Tải bản đầy đủ (.doc) (39 trang)

skkn công tác quản lí hoạt động dạy – học tại trường thcs thpt bàu hàm năm học 2013-2014

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (394.46 KB, 39 trang )

CÔNG TÁC QUẢN LÍ HOẠT ĐỘNG DẠY – HỌC TẠI TRƯỜNG THCS
& THPT BÀU HÀM NĂM HỌC 2013-2014
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Trong trường phổ thông, hoạt động dạy – học đóng vai trò then chốt và giữ
vị trí trung tâm trong mọi hoạt động của nhà trường. Hoạt động dạy – học chiếm
hầu hết thời gian và khối lượng công việc của thầy và trò trong suốt năm học
đồng thời quyết định chất lượng giáo dục của nhà trường. Hoạt động dạy học
phụ thuộc rất nhiều vào việc giảng dạy của giáo viên và học sinh trên lớp, vì thế
công tác dạy – học được thực hiện tốt sẽ nâng cao chất lượng đào tạo và hiệu
quả giáo dục.
Tại Trường THCS & THPT Bàu Hàm, công tác quản lí hoạt động dạy và
học được hiệu trưởng rất quan tâm và được xem là nhiệm vụ then chốt trong
hoạt động của nhà trường, phân công trách nhiệm chính cho bản thân tôi – phó
hiệu trưởng phụ trách chuyên môn. Công tác quản lí hoạt động dạy – học đã đạt
được một số thành quả nhất định, tuy nhiên cũng còn nhiều hạn chế, các hoạt
động chuyên môn đôi khi còn thiếu chất lượng, hiệu quả.
Với mong muốn góp phần vào việc nâng cao chất lượng công tác chuyên
môn, từ công tác quản lí hoạt động dạy – học đưa ra được các giải pháp thúc đẩy
công tác giảng dạy do đa số giáo viên trong trường còn trẻ về tuổi đời lẫn tuổi
nghề, từng bước đưa chất lượng giáo dục của nhà trường ngày một đi lên, tôi
quyết định chọn đề tài “Công tác quản lí hoạt động dạy – học tại trường THCS
& THPT Bàu Hàm năm học 2013-2014” nhằm tìm hiểu và phân tích thực trạng
công tác quản lí hoạt động dạy – học tại Trường THCS & THPT Bàu Hàm năm
học 2013-2014, từ đó rút ra bài học kinh nghiệm và đề xuất những biện pháp
nhằm nâng cao hiệu quả công tác dạy – học trong nhà trường, đưa nhà trường
đạt chất lượng cao hơn trong công tác giáo dục và đào tạo.
II. TỔ CHỨC THỰC HIỆN ĐỀ TÀI
1. Cơ sở lí luận
1.1. Khái niệm quản lí hoạt động dạy - học
Chúng ta đã biết, quản lý giáo dục là hoạt động có ý thức của nhà quản lý
nhằm đạt tới mục tiêu quản lý. Nhà quản lý cùng với đông đảo đội ngũ giáo


viên, học sinh, các lực lượng xã hội, … bằng hành động của mình biến mục tiêu
đó thành hiện thực.
Dạy học và giáo dục trong sự thống nhất với nhau là hoạt động trung tâm
của nhà trường. Mọi hoạt động đa dạng và phức tạp khác của nhà trường đều
hướng vào tiêu điểm này. Vì vậy quản lý nhà trường thực chất là quản lý quá
trình sư phạm của thầy, hoạt động học tập – tự giáo dục của trò, diễn ra chủ yếu
trong quá trình dạy học.
Như vậy, quản lý hoạt động dạy - học thực chất là những tác động của chủ
thể quản lý vào quá trình dạy học (được tiến hành bởi tập thể giáo viên và học
sinh, với sự hỗ trợ đắc lực của các lực lượng xã hội) nhằm góp phần hình thành
và phát triển toàn diện nhân cách học sinh theo mục tiêu đào tạo của nhà trường.
1.2. Vị trí quản lí hoạt động dạy – học trong công tác quản lí nhà
trường
Hoạt động dạy học ở nhà trường phổ thông giữ vị trí trung tâm bởi nó
1
chiếm hầu hết thời gian, khối lượng công việc của thầy và trò trong một năm
học; nó làm nền tảng quan trọng để thực hiện thành công mục tiêu giáo dục
toàn diện của nhà trường phổ thông; đồng thời, nó quyết định kết quả đào tạo
của nhà trường.
Hoạt động dạy học còn là hoạt động đặc thù của nhà trường phổ thông, nó
được qui định bởi đặc thù lao động sư phạm của người giáo viên. Vì vậy, nó
cũng qui định tính đặc thù của công tác quản lý nhà trường nói chung và quản lý
hoạt động dạy học nói riêng.
Người quản lí phải nhận thức đúng vị trí quan trọng và tính đặc thù của
hoạt động dạy học để có những biện pháp quản lý khoa học, sáng tạo nhằm
nâng cao chất lượng đào tạo của nhà trường.
Công tác quản lý hoạt động dạy - học giữ vị trí quan trọng trong công tác
quản lý nhà trường. Mục tiêu quản lý chất lượng đào tạo là nền tảng, là cơ sở để
nhà quản lý xác định các mục tiêu quản lý khác trong hệ thống mục tiêu quản lý
của nhà trường.

Quản lý hoạt động dạy - học là nhiệm vụ trọng tâm của người quản lí. Xuất
phát từ vị trí quan trọng của hoạt động dạy học, người quản lí nhà trường phải
dành nhiều thời gian và công sức cho công tác quản lý hoạt động dạy học nhằm
ngày càng nâng cao chất lượng đào tạo của nhà trường, đáp ứng yêu cầu ngày
càng cao của xã hội.
1.3. Nhiệm vụ quản lí hoạt động dạy học
Để thực hiện tốt các nhiệm vụ của hoạt động dạy học ở trường phổ thông,
đòi hỏi phải nâng cao chất lượng công tác quản lý hoạt động dạy học với những
nhiệm vụ sau:
- Gắn hoạt động dạy học với việc nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện.
- Tạo môi trường và điều kiện thuận lợi cho đội ngũ cán bộ, giáo viên thực
hiện đổi mới phương pháp dạy học. Trong đó, quan trọng nhất là tạo động lực
và kích thích tinh thần lao động sáng tạo của đội ngũ giáo viên.
- Kết hợp phát huy cao độ tính chủ động sáng tạo của mỗi thành viên
trong tập thể với sự quản lý thống nhất của đội ngũ cán bộ quản lý nhà trường.
- Đảm bảo chất lượng dạy học một cách bền vững.
- Xây dựng cơ chế và có chính sách phù hợp để phát huy tối đa nội lực đi
đôi với sự tranh thủ tiềm lực của các lực lượng giáo dục ngoài nhà trường.
1.4. Đặc điểm và yêu cầu quản lí dạy học
1.4.1. Đặc điểm
Hoạt động dạy học là một bộ phận trong hoạt động giáo dục toàn diện của
trường phổ thông, do đó việc quản lý hoạt động dạy học vừa phải phù hợp với
quản lý giáo dục nói chung, vừa phải mang tính đặc thù của hoạt động dạy học.
Xuất phát từ yêu cầu trên, quản lý hoạt động dạy học có những đặc điểm
sau:
Thứ nhất, quản lý hoạt động dạy học mang tính chất quản lý hành
chính sư phạm, đặc điểm này thể hiện ở chỗ: quản lý theo pháp luật, theo
những nội qui, qui chế, quyết định có tính bắt buộc trong hoạt động dạy học.
Đồng thời việc quản lý phải tuân thủ các qui luật của quá trình dạy học, giáo dục
diễn ra trong môi trường sư phạm, lấy hoạt động và quan hệ dạy - học của thầy

2
và trò làm đối tượng quản lý.
Thứ hai, quản lý hoạt động dạy học mang tính đặc trưng của khoa học
quản lý, bởi vì, nó phải vận dụng có hiệu quả các chức năng quản lý trong việc
điều khiển quá trình dạy học.
Thứ ba, quản lý hoạt động dạy học có tính xã hội hóa cao do chịu sự chi
phối trực tiếp của các điều kiện kinh tế - xã hội và có mối quan hệ tương tác
thường xuyên với đời sống xã hội.
1.4.2. Yêu cầu quản lý hoạt động dạy học
Đảm bảo thực hiện đúng chương trình dạy học, thể hiện ở chỗ:
- Đảm bảo tính hệ thống liên tục của chương trình (đúng tiến độ thực
hiện chương trình từng môn)
- Đảm bảo tính toàn diện trong giáo dục phổ thông (mối quan hệ giữa
các bộ môn)
- Đảm bảo đúng nội dung đã qui định của chương trình về yêu cầu kiến
thức,

kỹ
năng, thái độ. Trong đó thể hiện rõ tính phổ thông, cơ bản, hiện đại
và phù hợp với tình hình Việt Nam.
- Bảo đảm không ngừng cải tiến và hoàn thiện các phương pháp dạy học
- Đảm bảo nâng cao chất lượng dạy học
Quản lý hoạt động dạy - học thực chất là những tác động của chủ thể
quản


vào quá trình dạy học nhằm hình thành và phát triển toàn diện nhân
cách học sinh theo mục tiêu đào tạo của nhà trường.
Mục tiêu quản lý hoạt động dạy học là cơ sở, là nền tảng cho việc xác định
các mục tiêu quản lý khác trong nhà trường.

2. Nội dung, biện pháp thực hiện các giải pháp của đề tài
2. 1. Xác định thực trạng, đặc điểm tình hình nhà trường:
2.1.1. Tình hình kinh tế, xã hội, dân cư trên địa bàn:
- Huyện Trảng Bom là một huyện công nghiệp chiếm tỷ lệ cao, ở gần sát
thành phố Biên Hòa tỉnh Đồng Nai;
- Toàn huyện có 16 xã, một thị trấn, 4 khu công nghiệp, 6 cụm công nghiệp
dân số tạm cư nhiều; tình hình kinh tế, chính trị đang trên đà phát triển tốt;
- Trường THCS&THPT Bàu Hàm mới được thành lập theo Quyết định số:
1812/QĐ-UBND ngày 27/6/2007 của Ủy Ban Nhân Dân tỉnh Đồng Nai và được
tọa lạc trên địa bàn ấp Tân Hợp, xã Bàu Hàm, một xã vùng sâu vùng xa của
huyện, trên 75% dân số là người dân tộc Hoa, là xã có tỷ lệ hộ nghèo cao nhất
huyện, người dân chủ yếu làm nông, do vậy đời sống kinh tế của nhân dân còn
nhiều khó khăn, trình độ dân trí thấp, còn nhiều hủ tục lạc hậu, còn có tư tưởng
“trọng nam”, người dân có xu hướng cho con học tiếng Hoa, không chú trọng
học tiếng Việt;
- Trên địa bàn huyện có trường Đại học Lâm Nghiệp cơ sở 2; 02 trường cao
đẳng (Cao đẳng Thủy lợi; Cao đẳng Vinatex), 08 trường THPT trong đó 01
trường Dân tộc nội trú tỉnh; 03 trường THPT công lập và 04 trường THPT tư
thục, ngoài ra còn có Trung tâm giáo dục thường xuyên, trong khi đó số học
sinh tốt nghiệp THCS hằng năm đang có chiều hướng giảm; do vậy học sinh
đăng ký dự tuyển vào 10 của nhà trường thường không đủ chỉ tiêu (nhận 100%
HS dự tuyển), vì thế chất lượng học sinh vào trường rất thấp;
3
- Mặt bằng chất lượng của học sinh phổ thông trong khu vực rất thấp; tỷ lệ
học sinh khá giỏi hầu như không có;
- Cán bộ, giáo viên có hộ khẩu địa phương tỷ lệ rất thấp (1,5%), chủ yếu
giáo viên ngoài tỉnh, trên 70% cán bộ giáo viên phải ở nhà trọ (nhà trường vừa
mới có nhà ở cho giáo viên) trong khi đó đời sống còn gặp nhiều khó khăn, do
vậy thiếu tính ổn định, nhiều giáo viên xin nghỉ việc, chuyển công tác, một số
giáo viên xin đi học để chuyển vùng…

