Tải bản đầy đủ (.pdf) (79 trang)

thực trạng phát triển kinh tế tỉnh hà nam trong giai đoạn 2006 – nay theo quan điểm chất lượng tăng trưởng và phát triển bền vững

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.42 MB, 79 trang )

BỘ KẾ HOẠCH VÀ ĐẦU TƯ
HỌC VIỆN CHÍNH SÁCH VÀ PHÁT TRIỂN












KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP


Đề tài:
THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ
TỈNH HÀ NAM TRONG GIAI ĐOẠN 2006 – NAY
THEO QUAN ĐIỂM CHẤT LƯỢNG TĂNG TRƯỞNG
VÀ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG



Giáo viên hướng dẫn : ThS. Lê Anh Đức
Sinh viên thực hiện : Lê Trường Giang
Khóa : I
Ngành : Kinh tế
Chuyên ngành : Quy hoạch phát triển






HÀ NỘI – NĂM 2014
TRÍ TUỆ VÀ PHÁT TRIỂN


i
LỜI CAM ĐOAN

Khóa luận “Thực trạng phát triển kinh tế tỉnh Hà Nam trong giai
đoạn 2006 – nay theo quan điểm chất lượng tăng trưởng và phát triển
bền vững” được thực hiện từ tháng 2/2014 đến tháng 5/2009. Khóa luận sử
dụng những thông tin từ nhiều nguồn khác nhau. Các thông tin này đã được
chỉ rõ nguồn gốc, có một số thông tin thu thập từ điều tra thực tế ở địa
phương, số liệu đã được tổng hợp và xử lý.
Tôi xin cam đoan rằng đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu và kết quả nghiên cứu trong khóa luận này là hoàn toàn trung thực và
chưa được sử dụng để bảo vệ một học vị nào. Các tài liệu tham khảo có nguồn
gốc trích dẫn rõ ràng.
Hà Nội, ngày 21 tháng 05 năm 2014
Tác giả khóa luận
Lê Trường Giang



















ii
LỜI CẢM ƠN
Trong thời gian thực hiện khóa luận, tôi đã nhận được sự quan tâm
giúp đỡ quý báu của nhiều tập thể, cá nhân trong và ngoài trường.
Trước hết, tôi xin chân thành cảm ơn Ban Giám đốc, các thầy cô Khoa
Quy hoạch phát triển cùng các thầy cô giáo trường Học viện Chính sách và
Phát triển đã tận tình giảng dạy và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập
tại trường.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến ThS. Lê Anh Đức – Phó
Trưởng ban phát triển vùng – Viện Chiến lược phát triển , người đã tận tình
chỉ bảo, giúp đỡ tôi trong thời gian thực hiện khóa luận.
Tôi xin chân thành cảm ơn các đồng chí phòng Tổng hợp, phòng Nông
nghiệp - Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Hà Nam đã giúp đỡ và tạo điều kiện
thuận lợi cho tôi trong quá trình thu thập thông tin để thực hiện khóa luận.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 21tháng 05năm 2014
Tác giả khóa luận
Lê Trường Giang



iii
MỤC LỤC

DANH MỤC BẢNG
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
MỞ ĐẦU 1
4.1. Phương pháp thu thập số liệu 2
4.2. Phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh 3
4.3. Phương pháp điều tra khảo sát thực địa 3
4.4. Phương pháp phân tích SWOT 3
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHẤT LƯỢNG TĂNG TRƯỞNG VÀ
PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG 4
1.1. Cơ sở lý luận 4
1.1.1. Khái niệm và nhóm chỉ tiêu đánh giá chất lượng tăng trưởng 4
1.1.2. Quan niệm phát triển bền vững 10
1.2. Cơ sở thực tiễn 12
1.2.1. Chiến lược phát triển bền vững của Việt Nam và những kết quả
ban đầu 12
1.2.2. Những vấn đề đặt ra và chiến lược phát triển bền vững 14
Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ TỈNH HÀ NAM
GIAI ĐOẠN 2006 - NAY THEO QUAN ĐIỂM CHẤT LƯỢNG TĂNG
TRƯỞNG VÀ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG 17
2.1. Đánh giá tổng quan về nguồn lực nội sinh đối với phát triển tỉnh Hà Nam 17
2.1.1. Vị trí địa lý 17
2.1.2. Tài nguyên 19
2.1.3. Đánh giá việc áp dụng các cơ chế chính sách 25
2.2. Đánh giá về chất lượng tăng trưởng kinh tế tỉnh Hà Nam giai đoạn
2006-2010 28

2.2.1. Kinh tế tăng trưởng nhanh song chất lượng tăng trưởng chưa cao 28
2.2.2. Cơ cấu GDP theo khu vực chuyển dịch khá nhanh nhưng cơ
cấu lao động thay đổi còn chậm 38

iv
2.2.3. Đời sống nhân dân được cải thiện đáng kể nhưng mức độ cải
thiện chưa đồng đều 40
2.2.4. Môi trường sinh thái được chú ý nhiều hơn nhưng nguy cơ ô
nhiễm còn cao 43
2.3. Đánh giá phát triển kinh tế theo quan điểm phát triển bền vững trong
giai đoạn 2006-2014 45
2.3.1. Khu vực kinh tế 44
2.3.2. Lĩnh vực xã hội 45
2.3.3. Môi trường 50
2.4. Đánh giá tổng hợp các đặc điểm hiện trạng phát triển của Hà Nam . 62
2.4.1. SWOT đánh giá chất lượng tăng trưởng và phát triển bền vững tỉnh
Hà Nam 62
2.4.2. Hạn chế và nguyên nhân 63
Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG TĂNG
TRƯỞNG, ĐẢM BẢO PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG 67
3.1. Tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức về phát triển bền vững 67
3.2. Huy động và sử dụng hiệu quả vốn đầu tư, nâng cao chất lượng nhân
lực, khai thác, sử dụng hiệu quả tài nguyên, chuyển đổi cơ cấu kinh tế. 68
3.2.1. Huy động và sử dụng hiệu quả các nguồn lực để thực hiện phát
triển bền vững 68
3.2.2. Xây dựng hệ thống chỉ tiêu đánh giá, giám sát phát triển bền vững 68
3.2.3. Ứng dụng khoa học – công nghệ 69
3.2.4. Mở rộng quan hệ hợp tác với các tỉnh 69
3.2.5. Tăng cường năng lực quản lý nhà nước và thực hiện phát triển
bền vững 69

