trớc hết ở những khâu có ý nghĩa quyết định trong việc nâng cao chất lợng sản
phẩm, nhất là đối với hàng xuất khẩu, những ngành tác động trực tiếp tới việc
nâng cao trình độ công nghệ của nhiều ngành khác. Kết hợp công nghệ truyền
thống và công nghệ hiện đại, u tiên loại công nghệ tốn ít vốn, thu hồi vốn
nhanh, tạo nhiều việc làm, u tiên ứng dụng và phát triển các công nghệ tiên tiến
nh công nghệ thông tin, sinh học, chế tạo, gia công vật liệu...
Hai là, quan hệ giữa phát triển theo chiều rộng và phát triển theo chiều
sâu.
Kết hợp phát triển theo chiều rộng và phát triển theo chiều sâu, bảo đảm
vừa mở rộng xây dựng cơ sở mới cần thiết, vừa nâng cao và hiện đại hoá các cơ
5
sở hiện có. Đầu t chiều sâu để khai thác tối đa năng lực hiện có, thực hiện mối
quan hệ này càng về sau càng hớng mạnh vào phát triển theo chiều sâu.
Ba là, mối quan hệ giữa các loại quy mô của các đơn vị cơ sở.
Kết hợp xây dựng các loại quy mô. Trong phát triển mới, cần u tiên quy
mô vừa và nhỏ, công nghệ tiên tiến, thu hồi vốn nhanh, đồng thời chỉ xây dựng
những công trình quy mô lớn thật cần thiết và có hiệu quả.
Việc xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật mới, thực hiện cơ khí hoá các
ngành của nền kinh tế quốc dân, phải giải quyết đồng bộ nhiều vấn đề nh: xây
mới phải đi đôi với quản lý, sử dụng để phát huy hiệu quả; kết hợp chặt chẽ giữa
tổ chức lại sản xuất với phân công lao động trong từng đơn vị kinh tế trong
phạm vi toàn xã hội; giữa tổ chức sản xuất và phơng thức hoạt động của nền
kinh tế đợc cơ khí hoá với cơ chế quản lý và hệ thống các chính sách, pháp luật,
giữa sản xuất cơ giới hoá với kết cấu hạ tầng sản xuất và các điều kiện khác liên
quan đến sản xuất; giữa đội ngũ cán bộ quản lý, kinh doanh với đội ngũ cán bộ
khoa học, kỹ thuật và công nhân lành nghề.
2. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá xã hội chủ nghĩa là quá trình tạo lập
cơ cấu kinh tế mới
Sự phát triển của cơ sở vật chất - kỹ thuật trong tiến trình công nghiệp hoá,
hiện đại hoá gắn liền một cách hữu cơ với quá trình phát triển phân công lao

động xã hội; quá trình hình thành các ngành kinh tế trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội... Các ngành, các vùng, các thành phần kinh tế tồn tại và hoạt
động trong tổng thể nền kinh tế thống nhất. Chúng có mối liên hệ tất yếu khách
quan dới những hình thức tổ chức sản xuất nhất định, hình thàn nên cơ cấu của
toàn bộ nền kinh tế quốc dân nh một chỉnh thể.
Giữa các ngành, các vùng và giữa các thành phần kinh tế có các mối quan
hệ có tính cơ cấu, tạo nên hệ thống các cơ cấu nhỏ nằm trong cơ cấu của nền
kinh tế quốc dân. Nói cách khác, cơ cấu kinh tế quốc dân là tổng thể các cơ cấu
ngành, vùng và các thành phần kinh tế... Trong hệ thống các cơ cấu đó, cơ cấu
ngành là quan trọng nhất.
Cơ cấu kinh tế hợp lý đòi hỏi những ngành giao thông vận tải, xây dựng cơ
bản và các ngành trong lĩnh vực phân phối, lu thông phát triển tơng ứng với nó,
đủ sức phục vụ cho công nghiệp, nông nghiệp phát triển thuận lợi.