2.1.2. Cơ sở vật chất:
Chỉ danh Số lượng
Phòng học 36
Phòng Thực hành Lý 1
Phòng Thực hành Hoá 1
Phòng Thực hành Sinh 1
Phòng Thực hành Công nghệ/ Nghề 1
Phòng Lab 1
Phòng vi tính 2
Phòng CNTT 3
Thư viện 1
Hội trường 1
- Phòng học: đảm bảo học hai buổi (36 phòng học đạt chuẩn; 04 phòng thí
nghiệm thực hành, 03 phòng máy phục vụ học tin học, ngoại ngữ);
- Các phòng chức năng đủ, đảm bảo (phòng họp, hội trường, phòng làm
việc…);
- Khuôn viên thoáng mát, sạch sẽ, tường rào, nhà vệ sinh đảm bảo, an toàn;
- Trang thiết bị thí nghiệm thực hành: số lượng tương đối đầy đủ, chất
lượng chưa đảm bảo, không đồng bộ, thiếu chính xác
- Tăng cường trồng cây bóng mát, thảm cỏ, vườn thực vật….tạo cảnh quan
thân thiện; cải tạo khu thể dục thể thao của học sinh;
- Trong các năm học vừa qua, nhà trường tăng cường mua sắm cơ sở vất
chất, trang thiết bị (máy tính, tivi , lắp đặt hệ thống camera, dù che nắng… ) từ
các nguồn xã hội hóa để phục giảng dạy, học tập và hỗ trợ cho công tác quản lí.
2.1.3. Tình hình đội ngũ cán bộ, giáo viên, công nhân viên:
- Trình độ chuyên môn nghiệp vụ: trên chuẩn: 16, đạt chuẩn: 56, không có
giáo viên dưới chuẩn.
- Đang học nâng cao để đạt trên chuẩn: Cao học: 09 (trong đó có Hiệu
trưởng đã hoàn thành Thạc sĩ quản lí, 2 Phó hiệu trưởng đang học Thạc sĩ); Đại
học: 07

2.1.4. Tình hình học sinh:
- Số lớp: 36, trong đó có khối 6 có 4 lớp , khối 7 có 5 lớp, khối 8 có 5 lớp,
khối 9 có 4 lớp, khối 10 có 6 lớp, khối 11 có 6 lớp, khối 12 có 6 lớp.
- Mỗi năm nhà trường đều có học sinh giòi cấp huyện, tỉnh nhưng số lượng
không nhiều và kết quả chưa cao, chủ yếu là giải khuyến khích.
2.2. Thuận lợi và khó khăn:
4
2.2.1. Thuận lợi:
- Đủ số lượng giáo viên : 100% đạt chuẩn trở lên, trong đó có 20% đạt trên
chuẩn.
- Trường có chi bộ Đảng lãnh đạo, gồm 13 đảng viên.
- Lực lượng giáo viên còn rất trẻ, nhiệt tình, tâm huyết, năng động, có
quyết tâm thay đổi, đặc biệt là giáo viên khối THPT.
- Được nhà nước quan tâm đầu tư nên số phòng học, các phòng chức năng
và tài chính nhìn chung là đảm bảo ở mức tối thiểu.
- Nhà trường có uy tín kể từ ngày thành lập (7 năm), nhiều năm liền được
công nhận là đơn vị tiên tiến, hằng năm đều có giáo viên dạy giỏi cấp tỉnh,
huyện, có học sinh giỏi cấp huyện, cấp tỉnh .
- Tập thể sư phạm đồng thuận, tạo được bầu không khí đoàn kết, yêu
thương giúp đỡ nhau, đây thực sự là một sức mạnh tổng hợp giúp tập thể nhà
trường đi lên trong thời gian qua.
- Được sự quan tâm của cấp uỷ, chính quyền địa phương và đa số phụ
huynh học sinh.
2.2.2. Khó khăn:
- Khi mới thành lập vào năm học 2007-2008, nhà trường chỉ có khối
THPT, đến học kì II năm học 2009-2010 (tháng 1/2010) nhà trường mới tiếp
nhận giáo viên và học sinh khối THCS có hộ khẩu xã Bàu Hàm từ trường THCS
Nguyễn Văn Trỗi, xã Sông Thao (trước đây xã Bàu Hàm chưa có trường
THCS). Chính vì lực lượng thiếu đồng bộ, bị động trong việc tiếp nhận khối
THCS (giữa năm học) nên hoạt động của nhà trường gặp nhiều khó khăn, đặc

biệt trong công tác quản lí chuyên môn, kiểm tra đánh giá do có nhiều sự khác
biệt, không thống nhất giữa các cấp học khác nhau.
- Chất lượng đầu vào của học sinh thấp, nhà trường tuyển sinh bằng hình
thức xét tuyển và tuyển gần như toàn bộ số học sinh nộp đơn xin xét tuyển vào
trường.
- Chất lượng học tập của học sinh còn ở mức thấp (tỉ lệ học sinh lên lớp
thẳng chỉ đạt 70 % trong năm học 2010 – 2011).
- Việc giáo dục hạnh kiểm học sinh gặp nhiều khó khăn do thiếu sự quan
tâm, phối hợp của gia đình học sinh, mặt khác công tác này cũng chịu nhiều ảnh
hưởng từ bên ngoài xã hội, đặc biệt ở khối THCS chỉ có 65 % học sinh có hạnh
kiểm khá, tốt (2010-2011), tăng lên 90 % ở năm học 2011-2012.
- Đời sống giáo viên còn khó khăn, nhiều giáo viên phải ở trọ, lương chưa
đảm bảo nhu cầu của bản thân và gia đình.
- Trường đóng trên địa bàn tương đối nhạy cảm về an ninh, trật tự và tệ nạn
xã hội như cờ bạc, ma tuý, trộm cắp…
- Đa số giáo viên trẻ nhiệt tình, tâm huyết nhưng chưa có kinh nghiệm;
trường nằm ở vùng sâu nên giáo viên không có điều kiện học hỏi nhiều ở trường
bạn
2.3. Các biện pháp cụ thể:
2.3.1. Xây dựng kế hoạch chuyên môn
- Kế hoạch chuyên môn là kế hoạch bộ phận trong hệ thống kế hoạch
của nhà trường, trong đó gồm các mục tiêu có liên quan chặt chẽ với nhau,
5
thống nhất với nhau bởi mục tiêu chung và hệ thống các biện pháp được xây
dựng trước một giai đoạn nhất định nhằm thực hiện nhiệm vụ giáo dục đã được
xác định. Kế hoạch chuyên môn là chương trình hành động của tập thể giáo
viên được xây dựng trên cơ sở những nhiệm vụ chung của nhà trường.
- Tại trường THCS & THPT Bàu Hàm, dưới sự chỉ đạo của hiệu trưởng, tôi
đã tiến hành xây dựng kế hoạch hoạt động chuyên môn với tiến trình như sau:
Điều tra cơ bản, xác định tình hình đầu năm; phân tích tình hình và xác định

mục tiêu cho năm học mới; viết dự thảo kế hoạch; tổ chức thảo luận, góp ý dự
thảo kế hoạch; hoàn chỉnh kế hoạch và thông qua hiệu trưởng . Nội dung cơ bản
của bản kế hoạch chuyên môn: Tóm tắt tình hình đầu năm về những điều
kiện thuận lợi, khó khăn có ảnh hưởng đến hoạt động dạy học; qui mô phát
triển trường lớp (so sánh với chỉ tiêu được giao); mục tiêu của hoạt động dạy
học trong một năm học; các nhiệm vụ cụ thể và các biện pháp quản lý của lãnh
đạo. Mỗi tháng tôi đều xây dựng kế hoạch chuyên môn tháng, đánh giá hoạt
động đã làm được trong tháng đồng thời định hướng hoạt động trong tháng tới
(phụ lục kèm theo).
- Một trong những hình thức quan trọng nhất và có hiệu lực của việc lập kế
hoạch công tác dạy học là lập thời khóa biểu. Việc xếp thời khóa biểu ở trường
THCS & THPT Bàu Hàm: Thời khóa biểu cố định của nhà trường đảm bảo tổ
chức hoạt động của học sinh trong suốt tuần lễ và trong mỗi ngày học một cách
nhịp nhàng, đúng đắn về mặt sư phạm. Đồng thời cũng dự kiến trước việc tổ
chức đúng đắn lao động của giáo viên trong tuần. Chất lượng thời khoá biểu chi
phối mạnh mẽ kết quả của toàn bộ quá trình giảng dạy giáo dục bởi vì nó ảnh
hưởng trực tiếp đến nhịp độ hoạt động của nhà trường. Cùng với sự hỗ trợ của
phân mềm xếp thời khóa biểu, bản thân tôi cũng rất quan tâm đến vấn đề này, luôn
lưu ý duy trì ở mức độ cao nhất trong suốt năm học khả năng lao động của giáo
viên và học sinh vì vậy, phải phân phối hợp lý các môn học, xen kẽ các môn
học trong một buổi học. Cách sắp xếp thời khóa biểu thể hiện mối quan tâm đến
quỹ thời gian của giáo viên, tạo điều kiện cho họ làm việc hợp lý và có năng
suất cao mà không bị mệt mỏi quá sức. Tuy nhiên do đặc điểm riêng của nhà
trường: nhiều giáo viên đi học, nghỉ hậu sản, nhiều giáo viên có nhà xa, con nhỏ,
tình hình giáo viên hay biến động nhất là dịp đầu năm nên thời khóa biểu của
nhà trường thường xuyên thay đổi, thiếu tính ổn định, thêm vào đó nhiều giáo
viên giảng dạy cả THCS và THPT, nhà xa nên việc sắp xếp thời khóa biểu khoa
học là một khó khăn lớn, ví dụ khó có thể xếp các tiết dạy của một giáo viên cho
các lớp THCS cùng một buổi, mà nếu xếp khác buổi thì việc di chuyển giữa các
dãy phòng học rất tốn thời gian.

2.3.1.1. Chỉ đạo các tổ chuyên môn xây dựng kế hoạch năm học
- Nhà trường đã chỉ đạo tổ chuyên xây dựng hai loại kế hoạch cơ bản: Kế
hoạch năm học gồm toàn bộ công tác của tổ và kế hoạch giảng dạy (theo phân
phối chương trình dạy học bộ môn ở các khối lớp). Kế hoạch của tổ phải chính
xác hóa và cụ thể hóa các nhiệm vụ và chỉ tiêu của kế hoạch chuyên môn và kế
hoạch năm học của nhà trường ở từng đơn vị tổ cho phù hợp. Kế hoạch tổ
chuyên môn phải thể hiện sự định mức, sự lượng hóa cụ thể các nhiệm vụ được
giao, đặc biệt phải xây dựng được một hệ thống biện pháp có hiệu lực, đồng
6
thời phải xây dựng được một chương trình hoạt động cụ thể.
- Lãnh đạonhà trường đã cung cấp những thông tin căn bản và trao đổi với
tổ trưởng những căn cứ cần thiết để xây dựng kế hoạch (văn bản về chương
trình, nhiệm vụ năm học; tình hình thực tế của nhà trường, của tổ; những yêu
cầu của nhà trường đối với chất lượng dạy học, giáo dục ), làm cho tổ trưởng
nắm được những ý định quan trọng của lãnh đạo đối với hoạt động dạy học
trong năm, các tổ trưởng chuyên môn xây dựng kế hoạch tổ theo qui trình và
cách trình bày như kế hoạch năm học của nhà trường.
- Ở Trường THCS & THPT Bàu Hàm, các tổ chuyên môn sẽ căn cứ vào
khung phân phối chương trình của Bộ, số tiết thực tế được phân bố ở trường để
chủ động phân phối lại chương trình sao cho phù hợp với tình hình cụ thể của
nhà trường cũng như phù hợp với đối tượng học sinh đảm bảo chất lượng giảng
dạy.
- Đối với trường THCS & THPT Bàu Hàm, là một trường có hai cấp học,
công tác chuyên môn chịu sự quản lí của Phòng Giáo dục Trảng Bom và Sở
Giáo dục, việc xây dựng kế hoạch chuyên môn phù hợp với hoạt động cũng gặp
nhiều khó khăn, khó phù hợp cho cả hai đối tượng là giáo viên và học sinh ở
khối THCS và THPT. Với cùng một hoạt động chuyên môn, thời điểm thực hiện
ở THCS và THPT khác nhau gây khó khăn cho hoạt động chuyên môn của nhà
trường nhất là đối với các tổ chuyên môn, là tổ bao gồm cả THCS và THPT.
2.3.1.2. Chỉ đạo giáo viên xây dựng kế hoạch năm học