KẾT LUẬN 71
TÀI LIỆU THAM KHẢO 72


iii
DANH MỤC BẢNG

Bảng 2.1.1: biến động sử dụng đất 24
Bảng 2.1.2: Thực trạng nguồn nhân lực 27
Bảng 2.1.3: Đánh giá chung về các yếu tố nội sinh 29
Bảng 2.2.1: ICOR qua các giai đoạn 31
Bảng 2.2.3: Năng suất lao động tính theo giá 2010 32
Bảng 2.24.: Đóng góp của các yếu tố chính vào tăng trưởng 34
Bảng 2.2.5: Chỉ số xếp hạng cạnh tranh cấp tỉnh Hà Nam 35
Bảng 2.2.6: Chỉ số bền vững kinh tế và xếp hạng tỉnh Hà Nam 36
Bảng 2.2.7: Chênh lệch thu chi ngân sách trên địa bàn 38
Bảng 2.2.8: Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế 40
Bảng 2.2.9: Tổng mức bán lẻ hàng hóa và tốc độ tăng tiêu dung thực tế41
Bảng 2.2.10: Thu nhập bình quân 1 nhân khẩu 1 tháng và hệ số GINI 43
Bảng 2.3.1: Mô hình trình diễn kỹ thuật, chuyển giao công nghệ 44
Bảng 2.3.2: Kết quả phân tích một số mẫu đất 52
Bảng 2.3.3: Lượng nước thải tại một số khu, cụm công nghiệp 53
Bảng 2.3.4: Sản phẩm khai khoáng và sản phẩm chế biến từ khai khoáng55
Bảng 2.3.5: Hiện trạng môi trường không khí khu công nghiệp 57
Bảng 2.3.6: Diễn biến độ ồn tại vùng công nghiệp 60









iv
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

Chứ viết tắt
Viết đầy đủ
ASEAN
Hiệp hội các nước Đông Nam Á
BVMT
Bảo vệ môi trường
CMKT
Chuyên môn kỹ thuật
CNH-HDH
Công nghiệp hóa-hiện đại hóa
CPI
Chỉ số giá tiêu dung
ESI
Chỉ số bền vững kinh tế
FDI
Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
GDP
Tổng sản phẩm trên địa bàn
GINI
Hệ số bình đẳng thu nhập
HTX
Hợp tác xã
ICOR
Hệ số gia tăng vốn đầu tư so với gia tăng đầu ra

KCN
Khu công nghiệp
KKT
Khu kinh tế

Lao động
ODA
Hỗ trợ chính thức
PCI
Chỉ số cạnh tranh cấp tỉnh
PTBV
Phát triển bền vững
QLNN
Quản lý nhà nước
RTSH
Rác thải sinh hoạt
TFP
Năng suất tổng hợp
TNHH
Trách nhiệm hữu hạn
TSCĐ
Tài sản cố định
TTCN
Tiếu thủ công nghiệp
UBND
Ủy ban nhân dân


1
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Trên phạm vi cả nước vấn đề chất lượng tăng trưởng và phát triển bền vững
cũng đang được nhà nước quan tâm đặc biệt, thể hiện trong Quyết định
153/2004/QĐ – TTg ngày 17/8/2004 của Thủ tướng Chính phủ V/v Ban hành định
hướng chiến lược phát triển bền vững ở Việt Nam và Quyết định số 432/QĐ – TTg
ngày 12/4/2012 về việc Phê duyệt Chiến lược Phát triển bền vững Việt Nam giai
đoạn 2011 – 2020. Tăng trưởng nhanh và bền vững là một trong những quan điểm
xuyên suốt của Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 – 2020, đã được Đại hội
Đảng toàn quốc lần thứ XI thông qua. Ngày 12 tháng 4 năm 2012 Thủ tướng Chính
phủ ban hành Quyết định số 432/QĐ – TTg về việc Phê duyệt Chiến lược Phát triển
bền vững Việt Nam giai đoạn 2011 – 2020.
Tỉnh Hà Nam thực hiện phát triển kinh tế theo mục tiêu chất lượng tăng
trưởng và phát triển bền vững đã đạt được một số những thành tựu nhất định
trong phát triển kinh tế. Tốc độ tăng trưởng kinh tế (GDP) của Tỉnh đạt bình
quân trên 13%/năm; cơ cấu kinh tế chuyển dịch tích cực theo hướng tăng tỷ
trọng công nghiệp, xây dựng và dịch vụ, giảm dần tỷ trọng nông nghiệp; các
lĩnh vực văn hoá, xã hội có nhiều tiến bộ mới; đời sống nhân dân không
ngừng được cải thiện, bộ mặt đô thị và nông thôn có nhiều khởi sắc; an ninh
chính trị, trật tự, an toàn xã hội được giữ vững.
Tuy nhiên, quy mô nền kinh tế của tỉnh Hà Nam còn nhỏ bé, thu nhập
bình quân đầu người thấp so với bình quân chung của cả nước; chất lượng
tăng trưởng chưa cao và phát triển chưa bền vững khi mà nền kinh tế phát
triển dựa quá nhiều vào vốn, tăng trưởng chủ yếu dựa vào khai thác tài
nguyên thiên nhiên, vai trò của lao động và khoa học kỹ thuật còn rất hạn chế
so với các tỉnh trong vùng và so với cả nước. Đời sống của một bộ phận nhân
dân còn nhiều khó khăn; hạ tầng KT-XH chưa đáp ứng kịp yêu cầu phát triển
kinh tế của Tỉnh. Cần phải có những nhìn nhận khách quan, thực tế về phát triển
kinh tế của Tỉnh trong giai đoạn vừa qua. Vì thế tôi lựa chọn đề tài: “Thực trạng
phát triển kinh tế tỉnh Hà Nam gia đoạn 2006 - nay theo quan điểm chất lượng
tăng trưởng và phát triển bền vững”



2
2. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu là toàn bộ diện tích hành chính tỉnh Hà Nam, trong đó có
đánh giá đến tác động của kết quả phát triển vùng Nam đồng bằng sông Hồng, trục
kinh tế Bắc – Nam và ảnh hưởng của vùng Thủ đô Hà Nội.
Phạm vi thời gian là từ năm 2006 đến 2014 và một số giải pháp kiến nghị đến
năm 2020.
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là chất lượng tăng trưởng và phát triển bền
vững tỉnh Hà Nam.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của khóa luận
Khóa luận nhằm thực hiện những nhiệm vụ sau đây:
1. Tổng quan cơ sở lý luận về chất lượng tăng trưởng và phát triển bền vững
theo quan niệm của thế giới và Việt Nam
2. Đánh giá tình hình phát triển kinh tế tỉnh Hà Nam trong giai đoạn từ 2006 –
2010 theo quan điểm chất lượng tăng trưởng, phát triển bền vững, những hạn chế và
nguyên nhân chủ yếu.
3. Đưa ra một số những giải pháp nâng cao chất lượng tăng trưởng, đảm bảo
phát triển bền vững đến năm 2020.
4. Phương pháp nghiên cứu
Nội dung của đề tài có liên quan đến nhiều lĩnh vực do đó những phương
pháp sau đây sẽ được vận dụng:
4.1. Phương pháp thu thập số liệu
Đây là phương pháp được sử dụng nhiều trong quá trình tìm hiểu và
nghiên cứu làm đề tài. Các tài liệu được tác giả thu thập từ nhiều nguồn như
các giáo trình, số liệu thống kê, các công trình nghiên cứu có nội dung liên
quan. Ngoài ra tác giả còn thu thập thêm thông tin từ báo chí, Internet…để
phục vụ cho đề tài.