6
Xây dựng cơ cấu kinh tế quốc dân tơng ứng với cơ sở vật chất - kỹ thuật
hiện đại của chủ nghĩa xã hội là một quá trình cần đợc kế hoạch hoá với chiến l-
ợc cụ thể, trên cơ sở điều tra cơ bản tình hình tài nguyên, khí hậu, thời tiết, thuỷ
văn của cả nớc cũng nh từng vùng, tính toán đầy đủ các mối quan hệ giữa kinh
tế trong nớc với kinh tế đối ngoại, giữa kinh tế với quốc phòng, giữa tích luỹ và
tiêu dùng, giữa yêu cầu và điều kiện thực hiện v.v.. Chiến lợc đó sẽ đợc bổ sung
và hoàn thiện dần dựa trên những phát hiện mới và những biến đổi mới về các
nguồn lực bên trong cũng nh bên ngoài.
Quá trình hình thành và hoàn thiện cơ cấu của toàn bộ nền kinh tế quốc
dân diễn ra từng bớc gắn liền với các giai đoạn của công nghiệp hoá, hiện đại
hoá và mỗi bớc tiến của cơ sở vật chất - kỹ thuật. Nói cách khác, sự chuyển dịch
cơ cấu kinh tế từ lạc hậu, què quặt, ít hiệu quả sang cơ cấu hợp lý, tối u, có hiệu
quả cao, gắn liền với các bớc tăng trởng cơ sở vật chất - kỹ thuật do quá trìn
công nghiệp hoá, hiện đại hoá tạo ra. Đảng ta cho rằng, trong những năm 90,
việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế của nớc ta đợc tiến hành theo hớng: phát triển
nông - lâm - ng nghiệp gắn với công nghiệp chế biến là nhiệm vụ quá trình

hàng đầu để ổn định tình hình kinh tế - xã hội; đồng thời, tăng tốc độ và tỷ
trọng của công nghiệp, mở rộng kinh tế dịch vụ để huy động triệt để các khả
năng sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu; đẩy mạnh thăm dò và khai
thác, chế biến dầu khí và một số loại khoáng sản; phát triển có chọn lựa một số
ngành công nghiệp t liệu sản xuất khác và các cơ sở thuộc kết cấu hạ tầng, trong
đó u tiên phát triển điện, giao thông, thuỷ lợi và thông tin liên lạc. Thực hiện
chuyên môn hoá và liên kết kinh tế giữa các vùng, các địa phơng. Xây dựng các
trung tâm kinh tế của vùng, để tạo điều kiện liên kết công nghiệp và nông
nghiệp, thành thị với nông thôn, phát triển giao lu hàng hoá.
Nh vậy, xét về cơ cấu ngành và các lĩnh vực kinh tế, nội dung công nghiệp
hoá, hiện đại hoá trong thập kỷ 90 là xây dựng một cơ cấu kinh tế đa dạng:
- Phát triển nông - lâm - ng nghiệp gắn với công nghiệp chế biến; phát
triển toàn diện kinh tế nông thôn cùng với xây dựng nông thôn mới, nhằm khai
thác mọi tiềm năng về lao động, đất đai và các nguồn tài nguyên khác để đáp
ứng nhu cầu tiêu dùng trong nớc và xuất khẩu.
7
- Phát triển công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu trên cơ
sở phát huy khả năng của các thành phần kinh tế với nhiều hình thức, quy mô và
công nghệ thích hợp.
- Xây dựng có chọn lọc một số cơ sở công nghiệp nặng trong những ngành
trọng yếu mà nhu cầu đòi hỏi bức bách và có điều kiện về vốn, công nghệ, thị
trờng để phát huy tác dụng nhanh và có hiệu quả.
- Phát triển kinh tế dịch vụ: mở rộng thơng nghiệp, du lịch và dịch vụ ở cả
thành thị, nông thôn, đẩy mạnh các hoạt động kinh tế đối ngoại khác.
- Xây dựng và phát triển kết cấu hạ tầng: cải tạo, mở rộng, nâng cấp, xây
dựng mới có trọng điểm kết cấu hạ tầng kinh tế ở những khâu ách tắc nhất,
đang cản trở sự phát triển. Coi trọng xây dựng kết cấu hạ tầng xã hội ở cả nông
thôn và thành thị.
Về quan hệ giữa các vùng và các địa bàn quan trọng:
- Đồng bằng giữ vị trí quan trọng hàng đầu trong việc sản xuất lơng thực,

thực phẩm, cây công nghiệp ngắn ngày, cây ăn quả, chăn nuôi, phát triển công
nghiệp nông thôn và mở mang dịch vụ. Đồng bằng sông Cửu Long và Đồng
bằng sông Hồng tập trung sức phát triển lơng thực, thực phẩm.