Lãnh đạo chỉ đạo các tổ trưởng chuyên môn hướng dẫn giáo viên xây dựng
kế hoạch năm học cá nhân, kế hoạch của giáo viên gồm hai loại cơ bản: kế
hoạch năm học và kế hoạch giảng dạy bộ môn
a. Xây dựng kế hoạch năm học
Giáo viên căn cứ vào kế hoạch năm học, kế hoạch chuyên môn của nhà
trường, kế hoạch của tổ chuyên môn và nhiệm vụ được phân công (môn dạy,
lớp dạy, công tác chủ nhiệm và công tác khác), phân tích tình hình học tập của
học sinh, yêu cầu của chương trình dạy học các môn phải dạy, điều kiện của nhà
trường (sách hướng dẫn giảng dạy, tài liệu tham khảo, đồ dùng dạy học ). Từ
đó xác định chỉ tiêu phấn đấu của bản thân (yêu cầu cần đạt ở từng nhiệm vụ,
kết quả học tập của học sinh các lớp mình giảng dạy); biện pháp thực hiện để
đạt các chỉ tiêu trên.
b. Xây dựng kế hoạch giảng dạy bộ môn
Kế hoạch giảng dạy gồm hai loại:
- Kế hoạch giảng dạy theo phân phối chương trình bộ môn: Giáo viên căn
cứ vào phân phối chương trình mà tổ chuyên môn đã thống nhất để
xây dựng kế hoạch dạy học cả năm và hàng tuần. Trong kế hoạch ấy phải thể
hiện rõ mục tiêu, phương pháp của từng bài nhằm định hướng cho giáo viên
trong quá trình dạy học, nắm bắt được kiến thức trọng tâm của từng bài trong
chương trình để có phương pháp giảng dạy phù hợp nhất là đối với giáo viên ở
Trường THCS & THPT Bàu Hàm đa số là giáo viên trẻ, mới ra trường, kinh
nghiệm giảng dạy ít.
- Kế hoạch dạy học từng bài: viết bản thiết kế giờ dạy (giáo án). Đối với
giáo viên giảng dạy dưới 3 năm ở trường phải viết tay giáo án giảng dạy.
7
Kế hoạch năm học của giáo viên do tổ trưởng chuyên môn duyệt và là căn
cứ pháp lý để tổ trưởng chuyên môn và hiệu trưởng quản lý hoạt động sư phạm
của giáo viên trong năm học.
2.3.2. Tổ chức thực hiện công tác chuyên môn
2.3.2.1. Phân công chuyên môn

- Phân công giữa hiệu trưởng và phó hiệu trưởng chuyên môn để quản
lý hoạt động dạy - học: Hiệu trưởng chịu trách nhiệm về toàn bộ việc giảng
dạy giáo dục trong nhà trường, nhưng không trực tiếp phụ trách hoạt động dạy -
học mà phân công cho bản thân tôi phụ trách quản lý hoạt động dạy - học. Phó
hiệu trưởng phụ trách quản lý hoạt động dạy - học làm việc dưới sự lãnh đạo
của hiệu trưởng, cùng với hiệu trưởng vạch kế hoạch công tác, báo cáo với hiệu
trưởng về phần công việc của mình. Điều quan trọng là sự phối hợp chặt chẽ, sự
thống nhất giữa hiệu trưởng và phó hiệu trưởng cùng các cộng sự của mình
trong cùng một đường lối làm việc; thể hiện ở chỗ: bàn bạc, thống nhất quan
điểm lãnh đạo, cùng làm công tác bồi dưỡng giáo viên; cùng lắng nghe ý kiến
giáo viên t ránh tình trạng “trống đánh xuôi, kèn thổi ngược” trong việc
quản lý hoạt động dạy – học.
- Phân công công tác cho giáo viên: Phân công giảng dạy cho giáo viên
thực chất là công tác tổ chức và công tác cán bộ, lãnh đạo nhà trường đã thấu
đáo chỗ mạnh, chỗ yếu, sở trường, hoàn cảnh của từng giáo viên để sử dụng họ,
tạo cho họ niềm tin trong nghề nghiệp. Trong tình hình thực tế đội ngũ giáo viên
hiện nay của Trường THCS & THPT Bàu Hàm, việc phân công công tác cũng
gặp nhiều khó khăn, giáo viên có năng lực làm việc phải kiêm nhiệm nhiều công
việc, một số ít giáo viên có số tiết giảng dạy ít nhưng không thể phân công thêm
công tác vì năng lực hạn chế. Việc phân công sử dụng đúng sẽ mang lại kết quả
to lớn, ngược lại sẽ phát sinh nhiều vấn đề phức tạp về tư tưởng tình cảm và sẽ
ảnh hưởng không tốt đến các mặt hoạt động của nhà trường.
Bản thân tôi nhận thấy đây là công tác rất quan trọng trong hoạt động
chuyên môn của nhà trường, trong phân công giảng dạy, phải xuất phát từ
yêu cầu của việc giảng dạy và quyền lợi học tập của toàn thể học sinh. Phân
công giáo viên trước hết phải vì sự tiến bộ của cả tập thể sư phạm, tạo điều kiện
người giỏi kèm kặp người chưa có kinh nghiệm, người còn yếu, đồng thời chú ý
đúng mức đến khả năng tiếp thu kiến thức của học sinh.
Phân công công tác giảng dạy và chủ nhiệm cho đội ngũ giáo viên một
cách hợp lý, phù hợp với tình hình thực tế của nhà trường sẽ góp phần quyết

định nâng cao chất lượng giảng dạy. Phân công đi đôi với công tác bồi dưỡng
chuyên môn nghiệp vụ cho đội ngũ là nhiệm vụ quan trọng của người lãnh đạo
nhà trường nhằm ngày càng hoàn thiện tay nghề của đội ngũ. Chuẩn phân công
dựa trên nội dung sau:
+ Yêu cầu của việc dạy: chuẩn này xuất phát từ nhận thức rằng căn cứ vào
công việc để chọn người thích hợp, hết sức tránh tình trạng ngược lại.
+ Năng lực và sở trường: xét về năng lực, mỗi giáo viên trước hết phải
thể hiện năng lực của chính mình, nếu giáo viên nào không có năng lực giảng
dạy thì kiên quyết chuyển sang việc khác. Xét về sở trường: năng lực đã đạt ở
trình độ cao, kỹ năng tinh thông và gần đạt tới mức kỹ xảo, nếu giao đúng việc
8
thì kết quả sẽ đạt tốt.
+ Thâm niên nghề nghiệp: Đối với nghề dạy học thì thâm niên có một ý
nghĩa

đặc
biệt quan trọng. Thâm niên nghề nghiệp thông báo cho người quản
lý biết vốn liếng nghề nghiệp mà người giáo viên đã tích lũy được. Tuy
nhiên, điều đó chỉ đúng với những người thực sự yêu nghề và tận tụy với nghề.
+ Nguồn đào tạo: Đội ngũ giáo viên khá đông và nguồn đào tạo rất đa
dạng,

công
tác bồi dưỡng thường xuyên chưa thật có hiệu quả. Vì vậy, nhiều
giáo
viên

còn
lúng túng khi dạy theo phương pháp mới. Trong việc phân công
giảng dạy cho giáo viên, hiệu trưởng cần thấy rõ điều này để tạo một bước

chuẩn bị cho giáo viên, giúp họ tiếp cận chương trình, nắm vững chương trình
và giảng dạy tự tin hơn.
+ Hoàn cảnh gia đình và nguyện vọng cá nhân: Tuy chuẩn này không lấn
át các chuẩn trước, nhưng người lãnh đạo cần xem xét từng trường hợp cụ thể
để giải quyết hợp lý sao cho tình nghĩa càng thêm ấm áp để từ đó bản thân
người giáo viên được quan tâm sẽ cố gắng nhiều hơn đối với công việc chung.
Tất nhiên không được quên việc thuyết phục, giải thích, động viên họ cùng chia
sẻ khó khăn với mọi người trong hoàn cảnh chung của nhà trường.
2.3.2.2. Xây dựng tổ chuyên môn
Việc tổ chức các tổ chuyên môn căn cứ vào qui định của Điều lệ trường
phổ thông và xem xét tình hình thực tế của cơ cấu đội ngũ giáo viên nhà
trường. Trường THCS & THPT Bàu Hàm trong năm học vừa qua có 6 tổ
chuyên môn: tổ Toán – Tin, tổ Hóa – Lý – Công nghệ, tổ Sinh – TDQP –
Nhạc – Mỹ thuật, tổ Văn – GDCD, tổ Sử - Địa, tổ Anh văn. Đa số các tổ
trưởng, tổ phó đều có đủ phẩm chất và năng lực để điều khiển hoạt động của
tổ theo mục tiêu phấn đấu của nhà trường, tuy nhiên đội ngũ nhà trường còn rất
trẻ, thiếu kinh nghiệm, tổ trưởng cũng gặp không ít khó khăn trong quản lí tổ
nhất là tổ ghép, bao gồm cả chuyên môn THCS và THPT.
Thông qua tổ chuyên môn, người lãnh đạo sẽ nắm được sâu sát hoạt động
của giáo viên, phát huy cao độ sự thống nhất giữa lãnh đạo với các thành viên
trong tập thể sư phạm. Vì vậy, người lãnh đạo luôn luôn tìm hiểu, tăng cường
chỉ đạo hoạt động của tổ chuyên môn, tìm hiểu tâm tư nguyện vọng của giáo
viên thông qua tổ chuyên môn.
Trường THCS & THPT Bàu Hàm đã thực hiện một số biện pháp chỉ đạo
hoạt động tổ chuyên môn:
a. Qui định chế độ sinh hoạt chuyên môn hàng tháng
Căn cứ vào nội dung các hoạt động của tổ chuyên môn, căn cứ vào yêu cầu
trọng tâm trọng điểm của chương trình trong từng thời gian, hiệu trưởng chỉ
đạo các tổ đi sâu vào nội dung cụ thể cho phù hợp. Chế độ hội họp là 2 lần /
tháng

Hàng tháng, hiệu trưởng hoặc phó hiệu trưởng họp các tổ trưởng chuyên
môn, chỉ đạo các tổ chuyên môn thực hiện kế hoạch chuyên môn của trường
và kế hoạch của các tổ chuyên môn. Đồng thời yêu cầu các tổ trưởng
chuyên môn báo cáo tình hình giảng dạy của giáo viên và tình hình học tập
của học sinh trong phạm vi tổ quản lý.
Ở trường THCS & THPT Bàu Hàm, lãnh đạo nhà trường thường xuyên
9
tham dự các cuộc họp của tổ chuyên môn để nắm sát tình hình giảng dạy và sinh
hoạt chuyên môn của giáo viên, từ đó kịp thời điều chỉnh những hoạt động chưa
đúng hướng.
Hoạt động chuyên môn của các tổ hướng vào các hoạt động chủ yếu sau:
- Giúp giáo viên thực hiện chương trình dạy học: Trong các buổi sinh hoạt
chuyên môn, tổ trưởng chuyên môn tổ chức cho giáo viên thảo luận những
vấn đề mới và khó trong chương trình, thống nhất những vấn đề trọng tâm; tổ
trưởng chuyên môn dự kiến những vấn đề có thể nảy sinh trong quá trình thực
hiện chương trình và dự kiến biện pháp giải quyết khả thi theo khả năng của
giáo viên trong tổ chuyên môn, những điều kiện vật chất kỹ thuật cần có; tổ
trưởng chuyên môn theo dõi việc thực hiện chương trình ở tổ chuyên môn,
báo cáo đầy đủ các thông tin theo yêu cầu của lãnh đạo. Tổ trưởng chuyên môn
yêu cầu giáo viên nghiên cứu kỹ chương trình ở các khối lớp được phân công
giảng dạy, đồng thời nghiên cứu thêm chương trình toàn cấp vì giáo viên cần
nắm được để thấy vị trí và yêu cầu về trình độ kiến thức mà khối mình cần đạt.
Trên cơ sở đó xác định những vấn đề cần tập trung rút kinh nghiệm cho bản
thân hoặc cần thảo luận ở tổ chuyên môn, nhất là đối với Trường THCS &
THPT Bàu Hàm là trường hai cấp học liên thông với nhau, giáo viên dạy ở
THCS cần tìm hiểu chương trình ở THPT để nắm bắt được kiến thực trọng tâm
giảng dạy cho học sinh, giáo viên dạy ở THPT cần biết được học sinh đã được
học gì ở lớp dưới từ đó có phương pháp dạy phù hợp.
- Các hoạt động giúp giáo viên chuẩn bị bài dạy có chất lượng tốt: Đầu
năm học, tổ trưởng chuyên môn tổ chức cho giáo viên trong tổ trao đổi

