i
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC
PHẠM THỊ THỦY
BIỆN PHÁP TẠO HỨNG THÚ HỌC TẬP CHO HỌC SINH
LỚP 10 TRONG DẠY HỌC PHẦN THƠ ĐƯỜNG
LUẬN VĂN THẠC SĨ SƯ PHẠM NGỮ VĂN
HÀ NỘI – 2012
ii
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC
PHẠM THỊ THỦY
BIỆN PHÁP TẠO HỨNG THÚ HỌC TẬP CHO HỌC SINH LỚP 10
TRONG DẠY HỌC PHẦN THƠ ĐƯỜNG
LUẬN VĂN THẠC SĨ SƯ PHẠM NGỮ VĂN
CHUYÊN NGÀNH: LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC
(BỘ MÔN NGỮ VĂN)
Mã số: 60 14 10
Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Thị Ban
HÀ NỘI – 2012
iv
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Viết tắt
Viết đầy đủ
ĐHQGHN
Đại học Quốc gia Hà Nội
ĐHSPHN
Đại học Sƣ phạm Hà Nội
GV
Giáo viên
HS
Học sinh
PPDH
Phƣơng pháp dạy học
THCS
Trung học cơ sở
THPT
Trung học phổ thống
v
DANH MỤC CÁC BẢNG
STT
Số và tên bảng
Trang
1
Bảng 1.1. Các bài thơ Đƣờng trong chƣơng trình Ngữ văn 10
19
2
Bảng 1.2. Các tác phẩm văn học nƣớc ngoài trong chƣơng trình
THPT hiện hành
20
3
Bảng 1.3. Chuẩn kiến thức, kĩ năng cần đạt ở từng bài thơ Đƣờng
trong chƣơng trình Ngữ văn 10
22
4
Bảng 1.4. Điều tra về mức độ hứng thú của HS với các bài thơ
Đƣờng
41
5
Bảng 3.1. Kết quả thực nghiệm
93
6
Bảng 3.2. Điều tra về mức độ hứng thú của HS sau giờ học thực
nghiệm
95
MỤC LỤC
Trang
Lời cảm ơn i
Danh mục các chữ viết tắt iv
Danh mục các bảng v
MỞ ĐẦU 1
Chƣơng 1:CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA ĐỀ TÀI 8
1.1. Khái quát về thơ Đƣờng 8
1.1.1. Những yếu tố cơ bản chi phối đặc điểm nội dung và nghệ thuật của thơ
Đƣờng 8
1.1.2. Các đề tài và trƣờng phái thơ Đƣờng 11
1.1.3. Thi pháp thơ Đƣờng 13
1.2. Thơ Đƣờng trong chƣơng trình Ngữ văn 10 19
1.2.1. Nội dung dạy học thơ Đƣờng trong chƣơng trình Ngữ văn 10 19
1.2.2. Ý nghĩa của việc dạy học thơ Đƣờng 24
1.3. Hứng thú và hứng thú học tập Ngữ văn của học sinh 25
1.3.1. Các khái niệm 25
1.3.2. Những đặc trƣng cơ bản của hứng thú học tập 27
1.3.3. Các điều kiện để tạo hứng thú học tập 28
1.3.4. Biểu hiện của hứng thú học tập môn Ngữ văn 33
1.3.5. Vai trò của hứng thú học tập đối với môn Ngữ văn 36
1.4. Thực trạng dạy học thơ Đƣờng ở lớp 10 xét từ góc độ tạo hứng thú học tập cho
học sinh 39
1.4.1. Về phía giáo viên 39
1.4.2. Về phía học sinh 41
Chƣơng 2: ĐỀ XUẤT BIỆN PHÁP TẠO HỨNG THÚ HỌC TẬP CHO HỌC
SINH LỚP 10 TRONG DẠY HỌC PHẦN THƠ ĐƢỜNG 44
2.1. Nguyên tắc tạo hứng thú cho HS trong dạy học thơ Đƣờng 44
2.1.1. Đảm bảo tính hình tƣợng, tính nghệ thuật 44
2.1.2. Đảm bảo tính vừa sức, tạo sức 46
2.1.3. Đảm bảo tính dân chủ 47
2.1.4. Đảm bảo phát huy sức mạnh trí tuệ, tình cảm và hứng thú của tập thể 48
2.2. Sử dụng các phƣơng pháp dạy học đặc thù bộ môn một cách có hiệu quả để tạo
hứng thú học tập cho học sinh trong dạy học thơ Đƣờng 48
2.2.1. Phƣơng pháp đọc sáng tạo 48
2.2.2. Phƣơng pháp đàm thoại 59
2.3. Sử dụng các phƣơng pháp dạy học tích cực để tạo hứng thú học tập cho học
sinh trong dạy học thơ Đƣờng 64
2.3.1. Phƣơng pháp dạy học theo nhóm 64
2.3.2. Phƣơng pháp dạy học nêu vấn đề 75
2.3.3. Phƣơng pháp trò chơi học tập 79
2.4. Ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học thơ Đƣờng 84
2.4.1. Công nghệ thông tin với việc tạo hứng thú học tập cho HS trong dạy học thơ
Đƣờng 84
2.4.2. Một số biện pháp ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy thơ Đƣờng 86
Chƣơng 3:THỰC NGHIỆM SƢ PHẠM 91
3.1. Mục đích thực nghiệm 91
3.2. Đối tƣợng và địa bàn thực nghiệm 91
3.3. Nội dung thực nghiệm 92
3.4. Phƣơng pháp tiến hành 104
3.5. Kết quả thực nghiệm 104
3.5.1. Kết quả bài kiểm tra mức độ nhận thức của HS sau bài học 104
3.5.2. Kết quả sản phẩm nhóm của HS tại lớp thực nghiệm (sau một tuần) 106
3.5.3. Kết quả bài trắc nghiệm về mức độ hứng thú của HS sau khi học bài “Hoàng
Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng” tại lớp thực nghiệm 106
KẾT LUẬN 108
TÀI LIỆU THAM KHẢO 111
PHỤ LỤC 113
1
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Chƣơng trình giáo dục phổ thông ban hành kèm theo Quyết định số
16/2006/QĐ-BGDĐT ngày 5/6/2006 của Bộ trƣởng Bộ Giáo dục và đào tạo đã nêu:
“Phải phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc
trưng môn học, đặc điểm đối tượng học sinh, điều kiện của từng lớp học; bồi dưỡng
cho học sinh phương pháp tự học, khả năng hợp tác; rèn luyện kĩ năng vận dụng
kiến thức vào thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú và trách
nhiệm học tập cho học sinh”.
Trong các yêu cầu trên, tạo đƣợc niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh là
một vấn đề quan trọng. Bởi lẽ bản chất dạy – học là một hoạt động phức tạp, trong
đó chất lƣợng, hiệu quả cơ bản phụ thuộc vào chủ thể nhận thức - ngƣời học. Điều
dễ nhận thấy là nếu học sinh không có hứng thú thì cũng không thể phát huy tính
tích cực, chủ động, sáng tạo trong quá trình học tập. Đối với dạy học Ngữ văn trong
nhà trƣờng phổ thông hiện nay, tạo hứng thú học tập cho học sinh càng đƣợc coi là
một yêu cầu cấp thiết. Đã và đang có ngày càng nhiều học sinh thờ ơ hay coi
thƣờng môn Ngữ văn vì thấy môn học này nhàm chán, khuôn sáo, nặng nề, ít hấp
dẫn. Vậy cần phải có những biện pháp cụ thể để thay đổi cách nhìn trên đối với môn
Ngữ văn, đem lại hứng thú học tập cho các em khi đến với môn học.