3
4.2. Phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh
Các tài liệu sau khi thu thập sẽ được xử lí qua các bước như phân tích,
tổng hợp, so sánh…để trở thành những tài liệu, dẫn chứng phục vụ tốt cho
mục đích của tác giả trong đề tài.
4.3. Phương pháp điều tra khảo sát thực địa
Bên cạnh nhưng phương pháp nghiên cứu trong phòng, tác giả cũng
tiến hành điều tra, khảo sát thực địa tại một số khu công nghiệp nhằm quan
sát, đánh giá cũng như thẩm định lại một số nghi vấn trong quá trình
nghiên cứu, xử lí các tài liệu thu thập được.
4.4. Phương pháp phân tích SWOT
Phương pháp phân tích SWOT (còn gọi là ma trận SWOT) là phương
pháp phân tích các điểm Mạnh (Strengths), điểm Yếu (Weaknesses), Cơ hội
(Opportunities) và Thách thức (Threats).
5. Kết cấu của khóa luận
Nội dung kết cấu của khóa luận ngoài phần mở đầu và phần kết luận có ba chương
nội dung chính:
Chương 1: Cơ sở lý luận về chất lượng tăng trưởng và phát triển bền vững.
Chương 2: Đánh giá thực trạng chất lượng tăng trưởng và phát triển bền vững
tỉnh Hà Nam trong giai đoạn từ 2006 – nay.
Chương 3: Đề xuất giải pháp nâng cao chất lượng tăng trưởng, đảm bảo
phát triển bền vững đến năm 2020.








4
NỘI DUNG
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHẤT LƯỢNG TĂNG TRƯỞNG VÀ
PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG
1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Khái niệm và nhóm chỉ tiêu đánh giá chất lượng tăng trưởng
1.1.1.1. Khái niệm
Trong phân tích kinh tế, để phản ảnh mức độ mở rộng quy mô sản xuất
hàng hóa và dịch vụ của một nền kinh tế qua các thời kỳ, người ta thường sử
dụng khái niệm tốc độ tăng trưởng kinh tế. Tăng trưởng kinh tế được hiểu là
sự tăng thêm về quy mô, sản lượng hàng hóa và dịch vụ trong một thời gian
nhất định, thường là một năm. Nếu tổng sản phẩm hàng hóa và dịch vụ của
một quốc gia tăng lên thì đó chính là tăng trưởng kinh tế. Như vậy, tăng
trưởng kinh tế là một khái niệm phản ánh sự phát triển đơn thuần về lượng,
chủ yếu trên cơ sở tăng lên của các yếu tố đầu vào như vốn, lao động, khai
thác và sử dụng tài nguyên mà không kèm theo những thay đổi đáng kể nào
về chất.
Khái niệm tăng trưởng kinh tế có thể được hiểu theo hai cách khác nhau.
Theo quan niệm thông thường, tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng thu nhập hay
hàng hóa và dịch vụ của một nền kinh tế, một ngành kinh tế trong một thời
kỳ nhất định (thường là 1 năm) so với thời kỳ trước. Theo cách hiểu hiện đại
hơn, phản ánh sự gia tăng thu nhập hay sản lượng mà người dân được hưởng,
thì tăng trưởng kinh tế được hiểu là sự tăng lên về thu nhập ròng tính theo
bình quân đầu người. Ngoài ra, cần phân biệt sự khác nhau giữa tăng trưởng
kinh tế và phát triển kinh tế. Phát triển kinh tế mang nội hàm rộng hơn tăng
trưởng kinh tế. Phát triển kinh tế là quá trình lớn lên, tăng tiến mọi mặt của
nền kinh tế. Nó bao gồm sự tăng trưởng kinh tế và đồng thời có sự biến đổi
sâu sắc về mặt cơ cấu kinh tế, cơ cấu xã hội theo chiều hướng tiến bộ, bao
gồm tăng trưởng kinh tế cộng với những thay đổi về chất của nền kinh tế (như
phúc lợi xã hội, tuổi thọ ) và những thay đổi về cơ cấu kinh tế (giảm tỷ trọng



5
của khu vực sơ khai, tăng tỷ trọng của khu vực chế tạo và dịch vụ). Phát triển
kinh tế là một quá trình hoàn thiện về mọi mặt của nền kinh tế bao gồm kinh
tế, xã hội, môi trường, thể chế trong một thời gian nhất định.
Trước Keynes, kinh tế học cổ điển và tân cổ điển không phân biệt rành
mạch tăng trưởng kinh tế với phát triển kinh tế.
1.1.1.2. Nhóm chỉ tiêu đánh giá chất lượng tăng trưởng
Nhóm chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng riêng rẽ các nguồn lực rất đa
dạng vì bản thân các nguồn lực tác động để tạo ra đầu ra rất đa dạng và số
lượng các đầu ra cũng đa dạng. Trong nghiên cứu này, chúng tôi xin giới hạn
đánh giá theo 3 chỉ tiêu chính gồm năng suất lao động, hiệu quả đồng vốn và
hiệu quả sử dụng tổng hợp các chi phí đầu vào. Thực tế 3 chỉ tiêu này đã phản
ánh khá đầy đủ hiệu quả sử dụng các nguồn lực chủ yếu.
(1) Năng suất lao động
Năng suất lao động là chỉ tiêu đo lường hiệu quả sử dụng lao động, đặc
trưng bởi quan hệ so sánh giữa một chỉ tiêu đầu ra (kết quả sản xuất) với lao
động để sản xuất ra nó. Năng suất lao động theo khái niệm của OECD (Tổ
chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế - Organization for Economic Cooperation
and Development), trong cuốn sách “Đo lường năng suất, đo lường tốc độ
tăng năng suất tổng thể và năng suất ngành - 2002” là tỷ lệ giữa lượng đầu ra
trên đầu vào, trong đó đầu ra được tính bằng GDP (tổng sản phẩm quốc nội)
hoặc GVA (Tổng giá trị gia tăng - Gross Value Added), đầu vào thường được
tính bằng: giờ công lao động, lực lượng lao động và số lượng lao động đang
làm việc. Năng suất lao động được tính theo công thức sau:
NSLĐ = Giá trị gia tăng (hoặc GDP) / Số lượng lao động
Năng suất lao động phản ánh năng lực tạo ra của cải, hay hiệu suất của
lao động cụ thể trong quá trình sản xuất, đo bằng số sản phẩm, lượng giá trị
sử dụng (hay lượng giá trị) được tạo ra trong một đơn vị thời gian, hay đo

bằng lượng thời gian lao động hao phí để sản xuất ra một đơn vị thành phẩm.