những vấn đề liên quan đến việc chuẩn bị cho giảng dạy để có định hướng
chung thống nhất trong tổ, xây dựng chương trình phù hợp với tình hình thực tế
của nhà trường. Trên cơ sở những yêu cầu về việc chuẩn bị giờ lên lớp, tổ
trưởng chuyên môn hướng dẫn giáo viên thảo luận kỹ những vấn đề cần thiết
như:
+ Xác định rõ mục đích yêu cầu của chương và từng bài và có sự thống
nhất trong tổ, nhóm chuyên môn;
+ Thảo luận kỹ nội dung chương trình để phát hiện những vấn đề khó khi
dạy, phân tích các phương pháp có thể vận dụng, nêu rõ những chỗ mạnh, chỗ
yếu của mỗi phương pháp, xem xét khả năng của từng giáo viên trong việc
vận dụng, tuyệt đối không gò ép tất cả mọi người phải tuân theo một phương
pháp duy nhất;
+ Tổ chức cho giáo viên trao đổi các tài liệu tham khảo;
+ Tổ chức cho giáo viên làm đồ dùng dạy học, nghiên cứu sử dụng có hiệu
quả các đồ dùng dạy học hiện có của nhà trường;
Hàng tuần, tổ trưởng chuyên môn giao trách nhiệm cho giáo viên hướng dẫn
tập sự kiểm tra việc soạn bài của giáo viên trong buổi sinh hoạt tổ chuyên môn
đối với giáo viên mới ra trường, đối với các giáo viên khác, tổ trưởng, tổ phó
kiểm tra giáo án 1 lần/tháng, báo cáo kết quả kiểm tra trong biên bản sinh hoạt
tổ chuyên môn và báo cáo với lãnh đạo để xử lí kịp thời các trường hợp vi phạm
quy chế chuyên môn. Sau khi kiểm tra phải có nhận xét, góp ý một cách cụ thể
giúp giáo viên rút kinh nghiệm soạn bài tốt hơn.
10
Ở Trường THCS & THPT Bàu Hàm, việc ứng dụng công nghệ thông tin để
quản lí hoạt động chuyên môn được thực hiện có hiệu quả, lãnh đạo nhà trường
theo dõi việc thực hiện báo giảng của giáo viên thông qua phần mềm VNPT, từ
đó có thể thực hiện dự giờ đột xuất kiểm tra công tác giảng dạy của giáo viên.
- Các hoạt động nâng cao chất lượng giờ dạy trên lớp của giáo viên
+ Tổ trưởng chuyên môn tổ chức cho giáo viên nghiên cứu vận dụng các
phương pháp dạy học mới vào các giờ dạy.

+ Tổ trưởng chuyên môn xây dựng kế hoạch dự giờ của tổ trong cả năm
học căn cứ vào thực tế tình hình đội ngũ của tổ. Tổ chức việc dự giờ và phân
tích sư phạm giờ dạy của giáo viên trong phạm vi tổ.
+ Động viên giáo viên đăng ký giờ dạy tốt;
+ Tổ chức thao giảng về đổi mới phương pháp và hình thức dạy học; Tổ
chức thường xuyên các tiết dạy minh họa, đổi mới về cách xem xét một giờ dạy,
quan sát trọng tâm ở hoạt động của học sinh, cùng xây dựng giáo án, triển khai
và rút kinh nghiệm trong tổ chuyên môn để mọi người nhận xét, góp ý và rút
kinh nghiệm cho bản thân
- Tổ chức kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh
+ Tổ chức cho giáo viên trong tổ nghiên cứu nắm vững các qui định về
kiểm tra, đánh giá, xếp loại học tập của học sinh. Thực hiện tốt kế hoạch kiểm
tra, thi của nhà trường; Một thực tế tồn tại không những ở Trường THCS &
THPT Bàu Hàm là đa số giáo viên không nắm được cách đánh giá, xếp loại học
sinh do đã có phần mềm thực hiện, nên các tổ chuyên môn cần chú ý thường
xuyên sinh hoạt để giáo viên nắm được quy chế đánh giá, xếp loại học sinh.
+ Bảo đảm tất cả các bài kiểm tra đều được chuẩn bị kỹ và có đáp án kèm
theo để hạn chế việc cho điểm theo cảm tính. Trước khi ra đề kiểm tra, các giáo
viên cùng giảng dạy phải họp thống nhất nội dung ra đề kiểm tra, thông báo cho
học sinh tại bản tin của lớp và của trường, biên bản thống nhất được lưu vào hồ
sơ tổ để đánh giá, xem xét giáo viên có thực hiện đúng theo quy định hay không.
+ Tổ trưởng chuyên môn báo cáo tình hình thực hiện lịch kiểm tra trong tổ
hàng tháng; Kiểm tra công việc giáo viên phải làm khi kiểm tra kết quả học
tập của học sinh; Yêu cầu giáo viên thực hiện nghiêm túc các qui định của nhà
trường về kiểm tra đánh giá học sinh (chấm bài, nhập điểm vào phần mềm,
thống kê chất lượng)
+ Ở Trường THCS & THPT Bàu Hàm, các bài kiểm tra từ 45 phút trở lên
được thực hiện tập trung sau tiết 2 sáng thứ 5 hàng tuần. Vào đầu mỗi học kì,
dựa vào phân phối chương trình của các tổ chuyên môn, tôi đưa ra lịch kiểm tra
tập trung, yêu cầu giáo viên tất cả giáo viên tham gia giảng dạy đều phải ra đề

kiểm tra, đáp án, nộp cho bộ phận giáo vụ. Hàng tuần, bản thân tôi xem xét và
lựa chọn đề kiểm tra một cách ngẫu nhiên. Sau mỗi bài kiểm tra, bộ phận giáo
vụ thống kê chất lượng, thông báo tại bảng để cho tất cả giáo viên cùng theo dõi,
từ đó có những điều chỉnh phù hợp.
- Tổ chức các hoạt động ngoại khóa cho học sinh
Các hoạt động ngoại khóa tạo điều kiện cho học sinh khả năng mở rộng và
đào sâu tri thức đã tiếp thu được ở chương trình bắt buộc. Đồng thời tạo thêm
hứng thú học tập và làm phát triển thêm năng lực riêng của từng học sinh. Qua
11
đó góp phần hướng nghiệp cho học sinh.
Ở Trường THCS & THPT Bàu Hàm, hoạt động ngoại khóa còn hạn chế,
trong năm vừa qua, tổ Sinh – TDQP – Nhạc – Mỹ thuật đã tổ chức cho học sinh
trồng cây thuốc nam, tổ chức hội thao về quốc phòng an ninh, các tổ khác chưa
thực hiện được
- Chỉ đạo tổ chuyên môn tổ chức phụ đạo học sinh kém, bồi dưỡng học
sinh giỏi: Đối với học sinh yếu kém, nhà trường yêu cầu giáo viên trong quá
trình dạy trên lớp phải tìm mọi cách thanh toán những lỗ hổng về kiến thức cho
các em, giúp các em tiến bộ trong học tập bằng cách cải tiến phương pháp giảng
dạy, cho những bài tập vừa sức để khuyến khích các em, khen kịp thời khi các
em có sự tiến bộ dù nhỏ. Nếu giáo viên đã tiến hành những biện pháp tích cực
mà vẫn không có hiệu quả (hoặc có rất ít) thì tổ trưởng chuyên môn đề nghị nhà
trường tổ chức các lớp học phụ đạo và cử giáo viên có kinh nghiệm nhất, có
phương pháp giảng dạy tốt nhất phụ trách. Đối với học sinh giỏi: Yêu cầu giáo
viên trong quá trình giảng dạy phát hiện các học sinh có năng khiếu về bộ
môn của mình và có trách nhiệm bồi dưỡng thường xuyên. Tuy nhiên, chất
lượng đội tuyển học sinh giỏi của nhà trường chưa cao vì mặt bằng chất lượng
thấp, trong các năm qua, các giải mà trường THCS & THPT Bàu Hàm đạt
được chủ yếu là ở các môn xã hội như Văn, Sử, Địa.
- Chỉ đạo tổ chuyên môn tổ chức bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ cho
giáo viên: Để nâng cao năng lực sư phạm cho đội ngũ giáo viên, lãnh đạo nhà

trường chỉ đạo các tổ chuyên môn tổ chức bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ cho
giáo viên. Nội dung bồi dưỡng gồm những kiến thức liên quan đến môn dạy,
ngoại ngữ, tin học, các kiến thức về phương pháp dạy học …Hình thức bồi
dưỡng chủ yếu trong tổ chuyên môn là hội thảo, thao giảng chuyên đề, tự
học. Trong năm học 2013-2014, nhà trường đã tổ chức 2 lần mời các giáo viên ở
trường khác có kinh nghiệm về sử dụng thiết bị dạy học tiên tiến như bảng thông
minh để tập huấn cho giáo viên.
- Hướng dẫn các tổ lập hồ sơ lưu trữ thông tin:Các hồ sơ gồm có:
+ Văn bản chỉ thị, hướng dẫn về nhiệm vụ năm học của các cấp chỉ
đạo chuyên môn;
+ Các loại kế hoạch của tổ;
+ Biên bản sinh hoạt tổ chuyên môn;
+ Bảng thống kê kết quả khảo sát chất lượng học tập của học sinh;
+ Tư liệu về các hoạt động của tổ ;
+ Sổ bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ cho giáo viên: ghi nhận việc đánh
giá, góp ý các tiết dự giờ, hội giảng, các thảo luận chuyên đề chuyên môn, triển
khai nội dung các lớp bồi dưỡng, tập huấn của cấp trên
Tổ trưởng cần hướng dẫn giáo viên thực hiện tốt các hồ sơ chuyên
môn (kế hoạch của tổ và cá nhân, giáo án, sổ chủ nhiệm, sổ dự giờ, sổ ghi điểm
cá nhân, sổ tư liệu, sổ họp chuyên môn ).
- Lãnh đạo thường xuyên kiểm tra hoạt động của tổ chuyên môn
Hiệu trưởng giáo cho bản thân tôi có thể kiểm tra trực tiếp hay gián tiếp, có
thể kiểm tra toàn diện hoặc kiểm tra một vài hoạt động của tổ (kiểm tra chuyên
đề).
12
+ Với nội dung kiểm tra toàn diện; tôi kiểm tra 2 lần/năm kết hợp kiểm tra
toàn diện một vài giáo viên và một vài lớp học sinh, thời gian tiến hành mỗi đợt
kiểm tra khoảng một tuần.
+ Với nội dung kiểm tra chuyên đề cũng được tiến hành như kiểm tra
toàn diện nhưng nội dung chỉ tập trung vào vấn đề đã chọn, ví dụ như kiểm tra