1.2. Trong chƣơng trình Ngữ văn THPT, thơ Đƣờng có một vị trí quan trọng ở phần
văn học nƣớc ngoài. Đây là một trong những thành tựu xuất sắc của văn học cổ điển
Trung Hoa và của cả nhân loại. Đƣa học sinh THPT đến với thơ Đƣờng chính là
giúp các em tiếp cận với một phần của tinh hoa văn hóa nhân loại. Tuy nhiên, thơ
Đƣờng thực sự là một phần khó dạy đối với giáo viên và khó học đối với học sinh
THPT. Với học sinh THPT hiện nay, thơ Đƣờng là một sản phẩm tinh thần xa về
mặt thời gian và xƣa về mặt ngôn từ. Ngôn ngữ thơ Đƣờng hàm súc, ý tứ sâu xa và
còn có nhiều điển tích, điển cố khó hiểu. Trong khi đó, vốn từ gốc Hán và vốn từ
Hán Việt của học sinh không nhiều, năng lực cảm thụ và phân tích thơ cổ điển rất
hạn chế… Có thể nói, khoảng cách thời gian, hàng rào ngôn ngữ và sự hạn chế về
vốn tri thức, tầm đón nhận của học sinh THPT đã đặt ra nhiều thử thách cho việc
dạy học thơ Đƣờng. Việc tìm hiểu những bài thơ sâu xa của Lý Bạch, Đỗ Phủ, Thôi
2
Hiệu dƣờng nhƣ là quá khó đối với lứa tuổi 16 nên các em không mấy hứng thú.
Vậy vấn đề đặt ra là cần có biện pháp dạy học hiệu quả để những giờ học thơ
Đƣờng thật sự hấp dẫn, lôi cuốn. Qua đó học sinh có hứng thú học tập, phát huy
tính tích cực, chủ động, say mê khám phá và chiếm lĩnh tri thức về thơ Đƣờng –
tinh hoa văn hóa nhân loại.
1.3. Thực tiễn dạy học thơ Đƣờng trong trƣờng phổ thông hiện nay xét về góc độ
tạo hứng thú cho học sinh vẫn chƣa đạt đƣợc hiệu quả nhƣ mong muốn. Do nhiều lí
do khách quan và chủ quan, cả GV và HS đều thấy lúng túng, chƣa vƣợt qua đƣợc
những khó khăn trong dạy học thơ Đƣờng. Và những giờ học thƣờng diễn ra trong
không khí nặng nề hoặc ít sôi nổi.
Mặt khác, việc nghiên cứu vấn đề dạy học thơ Đƣờng trong trƣờng phổ
thông tuy đã đƣợc quan tâm, bàn luận khá nhiều, nhƣng còn chƣa thực sự chú trọng
đến các biện pháp tạo hứng thú cho học sinh. Việc thiết kế các biện pháp cụ thể, rõ
ràng nhằm tạo hứng thú học thơ Đƣờng cho học sinh, làm cho giờ học thực sự hấp
dẫn và hiệu quả vẫn là vấn đề cần bàn đến.
Với những lí do nêu trên và mong muốn nâng cao chất lƣợng dạy học Ngữ
văn nói chung, dạy học thơ Đƣờng nói riêng, chúng tôi mạnh dạn lựa chọn nghiên
cứu đề tài: Biện pháp tạo hứng thú học tập cho học sinh lớp 10 trong dạy học
phần thơ Đường.
2. Lịch sử nghiên cứu
2.1. Việc nghiên cứu, tìm tòi các biện pháp tạo hứng thú trong dạy học nói chung
và trong dạy học môn Ngữ văn nói riêng từ lâu đã đƣợc các nhà khoa học và các
nhà sƣ phạm quan tâm. Trên thực tế đã có nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề
này và có thể kể ra đây một số công trình:
- Luận văn Thạc sĩ khoa Tâm lý trƣờng ĐHSPHN (1981) của Nguyễn Thị
Tuyết: Bước đầu tìm hiểu hứng thú học tập môn Văn của HS lớp 10, 11 ở trường
THPT đã đề cập nguyên nhân gây hứng thú cho HS trong giờ học văn, đánh giá
hiện trạng nhƣng lại chƣa đƣa ra đƣợc những giải pháp cụ thể.
- Luận văn thạc sĩ khoa học sƣ phạm, khoa Tâm lí – ĐHQGHN của Bùi
Quốc Đạt: Hứng thú và năng lực tiếp nhận tác phẩm văn học trong chương trình
PTTH của HS lớp 12 miền núi Thanh Hóa đã đi sâu vào nghiên cứu hiện trạng
3
hứng thú và năng lực tiếp nhận văn học của HS lớp 12 miền núi, qua đó đƣa ra một
số biện pháp gây hứng thú và rèn luyện năng lực tiếp nhận văn học cho HS.
- Luận văn thạc sĩ của tác giả Lê Thị Giáo tại ĐHSPHN năm 1981 nghiên
cứu về hứng thú học tập môn văn của đối tƣợng là sinh viên trong nhà trƣờng cao
đẳng với tên đề tài: Bước đầu tìm hiểu hiện trạng hứng thú môn văn của giáo sinh
trường cao đẳng sư phạm Nha Trang đã nêu lên những vấn đề lí luận chung nhất
về hứng thú, trên cơ sở đó phân tích hiện trạng và nguyên nhân của hứng thú học
tập môn Văn của giáo sinh trƣờng cao đẳng sƣ phạm Nha Trang.
- Luận văn thạc sĩ khoa học giáo dục của tác giả Nguyễn Bá Cƣờng,
ĐHSPHN, 2003, với tên đề tài: Một số biện pháp bồi dưỡng, phát triển hứng thú,
nhu cầu, thị hiếu, năng lực đọc tác phẩm văn chương của HS lớp 9 miền núi Lai
Châu đã hƣớng đến nghiên cứu một số biện pháp tạo hứng thú cho HS lớp 9 khi
học văn nhƣng hệ thống biện pháp đƣa ra còn quá nhỏ nhặt và chỉ mang tính chất
nhƣ là những thủ pháp, những kĩ thuật của GV trong giờ học.
Ngoài các luận văn thạc sĩ, tiến sĩ nghiên cứu về vấn đề tạo hứng thú cho
học sinh trong giờ học môn Ngữ văn còn có rất nhiều các bài viết đăng trên các
báo, tạp chí nghiên cứu về vấn đề trên. Đối với việc tạo hứng thú trong giờ học thơ
Đƣờng thì hầu nhƣ chƣa có một công trình nào chính thức đƣợc công bố cho tới
thời điểm này.
2.2. Thơ Đƣờng đƣợc đƣa vào sách giáo khoa Văn 10 cải cách từ năm học 1989 –
1990. Cho đến nay, ở Việt Nam đã có không ít công trình nghiên cứu về vấn đề
giảng dạy thơ Đƣờng trong nhà trƣờng phổ thông. Có thể kể đến những công trình
tiêu biểu nhƣ:
- Cuốn Thơ Đường ở trường phổ thông do Hồ Sĩ Hiệp tuyển và biên soạn
(Nhà xuất bản Tổng hợp Khánh Hòa, Khánh Hòa, 1991) với những bài giới
thiệu và phân tích một số bài thơ Đƣờng nổi tiếng và các nhà thơ tiêu biểu.
- Cuốn Bình giảng thơ Đường và việc dạy học thơ Đường ở trường phổ
thông của Nguyễn Thị Bích Hải (Nhà xuất bản Giáo dục, H., 2003) trình bày
những kiến thức về thơ Đƣờng và việc dạy học thơ Đƣờng trong trƣờng phổ
thông, nêu những vấn đề có tính phƣơng pháp trong việc tìm hiểu thơ Đƣờng.