6
Năng suất lao động là chỉ tiêu quan trọng nhất thể hiện tính chất và trình
độ tiến bộ của một tổ chức, một đơn vị sản xuất, hay của một phương thức sản
xuất, bao gồm có NSLĐ tổng hợp và NSLĐ phân theo nhóm ngành. Năng
suất lao động được quyết định bởi nhiều nhân tố, như trình độ thành thạo của
người lao động, trình độ phát triển khoa học và áp dụng công nghệ, sự kết hợp
xã hội của quá trình sản xuất, quy mô và tính hiệu quả của các tư liệu sản
xuất, các điều kiện tự nhiên.
(2) Hiệu quả đồng vốn
Để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn đầu tư, người ta có thể sử dụng nhiều
loại chỉ tiêu khác nhau, có thể sử dụng chỉ tiêu dưới đây để đánh giá hiệu quả
của một đồng vốn sản xuất nói chung hoặc một đồng vốn cố định nói riêng để
tạo ra tổng sản phẩm quốc nội GDP:
HQĐV = GDP năm nghiên cứu/Tổng số vốn sản xuất năm nghiên cứu
Tuy nhiên, do việc xác định chỉ tiêu “Tổng số vốn sản xuất” ở tầm kinh
tế vĩ mô khá khó khăn, nhất là trong điều kiện nước ta đến nay vẫn chưa
thống kê, xác định được chỉ tiêu “tài sản cố định” của toàn nền kinh tế hay
các ngành, nên thông thường người ta sử dụng hệ số ICOR để đánh giá hiệu
quả sử dụng vốn đầu tư.
Hệ số ICOR là chỉ tiêu kinh tế tổng hợp cho biết để tăng thêm 1 đồng
tổng sản phẩm trong nước (GDP) đòi hỏi phải tăng thêm bao nhiêu đồng vốn
đầu tư thực hiện. Vì vậy, hệ số này phản ánh hiệu quả của việc sử dụng vốn
đầu tư dẫn tới tăng trưởng kinh tế. Vốn đầu tư thực hiện trong hệ số ICOR
bao gồm các khoản chi tiêu để làm tăng tài sản cố định, tài sản lưu động và
các khoản hình thành nên giá trị tăng thêm của các ngành kinh tế. Hệ số
ICOR thay đổi tùy theo thực trạng kinh tế xã hội trong từng thời kỳ khác
nhau, phụ thuộc vào cơ cấu đầu tư và hiệu quả sử dụng các sản phẩm vật chất

và dịch vụ trong nền kinh tế. Hệ số ICOR bao gồm hệ số ICOR tổng hợp và
ICOR theo các ngành.


7
Nguyên tắc tính toán hệ số ICOR hàng năm và trung bình cho nhiều
năm: Công thức xác định ICOR hàng năm được viết như sau:
ICOR = Tổng vốn đầu tư / GDP tăng thêm (GTTT)
hay ICOR = I / DGDP
Trong đó: - ICOR: Hiệu quả sử dụng vốn đầu tư
- GTTT: Tổng sản phẩm tăng thêm
- I: Vốn đầu tư
Tử số của công thức trên lẽ ra phải là mức gia tăng của tài sản cố định,
song trên thực tế, rất khó kiếm được thông tin chính xác về chỉ tiêu này nên
người ta sử dụng chỉ tiêu tổng vốn đầu tư để thay thế. Tử số và mẫu số được
tính theo giá trị nhiều năm nên phải đảm bảo tính đồng nhất; do đó hai đại
lượng này đều phải được tính theo giá cố định.
Hệ số ICOR thấp chứng tỏ đầu tư có hiệu quả cao, hệ số ICOR thấp hơn
có nghĩa là để duy trì cùng một tốc độ tăng trưởng kinh tế cần một tỉ lệ vốn
đầu tư so với tổng sản phẩm trong nước thấp hơn. Tuy nhiên, theo quy luật
về lợi tức biên giảm dần khi nền kinh tế càng phát triển (GDP bình quân đầu
người tăng lên) thì hệ số ICOR sẽ tăng lên, tức là để duy trì cùng một tốc độ
tăng trưởng cần một tỉ lệ vốn đầu tư so với tổng sản phẩm trong nước cao
hơn.
Hạn chế ảnh hưởng của các nhân tố khác tới GDP: Trong tính toán hệ
số ICOR nêu trên, đã giả thiết rằng chỉ có vốn đầu tư ảnh hưởng tới tăng
trưởng GDP, còn các nhân tố khác không có ảnh hưởng gì. Đây là một giả
thiết rất mạnh. Do vậy cần hạn chế bớt cấp độ của giả thiết này bằng cách
dùng dãy số là trung bình động 3 năm của vốn đầu tư và của GDP để giảm tác
động của những yếu tố ngẫu nhiên hoặc những nhân tố khác ngoài vốn đầu tư.

Hiệu quả của vốn đầu tư của Việt Nam cũng đang giảm thấp đến mức
báo động với chỉ số ICOR tăng mạnh trong giai đoạn 1991 – 2009. Nếu
như trong giai đoạn 1991 – 1995, hệ số ICOR là 3,5 thì đến giai đoạn năm
2007 – 2008, hệ số này là 6,15; năm 2009, hệ số ICOR tăng vọt lên 8; năm


8
2010, hệ số này giảm xuống còn 6,2 nhưng vẫn còn cao hơn nhiều so với
khuyến cáo của WB: đối với một nước đang phát triển, hệ số ICOR ở mức 3
là đầu tư có hiệu quả và nền kinh tế phát triển theo hướng bền vững. So sánh
với các nước trong khu vực, ICOR của Việt Nam gần gấp đôi, có nghĩa là
hiệu suất đầu tư chỉ bằng một nửa.
(3) Hiệu quả sử dụng tổng hợp các chi phí đầu vào, đại diện bằng
chỉ tiêu tỷ lệ chi phí trung gian sử dụng trong quá trình sản xuất.
Chi phí trung gian là toàn bộ chi phí vật chất và dịch vụ phải bỏ ra trong
quá trình sản xuất để tạo ra GDP, giá trị gia tăng hay lợi nhuận.
GDP (cấp toàn nền kinh tế), giá trị gia tăng (cấp ngành) hay lợi nhuận
(cấp doanh nghiệp) chỉ bao gồm phần giá trị mới sáng tạo ra hay tăng thêm
của nền kinh tế, ngành, doanh nghiệp trong một thời kỳ nhất định. Để làm ra
phần tăng thêm này, cần phải sử dụng những chi phí nhất định về vốn cố định,
lao động, vật tư, nguyên nhiên liệu Các chi phí trung gian này không làm
tăng thêm của cải cho xã hội mà chỉ là tiêu dùng những của cải đã được xã hội
tạo ra từ trước để tiến hành tái sản xuất mở rộng Theo bảng hạch toán quốc
gia, ở tầm kinh tế vĩ mô, mối quan hệ giữa giá trị sản xuất, chi phí trung gian
và GDP hay giá trị gia tăng được thể hiện như sau:
GO = VA + IC
hay: VA = GO - IC
Trong đó: - GO là giá trị sản xuất
- VA là giá trị gia tăng
- IC là chi phí trung gian.