về hồ sơ, giáo án, công tác ra đề kiểm tra tập trung, công tác chấm bài, công tác
thực hành thí nghiệm
2.3.2.3. Công tác tổ chức lớp học
- Hiệu trưởng phân công cho bản thân tôi lập kế hoạch và tổ chức thi kiểm
tra chất lượng đầu năm đối với tất cả các khối lớp để chọn ra lớp A1. Đây là lực
lượng nòng cốt của nhà trường trong học tập cũng như các phong trào thi đua, vì
vậy việc lựa chọn học sinh rất quan trọng. Trong năm học vừa qua, nhà trường
chú trọng hơn đến việc phân học sinh theo nguyện vọng thi Đại học, Cao đẳng
của học sinh, xếp các em học khá Toán, Lý, Hóa vào lớp A1, tăng cường thời
gian học các môn này hơn.
- Để học sinh hoạt động tốt trong tập thể lớp, lãnh đạo nhà trường đã chỉ
đạo giáo viên chủ nhiệm ổn định tổ chức lớp: tổ chức cho học sinh bình bầu ban
cán sự lớp như lớp trưởng, lớp phó, các tổ trưởng tổ học tập, cán sự bộ môn ,
thành lập các tổ học tập, phân công đôi bạn cùng tiến
2.3.2.4. Tổ chức thực hiện các hoạt động chuyên môn khác tại
trường THCS & THPT Bàu Hàm năm học 2013-2014
- Công tác dạy nghề: Do điều kiện của nhà trường, nhất là sự phân công
công tác của giáo viên, còn thiếu cục bộ ở một số bộ môn nên nhà trường chỉ tổ
chức dạy nghề lớp 8 là nghề Tin học, nghề lớp 11 là nghề điện dân dụng.
- Công tác thực hành, thí nghiệm (Hóa, Sinh, Lý, Công nghệ, Tin học):
Trường THCS & THPT Bàu Hàm có đầy đủ các phòng thí nghiệm phục vụ
cho công tác thực hành thí nghiệm: 1 phòng thực hành Hóa, 1 phòng thực hành
Sinh – Công nghệ nông nghiệp, 1 phòng thực hành Lý – Công nghệ công
nghiệp, 1 phòng thực hành nghề điện dân dụng, 3 phòng máy tính thực hành tin
học nên các giờ thực hành được đàm bảo, không bỏ sót. Nhà trường phân công
cho giáo viên phụ trách phòng thực hành giảng dạy, hướng dẫn cho học sinh
thực hành theo chương trình, kế hoạch.
- Triển khai các cuộc thi do Sở, Phòng phát động: kết quả còn hạn chế
Thi học sinh giỏi khối 9, 10, 12 các môn văn hóa; Thi giải toán trên
Internet khối 6 đến 12; Thi học sinh giỏi Tiếng Anh trên Internet; Thi thí nghiệm

thực hành khối 9 đối với các môn Lý, Hóa, Sinh, Thi giải toán trên máy tính
cầm tay; Không có học sinh tham gia cuộc thi sáng tạo khoa học kĩ thuật, không
tham gia cuộc thi “Vận dụng kiến thức liên môn để giải quyết tình huống thực
tiễn”
Giáo viên tham gia Hội thi giáo viên dạy giỏi cấp tỉnh (có 3 giáo viên được
công nhận danh hiệu giáo viên dạy giỏi cấp tỉnh); không tham gia Hội thi giáo
viên giỏi ứng dụng công nghệ thông tin; Có 2 sản phẩm tham gia Hội thi tích
hợp kiến thực liên môn của tổ Sử - Địa.
2.3.3. Chỉ đạo, quản lí thực hiện công tác chuyên môn
2.3.3.1. Quản lí việc thực hiện chương trình:
13
Tại trường THCS & THPT Bàu Hàm, công tác chuyên môn được hiệu
trưởng chỉ đạo :
- Thống nhất với phó hiệu trưởng triển khai thực hiện kế hoạch chuyên
môn.
- Họp Hội đồng nhà trường đầu năm học: giao nhiệm vụ cho giáo viên, phổ
biến những nội qui về chuyên môn. Nội dung của nội qui chuyên môn hướng
vào các tiêu chí sau:
+ Đảm bảo ngày công lao động, ra vào lớp đúng giờ
+ Nâng cao chất lượng giờ dạy trên lớp (đổi mới phương pháp dạy học)
+ Thực hiện tốt qui chế chuyên môn: thực hiện đúng chương trình dạy
học mà các tổ đã thống nhất xây dựng, chuẩn bị đầy đủ và có chất lượng bài dạy
trước khi lên lớp, thực hiện tốt việc kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học
sinh, làm và sử dụng có hiệu quả đồ dùng dạy học, thực hiện đầy đủ các tiết
thực hành thí nghiệm trong chương trình, thực hiện đầy đủ các hồ sơ chuyên
môn, không ngừng học tập, bồi dưỡng nâng cao trình độ tay nghề, thực hiện
đúng qui định về dạy thêm, học thêm.
- Những qui định trên phải được giáo viên nắm vững, phó hiệu trưởng chỉ
đạo các tổ trưởng chuyên môn theo dõi nhắc nhở việc thực hiện của giáo viên,
có kế hoạch kiểm tra thường xuyên việc giáo viên thực hiện các qui định trên.

- Phó hiệu trưởng xây dựng những biểu mẫu báo cáo, thống kê về tình hình
giảng dạy, lưu trữ biên bản các cuộc họp giữa phó hiệu trưởng chuyên môn với
các tổ trưởng chuyên môn hoặc với toàn thể giáo viên, biên bản sinh hoạt tổ
chuyên môn để xem xét việc thực hiện chương trình, theo dõi sát sao việc giáo
viên nghỉ dạy, dạy thay, dạy bù
- Hàng tháng, cuối học kỳ 1 và cuối năm học: hiệu trưởng cùng với phó
hiệu trưởng chuyên môn sơ kết, tổng kết công tác giảng dạy; kiểm điểm đánh
giá vạch ra những công tác đã làm tốt, những giáo viên thực hiện nhiệm vụ tốt;
phát hiện những vấn đề cần uốn nắn, nhắc nhở những giáo viên còn có những
sai sót trong công tác, từ đó đề ra biện pháp khắc phục cho thời gian tới.
2.3.3.2. Quản lí công tác chuẩn bị giờ lên lớp của giáo viên
Việc chuẩn bị giờ lên lớp quyết định đến chất lượng giờ lên lớp và chất
lượng quá trình dạy học. Việc giáo viên tự chuẩn bị cho các giờ lên lớp là việc
quan trọng nhất trong qui trình lao động sư phạm. Việc tự chuẩn bị của giáo
viên là một khâu lao động trí óc độc lập, giáo viên có thể tự quyết định thực
hiện ở nhà hay ở trường. Nếu người giáo viên không có đầy đủ tinh thần trách
nhiệm, không có chế độ làm việc trong ngày rõ ràng, không chuẩn bị sớm cho
các giờ lên lớp thì công việc sẽ hời hợt và mang tính hình thức.
Người lãnh đạo quan tâm đến chất lượng giờ lên lớp thì trước tiên phải
quan tâm đến chất lượng việc chuẩn bị giờ lên lớp của giáo viên. Sự chuẩn bị
của giáo viên càng chu đáo thì kết quả dạy học càng ít sai sót. Quản lý việc
chuẩn bị giờ lên lớp là một hoạt động quản lý cần thiết để nâng cao hiệu quả
của việc dạy và học. Do đặc điểm đặc thù của lao động sư phạm nên công tác
chuẩn bị giờ lên lớp do giáo viên thực hiện ở nhà và gắn với thời gian rảnh rỗi
của họ. Vì vậy, đây là khâu khó quản lý đối với người lãnh đạo.
Người lãnh đão phải có quan niệm đúng đắn về giáo án (bài soạn) và quan
14
trọng hơn là phải biết giáo viên soạn bài như thế nào. Giáo án của giáo viên phải
thực sự là bản thiết kế một giờ lên lớp đòi hỏi tính chính xác, rõ ràng về nội
dung, phong phú về phương pháp giảng dạy. Thực tế có những người lãnh đạo

chỉ quan tâm đến hình thức sạch đẹp mà chưa quan tâm đến chất lượng của
một bài soạn, dẫn đến tình trạng đánh giá không chính xác công sức của giáo
viên trong việc soạn bài.
Người lãnh đạo cần hiểu rõ, trong hàng loạt công việc để chuẩn bị cho
giờ lên lớp, có những việc cần làm ngay từ đầu năm học như: làm kế hoạch
giảng dạy, chuẩn bị những đồ dùng dạy học cần thiết, các loại sổ sách
chuyên môn… nhưng cũng có những việc phải làm thường xuyên trong năm
học như: sưu tầm tài liệu tham khảo, nghiên cứu các phương pháp giảng dạy,
đặc biệt là các phương pháp giảng dạy mới… Để giúp giáo viên chuẩn bị giờ
dạy tốt, nhà trường phải kịp thời đáp ứng những yêu cầu của giáo viên về: sách
giáo khoa, sách hướng dẫn giảng dạy, sách tham khảo; các tạp chí của ngành
(tạp chí Giáo dục, Giáo viên và nhà trường, nghiên cứu giáo dục, thông tin khoa
học giáo dục…); đồ dùng dạy học (căn cứ vào danh mục đồ dùng dạy học do
Bộ Giáo dục - đào tạo qui định và căn cứ vào yêu cầu thực tiễn của các tổ
chuyên môn).
Ở Trường THCS & THPT Bàu Hàm, việc quy định về soạn bài được đưa ra
cụ thể, vì đa số là giáo viên trẻ nên phó hiệu trưởng chuyên môn, các tổ trưởng
chuyên môn, giáo viên hướng dẫn tập sự có nhiệm vụ hướng dẫn giáo viên lập
kế hoạch soạn bài, phổ biến những yêu cầu của việc chuẩn bị bài giảng, qui định
chất lượng một bài soạn đối với từng loại bài, tổ chức bồi dưỡng giáo viên về
đổi mới phương pháp dạy học và ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học,
có kế hoạch mua sắm đồ dùng dạy học, tài liệu tham khảo, các phương tiện kỹ
thuật phục vụ giảng dạy cho giáo viên, thường xuyên kiểm tra công tác chuẩn bị
bài dạy của giáo viên.
2.3.3.3. Quản lí giờ dạy trên lớp của giáo viên
Giờ học là yếu tố quan trọng cơ bản có tính chất quyết định kết quả đào tạo
giáo dục của nhà trường. Hoạt động dạy học được thể hiện chủ yếu bằng hình
thức dạy học trên lớp với những giờ lên lớp và hệ thống bài học. Giờ lên lớp
của giáo viên phản ánh toàn bộ những gì họ đã tích lũy được, đã nghiền ngẫm,
đã luyện tập đồng thời cũng là lúc thể hiện tinh thần trách nhiệm nơi họ. Trong

giờ dạy trên lớp, mỗi công việc, mỗi thái độ biểu thị trước học sinh của giáo
viên đều là những chi tiết thể hiện phương pháp dạy học, phương pháp đó còn
được thể hiện ở sự hài hòa giữa công việc của thầy và trò; ở sự cân đối giữa
các khâu công việc của thầy (giảng kiến thức mới và luyện tập kỹ năng;
truyền thụ và kiểm tra); ở sự đúng lúc, đúng mức độ của thái độ động viên
khuyến khích hoặc chê trách học sinh.
Trong giờ học, hoạt động trí tuệ của học sinh giữ vị trí quan trọng và nó
chỉ nảy sinh khi các em đứng trước một nhiệm vụ, một công việc rõ ràng và hợp
với trình độ. Do đó, khi lên lớp giáo viên phải động viên được các chức năng
tâm lý, khai thác đầy đủ những nét tích cực của mỗi học sinh để các em biến
được khối thông tin đã thu nhận được thành vốn hiểu biết của chính mình.
Do tầm quan trọng của giờ lên lớp nên cả người lãnh đạo và giáo viên đều
15
tập trung sự chú ý, mọi cố gắng của mình vào giờ lên lớp nhưng mỗi người
có vai trò riêng. Trực tiếp quyết định kết quả giờ lên lớp là nguời giáo viên.
Quản lý thế nào để các giờ lên lớp có kết quả tốt là việc làm của lãnh đạo nhà
trường.
Đối với giờ lên lớp, vai trò của người lãnh đạo là gián tiếp, nói như vậy
hoàn toàn không phải là không thể tác động có hiệu quả đến giờ lên lớp, người
lãnh đạo một mặt phải có những biện pháp tạo khả năng điều kiện cho giáo viên
lên lớp có hiệu quả, mặt khác cùng với những người khác phải tìm mọi biện
pháp tác động trực tiếp đến giờ lên lớp của giáo viên. Đó là tư tưởng chỉ đạo
hành động quản lý giờ lên lớp của hiệu trưởng.
2.3.3.4. Quản lí việc đổi mới phương pháp dạy học
Đổi mới phương pháp dạy học không phải là hoạt động đơn lập từ phía
thầy- trò mà hiệu quả của nó phụ thuộc rất nhiều vào tư duy, năng lực lãnh đạo
của người quản lý trường học. Người hiệu trưởng có vai trò quan trọng trong
việc lập kế hoạch, triển khai thực thi, kiểm tra đánh giá chất lượng hoạt động
đổi mới phương pháp dạy học trong nhà trường. Những hoạt động chỉ đạo của
hiệu trưởng ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động đổi mới phương pháp dạy học