4
- Cuốn Thơ Đường bình giải của Nguyễn Quốc Siêu (Nhà xuất bản Giáo
dục, tái bản lần thứ 5 năm 2005) giới thiệu lại và thêm phần bình những bài thơ
Đƣờng đã đƣợc chọn tuyển trong sách giáo khoa THCS và THPT.
- Các cuốn sách Thơ Đường trong nhà trường của Trần Ngọc Hƣởng
(2004), Văn học Trung Quốc với nhà trường – tập tiểu luận của Hồ Sĩ Hiệp
(2006), Dạy học các tác phẩm thơ Đường ở trường THCS và THPT: Theo chương
trình ngữ văn mới của Lê Xuân Soan (2006), Dạy - học văn học nước ngoài Ngữ
văn 10 (cơ bản và nâng cao) của Lê Huy Bắc (2009),
- Luận văn thạc sĩ Giáo dục học của tác giả Phan Thị Minh, ĐHSP TP. Hồ
Chí Minh năm 2007 với tên đề tài Giảng dạy thơ Đường ở trường phổ thông dưới
góc nhìn của thi pháp học nghiên cứu cụ thể việc dạy thơ Đƣờng trong nhà trƣờng
nhƣng chỉ ở góc độ thi pháp học, hƣớng đến việc đổi mới phƣơng pháp dạy học.
- Khóa luận tốt nghiệp Đường thi trong sách giáo khoa phổ thông ở Việt
Nam của Mạnh Thị Minh năm 2006 (Tƣ liệu khoa Văn học, Trƣờng Đại học
Khoa học Xã hội và Nhân văn Hà Nội). Trong khóa luận này, ngƣời viết chủ yếu
là thống kê lại quá trình thơ Đƣờng đƣợc đƣa vào giảng dạy trong chƣơng trình
môn Văn phổ thông ở Việt Nam, đồng thời đề xuất phƣơng pháp dạy học, giúp
HS tìm hiểu thơ Đƣờng.
Các công trình trên đã có những vai trò tích cực, định hƣớng cho việc dạy
– học thơ Đƣờng trong nhà trƣờng nhƣng nhìn chungs mới dừng lại ở việc đƣa ra
các đặc điểm, các đặc trƣng, nội dung, cách tiếp cận, câu hỏi định hƣớng để giúp
giáo viên cần giảng dạy những gì về những bài thơ Đƣờng trong chƣơng trình chú
chƣa đề cập đến các biện pháp cụ thể nhằm tạo hứng thú học tập cho HS.
Các kết quả nghiên cứu về nội dung, nguyên tắc khi dạy học thơ Đƣờng,
những lí thuyết về hứng thú học tập của HS và các biện pháp tạo hứng thú ở các
lĩnh vực kiến thức khác nhau mà các công trình trên đề cập đến đã gợi dẫn chúng
tôi lựa chọn nghiên cứu đề tài.
Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi sử dụng các nội dung lí luận trong các
công trình trên làm cơ sở lí luận cho đề tài của mình.
5
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Từ việc tìm hiểu lí thuyết về hứng thú và tạo hứng thú trong học tập; các
điều kiện, nguyên tắc và tác dụng khi vận dụng lí thuyết về hứng thú và tạo hứng
thú trong học tập vào dạy học thơ Đƣờng trong chƣơng trình Ngữ văn 10; luận văn
đề xuất một số biện pháp tạo hứng thú học tập cho HS lớp 10 trong dạy học phần
thơ Đƣờng nhằm giúp HS yêu thích học nội dung này. Từ đó, góp phần nâng cao
chất lƣợng dạy học thơ Đƣờng nói riêng, dạy học văn học nƣớc ngoài và môn Ngữ
văn nói chung.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt đƣợc mục đích đề ra ở trên, đề tài tập trung nghiên cứu các nội dung
sau:
- Nghiên cứu cơ sở khoa học bao gồm cơ sở lí luận và cơ sở thực tiễn của
việc đề xuất các biện pháp tạo hứng thú học tập cho HS lớp 10 trong dạy học phần
thơ Đƣờng.
- Đề xuất một số biện pháp tạo hứng thú học tập cho HS lớp 10 trong dạy
học phần thơ Đƣờng.
- Thực nghiệm sƣ phạm để kiểm chứng tính khả thi của những biện pháp tạo
hứng thú học tập cho HS trong dạy học phần thơ Đƣờng đã đề xuất.
Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi giải quyết những câu hỏi sau:
1/Thế nào là hứng thú trong học tập và điều kiện tạo hứng thú trong khi dạy
học thơ Đƣờng đƣợc xét trên những mặt nào?
2/Giữa các đặc trƣng của thơ Đƣờng và tâm lí học sinh trong khi học các bài
học này có thể tạo ra những lợi thế và khó khăn nào khi xây dựng hệ thống các biện
pháp tạo hứng thú?
3/Hệ thống các biện pháp tạo hứng thú cho học sinh lớp 10 trong dạy học
thơ Đƣờng đƣợc đƣa ra gồm các biện pháp nào và phải đảm bảo những nguyên tắc
nào?
4/Có thể vận dụng hệ thống các biện pháp tạo hứng thú cho học sinh vào
quá trình dạy học các bài thơ Đƣờng theo trình tự hay theo mẫu nào?
6
5/Việc xây dựng hệ thống các biện pháp tạo hứng thú cho học sinh lớp 10
trong dạy học các bài thơ Đƣờng có tác dụng nhƣ thế nào đối với sự tiếp nhận các
tri thức thơ Đƣờng nói riêng và thơ ca cổ điển nói chung của học sinh?
4. Phạm vi nghiên cứu và hƣớng triển khai nghiên cứu
4.1. Phạm vi nghiên cứu
- Quá trình dạy học phần thơ Đƣờng trong chƣơng trình Ngữ văn lớp 10 có
vận dụng các biện pháp tạo hứng thú học tập cho học sinh.
- Mẫu khảo sát:
Các bài học về thơ Đƣờng, chƣơng trình Ngữ văn 10 (chƣơng trình chuẩn).
Mẫu thực nghiệm:
Lớp 10A4 - Trƣờng THPT Hoàng Văn Thụ, Hà Nội.
4.2. Hướng triển khai nghiên cứu
Nghiên cứu những lí thuyết tâm lí về hứng thú và tạo hứng thú trong học tập
và đặc trƣng của thơ Đƣờng trong chƣơng trình Ngữ văn 10, điều kiện để tạo hứng
thú trong khi dạy học các bài học này đƣợc xét từ các mặt: chủ thể học sinh; nội
dung dạy học; phƣơng pháp, phƣơng tiện dạy học; môi trƣờng học tập; hình thức và
phƣơng pháp kiểm tra đánh giá.
Giữa các đặc trƣng của thơ Đƣờng và tâm lí học sinh trong khi học thơ
Đƣờng có thể tạo ra những khó khăn nhƣng cũng có một số lợi thế để xây dựng các
biện pháp tạo hứng thú học tập.
Các biện pháp tạo hứng thú cho học sinh trong dạy học thơ Đƣờng phải đảm
bảo các nguyên tắc: Đảm bảo tính hình tƣợng, tính nghệ thuật trong khi dạy học
Ngữ văn; tăng cƣờng cho học sinh liên hệ bản thân, liên hệ thực tiễn; các hoạt động
học đảm bảo tính vừa sức; đảm bảo tính dân chủ; tăng cƣờng phát huy sức mạnh
của hứng thú cá nhân và trí tuệ tập thể.