- Trung du, miền núi và Tây Nguyên chuyển mạnh sang kinh tế hàng hoá,
phát huy thế mạnh về lâm nghiệp, cây công nghiệp dài ngày, chăn nuôi đại gia
súc, khoáng sản. Hình thành các vùng nguyên liệu tập trung và chuyên canh
gắn với công nghiệp chế biến. Khai thác đi đôi với bảo vệ, tái tạo nguồn tài
nguyên, bảo vệ môi trờng. Hình thành các trung tâm công, thơng nghiệp và đô
thị gắn với các tổ hợp kinh tế lãnh thổ.
- Vùng biển hớng vào khai thác, nuôi trồng và chế biến thuỷ sản, khai thác
và chế biến dầu khí và các sa khoáng, phát triển các ngành và sản xuất dịch vụ
về hàng hải, mở mang du lịch. Khai thác các tiềm năng kinh tế biển, phát triển
kinh tế ở hải đảo.
- Các thành phố, thị xã, thị trấn là những trung tâm kinh tế và văn hoá, chủ
yếu là trung tâm công nghiệp và thơng mại trên từng vùng lớn, nhỏ. Phơng hớng
phát triển đô thị là: phát triển mạnh công nghiệp, dịch vụ ở đô thị có cơ cấu phù
hợp với vị trí, đặc điểm của mỗi vùng nhằm giải quyết việc làm, tăng nhanh sản
8
phẩm xã hội, làm hạt nhân cho sự phát triển của toàn vùng và cả nớc. Cải tạo,
mở rộng, nâng cấp các đô thị hiện có, phát triển mạng lới đô thị nhỏ, không tập
trung quá đông dân c vào các thành phố lớn.
Một số địa bàn có vị trí quan trọng đối với từng vùng lớn và đối với cả nớc
(Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh, thành phố Hồ Chí Minh, Biên Hoà, Vũng
Tàu - Côn Đảo, Đà Nẵng...) thu hút đầu t trong nớc và nớc ngoài để phát huy
mạnh mẽ vai trò trung tâm kinh tế, văn hoá, khoa học - kỹ thuật, đầu mối phát
triển kinh tế đối ngoại... Hình thành trên các địa bàn này một số khu có quy chế
đặc biệt về hành chính - kinh tế thuận lợi cho đầu t và làm tăng hàng xuất khẩu
và buôn bán với nớc ngoài.
Cơ cấu kinh tế quốc dân còn phải trải qua nhiều bớc chuyển dịch, thay đổi
vị trí, vai trò của từng ngành và các quan hệ tỷ lệ giữa các ngành nhằm đạt đợc

yêu cầu khai thác tối đa và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực bên trong và
nguồn lực bên ngoài, tạo ra nhiều sản phẩm hàng hoá cho xã hội, đồng thời
chuẩn bị các điều kiện cho bớc chuyển dịch cơ cấu tiếp theo, theo hớng "hình
thành về cơ bản nền kinh tế công nghiệp với cơ cấu kinh tế công - nông nghiệp -
dịch vụ gắn với phân công và hợp tác quốc tế ngày càng sâu rộng".
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng đã khẳng định lại: "Nội
dung cơ bản của công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong những năm còn lại của
thập kỷ 90 là:
Đặc biệt coi trọng công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông
thôn; phát triển toàn diện nông, lâm, thuỷ sản; phát triển công nghiệp sản xuất
hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu. Nâng cấp, cải tạo, mở rộng và xây dựng mới
có trọng điểm kết cấu hạ tầng kinh tế, trớc hết ở những khâu ách tắc và yếu kém
nhất đang cản trở sự phát triển. Xây dựng có chọn lọc một số cơ sở công nghiệp
nặng trọng yếu và hết sức cấp thiết, có điều kiện về vốn, công nghệ, thị trờng,
phát huy tác dụng nhanh và có hiệu quả cao. Mở rộng thơng nghiệp, du lịch,
dịch vụ. Đẩy mạnh các hoạt động kinh tế đối ngoại. Hình thành dần một số
ngành mũi nhọn nh chế biến nông, lâm, thuỷ sản, khai thác và chế biến dầu khí,
một số ngành cơ khí chế tạo, công nghiệp điện tử và công nghệ thông tin, du
lịch. Phát triển mạnh sự nghiệp giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ".