trong nhà trường như: hoạt động dạy học của giáo viên và học sinh, viết sáng
kiến kinh nghiệm, sử dụng thiết bị, đồ dùng dạy học, các hội giảng, thi giáo
viên giỏi, học sinh giỏi,… Như vậy, lãnh đạo nhà trường đã thường xuyên tác
động đến hầu hết các mặt của hoạt động đổi mới phương pháp dạy học , và sự
tác động ấy không rời rạc, không thụ động mà cần chặt chẽ, chủ động, bao
quát, trọng tâm vào mối quan hệ giữa các chủ thể dạy học.
Nhà trường đã vận dụng tối đa sự hỗ trợ của các thiết bị dạy học tiên tiến,
nhà trường đã mới một số giáo viên có kinh nghiệm trong việc sử dụng bảng
thông minh, phần mềm soạn giáo án điện tử Tuy nhiên vấn đề đổi mới
phương pháp dạy học là một tồn tại lớn tại trường THCS & THPT Bàu Hàm.
Đối với học sinh của trường có trình độ thấp mà đa số là dân tộc thiểu số, giáo
viên phải dành nhiều thời gian để kiểm tra bài của học sinh, rèn luyện cho các
em cách trình bày, cách vận dụng kiến thức vào bài học, một bài toán phải rèn
đi rèn lại nhiều lần nên thời gian dành cho việc đổi mới phương pháp còn hạn
chế, nhất là yêu cầu chung đầu tiên hiện nay là học sinh phải vượt qua các kì
thi.
2.3.3.5. Quản lí việc giáo viên kiểm tra, đánh giá kết quả học tập
của học sinh
Trong quá trình dạy học, kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh là
một khâu quan trọng nhằm xác định thành tích học tập và mức độ chiếm lĩnh tri
thức, kỹ năng, thái độ học tập của học sinh, nó vừa đóng vai trò bánh lái, vừa
giữ vai trò động lực của dạy học. Có nghĩa là nó có tác dụng định hướng, thúc
đẩy mạnh mẽ hoạt động dạy học và hoạt động quản lý giáo dục.
Đối với học sinh, kiểm tra đánh giá có tác dụng thúc đẩy quá trình học tập
phát triển không ngừng. Qua kết quả kiểm tra, học sinh tự đánh giá mức độ
chiếm lĩnh tri thức, kỹ năng so với yêu cầu của môn học và tự mình ôn tập,
củng cố bổ sung, hoàn thiện học vấn bằng các phương pháp tự học với hệ thống
các thao tác tư duy của chính mình. Do đó, kiểm tra đánh giá chẳng những là
16
biện pháp để hoàn thiện nội dung học tập mà còn là điều kiện để rèn luyện

phương pháp và hình thành thái độ học tập tích cực cho học sinh.
Đối với giáo viên, kết quả kiểm tra đánh giá vừa phản ánh thành tích học
tập của học sinh vừa giúp giáo viên tự đánh giá vốn tri thức, trình độ chuyên
môn, năng lực sư phạm, nhân cách uy tín của mình trước học sinh. Trên cơ sở
đó không ngừng nâng cao và hoàn thiện cả về trình độ học vấn, về nghệ thuật
sư phạm và nhân cách người thầy giáo.
Công tác kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh tại trường THCS
& THPT Bàu Hàm được thực hiện rất nghiêm túc, khách quan và công bằng.
Các bài kiểm tra từ 45 phút trở lên được kiểm tra tập trung, nhà trường phân
công giáo viên coi chéo, chấm chéo. Điểm số của học sinh được nhập ngay vào
phần mềm VNPT sau khi chấm. Trong các đợt thi học kì, nhà trường bố trí các
khối lớp ngồi xen kẻ với nhau ví dụ như khối 10 thi chung với khối 11, khối 6
ngồi chung với khối 7, 8.
2.3.4. Kiểm tra hoạt động chuyên môn
2.3.4.1. Kiểm tra hoạt động dạy của giáo viên
Hiệu trưởng đã phân công cho bản thân tôi là phó hiệu trượng phụ trách
công tác chuyên môn tổ chức kiểm tra giờ dạy trên lớp thông qua việc thực hiện
các chức năng quản lý tức là từ việc xây dựng kế hoạch kiểm tra đến tổ chức
kiểm tra, chỉ đạo kiểm tra và cuối cùng là tổng kết và điều chỉnh.
1. Xây dựng kế hoạch kiểm tra
Kế hoạch kiểm tra giờ dạy trên lớp của giáo viên là một nội dung quan
trọng không thể thiếu trong kế hoạch kiểm tra nội bộ trường học, việc xây dựng
kế hoạch kiểm tra giờ dạy trên lớp của Trường THCS & THPT Bàu Hàm tương
đối phù hợp với tình hình thực tế, điều kiện của nhà trường nên có tính khả thi.
- Ngay từ đầu năm học, dựa vào Hướng dẫn thực hiện nhiệm vụ năm học
và Hướng dẫn công tác thanh tra của Sở Giáo Dục Đào Tạo Đồng Nai, Hiệu
trưởng đã xây dựng dự thảo kế hoạch tổng thể của nhà trường theo quy định.
- Kế hoạch năm học được Hiệu trưởng biên soạn sau đó trình qua Chi bộ
của nhà trường, sau khi được thông qua với sự thống nhất cao, kế hoạch này đã
được thông qua Hội nghị cán bộ, công nhân viên chức đầu năm học, sau đó

được cụ thể hoá thành kế hoạch của từng bộ phận, từng chuyên đề, trong đó có
kế hoạch kiểm tra giờ dạy trên lớp của giáo viên.
- Kế hoạch kiểm tra giờ dạy trên lớp của giáo viên đã được xây dựng như
sau:
a. Kế hoạch kiểm tra trong năm:
- Sau khi kế hoạch được thông qua Hội nghị cán bộ, công nhân viên chức
đầu năm học, Hiệu trưởng đã phân công cho Phó hiệu trưởng phụ trách chuyên
môn xây dựng kế hoạch kiểm tra giờ dạy trên lớp của giáo viên cụ thể cho từng
tổ bộ môn. Kế hoạch này được thông qua cuộc họp liên tịch đầu năm học (thành
phần: Hiệu trưởng, các Phó Hiệu trưởng, Chủ tịch Công đoàn, Bí thư Đoàn
trường, Tổng phụ trách Đội, các Tổ trưởng chuyên môn, Tổ trưởng tổ văn
phòng, Thư kí Hội đồng). Trong buổi họp, kế hoạch kiểm tra giờ dạy trên lớp
của giáo viên được phổ biến cụ thể đến từng tổ chuyên môn, sau khi được sự
17
nhất trí cao trong hội đồng liên tịch, kế hoạch này được phổ biến đến các tổ
chuyên môn. Cụ thể:
Tổ chuyên môn Số giáo viên Học kì I Học kì II Ghi chú
Toán - Tin 16 8 7
1 GV xin
nghỉ không
lương
Hoá - Lý - Công
nghệ
15 7 7
1 GV xin
nghỉ hộ sản
Sinh - TDQP-
Nhạc - MT
13 7 6
Sử - Địa 9 5 4

Anh văn 6 3 3
Văn - GDCD 15 8 7
- Sau cuộc họp liên tịch, các tổ bộ môn tiến hành họp tổ đầu năm học.
Trong buổi họp này, kế hoạch kiểm tra giờ dạy trên lớp của giáo viên sẽ được
bàn bạc, xây dựng một cách cụ thể dưới sự nhất trí của mọi thành viên trong tổ.
Cụ thể:
Tổ
chuyên
môn
Học kì I Học kì II Ghi chú
Toán -
Tin
1. Mai Thị Ngà
2. Bùi Thị Quỳnh Loan
3. Trần Dương
4. Nguyễn Thị Phương
5. Phạm Thị Xuân Hưởng
6. Lê Văn Dĩnh
7. Bùi Thị Thơ
8. Trần Thái Hòa
1. Phan Quỳnh Diễm
2. Cao Thanh Hoàn
3. Đinh Thị Mai
4. Trần Thị Phượng
5. Vũ Thị Lành
6. Đặng Thị Điền
7. Cù Văn Luyến
1 GV xin
nghỉ
không

lương
Hoá -
Lý -
Công
nghệ
1. Mai Thị Kim Chi
2. Thái Văn Quyền
3. Hoàng Tấn Quỳnh
4. Nguyễn Thị Duyên Hải
5. Mai Thế Tính
6. Trần Văn Thiện
7. Nguyễn Thị Ngọc Minh
1. Hàn Văn Thọ
2. Lương Văn Minh
3. Trần Thanh Duyên
4. Lê Trịnh Anh Đào
5. Lê Quốc Thông
6. Trần Thị Ly
7. Nguyễn Thị Tâm
1 GV xin
nghỉ hộ
sản
Sinh -
TDQP-
Nhạc -
MT
1. Mai Văn Hiếu
2. Đỗ Thanh Khâm
3. Phan Anh Tuấn
4. Nguyễn Thị Linh Nhâm

5. Trần Thanh Bình
6. Cao Đức Tuấn
7. Nguyễn Thị Thu Hương
1. Bùi Thị Nha Trang
2. Phạm Thị Bích Hải
3. Trần Văn Hạnh
4. Nguyễn Công Nhận
5. Trịnh Đình Đức
6. Võ Mộng Nhung
18
Sử -
Địa
1. Nguyễn Thị An Hậu
2. Trần Thị Bích Phương
3. Phạm Thị Ngoạt
4. Nguyễn Thị Thu Hằng
5. Dương Văn Linh
1. Võ Thị Chung
2. Trần Thị Thanh
3. Chu Thị Thanh Hồng
4. Nguyễn Thị Giang
Anh
văn
1. Nguyễn Hoàng Thanh
2. Đoàn Quốc Thắng
3. Nguyễn Văn Đạo
1. Đoàn Minh Phước
2. Trần Thị Hồng
3. Hoàng Thị Lệ Thành
Văn -

GDCD
1. Lê Thị Thư
2. Bùi Thị Thuỷ
3. Đào Văn Bôi
4. Trần Quốc Khánh
5. Cao Thị Hoàng Hà
6. Đậu Thị Lệ Thuỷ
7. Vũ Thị Tin
8. Nguyễn Thị Mừng
1. Trịnh Dương Cầm
2. Phạm Thị Kim Thoại
3. Nguyễn Thị Minh Tâm
4. Ngô Thị Huệ
5. Nguyễn Đức Dần
6. Hoàng Thị Tâm
7. Nguyễn Thị Thanh Hương
- Tổ trưởng chuyên môn báo cáo kết quả cuộc họp tổ đầu năm bằng biên
bản cho Hiệu trưởng. Từ đó, Hiệu trưởng phân công cho Phó Hiệu trưởng giao
trách nhiệm cho Tổ trưởng chuyên môn lập kế hoạch và tổ chức kiểm tra giờ
dạy trên lớp của giáo viên cụ thể thành từng tháng sao cho phù hợp với kế hoạch
tổng thể của năm học. Cụ thể:
+ Tổ trưởng chuyên môn, nhóm trưởng của từng bộ môn trong tổ ghép lập
kế hoạch kiểm tra cụ thể (tuần, tháng) cho từng giáo viên.
+ Tổ trưởng, nhóm trưởng đôn đốc các giáo viên thực hiện tốt để ngày
càng càng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ đặc biệt là các giáo viên trẻ,
mới ra trường, giáo viên tập sự.
- Việc xây dựng kế hoạch kiểm tra giờ dạy trên lớp của giáo viên đã được
làm đúng quy trình, thể hiện được tính dân chủ trong công tác lập kế hoạch, như
thế cả Hội đồng nhà trường cùng tham gia vào công tác lập kế hoạch, cho nên
những chỉ tiêu và biện pháp đưa ra hầu như đều mang tính khả thi. Kế hoạch,