Có thể đƣa ra một số biện pháp tạo hứng thú cho HS trong giờ dạy thơ
Đƣờng nhƣ: Phƣơng pháp đọc sáng tạo, phƣơng pháp vấn đáp – đàm thoại tích cực,
phƣơng pháp dạy học nêu vấn đề, phƣơng pháp trò chơi học tập, biện pháp ứng
dụng công nghệ thông tin trong quy trình dạy học.
Việc xây dựng hệ thống các biện pháp tạo hứng thú học tập trong dạy học
thơ Đƣờng chƣơng trình Ngữ văn 10 giúp học sinh có hứng thú, say mê, sáng tạo
7
và chủ động chiếm lĩnh tri thức thơ Đƣờng và có thể liên hệ tới quan niệm sống,
suy nghĩ của bản thân trong đời sống hiện đại.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Chúng tôi sử dụng các phƣơng pháp chủ yếu sau:
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Tiếp thu kinh nghiệm của các nhà khoa
học, của đồng nghiệp, xác định cơ sở khoa học cho việc tạo hứng thú học tập cho
HS lớp 10 trong dạy học thơ Đƣờng.
- Nhóm phương pháp chuyên gia bao gồm:
+ Phƣơng pháp quan sát: Quan sát các giờ dạy - học thơ Đƣờng của giáo viên
và học sinh 10 (có sử dụng phiếu nhật ký quan sát để ghi lại kết quả), chú ý đến các
biểu hiện, thái độ, hành động của học sinh trong giờ học.
+ Phƣơng pháp phỏng vấn: Phỏng vấn các giáo viên và học sinh đang dạy và
học chƣơng trình Ngữ văn 10 tại trƣờng THPT Hoàng Văn Thụ, THPT Đông Kinh,
THPT Cao Bá Quát.
+ Phƣơng pháp thảo luận: Tổ chức thảo luận ở tổ Ngữ văn của trƣờng THPT
Hoàng Văn Thụ về vấn đề: Xây dựng các biện pháp tạo hứng thú cho HS trong dạy
học thơ Đƣờng.
+ Phƣơng pháp thực nghiệm: Thực nghiệm đối chứng quy trình dạy học cụ
thể có vận dụng hệ thống biện pháp tạo hứng thú học tập cho học sinh trong dạy
học thơ Đƣờng đối với 2 lớp 10.
+ Phƣơng pháp điều tra qua phiếu hỏi đối với học sinh các lớp trong mẫu khảo
sát.
- Phương pháp thống kê: Thống kê kết quả khảo sát, kết quả của lớp thực
nghiệm và lớp đối chứng trong tổ chức thực nghiệm.
6. Cấu trúc luận văn
Ngoài các phần mở đầu, kết luận, khuyến nghị, tài liệu tham khảo, luận văn
đƣợc trình bày trong 3 chƣơng:
Chƣơng 1: Cơ sở khoa học của đề tài
Chƣơng 2: Đề xuất biện pháp tạo hứng thú học tập cho học sinh lớp 10 trong dạy
học phần thơ Đƣờng
Chƣơng 3: Thực nghiệm sƣ phạm
8
CHƢƠNG 1
CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Khái quát về thơ Đƣờng
Thơ Đƣờng đƣợc xem là thành tựu rực rỡ nhất của văn học đời Đƣờng (618–
907), là mẫu mực của thơ ca Trung Quốc nói riêng và thơ ca trung đại phƣơng
Đông nói chung, thậm chí là đỉnh cao của thơ ca nhân loại. Thơ Đƣờng đã đi vào
Việt Nam từ rất lâu, gây đƣợc ảnh hƣởng sâu rộng và đƣợc nhiều ngƣời yêu thích.
Ở nƣớc ta, từ đời Lý trở về sau, thơ Đƣờng đƣợc ông cha ta tìm hiểu và học hỏi,
tiếp thu rất nhiều. Không ít nhà thơ trung đại và hiện đại đã vận dụng đề tài, thi liệu,
tứ thơ, điển cố trong thơ Đƣờng, học tập ngôn ngữ thơ Đƣờng. Thơ Đƣờng cũng
đƣợc đƣa vào giảng dạy ở nhà trƣờng phổ thông và đại học. Những điều đó một mặt
khẳng định giá trị to lớn của thơ Đƣờng, mặt khác thể hiện thái độ trân trọng, tiếp
thu tinh hoa văn hóa nhân loại của ngƣời Việt Nam ta.
Việc dạy – học thơ Đƣờng trong nhà trƣờng phổ thông nói chung và chƣơng
trình Ngữ văn lớp 10 nói riêng không phải chỉ trong một giới hạn nhỏ hẹp là phân
tích vài tác phẩm trong sách giáo khoa. Cả ngƣời dạy và ngƣời học đều cần có
những hiểu biết cơ bản về thơ Đƣờng, đặc biệt là những ngƣời dạy thơ Đƣờng – các
GV cần có vốn kiến thức tƣơng đối toàn diện, sâu sắc thì mới tìm đƣợc các phƣơng
pháp, hình thức tổ chức dạy học phù hợp, tạo đƣợc hứng thú học tập cho HS. Chúng
tôi cho rằng, việc nghiên cứu, đề xuất biện pháp tạo hứng thú học tập cho HS lớp 10
trong dạy học phần thơ Đƣờng cần dựa trên cơ sở nắm rõ những kiến thức cơ bản
nhƣ sau:
1.1.1. Những yếu tố cơ bản chi phối đặc điểm nội dung và nghệ thuật của thơ
Đường
Có rất nhiều yếu tố chi phối đặc điểm nội dung, nghệ thuật của thơ Đƣờng
nhƣng ở đây chúng tôi chỉ xin đề cập đến hai yếu tố quan trọng là hoàn cảnh chính
trị, xã hội và tƣ tƣởng, văn hóa. Hiểu rõ hai yếu tố này sẽ giúp ích nhiều cho việc
tìm hiểu, khám phá các bài thơ Đƣờng trong chƣơng trình Ngữ văn 10. Ví dụ nhƣ
để hiểu tâm trạng của Đỗ Phủ trong bài Thu hứng, cần phải nắm đƣợc hoàn cảnh
lịch sử - xã hội thời Thịnh Đƣờng, nhất là cuộc khởi loạn An Lộc Sơn có nhiều tác
9
động đến cuộc đời của nhà thơ. Hay để hiểu những gì mà Thôi Hiệu muốn gửi gắm
qua bài Hoàng Hạc lâu, ta cần nắm đƣợc sự chi phối của tƣ tƣởng Đạo giáo đối với
thơ Đƣờng.
1.1.1.1 . Hoàn cảnh chính trị, xã hội
Thời Sơ Đƣờng (618 – 713):
Trong gần một trăm năm của thời kỳ này, Trung Quốc sống trong cảnh thái
bình, an lạc. Có một vài cuộc rối loạn do sự chấp chính của nữ nhân (Vũ hậu, Vi
hậu, Thái Bình công chúa), nhƣng những vụ biến động này chỉ giới hạn trong chốn
cung đình hay ở một vài địa phƣơng và cũng nhanh chóng bình định. Vì vậy thơ
làm trong thời kì này phần nhiều là những bài ca tụng cảnh đất nƣớc thanh bình, tán
dƣơng thịnh đức của triều đại, có văn từ hoa mỹ diễm lệ. Ðầu thời Sơ Ðƣờng, xuất
hiện hai khuynh hƣớng thi ca, mà sau này phát triển mạnh trong thời Thịnh Ðƣờng:
Biên tái và Ðiền viên. Biên tái là loại thơ tả cảnh sắc biên thùy và tâm tình của
ngƣời lính thú. Ðiền viên là loại thơ tả cuộc sống nông thôn đạm bạc, chất phác
cùng những lạc thú thiên nhiên của nhàn nhân dật sĩ.