III. Những tiền đề và điều kiện cần thiết để thực hiện quá
trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá xã hội chủ nghĩa
9
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá xã hội chủ nghĩa là sự nghiệp to lớn, đòi
hỏi một trình độ nhất định về khoa học - công nghệ cũng nh về kinh tế, xã hội.
Vì vậy, phải có những tiền đề và điều kiện cần thiết bảo đảm triển khai thuận lợi
và thực hiện thành công sự nghiệp to lớn này, cụ thể là:
1. Phải có sự ổn định về chính trị - xã hội. Muốn phát triển kinh tế,
muốn tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá, trớc hết phải có môi trờng chính
trị - xã hội ổn định. Nhân dân ta dới sự lãnh đạo của Đảng đang đổi mới hệ
thống chính trị nhằm củng cố nhà nớc của dân, do dân và vì dân, thực hiện dân

chủ rộng rãi, nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, xây dựng cơng lĩnh, chiến l-
ợc ổn định và phát triển kinh tế - xã hội. Đây là tiền đề chính trị bên trong cho
công nghiệp hoá.
- Môi trờng quốc và xu hớng phát triển mới của thế giới cũng tạo ra tiền đề
bên ngoài thuận lợi cho quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nớc ta. Trớc
hết, đó là môi trờng hoà bình với xu hớng hoà hoãn và hợp tác quốc tế cho phép
ta mở rộng quan hệ bạn bè và hợp tác với nhiều nớc, nhằm tranh thủ sự viện trợ,
giúp đỡ đa phơng của quốc tế. Xu hớng quốc tế hoá đời sống kinh tế thế giới tạo
điều kiện và thời cơ cho những nớc kém phát triển, trong đó có Việt Nam có thể
sử dụng khoa học, công nghệ mới, nguồn vốn của các nớc giàu vào sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá bằng cách tham gia vào sự phân công và hợp tác
quốc tế. Sự lớn mạnh của các lực lợng đấu tranh cho hoà bình, dân chủ và tiến
bộ, sự thức tỉnh của nhân loại về một thế giới mới cũng là hoàn cảnh thuận lợi
cho các nớc kém phát triển đẩy nhanh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát triển
kinh tế. Vài chục năm qua, một số nớc đã biết vận dụng hoàn cảnh và tiền đề
quốc tế đẩy nhanh quá trình này trong thời gian ngắn, từ một nớc lạc hậu kém
phát triển trở thành nớc công nghiệp.
Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VII đã khẳng định:
"những thành tựu quan trọng đã và đang tạo ra những tiền đề đa đất nớc chuyển
dần sang một thời kỳ phát triển mới"1, thời kỳ đẩy tới một bớc công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nớc. Những tiền đề ấy bao gồm một loạt nhân tố cả về thế
và lực, cả về chất và tinh thần, về kinh tế, chính trị, xã hội và văn hoá, trong nớc
và nớc ngoài.
2. Tích luỹ vốn
Tích luỹ vốn là điều kiện có tầm quan trọng nhất.
10
Có hai nguồn khả năng để tích luỹ vốn
Một là, tích luỹ vốn từ nội bộ nền kinh tế quốc dân.
Hai là, tích luỹ vốn dựa vào sự viện trợ và đi vay nớc ngoài và các tổ chức
phi chính phủ.

Trong hai nguồn đó, nguồn tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế quốc dân, xét về
lâu dài, là nguồn chủ yếu. Song, nguồn vốn từ bên ngoài cũng rất quan trọng,
nhất là trong chặng đờng đầu của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Tích luỹ vốn từ nội bộ nền kinh tế quốc dân đợc thực hiện trên cơ sở hiệu
quả sản xuất: nguồn của nó là lao động thặng d của ngời lao động thuộc tất cả
các thành phần kinh tế tồn tại trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Con đờng cơ bản để giải quyết vấn đề tích luỹ vốn trong nớc là tăng năng
suất lao động xã hội trên cơ sở ứng dụng tiến bộ khoa học - kỹ thuật, công nghệ
mới, hợp lý hoá sản xuất, xoá bỏ cơ chế kinh tế và cơ chế quản lý cũ, chuyển
sang cơ chế thị trờng có sự quản lý của Nhà nớc.