danh sách giáo viên được kiểm tra được công khai từ đầu năm học và được
thông báo ở bản tin của nhà trường giúp giáo viên được thuận lợi trong việc lập
kế hoạch của mình.
Kế hoạch kiểm tra giờ dạy trên lớp phải ghi rõ: mục đích, yêu cầu, nội
dung, phương pháp tiến hành, hình thức, tổ chuyên môn và tên giáo viên được
kiểm tra, thời gian được kiểm tra và lực lượng kiểm tra, phải đảm bảo được tính
ổn định tương đối.
- Số lượng giáo viên được kiểm tra nhiều, đảm bảo mỗi giáo viên được
kiểm tra ít nhất 1 lần trong năm học. Từ đó giáo viên có ý thức trách nhiệm hơn,
thực hiện công tác kĩ lưỡng hơn.
- Quy định trong năm học mỗi tổ phải có ít nhất 1 giáo viên tham gia vào
Hội thi giáo viên dạy giỏi cập Huyện, cấp Tỉnh (nếu có tổ chức), các tổ thực
hiện luân phiên đảm bào mỗi tổ đều tham gia vào hoạt động này.
19
- Quy định các giáo viên phải dự giờ 6 tiết/học kì, nếu giáo viên tập sự phải
dự giờ 10 tiết/ học kì.
- Bố trí thời khoá biểu hợp lí cho giáo viên, tạo điều kiện về thời gian để
giáo viên tham gia dự giờ, bố trí một vài buổi chiều trong tuần nghỉ toàn trường
để thực hiện các tiết Hội giảng cấp trường.
b. Kế hoạch kiểm tra tháng:
Nội dung dựa vào kế hoạch năm học đối với chuyên đề kiểm tra giờ dạy
trên lớp của giáo viên. Trong kế hoạch kiểm tra tháng cần phải ghi cụ thể: họ tên
giáo viên, chuyên môn, thời gian tiến hành, hình thức tiến hành sao cho giáo
viên có thể chủ động chuẩn bị. Cụ thể là kế hoạch kiểm tra tháng 11, 12/2013,
3/2014 (có phụ lục kèm theo)
c. Kế hoạch kiểm tra tuần:
Nội dung kiểm tra trong tuần cần ghi chi tiết: giáo viên được kiểm tra, nội
dung kiểm tra, hình thức kiểm tra, các lực lượng tham gia kiểm tra, thời gian
kiểm tra, thời gian hoàn thành việc kiểm tra.
Tuy nhiên, ngoài việc kiểm tra theo kế hoạch đã được thông báo trước, nhà

trường đã chú trọng công tác kiểm tra, dự giờ đột xuất. Việc dự giờ đột xuất
cũng được lập kế hoạch theo từng tuần, tuy nhiên kế hoạch này không thông báo
công khai mà chỉ thông báo cho Hội đồng chuyên môn của nhà trường để thực
hiện và chỉ thông báo cho giáo viên ngay trước giờ dạy, đảm bảo khách quan,
công bằng.
Đối với giáo viên tập sự, việc dự giờ đột xuất có thể gây áp lực tâm lí cho
giáo viên nên nhà trường đã thực hiện từng bước như sau: tổ chức dự tiết đầu
tiên để góp ý định hướng và không đánh giá xếp loại, tiết dự thứ 2 là tiết để đánh
giá xếp loại đầu tiên có báo trước ngày, giờ và lực lượng dự giờ; tiết thứ 3 (có
thể đến tiết thứ 4) là tiết thứ 2 (hoặc thứ 3) để đánh giá thì không báo trước giờ,
ngày dự mà báo trước tuần dự để tăng tính tự giác của giáo viên, sau đó sẽ dự
không báo trước vào bất kì thời gian nào. Ngoài ra tùy tình hình thực tiễn để
điều chỉnh tăng, giảm số tiết dự giờ đột xuất đối với một giáo viên hay đối với
các giáo viên.
2. Tổ chức kiểm tra:
a. Xây dựng lực lượng kiểm tra:
- Trường học có nhiều đối tượng, nhiều bộ môn phải kiểm tra. Do tính đa
dạng và phức tạp, người quản lí không đủ thông thạo tất cả các bộ môn, không
đủ thời gian để trực tiếp kiểm tra nhiều giờ dạy trên lớp của giáo viên trong nhà
trường. Vì thế dưới sự chỉ đạo của hiệu trưởng phải biết phân công nhiều thành
viên vào công việc kiểm tra, cần phải xây dựng lực lượng kiểm tra gồm nhiều
thành phần, đảm bảo tính khoa học, tính dân chủ, cũng là một yêu cầu thực hiện
phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”.
- Hiệu trưởng đã ra quyết định thành lập Ban kiểm tra nội bộ trường học
cùng với việc thành lập Ban kiểm tra giờ dạy trên lớp của giáo viên. Trong các
quyết định đó, Hiệu trưởng đã chọn lựa thành phần nhân sự của Ban kiểm tra
sao cho có tính thuyết phục cao: trình độ chuyên môn vững vàng, giàu kinh
nghiệm, biệt tiếp cận với những kiến thức mới, phương pháp giảng dạy mới, biết
vận dụng linh hoạt và nhuần nhuyễn công nghệ thông tin, biết cách lắng nghe,
20

biết cách góp ý chân tình vì sự phát triển của đồng nghiệp. Điều này đối với
Trường THCS & THPT Bàu Hàm rất khó khăn vì trường mới thành lập, đa số
giáo viên trẻ, thiếu kinh nghiệm, điều kiện đi lại khó khăn nên không thu hút
được nhiều giáo viên giỏi. Hiệu trưởng chỉ đạo cho phó hiệu trưởng chuyên môn
phân công rõ ràng trách nhiệm và quyền hạn của mỗi thành viên trong Ban kiểm
tra nhằm mục đích làm cho Ban kiểm tra hoạt động đúng chức năng của mình và
đạt được hiệu quả cao.
- Nhà trường đã thành lập Hội đồng chuyên môn cấp trường. Các thành
viên trong Hội đồng chuyên môn cấp trường là người thông thạo chuyên môn
nghiệp vụ, có uy tín, sáng suốt và linh hoạt trong công việc. Đối với Trường
THCS & THPT Bàu Hàm do đa số giáo viên trẻ về tuổi đời lẫn tuổi nghề nên đa
số các thành viên này là tổ trưởng chuyên môn. Mỗi thành viên trong Hội đồng
chuyên môn được phân công cụ thể các nội dung phần việc mình đảm trách, xác
định rõ quyền hạn, trách nhiệm.
Hội đồng chuyên môn nhà trường đã được thành lập với thành phần và
cách thức hoạt động như sau:
Họ và tên Môn Chức vụ Nhiệm vụ
Nguyễn Thị Lam Hồng Hoá P.Hiệu trưởng chuyên môn Chỉ đạo chung
Đinh Thị Mai Toán TT Tổ Toán - Tin Thành viên
phụ trách môn
Toán.
Cao Thị Hoàng Hà Văn TT Tổ Văn - GDCD Thành viên
phụ trách môn
Văn.
Lê Trịnh Anh Đào Hoá TT Tổ Hoá – Lý - CN Thành viên
phụ trách môn
Hoá.
Trần Văn Thiện Lý Giáo viên Thành viên
phụ trách môn
Lý.

Cao Đức Tuấn Sinh TT Tổ Sinh - TDQP - MT Thành viên
phụ trách môn
Sinh.
Trần Thị Thanh Địa TT Tổ Sử - Địa - Anh Thành viên
phụ trách môn
Địa.
Đoàn Quốc Thắng Anh Giáo viên Thành viên
phụ trách môn
Anh.
Dương Văn Linh Sử Giáo viên Thành viên
phụ trách môn
Sử.
21
+ Hội đồng chuyên môn cấp trường hoạt động nhằm mục đích kiểm tra,
đánh giá giáo viên trong suốt năm học về các mặt như giảng dạy, hồ sơ, giáo
án…nhằm xét duyệt kết quả hội giảng cấp trường.
+ Hội đồng chuyên môn cấp trường hoạt động thường xuyên, tích cực
nhằm đánh giá chính xác, khách quan về trình độ chuyên môn, năng lực sư
phạm của giáo viên, giúp đỡ giáo viên hoàn thiện hơn nữa về kỹ năng giảng dạy
nhất là đối với giáo viên mới, tạo điều kiện cho giáo viên có cơ hội học hỏi, có
cơ hội được góp ý để nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ.
+ Hội đồng chuyên môn cấp trường sẽ kiểm tra giáo án, dự giờ tất cả giáo
viên 2 tiết/HK.
+ Trong quá trình hoạt động hội đồng chuyên môn nhà trường sẽ mời thêm
một số giáo viên có kinh nghiệm tham gia vào quá trình dự giờ, nhận xét và
đánh giá.
+ Hội đồng chuyên môn hoạt động theo kế hoạch đã báo trước hoặc dự giờ
đột xuất, mỗi tiết dự giờ phải có ít nhất 3 thành viên trong hội đồng trong đó có
ít nhất 2 giáo viên cùng chuyên môn.
- Tính đến năm học 2013-2014, Trường THCS & THPT Bàu Hàm đã hoạt

động được 7 năm, công tác kiểm tra giờ dạy trên lớp của giáo viên đã và đang
thực hiện như trên đã đem lại hiệu quả tương đối tốt, tuy nhiên còn nhiều hạn
chế, một số giáo viên chưa thật sự thấy được tầm quan trọng của việc dự giờ,
đánh giá tiết dạy. Đa số giáo viên trong trường còn rất trẻ về tuổi đời lẫn tuổi
nghề kể cả các tổ trưởng chuyên môn nên giáo viên còn xem nhẹ việc dự giờ lẫn
nhau, hầu hết giáo viên thấy rằng mọi người cũng như mình, không có gì đặc
biệt hơn nên không cần thiết phải dự giờ, việc đánh giá đôi cũng thiếu tính
thuyết phục vì đa số các tổ trưởng chuyên môn cũng chưa có nhiều kinh nghiệm,
chưa được bồi dưỡng về nghiệp vụ kiểm tra. Một số giáo viên có kinh nghiệm
nhưng lớn tuổi rất ngại tham gia vào lực lượng kiểm tra. Một số giáo viên đã có
sức ì trong công tác, không hào hứng tham gia phong trào dạy tốt, rất ngại dự
giờ, trao đổi kinh nghiệm, ngại áp dụng phương pháp dạy mới hay triển khai các
tiết dạy ứng dụng công nghệ thông tin hay sử dụng đồ dùng dạy học.
- Nhà trường tổ chức học 2 buổi nên hầu hết các giáo viên tham gia giảng
dạy nhiều tiết, đặc biệt là giáo viên các bộ môn Toán, Lý, Hoá, Văn, Anh nên
ngoài các tiết lên lớp, giáo viên ngại tham gia vào công tác kiểm tra giờ dạy trên
lớp của giáo viên như dự giờ, đánh giá, tư vấn, thúc đẩy vì tốn nhiều thời gian,
không có thời gian nghỉ ngơi.
- Nhà trường có kế hoạch mời thêm một số giáo viên có kinh nghiệm giảng
dạy, trình độ chuyên môn tốt ở trường bạn về trường hoặc mời một số thành
viên Thanh tra kiêm nhiệm của Phòng hoặc Sở Giáo dục - Đào tạo dự giờ thăm
lớp, đánh giá giáo viên, nhưng trên hết, với lực lượng kiểm tra có uy tín này sẽ
giúp giáo viên trong nhà trường học hỏi được nhiều kinh nghiệm, nhất là các
giáo viên trẻ sẽ được tư vấn, thúc đẩy để ngày càng tiến bộ hơn. Tuy nhiên do
điều kiện khách quan, Trường đóng trên địa bàn vùng sâu vùng xa nên công tác
này còn khó khăn nên chưa thực hiện được thường xuyên.
- Trong việc xây dựng lực lượng kiểm tra, nhà trường đã chú trọng xây
dựng lực lượng phù hợp với từng cơ chế kiểm tra:
22
+ Cơ chế trực tiếp: Hiệu trưởng, phó hiệu trưởng trực tiếp kiểm tra, dự giờ