Thời Thịnh Đƣờng (713 – 766):
Cuộc khởi loạn của An Lộc Sơn (năm 755) là mốc phân chia thời này ra làm
hai giai đoạn: thái bình và tán loạn. Trƣớc loạn An Lộc Sơn là thời những bài thơ
chứa đầy tình, nhạc và rƣợu. Cũng có những bài thơ tả tình quan ái và niềm khuê
oán. Nhƣng đó là tình cảm hào hùng của ngƣời chinh phu tuy biết “Từ xƣa chinh
chiến mấy ai về” nhƣng vẫn quyết “Gieo Thái Sơn nhẹ tựa hồng mao”; là nỗi nhớ
nhung, sầu muộn của ngƣời chinh phụ tuy có tê tái nhƣng không bi thảm. Từ cuộc
loạn An Lộc Sơn về sau, thơ ca phản ánh một xã hội điêu tàn, thống khổ. Chiến địa
không còn là cảnh hùng tráng đầy thi vị, mà là nơi ma than, quỉ khóc, xƣơng trắng
tả tơi. Những ngƣời lính thú bạc đầu nơi quan ải, những thiếu nữ thành cô phụ sau
tối tân hôn, những ngƣời chồng phải gửi vợ nơi quê ngƣời, đất khách, và những
ngƣời cha tủi hổ vì bất lực trƣớc cảnh con thơ chết đói. Các bài nhƣ Tam lại, Tam
biệt của Ðỗ Phủ cực tả cảnh chiến tranh tàn khốc, xã hội tối tăm trong thời kì này.
Lí Bạch và Đỗ Phủ là hai tên tuổi nổi bật nhất thời Thịnh Đƣờng với hai
phong cách thơ hoàn toàn khác nhau. Một ngƣời là nhà thơ lãng mạn vĩ đại nhất,
một ngƣời là nhà thơ hiện thực vĩ đại nhất.
10
Thời Trung Ðƣờng (766 - 835):
Sau khi loạn An Lộc Sơn, Sử Tƣ Minh đã bình, tình hình vẫn còn phân loạn.
Giặc ngoài quấy nhiễu, triều đình thối nát, hoạn quan lộng quyền, đó là những
nguyên nhân khiến xã hội bất an, nhân dân cực khổ. Tình trạng thơ ca kém hẳn thời
trƣớc. Các nhà thơ chỉ quanh quẩn trong phạm vi cũ, không có gì sáng tạo mới mẻ,
tạo những sắc màu mới cho thi đàn. Nổi bật hơn cả là nhà thơ Bạch Cƣ Dị với chủ
trƣơng nghệ thuật vị nhân sinh. Bạch Cƣ Dị thích làm những bài thơ dùng chữ
thông tục, dễ hiểu, có thể gọi là thơ bạch thoại của đƣơng thời. Nhƣng những tác
phẩm phổ biến nhất và nổi tiếng nhất của ông lại là những bài thơ trƣờng thiên trữ
tình: Trường hận ca tả mối diễm tình bi thảm của Ðƣờng Minh Hoàng với Dƣơng
Quí Phi, và Tì bà hành nói lên tâm sự ngƣời thƣơng phụ ở bến Tầm Dƣơng.
Thời Vãn Đƣờng (836 – 905):
Tình trạng, chính trị, kinh tế, xã hội càng ngày càng suy đồi. Quan lại tham
nhũng, thuế má nặng nề, thƣởng phạt bất công,những nguyên nhân ấy đƣa đến loạn
Vƣơng Tiên Chi (874) rồi loạn Hoàng Sào hơn trong 10 năm, làm sụp đổi nhà
Ðƣờng. Lịch sử tái diễn cảnh hỗn độn khoảng cuối đời Tùy, văn học trở lại duy mỹ
lúc Ðƣờng Sơ. Trƣớc kia có phái Ỷ mỹ, bây giờ có phái Chi Phấn, tràn ngập phong
khí hoa diễm lãng mạn.
1.1.1.2. Tư tưởng văn hóa
Về mặt tƣ tƣởng, đặc điểm của đời Đƣờng là sự tịnh thịnh của ba giáo thuyết
Nho, Đạo và Phật. Tình trạng Tam giáo đồng nguyên này có ảnh hƣởng đối với
khuynh hƣớng sáng tác của thi nhân, tạo ra những phong cách, trƣờng phái và cảm
hứng sáng tác đa dạng của thơ Đƣờng.
- Nho giáo đƣợc tôn sùng từ thời nhà Hán với Đổng Trọng Thƣ, đến đời
Đƣờng lại càng hƣng thịnh. Loại thơ phúng thích xã hội nhƣ Đỗ Phủ, Bạch Cƣ Dị
đã thấm nhuần tinh thần cũng nhƣ tƣ tƣởng tích cực của Khổng Tử.
- Trong các đời Tần Hán, Đạo gia có ảnh hƣởng lớn. Đến đời Đƣờng, nó gần
nhƣ trở thành quốc giáo. Ảnh hƣởng của Đạo giáo với thi ca rất lớn lao. Những bài
thơ thần tiên của Lý Bạch, tự nhiên của Vƣơng Duy, Mạnh Hạo Nhiên và duy mỹ
của Lý Thƣơng Ẩn là những tác phẩm tiêu biểu của loại thơ có màu sắc Đạo gia.
11
- Phật giáo du nhập vào Trung Quốc từ thời Đông Hán, và đã phát triển trong
thời Nam Bắc triều, nhƣng đến đời Đƣờng mới thật thịnh đạt. Phật giáo nhờ sự tôn
sùng của vua chúa và công trình dịch kinh của chƣ tăng, đã lan rộng, thấm sâu trong
các tầng lớp nhân dân. Trong số các thi nhân nổi tiếng Giả Đảo đã từng làm tăng,
Vƣơng Duy là nhân vật quan trọng trong Nam phái thiền tông. Tuy không có ảnh
hƣởng nhiều nhƣ Nho và Đạo, Phật giáo cũng đem lại cho thi ca đời Đƣờng những
sắc thái và ý tƣởng đặc biệt.
1.1.2. Các đề tài và trường phái thơ Đường
1.1.2.1. Đề tài
Đề tài trong thơ Đƣờng có những nội dung đa dạng và phong phú, với nhiều
hình thức diễn đạt phóng khoáng, từ những đề tài về an nhàn ẩn dật, vui thú điền
viên, tả cảnh thiên nhiên, đến những bài thơ nói về cung đình, biên tái, chiến chinh,
những đề tài liên quan đến xã hội, cảnh nghèo đói áp bức, nỗi bất công của phụ nữ,
những bài thơ tâm tình, từ tình bè bạn, tình yêu thiên nhiên, đến tình yêu nam nữ,
rồi những đề tài vịnh sử, hoặc những bài thơ mang hƣơng vị Thiền…
1.1.2.2. Các trường phái
Để phản ánh hiện thực xã hội phong phú muôn màu muôn vẻ, thơ ca đời
Đƣờng xuất hiện nhiều trƣờng phái, phong cách và phát triển một cách rầm rộ,
nhiều tác giả, tác phẩm nổi tiếng ở thời kì này đƣợc đời sau truyền tụng và ca ngợi.