Do vậy, để đánh giá hiệu quả của một đồng chi phí trung gian (HQCP)
tới kết quả sản xuất, có thể sử dụng một số công thức sau:
- So sánh với giá trị sản xuất: HQCP = GO / IC
- So sánh với giá trị tăng thêm: HQCP = VA / IC
- So sánh với lợi nhuận: HQCP = Lợi nhuận / IC


9
Trong thực tiễn, người ta thường đánh giá hiệu quả sử dụng tổng hợp các
chi phí đầu vào bằng chỉ tiêu tỷ lệ chi phí trung gian (TLCP) sử dụng trong
quá trình sản xuất, tức là:
TLCP = IC / GO
Tỷ lệ chi phí trung gian là một chỉ tiêu kinh tế quan trọng để đánh giá
hiệu quả sản xuất xã hội, qua đó đánh giá chất lượng tăng trưởng. Tỷ lệ này
càng thấp thì sản xuất càng có hiệu quả; do đó tốc độ tăng trưởng và chất
lượng tăng trưởng kinh tế ngày càng cao.
(4) Năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP)
Năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) là chỉ tiêu đo lường năng suất của
đồng thời cả “lao động” và “vốn” trong một hoạt động cụ thể hay cho cả nền
kinh tế. TFP phản ánh sự tiến bộ của khoa học, kỹ thuật và công nghệ, sự gia
tăng đầu ra phụ thuộc vào tăng thêm về số lượng của đầu vào và chất lượng
các yếu tố đầu vào là lao động và vốn.
Nâng cao TFP là biện pháp gia tăng đầu ra bằng việc nâng cao chất
lượng của các yếu tố đầu vào là lao động và vốn. Cùng với lượng đầu vào như
nhau, lượng đầu ra có thể lớn hơn nhờ vào vào việc cải tiến chất lượng của lao
động, vốn và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực này. Tăng TFP gắn liền với
áp dụng các tiến bộ kỹ thuật, đổi mới công nghệ, cải tiến phương thức quản
lý, nâng cao kỹ năng, trình độ tay nghề của người lao động….Cách tính TFP
phổ biến là theo hàm sản xuất Cobb -Douglas:
Y = AK

a
L
1-a
.
Trong đó:
- Y là tổng đầu ra;
- K là vốn đầu vào;
- L là lao động đầu vào;
- A là TFP;


10
- α và 1-α là độ co giãn ( hệ số đóng góp) của đầu ra tương ứng với lao
động và vốn.
Dựa vào các kết quả nghiên cứu, Tổ chức Năng suất Châu Á (APO) đã
nêu nguồn tăng TFP chủ yếu dựa vào 5 yếu tố chính như sau: Chất lượng lao
động; Thay đổi nhu cầu hàng hóa, dịch vụ; Thay đổi cơ cấu vốn; Thay đổi cơ
cấu kinh tế; Áp dụng tiến bộ kỹ thuật.
Theo báo cáo Năng suất năm 2012 của Tổ chức Châu Á (APO) về tình
hình năng suất của các quốc gia Châu Á. Báo cáo này cho thấy trong giai
đoạn 2005-2010, mức đóng góp của TFP vào tăng trưởng GDP của nhiều
quốc gia ở mức trên 40%; như Hàn Quốc đạt 63%, Đài Loan: 59%, Ấn độ
:48%, Indonesia: 42%, Philippine: 41%; Riêng đóng góp của TFP vào tăng
trưởng GDP của Vệt Nam giai đoạn 2005-2010 là - 6% ( Trích trong Tạp chí
Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng, số 7-8, tháng 4/2013). Việt Nam tăng GDP
giai đoạn này phụ thuộc chủ yếu vào tăng vốn và lao động, không nâng cao
được hiệu quả sử dụng các nguồn lực, vì vậy đóng góp của TFP là giá trị âm.
1.1.2. Quan niệm phát triển bền vững
Quan niệm về phát triển bền vững dần được hình thành từ thực tiễn đời
sống xã hội và có tính tất yếu. Tư duy về phát triển bền vững manh nha trong

cả quá trình sản xuất xã hội và bắt đầu từ việc nhìn nhận tầm quan trọng của
bảo vệ môi trường và tiếp đó là nhận ra sự cần thiết phải giải quyết những bất
ổn trong xã hội. Chính vì thế, năm 1992, Hội nghị thượng đỉnh về Môi trường
và Phát triển của Liên hợp quốc được tổ chức ở Ri-ô đơ Gia-nê-rô đề ra
Chương trình nghị sự toàn cầu cho thế kỷ XXI, theo đó, phát triển bền vững
được xác định là: “Một sự phát triển thỏa mãn những nhu cầu của thế hệ hiện
tại mà không làm hại đến khả năng đáp ứng những nhu cầu của thế hệ tương
lai”. Theo đó, ba trụ cột phát triển bền vững được xác định là: Thứ nhất, bền
vững về mặt kinh tế, hay phát triển kinh tế bền vững là phát triển nhanh và an
toàn, chất lượng; Thứ hai, bền vững về mặt xã hội là công bằng xã hội và phát
triển con người, chỉ số phát triển con người (HDI) là tiêu chí cao nhất về phát


11
triển xã hội, bao gồm: thu nhập bình quân đầu người; trình độ dân trí, giáo
dục, sức khỏe, tuổi thọ, mức hưởng thụ về văn hóa, văn minh; Thứ ba, bền
vững về sinh thái môi trường là khai thác và sử dụng hợp lý tài nguyên thiên
nhiên, bảo vệ môi trường và cải thiện chất lượng môi trường sống.
Cho tới nay, quan niệm về phát triển bền vững trên bình diện quốc tế có
được sự thống nhất chung và mục tiêu để thực hiện phát triển bền vững trở
thành mục tiêu thiên niên kỷ.
Ở Việt Nam, chủ đề phát triển bền vững cũng đã được chú ý nhiều trong
giới nghiên cứu cũng như những nhà hoạch định đường lối, chính sách. Quan
niệm về phát triển bền vững thường được tiếp cận theo hai khía cạnh: Một
là, phát triển bền vững là phát triển trong mối quan hệ duy trì những giá trị
môi trường sống, coi giá trị môi trường sinh thái là một trong những yếu tố
cấu thành những giá trị cao nhất cần đạt tới của sự phát triển. Hai là, phát
triển bền vững là sự phát triển dài hạn, cho hôm nay và cho mai sau; phát
triển hôm nay không làm ảnh hưởng tới mai sau.
Trong mục 4, Điều 3, Luật Bảo vệ môi trường, phát triển bền vững được