ở nớc ta hiện nay, để tăng năng suất lao động xã hội, tạo ra nguồn vốn cho
tích luỹ, trớc hết và chủ yếu là phải khai thác và sử dụng tốt quỹ lao động, tập
trung sức phát triển nông nghiệp, công nghiệp hàng tiêu dùng và sản xuất hàng
xuất khẩu; đẩy mạnh một số ngành công nghiệp khai thác; phát huy năng lực
của công nghiệp hiện có và xây dựng mới những cơ sở cần thiết, trực tiếp phục
vụ chiến lợc phát triển kinh tế - xã hội đã hoạch định; tích cực thực hiện có hiệu
quả cuộc đấu tranh chống tham nhũng, chống xa hoa, lãng phí, triệt để thực
hành tiết kiệm sản xuất và tiêu dùng. Cùng với việc tạo ra vốn, vấn đề quan
trọng là phải có phơng thức huy động, sử dụng và quản lý tối u, đem lại hiệu
quả cao, làm cho tích luỹ trở thành tích luỹ kép.
3. Xây dựng đội ngũ cán bộ và công nhân
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đòi hỏi phải có một đội ngũ cán bộ, công
nhân đủ về số lợng và chất lợng bảo đảm cho việc tổ chức, triển khai và thực
hiện thành công những chủ trơng, biện pháp xây dựng và phát triển kinh tế.
Cơ cấu đội ngũ này phải đồng bộ, bao gồm cán bộ khoa học tự nhiên, khoa
học xã hội, khoa học - kỹ thuật, cán bộ quản lý, cán bộ nghiệp vụ kinh tế, cán
11
bộ trong các ngành kinh doanh, công nhân kỹ thuật... Những cán bộ và công
nhân này phải giỏi về chuyên môn, trung thành với mục tiêu xã hội chủ nghĩa,
tận tuỵ phấn đấu góp phần cho dân giàu nớc mạnh.

Việc xây dựng đội ngũ cán bộ và công nhân phải tiến hành với tốc độ và
quy mô thích hợp, đáp ứng yêu cầu của mỗi thời kỳ trong quá trình công nghiệp
hoá. Đi đôi với việc đào tạo, bồi dỡng, bố trí và sử dụng tốt đội ngũ cán bộ,
công nhân, phát huy đầy đủ khả năng, sở trờng và nhiệt tình lao động sáng tạo
của họ để tạo ra năng suất, chất lợng và hiệu quả kinh tế cao, đóng góp xứng
đáng vào sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nớc.
4. Điều tra cơ bản, nắm vững tài nguyên và tình hình kinh tế - xã hội
Đây là một trong những căn cứ rất quan trọng để hoạch định chiến lợc, chủ
trơng, biện pháp xây dựng và phát triển nông nghiệp, công nghiệp và các ngành
của nền kinh tế quốc dân. Do đó, công tác điều tra cơ bản, nắm vững tài nguyên
và tình hình kinh tế - xã hội của đất nớc vẫn phải đi trớc nhiều bớc, phải đạt
chất lợng cao, bảo đảm chính xác, cụ thể, kịp thời... để hoạch định đúng và triển
khai tốt sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nớc nhà.
5. Đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học - công nghệ và ứng dụng
công nghệ mới
Công tác nghiên cứu khoa học - kỹ thuật và công nghệ cần đợc xúc tiến
mạnh mẽ nhằm vạch ra phơng hớng chính xác cho việc tìm tòi, lựa chọn và ứng
dụng những thành tựu của cách mạng khoa học - công nghệ, xây dựng cơ sở vật
chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội.
Khoa học bao gồm khoa học tự nhiên, khoa học xã hội, khoa học - kỹ
thuật và công nghệ..., phải bảo đảm cơ sở khoa học cho các quyết định quan
trọng của cá cấp lãnh đạo, quản lý, là công cụ chủ yếu để nâng cao năng suất,
chất lợng, hiệu quả của mọi hoạt động kinh tế - xã hội. Trong việc phát triển
nghiên cứu khoa học - công nghệ hiện nay, cần chú trọng nghiên cứu ứng dụng
những công nghệ thích hợp với điều kiện của nớc ta, đồng thời nghiên cứu ứng
dụng có trọng điểm một số công nghệ hiện đại, hình thành những ngành mới
với công nghệ cao nh công nghiệp dầu khí, hoá dầu, điện tử, tin học, sinh học,
vật liệu mới, công nghệ gia công chế biến tiên tiến.
6. Mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại
12

×