Căn cứ vào đề tài sáng tác, các nhà văn học sử Trung Quốc đã chia thơ Đƣờng
thành các trƣờng phái sau:
- Trƣờng phái Điền viên sơn thủy : Phái Điền viên sơn thủy còn đƣợc gọi là
phái “Vƣơng – Mạnh” bởi vì hai thi nhân tiêu biểu của phái này là Mạnh Hạo Nhiên
(689 – 740) và Vƣơng Duy (701 – 761). Mạnh Hạo Nhiên là nhà thơ sống gần gũi
với với cảnh thôn quê lặng lẽ, bình dị. Hình ảnh thiên nhiên trong thơ ông đƣợc
miêu tả đẹp đẽ với cảnh thanh nhàn êm ả của làng quê, cảnh núi sông hùng vĩ và
tráng lệ… Ngƣời thứ hai là Vƣơng Duy tự Ma Cật, tuy suốt đời làm quan nhƣng
ông thƣờng sống nhƣ một ẩn sĩ, là ngƣời sùng tín đạo Phật, thơ mang đậm ý vị thiền
nên đƣợc mọi ngƣời tôn vinh là Thi Phật. Ông là một ngƣời rất đa tài, không những
nổi tiếng về thơ mà còn am hiểu về âm nhạc, có tài thƣ pháp và là một danh họa.
Khi nhận xét về Vƣơng Duy, Tô Thức đời Tống cho rằng: “Thi trung hữu họa, họa
12
trung hữu thi” (Đọc thơ Ma Cật thấy trong thơ có họa, xem họa Ma Cật thấy trong
họa có thơ).
- Trƣờng phái thơ Biên tái: Phái Biên tái còn đƣợc gọi là phái “Cao – Sầm”, đó
là Cao Thích (702 – 765) và Sầm Tham (716 – 770). Thơ của Cao Thích mang đậm
chất trữ tình hào phóng nhƣng lại khẳng khái hiên ngang, trong khi đó thơ của Sầm
Tham thì mỹ lệ huyền ảo, âm điệu dồn dập vút cao. Ngoài ra còn có một số tác giả
cũng góp phần quan trọng cho thi phái này nhƣ: Vƣơng Xƣơng Linh (698? – 757)
và Lí Kì (690 – 751).
- Trƣờng phái lãng mạn: Một trong những cây đại thụ lớn của phái này là Lí
Bạch (701 – 762). Thơ của ông kết hợp hài hòa giữa tính hiện thực và tính lãng
mạn. Tuy nhiên, tính hiện thực trong thơ Lí Bạch không bằng Đỗ Phủ và Bạch Cƣ
Dị, và thơ ca lãng mạn có nội dung tích cực của ông lại vƣợt trội hơn. Trong thơ
ông, ý - cảnh - tình hòa quyện vào nhau, vừa diễm lệ, kì vĩ, vừa mênh mông bát
ngát, xứng đáng là “Thi tiên”.
- Trƣờng phái hiện thực: Đại diện tiêu biểu nhất của phái hiện thực trong thời
kì này là Đỗ Phủ (712 – 770). Đỗ Phủ để lại cho đời gần 1.500 bài thơ, trầm uất
buồn đau, nhƣng sáng ngời tinh thần nhân ái bao la. Thơ ông là bức tranh phơi bày
hiện thực xã hội phong kiến đen tối, phơi bày cuộc sống khốn cùng của tầng lớp
nhân dân lao động cùng khổ. Những ngòi bút hƣớng theo trƣờng phái này còn có
Nguyên Kết (719-772), Cổ Huống (725-816). Sau này, ngƣời kế tục xứng đáng và
xuất sắc nhất là Bạch Cƣ Dị (772-846). Các nhà thơ trên đã góp phần đƣa thi ca
hiện thực lúc bấy giờ lên đỉnh cao, mặc dù trƣờng phái hiện thực khai sinh muộn
hơn so với các trƣờng phái khác.
Thực tế có thể quy tụ các trƣờng phái thơ đời Đƣờng thành hai trƣờng phái
lớn, có ảnh hƣởng sâu rộng nhất và có những thành tựu lớn nhất. Đó là trƣờng phái
lãng mạn đại biểu là Lí Bạch và trƣờng phái hiện thực tiêu biểu là Đỗ Phủ.
Nói tóm lại, thơ Đƣờng phong phú về đề tài, nổi bật và tập trung nhất vào
hai khuynh hƣớng sáng tác là hiện thực và lãng mạn. Hiện thực và lãng mạn là hai
bộ phận thống nhất trong một chỉnh thể của thi ca đời Đƣờng góp phần cống hiến to
lớn cho văn học Trung Quốc.
13
1.1.3. Thi pháp thơ Đường
Thi pháp có thể hiểu là hệ thống hình thức nghệ thuật nhƣ: kết cấu của tác
phẩm, ngôn từ nghệ thuật, thời gian và không gian nghệ thuật… mà nhà văn dùng
để biểu hiện nội dung của tác phẩm văn học.
Thi pháp thơ Đƣờng rất phong phú, đa dạng. Với khuôn khổ của đề tài chúng
tôi chỉ trình bày một số yếu tố tiêu biểu trong hệ thống thi pháp thơ Đƣờng qua các
phƣơng diện sau: Quan niệm nghệ thuật về con ngƣời, không gian nghệ thuật, thời
gian nghệ thuật, thể loại và ngôn ngữ.
1.1.3.1. Quan niệm nghệ thuật về con người
Đối tƣợng trung tâm của văn học là con ngƣời, cho nên trong hệ thống thi
pháp nó cũng là yếu tố trung tâm so với các yếu tố khác. Trong thơ Đƣờng, có hai
kiểu con ngƣời chủ yếu, đó là con ngƣời vũ trụ và con ngƣời xã hội.
- Con ngƣời vũ trụ: Quan điểm về con ngƣời trong nghệ thuật với quan niệm
triết học có mối quan hệ rất mật thiết với nhau. Triết học cổ đại Trung Quốc nói
riêng cũng nhƣ các dân tộc thời cổ nói chung quan niệm con ngƣời đƣợc đặt trong
mối tƣơng thông tƣơng hợp với thiên nhiên: “Thiên nhân tƣơng dữ”. Con ngƣời là
một “tiểu vũ trụ” trong lòng “đại vũ trụ”. Quan niệm đó chi phối toàn bộ các hoạt
động, kể cả hoạt động nghệ thuật lúc bấy giờ và nó tồn tại mãi trong suốt thời
phong kiến, và cả đến thời hiện đại. Con ngƣời xuất hiện trong tƣ thế vũ trụ, đứng
giữa đất trời “đầu đội trời, chân đạp đất”, hòa hợp đất trời. Con ngƣời trong thơ
Đƣờng luôn khát vọng hòa hợp với thiên nhiên, ở giữa đất trời, cảm ứng với đất
trời. Tống hữu nhân của Lí Bạch, Đăng cao của Đỗ Phủ là những ví dụ tiêu biểu.
Thơ Đƣờng rất quan tâm thể hiện quan hệ tƣơng giao, hòa hợp giữa con
ngƣời với con ngƣời. Con ngƣời trong thơ Đƣờng đặc biệt đề cao cái tâm đƣợc thể
hiện rõ trong đề tài bằng hữu. Thơ Đƣờng nói nhiều về tình bạn vì đó là thanh khí tự
nhiên, tri âm, tri kỷ. Hơn nữa các quan hệ trong xã hội phong kiến, chỉ có quan hệ
tình bạn là bình đẳng, là thuần túy tình cảm, tự nguyện, khiến con ngƣời, thi sĩ bày
tỏ tâm sự và thể hiện khát vong tri âm một cách dễ dàng, cho nên hiếm nhà thơ nào
lại không viết về tình bạn. Tiêu biểu phải kể đến Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo
Nhiên chi Quảng Lăng của Lí Bạch. Có thể nói, đến đời Đƣờng, con ngƣời vũ trụ
đƣợc thể hiện trong thơ ca đã đạt đến trình độ tuyệt vời. Hình tƣợng con ngƣời vũ
14
trụ thể hiện khát vọng của con ngƣời đƣợc sống thanh bình, hòa hợp vào nhịp sống
của vũ trụ vô biên.