định nghĩa: “Phát triển bền vững là phát triển đáp ứng được nhu cầu của thế
hệ hiện tại mà không làm tổn hại đến khả năng đáp ứng nhu cầu đó của các
thế hệ tương lai trên cơ sở kết hợp chặt chẽ, hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế,
bảo đảm tiến bộ xã hội và bảo vệ môi trường”. Đây là định nghĩa có tính tổng
quát, nêu bật những yêu cầu và mục tiêu trọng yếu nhất của phát triển bền
vững, phù hợp với điều kiện và tình hình ở Việt Nam.
Từ nội hàm khái niệm phát triển bền vững, rõ ràng là, để đạt được mục
tiêu phát triển bền vững cần giải quyết hàng loạt các vấn đề thuộc ba lĩnh vực
là kinh tế, xã hội và môi trường.
Thứ nhất, bền vững kinh tế. Mỗi nền kinh tế được coi là bền vững cần
đạt được những yêu cầu sau:
- Có tăng trưởng GDP và GDP đầu người đạt mức cao. Nước phát triển
có thu nhập cao vẫn phải giữ nhịp độ tăng trưởng, nước càng nghèo có thu


12
nhập thấp càng phải tăng trưởng mức độ cao. Các nước đang phát triển trong
điều kiện hiện nay cần tăng trưởng GDP vào khoảng 5%/năm thì mới có thể
xem có biểu hiện phát triển bền vững về kinh tế.
- Trường hợp có tăng trưởng GDP cao nhưng mức GDP bình quân đầu
người thấp thì vẫn coi là chưa đạt yêu cầu phát triển bền vững.
- Cơ cấu GDP cũng là vấn đề cần xem xét. Chỉ khi tỷ trọng công nghiệp
và dịch vụ trong GDP cao hơn nông nghiệp thì tăng trưởng mới có thể đạt
được bền vững.
- Tăng trưởng kinh tế phải là tăng trưởng có hiệu quả cao, không chấp
nhận tăng trưởng bằng mọi giá.
Thứ hai, bền vững về xã hội. Tính bền vững về phát triển xã hội ở mỗi
quốc gia được đánh giá bằng các tiêu chí, như HDI, hệ số bình đẳng thu nhập,
các chỉ tiêu về giáo dục, y tế, phúc lợi xã hội, hưởng thụ văn hóa. Ngoài ra,
bền vững về xã hội là sự bảo đảm đời sống xã hội hài hòa; có sự bình đẳng

giữa các giai tầng trong xã hội, bình đẳng giới; mức độ chênh lệch giàu nghèo
không cao quá và có xu hướng gần lại; chênh lệch đời sống giữa các vùng
miền không lớn.
Thứ ba, bền vững về môi trường. Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại
hóa, phát triển nông nghiệp, du lịch; quá trình đô thị hóa, xây dựng nông thôn
mới, đều tác động đến môi trường và gây ảnh hưởng tiêu cực đến môi
trường, điều kiện tự nhiên. Bền vững về môi trường là khi sử dụng các yếu tố
tự nhiên đó, chất lượng môi trường sống của con người phải được bảo đảm.
Đó là bảo đảm sự trong sạch về không khí, nước, đất, không gian địa lý, cảnh
quan. Chất lượng của các yếu tố trên luôn cần được coi trọng và thường
xuyên được đánh giá kiểm định theo những tiêu chuẩn quốc gia hoặc quốc tế.
1.2. Cơ sở thực tiễn
1.2.1. Chiến lược phát triển bền vững của Việt Nam và những kết quả ban đầu
Bắt nhịp bước đi của thời đại, Việt Nam đã sớm nhận thức tầm quan
trọng của phát triển bền vững. Ngày 25-6-1998, Bộ Chính trị đã ra Chỉ thị số
36-CT/TW về tăng cường công tác bảo vệ môi trường trong thời kỳ công


13
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Trong các văn kiện Đại hội IX, X, và đặc
biệt là văn kiện Đại hội XI, quan điểm phát triển bền vững càng được chú
trọng hơn và nhấn mạnh nhiều lần trên nhiều góc độ tiếp cận. Để chỉ đạo thực
hiện thành công Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011-2020 có 5 quan
điểm phát triển, trong đó, quan điểm đầu tiên là: “Phát triển nhanh gắn liền
với phát triển bền vững, phát triển bền vững là yêu cầu xuyên suốt trong
Chiến lược”.
Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 154/2004/QĐ-TTg
“Định hướng chiến lược phát triển bền vững ở Việt Nam” (còn gọi là Chương
trình nghị sự 21 của Việt Nam). Định hướng chiến lược phát triển bền vững ở
Việt Nam nêu bật những vấn đề đang đặt ra trong ba lĩnh vực kinh tế, xã hội

và môi trường, những thách thức mà nước ta đang phải đối phó. Chiến lược
đã tạo lập mối quan hệ tương hỗ giữa các lĩnh vực kinh tế, xã hội, môi trường;
đã xác định khung thời gian để thực hiện và gắn trách nhiệm của các ngành,
các địa phương, các tổ chức và các nhóm xã hội; đã tính tới việc sử dụng các
nguồn lực tổng hợp để thực hiện chiến lược. Chính phủ cũng đã thành lập Hội
đồng phát triển bền vững quốc gia để chỉ đạo, giám sát việc thực hiện các mục
tiêu đã đề ra.
Mặc dù việc triển khai tổ chức thực hiện Chiến lược phát triển bền vững
chưa lâu nhưng chúng ta đã đạt được một số kết quả đáng khích lệ, tạo điều
kiện thuận lợi cho các bước tiếp theo. Có thể nêu một số nét nổi bật.
Lĩnh vực kinh tế: Tính từ năm 2006 đến hết năm 2011, tốc độ tăng
trưởng kinh tế bình quân 6 năm đạt gần 7%; năm 2012, GDP tăng 5,03%,
GDP bình quân đầu người đạt 1.540 USD. Cơ cấu kinh tế cũng có những
bước tiến triển tích cực, tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ trong cơ cấu GDP
ngày càng tăng, khu vực nông nghiệp trong cơ cấu GDP ngày càng giảm. An
ninh lương thực được bảo đảm. Những thành tựu đạt được trong lĩnh vực kinh
tế đã góp phần tích cực vào việc phát triển bền vững các lĩnh vực khác.
Lĩnh vực xã hội đạt một số chuyển biến tích cực. Giáo dục có bước phát
triển, chi ngân sách nhà nước cho giáo dục, đào tạo đạt 20% tổng chi ngân


14
sách; đến năm 2011, tất cả các tỉnh, thành phố đã đạt chuẩn giáo dục trung
học cơ sở. Giải quyết việc làm đạt kết quả tích cực: trong 6 năm (2006 -
2011), đã giải quyết được việc làm cho hơn 9 triệu lao động. Năm 2012 đã tạo
việc làm mới cho hơn 1,5 triệu người; năm 2013, phấn đấu tạo việc làm cho
1,6 triệu người; tuyển mới dạy nghề cho 1,9 triệu người; thực hiện chiến lược
dạy nghề gắn với tạo việc làm. Năm 2012, tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị là
3,53%, ở khu vực nông thôn là 1,55%. Công tác xóa đói, giảm nghèo có nhiều
tiến bộ, tỷ lệ hộ nghèo giảm còn 9,6% và đến cuối năm 2013 ước còn 7,6%.