theo kế hoạch hoặc đột xuất nhằm đánh giá toàn diện, khách quan, chính xác.
+ Cơ chế gián tiếp: Tổ trưởng chuyên môn, nhóm trưởng chuyên môn
trong tổ ghép phụ trách công tác kiểm tra giờ dạy trên lớp của giáo viên trong tổ
mình, bộ môn mình. Người quản lí chỉ kiểm tra xác suất, xem kế hoạch của các
tổ chuyên môn và tham gia dự giờ với tổ trưởng, nhóm trưởng không thông báo
trước.
+ Cơ chế hỗn hợp: Người quản lí đã biết kết hợp hài hoà đúng lúc, đúng
nơi cả hai loại cơ chế nói trên trong việc kiểm tra giờ dạy trên lớp, việc sử
dụng cơ chế này đòi hỏi người quản lí phải có sự tinh tế, khéo léo để cho công
tác kiểm tra đạt hiệu quả cao và phải mang tính thuyết phục. Ví dụ, đối với các
giáo viên đã có kinh nghiệm, có tinh thần trách nhiệm, việc kiểm tra có thể giao
cho tổ trưởng chuyên môn thực hiện theo kế hoạch, tuy nhiên với những giáo
viên chưa thực sự cứng cáp trong chuyên môn đặc biệt là các giáo viên tập sự,
bản thân tôi trực tiếp kiểm tra, dự giờ cùng với tổ trưởng chuyên môn.
b. Phân cấp trong kiểm tra:
Phân cấp trong kiểm tra là một yêu cầu quản lý khoa học, phân cấp trong
kiểm tra phải phù hợp với phân cấp trong quản lý. Trong kiểm tra giờ dạy trên
lớp của nhà trường đã phân cấp kiểm tra như sau:
- Kiểm tra của cấp trường: do Hội đồng chuyên môn của nhà trường thực
hiện, khi thực hiện kiểm tra nhất định phải có mặt của Hiệu trưởng hoặc Phó
Hiệu trưởng, các thành viên của hội đồng chuyên môn. Tuy nhiên do lực lượng
giáo viên có kinh nghiệm ở trường rất ít, trong Hội đồng chuyên môn mỗi bộ
môn chỉ có một giáo viên, lại chủ yếu là giáo viên khối THPT nên đôi khi nhận
định còn mang tính chủ quan. Những nhận định đó cũng có phần chính xác với
những giáo viên công tác ở nhà trường từ khi mới thành lập, tuy nhiên với giáo
viên trẻ, đặc biệt là giáo viên khối THCS mới được sát nhập vào trường, có sự
chênh lệch, khác biệt giữa các cấp học thì đôi khi nhận định này thiếu chính xác,
duy ý chí.
Hiệu trưởng đã phân công cụ thể các thành viên lãnh đạo nhà trường tham
gia dự giờ tất cả các giáo viên theo kế hoạch đưa ra từ đầu năm. Hiệu trưởng chỉ

đạo cho Phó Hiệu trưởng chuyên môn giám sát hoạt động kiểm tra giờ dạy trên
lớp của giáo viên của các tổ trưởng chuyên môn có đúng với kế hoạch kiểm tra
của nhà trường hay không và công tác kiểm tra đó thực sự có hiệu quả hay
không, từ đó mới có định hướng điều chỉnh hay thay đổi cho phù hợp.
Trường THCS & THPT Bàu Hàm tuy còn khó khăn nhưng cũng đã cố
gắng xây dựng được một lực lượng kiểm tra mang tính thuyết phục, được sự
đồng thuận của Hội đồng sư phạm nhà trường. Từ đó, người quản lí đã được
cung cấp những thông tin mới mẽ về giáo viên, những thay đổi, tiến bộ của giáo
viên. Như thế công tác phân cấp trong kiểm tra giờ dạy trên lớp của giáo viên sẽ
được chuyển biến tích cực hơn, người quản lí sẽ mạnh dạn hơn trong công tác
phân cấp kiểm tra, sẽ tin tưởng nhiều hơn kết quả kiểm tra của cấp dưới, có thể
lấy kết quả đó làm cơ sở để đánh giá giáo viên, điều chỉnh kịp thời cho phù hợp
với điều kiện thực tế, quan trọng hơn từ kết quả đó có thể tư vấn, thúc đẩy, giúp
đỡ giáo viên hạn chế khuyết điểm, phát huy ưu điểm để ngày càng tiến bộ hơn.
23
- Nhà trường đã cung cấp những văn bản cần thiết về công tác kiểm tra giờ
dạy trên lớp của giáo viên cho mỗi tổ chuyên môn. Tại mỗi tổ chuyên môn, tổ
trưởng hoặc giáo viên có kinh nghiệm triển khai, hướng dẫn, giải thích để giáo
viên biết, hiểu, nắm vững và biết vận dụng các tiêu chuẩn vào công tác đánh giá
giờ dạy trên lớp của giáo viên sao cho khách quan, công bằng, chính xác, đem
lại hiệu quả thật sự cho công tác kiểm tra giờ dạy trên lớp của giáo viên.
- Kiểm tra của tổ chuyên môn: là công việc thường xuyên định kỳ, là
nhiệm vụ của tổ chuyên môn. Tổ trưởng chuyên môn chịu trách nhiệm chính khi
thực hiện kiểm tra các giáo viên trong tổ. Tổ trưởng chuyên môn có thể thực
hiện kiểm tra theo kế hoạch hoặc kiểm tra đột xuất, có thể thực hiện cá nhân
hoặc cùng dự với một số giáo viên trong tổ hoặc mời Ban giám hiệu cùng dự.
Tuy nhiên nếu việc kiểm tra giờ dạy trên lớp của giáo viên chủ yếu giao cho tổ
chuyên môn cũng tạo ra tính trì trệ trong công tác kiểm tra, thường thì giáo viên
nể nang nhau, rất thoải mái trong đánh giá, chưa thực sự nghiêm túc nhận xét,
không theo tiêu chuẩn quy định. Qua một thời gian công tác, những tiêu chuẩn

đó không còn là những tiêu chí phấn đấu của giáo viên nữa, có khi giáo viên
không hiểu hết được ý nghĩa của các tiêu chí đánh giá đặc biệt là giáo viên mới
ra trường, thậm chí có giáo viên không nhớ được có bao nhiêu tiêu chuẩn đánh
giá giờ dạy trên lớp và nhửng ràng buộc trong những tiêu chuẩn đó là như thế
nào.Vì thế việc dự giờ, kiểm tra giờ dạy trên lớp của giáo viên dần đi vào hình
thức, một số giáo viên không có động lực và ý thức đầu tư cho công tác giảng
dạy kể cả khi có người dự giờ làm cho người dự giờ cảm thấy thiếu sự tôn trọng
từ giáo viên đứng lớp Chính từ đó một bộ phận giáo viên không còn nghĩ đến
việc cố gắng trau dồi thêm kỹ năng sư phạm, không thích nghi được với sự đổi
mới trong giáo dục hiện nay.
Bản thân tôi đã chỉ đạo cho các tổ trưởng chuyên môn sắp xếp thời gian
cho phù hợp cũng như tạo điều kiện về thời khoá biểu để đa số thành viên trong
tổ đặc biệt là trong nhóm bộ môn có thể cùng tham gia dự giờ được tất cả các
tiết dạy kiểm tra trong tổ của mình.
- Tự kiểm tra của các cá nhân: nhà trường đã động viên khuyến khích tạo
mọi điều kiện để mỗi giáo viên biết tự kiểm tra giờ dạy trên lớp của mình dựa
trên các chuẩn đánh giá tiết dạy theo quy định của Bộ. Giáo viên có thể tự liên
hệ với giáo viên khác để dự giờ học hỏi lẫn nhau, cũng như thông qua đó nhận
ra các khiếm khuyết của bản thân, từ đó sửa chữa cho phù hợp nhằm nâng cao
hiệu quả giảng dạy. Giáo viên phải hoàn thiện hồ sơ, sổ sách, giáo án, tự cập
nhật những thông tin mới, trao đổi thông tin, kinh nghiệm giảng dạy theo nhóm,
tự cố gắng tìm tòi suy nghĩ những sáng kiến mới phục vụ tốt hơn cho công tác
giảng dạy của giáo viên và việc học tập của học sinh.
c. Xây dựng chuẩn kiểm tra:
- Muốn kiểm tra, người kiểm tra phải có chuẩn để theo đó mà so sánh, đánh
giá giờ dạy của giáo viên. Những chuẩn cần phải có trong công tác kiểm tra giờ
dạy trên lớp: chuẩn đánh giá giáo viên, chuẩn đánh giá học sinh, chuẩn đánh giá
tiết học
- Việc kiểm tra giờ dạy trên lớp có chuẩn đánh giá tiết dạy chuẩn bao gồm
hai yếu tố: định tính và định lượng. Định lượng: dựa vào hướng dẫn đánh giá và

24
xếp loại giờ dạy ở bậc trung học được thể hiện trong phiếu dự giờ. Định tính: là
sự phân tích đánh giá hoạt động giảng dạy của giáo viên, học tập của học sinh và
mối quan hệ thầy – trò trong từng hoàn cảnh cụ thể.
- Quy trình xây dựng chuẩn kiểm tra: dự thảo chuẩn → thảo luận → điểu
chỉnh → quyết định → ban hành chuẩn và áp dụng trong thực tế kiểm tra.
- Người kiểm tra cần phải nắm vững chuẩn kiểm tra, đối tượng kiểm tra
cũng phải nắm được chuẩn đó để tự kiểm tra, phấn đấu nâng cao chất lượng giờ
dạy trên lớp theo chuẩn. Tuy nhiên việc áp dụng chuẩn trong kiểm tra tuỳ thuộc
rất nhiều vào năng lực, phẩm chất của kiểm tra viên.
- Tại Trường THCS & THPT Bàu Hàm, chuẩn kiểm tra giờ dạy trên lớp
của giáo viên những năm đầu dựa vào chuẩn đánh giá ghi trong phiếu dự giờ, đó
chính là chuẩn được đưa ra trong Luật giáo dục, Điều lệ trường trung học, Công
văn 10227/THPT ngày 11/9/2001 Hướng dẫn đánh giá và xếp loại giờ dạy ở bậc
trung học, Quy chế đánh giá, xếp loại giáo viên mầm non và giáo viên phổ thông
công lập (ban hành theo Quyết định số 06/2006/QĐ-BNV ngày 21 tháng 03 năm
2006 của Bộ trưởng Bộ Nội vụ)…Ngoài việc chấp hành theo đúng chuẩn như
trên, để đánh giá chính xác hơn, bên cạnh nhận xét chủ quan của mình, đôi khi
người quản lí cũng quan tâm đến ý kiến của phụ huynh, học sinh, quan tâm đến
nhận xét của một vài giáo viên có uy tín, kinh nghiệm trong trường. Ý kiến của
phụ huynh được Hiệu trưởng tiếp nhận thông qua các buổi họp với Ban đại diện
cha mẹ học sinh, các biên bản của buổi họp giữa giáo viên chủ nhiệm với cha
mẹ học sinh tại lớp, đôi khi là các cuộc điện thoại trực tiếp từ cha mẹ học sinh
phản ánh với Hiệu trưởng. Ý kiến của học sinh được Hiệu trưởng tiếp nhận qua
phản ánh của học sinh với giáo viên chủ nhiệm, qua các cuộc tiếp xúc định kì
giữa Hiệu trưởng và lớp trưởng của các lớp hàng tháng hoặc qua thùng thư góp
ý của nhà trường.
- Nhận xét, đánh giá của một số giáo viên lớn tuổi trong trường đóng vai
trò quan trọng. Những nhận xét, đánh giá này thường rất chính xác vì nó xuất
phát từ những giáo viên dày dạn kinh nghiệm về tuổi đời lẫn tuổi nghề, có tâm

huyết với sự phát triển chung của nhà trường và đặc biệt đó là những lời góp ý
chân tình với đồng nghiệp. Tuy nhiên trong nhà trường chỉ có một vài giáo viên
lớn tuổi ở khối THCS còn khối THPT không có được thuận lợi này.
- Đa số tổ trưởng chuyên môn hoặc giáo viên được phân công kiểm tra đã
vận dụng tương đối tốt các tiêu chuẩn, tiêu chí trên, việc đánh giá được tiến
hành tương đối kịp thời, khách quan. Tiêu chuẩn đánh giá xếp loại giờ dạy của
Bộ, cơ bản là khoa học. Dựa trên 5 mặt: Nội dung, phương pháp, phương tiện, tổ
chức, kết quả; với 10 tiêu chí, mỗi tiêu chí có điểm số từ 0 đến 2.
- Tuy nhiên tiêu chuẩn đánh giá xếp loại giờ dạy của Bộ cơ bản mang tính
khái quát cao, nhiều tiêu chí còn rất chung chung, đôi khi khó thực hiện. Mỗi
người có thể hiểu một hướng. Chẳng hạn, tiêu chí “giáo án hợp lý”, như thế nào
là hợp lý? Tiêu chí: “Liên hệ thực tế (nếu có), có tính giáo dục”. Chữ “nếu có”
đặt trong ngoặc đơn nghĩa là có cũng được, mà không cũng được, nhưng không
có thì bị trừ điểm.
25

×