- Con ngƣời xã hội: Trong thơ Đƣờng, con ngƣời xã hội chủ yếu là tầng lớp
nhân dân thấp cổ bé họng đƣợc phản ánh bằng quan hệ mâu thuẫn, đối lập gay gắt
với tầng lớp thống trị. Điều này đƣợc thể hiện rất rõ trong bộ phận thơ sáng tác theo
khuynh hƣớng hiện thực mà tiêu biểu là Đỗ Phủ (các bài Tam lại, Tam biệt, Mao ốc
vị thu phong sở phá ca ). Mọi nỗi đau khổ của con ngƣời, đặc biệt là con ngƣời bất
hạnh đều đƣợc các nhà thơ hiện thực phản ánh bằng tất cả tấm lòng nhân đạo, cảm
thông. Con ngƣời trong thơ Đƣờng mang tính nhân văn sâu sắc, bồi đắp cho tâm
hồn ta những tình cảm cao đẹp, lòng nhân ái, hƣớng ta về với chân, thiện, mĩ. Đó là
sự đóng góp to lớn của thơ Đƣờng cho Trung Quốc và cả nhân loại.
1.1.3.2. Không gian nghệ thuật
Cũng nhƣ quan niệm nghệ thuật về con ngƣời, không gian nghệ thuật trong thơ
Đƣờng có hai kiểu không gian là không gian vũ trụ và không gian đời thƣờng.
- Không gian vũ trụ: Từ một điểm trung tâm, con ngƣời nhìn ra mọi phía:
đông, tây, nam, bắc và con ngƣời là yếu tố trung tâm nên không gian mang tính đối
xứng, con ngƣời chính là tâm đối xứng của không gian ấy. Điều này khiến con
ngƣời cảm thấy nhỏ bé, cô đơn giữa vũ trụ mênh mông vô tận. Để chiếm lĩnh không
gian vũ trụ, con ngƣời thƣờng dùng hai cách, đó là: lên cao và đi xa, ví dụ nhƣ
Đăng cao, Thu hứng của Đỗ Phủ, Tĩnh dạ tứ của Lí Bạch. Vì vậy không gian vũ trụ
trong thơ Đƣờng là không gian mở. Thi sĩ tạo dựng không gian vũ trụ chính là để
đƣa không gian nội tâm hòa hợp cùng thế giới.
- Không gian đời thƣờng: Trong thơ Đƣờng, con ngƣời đƣợc phản ánh trong
quan hệ mâu thuẫn đối lập với thế lực áp bức họ và lúc này không gian vũ trụ cũng
nhƣờng chỗ cho không gian đời thƣờng. Đó chính là không gian tồn tại của lớp
ngƣời “thấp cổ bé họng”. Trong không gian ấy đầy nỗi bi ai, con ngƣời bị vây bủa,
trói buộc. Họ phải đi (hoặc chạy) trong những thôn xóm, làng mạc, chiến trƣờng.
Đây là kiểu không gian xuất hiện nhiều trong thơ hiện thực. Với tƣ cách là ngƣời
đại diện để cất lên tiếng nói của nhân dân, các thi sĩ đã tái hiện lại những cảnh đời
vất vả, khó nhọc, vẽ lại cảnh tiêu điều thê lƣơng trên quê hƣơng bị chiến tranh tàn
15
phá. Cho nên không gian đời thƣờng rất thực, gần gũi. Thế giới cảnh vật mang màu
sắc u tối, nhợt nhạt thiếu sức sống, các thi nhân miêu tả nó một cách cụ thể, chi tiết.
Nhìn chung, trong thơ Đƣờng không gian vũ trụ vẫn chiếm ƣu thế hơn.
Không gian nghệ thuật của thơ Đƣờng đã đạt đến mức hoàn mĩ, tiêu biểu cho không
gian nghệ thuật thơ Trung Quốc.
1.1.3.3. Thời gian nghệ thuật
Thời gian nghệ thuật của thơ Đƣờng là sự đúc kết những tinh hoa của thời
gian trong thơ ca Trung Quốc. Các nhà thơ, nhà văn xây dựng con ngƣời trong tác
phẩm bằng hình tƣợng, cho nên thời gian trong tác phẩm cũng sẽ là thời gian của
hình tƣợng. Cũng nhƣ quan niệm về con ngƣời nghệ thuật, không gian nghệ thuật,
chúng ta có thể chia ra hai kiểu thời gian chính trong thơ Đƣờng là: thời gian vũ trụ
và thời gian đời thƣờng.
- Thời gian vũ trụ: Nói đến thời gian vũ trụ tức là nói đến thời gian trong mối
quan hệ với không gian. Khi nhắc đến không gian, chúng ta hình dung về nó rõ hơn
vì không gian là cái có thể nhìn thấy đƣợc, còn thời gian thì vô hình, nhƣng thời
gian vũ trụ trong thơ Đƣờng luôn có mối quan hệ biện chứng với không gian, ngƣời
ta dùng không gian để thể hiện thời gian và ngƣợc lại. Trong thơ Đƣờng có rất
nhiều địa danh và đằng sau địa danh ấy vẫn thấy sự tiềm ẩn, bóng dáng của thời
gian. Với tƣ cách là thời gian vũ trụ, thời gian nghệ thuật trong thơ Đƣờng ít chịu
đóng khung trong thời hiện tại mà luôn có xu hƣớng vận hành trong vòng lƣu
chuyển của thời gian, ngƣợc về quá khứ, xuôi đến hiện tại. Dƣờng nhƣ các nhà thơ
luôn ƣu tiên cho quá khứ và chủ yếu thể hiện điều đó dƣới hai dạng: thời gian hoài
cổ và thời gian kí ức. Vì vậy mà có rất nhiều bài thơ hoài cổ: Bạch đế hoài cổ, Tây
Thi vịnh, Xích Bích hoài cổ Ẩn chứa trong thời gian hoài cổ là niềm xót thƣơng
cho hiện tại và lo lắng cho tƣơng lai.
- Thời gian đời thƣờng: Khi phản ánh đời sống của con ngƣời trong xã hội,
thời gian nghệ thuật là thời gian đời thƣờng. Thời gian đời thƣờng chủ yếu là thời
hiện tại, có tính cụ thể khi kể về cái đang diễn ra rất thực, rất đời thƣờng nhƣ trong
bài Thạch hào lại hay Mao ốc vị thu phong sở phá ca của Đỗ Phủ.
16
1.1.3.4. Thể loại và ngôn ngữ
Thể loại: Các nhà thơ đời Đƣờng sử dụng hai thể thơ chính là cổ thể và kim
thể.
Thơ cổ thể: Hai dạng của thơ cổ thể là cổ phong và nhạc phủ.
Cổ phong thƣờng là thơ 5 chữ hoặc 7 chữ. Còn nhạc phủ là tên chung của
nhiều thể khác nhau và chúng thƣờng đƣợc dùng để phổ nhạc.