Năm 2012, Việt Nam xếp thứ 127 trên tổng số 187 nước và vùng lãnh thổ về
HDI và được xếp vào nhóm có tốc độ tăng chỉ số HDI cao. Việt Nam hoàn
thành 6/8 nhóm Mục tiêu Thiên niên kỷ (MDG) do Liên hợp quốc đặt ra cho
các nước đang phát triển đến năm 2015.
Lĩnh vực môi trường trong những năm qua đã được chú trọng hơn. Việc
bảo vệ tài nguyên, môi trường đã đi vào nền nếp. Bằng những chính sách hợp
lý, các giải pháp quyết liệt, vấn đề bảo vệ môi trường sống, chống ô nhiễm
các nguồn nước, không khí đã được tất cả các địa phương, các ngành và các
tầng lớp nhân dân đồng thuận và cùng tham gia. Công tác trồng rừng, bảo vệ
rừng được quan tâm hơn nên tình trạng cháy và chặt phá rừng đã giảm đi.
1.2.2. Những vấn đề đặt ra và chiến lược phát triển bền vững
Việt nam đã triển khai và thực hiện khá thành công một số nhiệm vụ để
hướng tới phát triển bền vững. Tuy nhiên, những thành tựu và tiến bộ đã đạt
được chưa tương xứng với tiềm năng của đất nước. Trình độ phát triển kinh tế
còn thấp so với các nước trên thế giới và ngay cả một số nước trong khu vực.
Xem xét ở ba khía cạnh để tăng trưởng bền vững là: kinh tế, xã hội và môi
trường để thấy rõ còn nhiều vấn đề đặt ra cần được giải quyết.
Thứ nhất, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế nói chung vẫn còn
yếu. Tích lũy nội bộ còn thấp; tăng trưởng kinh tế có bước chững lại, thấp hơn
mức tăng của những năm trước do di chứng của cuộc khủng hoảng tài chính,
suy thoái kinh tế toàn cầu. Đầu tư của Nhà nước hiệu quả thấp, còn thất thoát
và lãng phí. Tỷ lệ nợ công so với GDP của các năm 2010, 2011, 2012 lần lượt


15
là: 56,8%; 54,9% và 55,6%, mức nợ tương đối cao. Khối lượng nợ vẫn được
coi là trong ngưỡng an toàn, nhưng tiềm ẩn đằng sau đó là nhiều rủi ro.
Kinh tế vĩ mô chưa thật ổn định, thiếu vững chắc, các thành phần kinh tế
chưa phát huy hết năng lực Cơ chế quản lý, chính sách phân phối có mặt chưa
hợp lý, chưa thúc đẩy tiết kiệm, tăng năng suất, kích thích đầu tư phát triển.

Hệ thống tài chính, ngân hàng đổi mới chậm, chất lượng hoạt động hạn chế,
môi trường đầu tư, kinh doanh còn một số vướng mắc, chưa tạo điều kiện hỗ
trợ tốt cho kinh tế phát triển
Thứ hai, chất lượng giáo dục và đào tạo chưa đáp ứng được nhu cầu phát
triển, nhất là đào tạo nguồn nhân lực trình độ cao vẫn còn hạn chế, chưa
chuyển mạnh sang đào tạo theo nhu cầu xã hội. Chương trình, nội dung,
phương pháp dạy và học lạc hậu, chậm đổi mới; cơ cấu đào tạo không hợp lý
giữa các lĩnh vực, ngành nghề.
Văn hóa phát triển chưa tương xứng với tăng trưởng kinh tế. Quản lý văn
hóa còn bất cập; môi trường văn hóa bị xâm hại, thiếu lành mạnh; các tệ nạn
xã hội và sự xâm nhập của các sản phẩm và dịch vụ độc hại làm suy đồi đạo
đức, nhất là trong thanh, thiếu niên ở mức đáng lo ngại.
Tình trạng thiếu việc làm còn cao. Chính sách tiền lương, thu nhập chưa
động viên được người lao động tận tâm với công việc. Đời sống của một bộ
phận dân cư, nhất là ở vùng sâu, vùng xa còn nhiều khó khăn, xóa đói, giảm
nghèo chưa bền vững, tình trạng tái nghèo cao. Khoảng cách chênh lệnh giàu
- nghèo còn khá lớn và ngày càng doãng ra.
Chất lượng chăm sóc sức khỏe còn thấp, hệ thống y tế và chất lượng dịch
vụ y tế chưa đáp ứng được yêu cầu khám, chữa bệnh của nhân dân. Vệ sinh an
toàn thực phẩm chưa được kiểm soát chặt chẽ.
Thứ ba, việc xây dựng pháp luật và chính sách bảo vệ môi trường còn
thiếu và chậm, thực hiện chưa nghiêm, hiệu lực, hiệu quả còn thấp. Môi
trường ở nhiều nơi tiếp tục xuống cấp, một số nơi đã tới mức báo động. Chưa
có những giải pháp thực thi để đối phó với sự biến đổi khí hậu; hậu quả thiên


16
tai còn nặng nề; tình trạng chặt phá, cháy rừng còn tiếp tục diễn ra. Ô nhiễm
nguồn nước, đất, ô nhiễm không khí còn nghiêm trọng ở một số nơi. Chưa
huy động được nhiều nguồn lực để bảo vệ môi trường sinh thái và môi trường

sống của nhân dân.
Chiến lược phát triển bền vững Việt Nam 2011 - 2020 đã vạch ra các
định hướng cụ thể:
Về kinh tế, duy trì tăng trưởng kinh tế bền vững, từng bước thực hiện
tăng trưởng xanh, phát triển năng lượng sạch, năng lượng tái tạo; thực hiện
sản xuất và tiêu dùng bền vững; đảm bảo an ninh lương thực, phát triển nông
nghiệp, nông thôn bền vững; phát triển bền vững các vùng và địa phương.
Về xã hội, tập trung đẩy mạnh công tác giảm nghèo theo hướng bền
vững; tạo việc làm bền vững; thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; thực hiện
tốt các chính sách an sinh xã hội; ổn định quy mô, cải thiện và nâng cao chất
lượng dân số; phát triển văn hoá hài hoà với phát triển kinh tế, xây dựng và
phát triển gia đình Việt Nam; phát triển bền vững các đô thị, xây dựng nông
thôn mới, phân bố hợp lý dân cư và lao động theo vùng; nâng cao chất lượng
giáo dục và đào tạo để nâng cao dân trí và trình độ nghề nghiệp thích hợp với
yêu cầu của sự phát triển đất nước, vùng và địa phương;
Về tài nguyên và môi trường, chống thoái hoá, sử dụng hiệu quả và bền
vững tài nguyên đất; bảo vệ môi trường nước và sử dụng bền vững tài nguyên
nước; khai thác hợp lý và sử dụng tiết kiệm, bền vững tài nguyên khoáng sản;
bảo vệ môi trường biển, ven biển, hải đảo và phát triển tài nguyên biển; bảo
vệ và phát triển rừng; giảm ô nhiễm không khí và tiếng ồn ở các đô thị lớn và
khu công nghiệp
Phát triển bền vững đã trở thành một phương thức phát triển tổng hợp đa
ngành, liên ngành, thành chương trình hành động với nhiều tiêu chí ngày càng
được cụ thể và rõ nét. Phát triển bền vững, vì vậy, mang tính tất yếu và là mục
tiêu cao đẹp nhất của quá trình phát triển.



17
Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ TỈNH HÀ NAM GIAI

ĐOẠN 2006 - NAY THEO QUAN ĐIỂM CHẤT LƯỢNG TĂNG TRƯỞNG
VÀ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG
2.1. Đánh giá tổng quan về nguồn lực nội sinh đối với phát triển tỉnh Hà
Nam
2.1.1. Vị trí địa lý
Hà Nam là tỉnh thuộc vùng Đồng bằng sông Hồng (ĐBSH), có tọa độ địa
lý 20
0
45 vĩ độ Bắc, 105
0
45

- 106
0
10 kinh độ Đông.
Hà Nam giáp với thủ đô Hà Nội ở phía Bắc và Tây Bắc, phía Đông giáp
tỉnh Hưng Yên và Thái Bình, phía Nam giáp tỉnh Nam Định, phía Tây Nam
giáp tỉnh Ninh Bình và phía Tây giáp tỉnh Hòa Bình.
Hà Nam có diện tích đất tự nhiên là 860,5 km
2
, đứng thứ 62/63 tỉnh
thành, thành phố. Thành phố Phủ Lý – tỉnh lỵ của Hà Nam nằm trong vành
đai của Vùng đô thị Hà Nội, cách trung tâm Hà Nội khoảng 60km, với việc
hình thành tuyến cao tốc Bắc – Nam là yếu tố thuận lợi để Hà Nam phát triển,
là điều kiện quan trọng tạo lợi thế so sánh cho Hà Nam trong việc mở rộng
hợp tác, giao lưu kinh tế với các địa phương khác trong cả nước, nhất là với
Thủ đô Hà Nội và các tỉnh Đồng bằng sông Hồng cũng như các tỉnh dọc
tuyến trục giao thông Bắc Nam.
Ngoài ra, Hà Nam nối với Nam Định qua quốc lộ 21A và đường Phủ Lý
– Mỹ Lộc; nối với Hưng Yên bằng quốc lộ 38; nối với Hòa Bình qua quốc lộ

21A và nối với Ninh Bình qua quốc lộ 1A và đường cao tốc Bắc – Nam, rất
thuận lợi cho hợp tác giao lưu cùng phát triển.
Hà Nam có vị trí địa kinh tế là cầu nối đối với vùng kinh tế trọng điểm
phái Bắc và vùng đồng bằng Nam Sông Hồng. Hà Nam có vị trí nằm trên
tuyến hành lang Xuyên Á ( Hà Nội – TP Hồ Chí Minh – Mộc Bài). Tuyến
hành lang này nằm trong khuôn khổ hợp tác 1 trục 2 cánh với Trung Quốc,
giữ vị trí quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của cả nước
đến năm 2030 và tầm nhìn đến 2045. Do đó, Hà Nam với vị trí địa kinh tế của


18
mình sẽ giữ một vai trò tích cực trong việc hỗ trợ và cùng với Hà Nội trở
thành các đầu mút quan trọng của các tuyến trên.
Từ những đặc điểm vị trí địa lý có thể thấy Hà Nam có những thuận lợi
và khó khăn cơ bản sau:
a) Thuận lợi:
- Theo như thông thường, giai đoạn đầu khi nền kinh tế Hà Nam chưa
phát triển mạnh nhưng gần một trung tâm lớn là Hà Nội sẽ tạo ra sự giao lưu
nguồn vốn và lao động theo xu hướng :
+ Lao động từ Hà Nam sẽ đổ về Hà Nội bới Hà Nội có nhiều việc làm và
mức lương cao hơn ở Hà Nam.
+ Hà Nam chưa đủ vốn để phát triển các ngành nhưng lại có nhiều lao
động rẻ nên vốn từ Hà Nội và các tỉnh phát triển mạnh hơn như Nam Định,
Ninh Bình sẽ “ đổ” về Hà Nam, tạo điều kiện cho Hà Nam phát triển.
- Một số tỉnh gần Hà Nam sẽ đến Hà Nam để mua bán nguyên vật liệu,
đầu tư vào xây dựng nhà xưởng, cơ sở sản xuất kinh doanh…, dẫn đến tăng
trưởng kinh tế cao hơn.
- Hà Nam sẽ có nhiều lợi ích khi các tỉnh xung quanh như Hà Nội
chuyển dịch cơ cấu ngành nghề. Giai đoạn mới phát triển Hà Nội có lợi thế về
sản xuất lương thực – thực phẩm, sau đó bị mất dần lợi thế phải chuyển dịch

cơ cấu sang sản xuất các ngành có thế mạnh về nhân lực như có khí, điện tử,
các ngành công nghệ cao khác. Khi đó Hà Nam có nhiều thuận lợi để tiếp
nhận và đấy mạnh phát triển ngành chế biến lương thực, thực phẩm.
b) Những khó khăn, hạn chế:
Thực tiễn các nước trên thế giới và nước ta cho thấy rằng một tỉnh kém
phát triển hơn gần các khu vực phát triển mạnh, không chỉ có những thuận lợi
mà còn gặp phải những khó khăn, hạn chế:
- Nhân lực chất lượng bị thu hút về các trung tâm phát triển, nơi có nhiều
việc làm và tiền công cao hơn.
- Giai đoạn đầu khi các ngành nghề chưa phát triển mạnh, Hà Nam trở
thành thị trường tiêu thụ hàng hóa của các trung tâm lớn, bị cạnh tranh mạnh

×