Thơ cổ thể không có luật lệ nhất định, số câu trong bài không hạn chế, số
chữ trong câu không bị bó buộc. Không chỉ thế, niêm luật và đối ngẫu ở thể thơ này
cũng không qui định nghiêm ngặt nên gần gũi với đời thƣờng. Ví dụ nhƣ các bài:
Tương tiến tửu của Lí Bạch, Thạch hào lại của Đỗ Phủ, Tì bà hành của Bạch Cƣ Dị.
Thơ kim thể: Thơ kim thể đã có từ trƣớc và đến đời Đƣờng đạt đến thành tựu
đặc sắc, thơ kim thể có hai dạng chính là luật thi và tuyệt cú.
Luật thi gồm thất ngôn bát cú (thất luật) và ngũ ngôn bát cú (ngũ luật).
Tuyệt cú (tứ tuyệt) mỗi bài thơ chỉ có 4 câu, gồm Thất ngôn tuyệt cú (thất
tuyệt) và Ngũ ngôn tuyệt cú (ngũ tuyệt). Thất ngôn tuyệt cú thực chất là một bài
“thất ngôn bát cú” đem bỏ đi bốn câu đầu hoặc bốn câu cuối. Luật bằng trắc và
niêm, vần vẫn giữ nguyên, có thể bỏ luật đối ở hai câu 3, 4 hoặc 5, 6. Ngũ ngôn
tuyệt cú thực chất là bài thất ngôn tứ tuyệt đem bỏ đi hai chữ đầu ở mỗi câu; các
chữ còn lại vẫn giữ nguyên luật bằng trắc, niêm và vần.
Cả luật thi và tuyệt cú đều là thơ cách luật. Tuyệt cú ra đời sau luật thi, nó có
quan hệ mật thiết với luật thi. Niêm luật của thơ tuyệt cú tƣơng ứng với luật thi.
Sự qui định của luật thi rất chặt chẽ, không đƣợc vi phạm, cụ thể nhƣ sau:
Một bài thơ phải đạt sáu yêu cầu - niêm, luật, vận, đối, tiết tấu, bố cục.
Niêm: là qui tắc phối thanh theo chiều dọc làm các liên thơ kết với nhau. Trong
một bài thơ có 4 liên, các liên thơ đi với nhau từng đôi một (câu 1 liên với câu 2,
câu 3 liên với câu 4, câu 5 liên với câu 6, câu 7 liên với câu 8). Niêm làm cho các
liên thơ dính lại căn cứ từ chữ thứ 2 của mỗi câu theo qui định: bằng niêm với bằng,
trắc niêm với trắc. Câu 2 niêm với câu 3, câu 4 niêm với câu 5, câu 6 niêm với câu
7, câu 8 niêm với câu 1. Qui định này làm cho bài thơ dính lại với nhau thành một
vòng khép kín, tạo nên một cấu trúc nội tại vững chắc.
17
Luật: Luật thơ Đƣờng căn cứ trên thanh bằng và thanh trắc, và dùng các chữ thứ
2-4-6 và 7 trong một câu thơ để xây dựng luật. Thanh bằng gồm các chữ có dấu
huyền hay không dấu; thanh trắc gồm các dấu: sắc, hỏi, ngã, nặng.
Các luật của thơ Đƣờng là luật bằng và luật trắc. Nếu chữ thứ 2 của câu đầu
tiên dùng thanh bằng thì gọi là bài có “luật bằng”; nếu chữ thứ 2 câu đầu dùng
thanh trắc thì gọi là bài có “luật trắc”. Trong từng câu phải hòa hợp, cân xứng các
thanh bằng trắc, cứ một câu 4 trắc 3 bằng lại đến một câu 4 bằng 3 trắc cứ thế
luân phiên xen kẽ nhau sao cho thanh điệu đƣợc cân bằng. Luật thi yêu cầu “nhị, tứ,
lục phân minh” các chữ 2, 4, 6 phải nhất định đúng thanh điệu, nếu thay đổi thì
thanh điệu sẽ phá vỡ làm mất đi sự hài hòa cân đối của câu thơ. Do đó chữ thứ 2 và
6 cùng thanh, cụ thể là: nếu chữ thứ 4 là bằng thì chữ thứ 2 và 6 sẽ là trắc, còn
ngƣợc lại nếu chữ thứ 4 là trắc thì chữ 2 và 6 sẽ là bằng. Trong đó chữ thứ 4 là tâm
đối xứng. Luật phối thanh bảo đảm bằng trắc cân bằng, âm điệu hài hòa. Nếu một
câu thơ Đƣờng mà không theo quy định này thì đƣợc gọi “thất luật”.
Vận (vần): Vần là những chữ có cách phát âm giống nhau, hoặc gần giống
nhau, dùng để tạo âm điệu trong thơ. Trong một bài thơ Đƣờng chuẩn, vần đƣợc
dùng tại cuối các câu 1, 2, 4, 6 và 8. Những câu này đƣợc gọi là “vần với nhau”.
Nếu một bài thơ Đƣờng mà chữ cuối của một trong các câu này không giống nhau
về vần thì đƣợc gọi là “thất vận”. Những chữ có vần giống nhau hoàn toàn gọi là
“vần chính”, những chữ có vần gần giống nhau gọi là “vần thông”. Một bài thơ bát
cú có 5 vần (tuyệt cú 2 hoặc 3 vần). Hầu hết thơ Đƣờng dùng vần thanh bằng,
nhƣng cũng có các ngoại lệ.
Đối: Với thơ Đƣờng luật thì đối thơ cũng là yếu tố bắt buộc. Phải đối liên
(liên 2 là câu 3, 4 còn liên 3 là câu 5, 6 - tức là câu 4 đối với câu 3, câu 6 đối với câu
5), đối cả thanh (bằng đối với trắc, trắc đối với bằng), đối từ (từ loại nào đối với từ
loại đó), đối ý. Đó là 4 yêu cầu phải đƣợc tuân thủ nghiêm ngặt trong một bài luật
thi.
Tiết tấu (cách ngắt nhịp): Tiết tấu trong thơ Đƣờng nhìn chung ở câu thơ 7 chữ
và 5 chữ đều là chẵn trƣớc, lẻ sau (4/3 hoặc 2/2/3 ở câu thơ 7 chữ và 2/3 ở câu thơ 5
chữ). Cách ngắt nhịp theo chẵn/lẻ là cố định tạo nên sự hài hòa.
18
Bố cục: Có ba cách chủ yếu về chia bố cục của một bài luật thi cụ thể nhƣ
sau:
- Chia làm 4 phần: đề, thực, luận và kết. Cứ mỗi “liên thơ” là một phần.
+ Hai câu đầu gọi là đề, câu thứ nhất là phá đề (mở ý đầu của bài ra). Câu thứ hai là
thừa đề (tiếp ý của câu thứ nhất để chuyển vào thân bài).
+ Câu 3, 4 gọi là thực (giải thích rõ ý của phần đề).
+ Câu 5, 6 gọi là phần luận (phát triển ý của của phần đề).
+ Hai câu cuối gọi là kết (kết thúc ý của toàn bài).
Hiện nay ở trƣờng phổ thông, khi giảng dạy một bài luật thi, giáo viên chủ
yếu vẫn chia bố cục theo cách này.
- Chia làm 3 phần: (2/4/2). Cách chia này tƣơng đối mới, gần với cách chia
bố cục của một văn bản hiện đại: có 3 phần (mở bài, thân bài và kết bài).
- Cách chia làm 2 phần (4/4). Bốn câu đầu (tiền giải) tả cảnh và trong cảnh
có tình. Trên cái nền phong cảnh đã tạo trƣớc đó, bốn câu cuối (hậu giải) thể hiện
tình cảm.
Chia bố cục theo ba cách trên đều có những ƣu điểm riêng của nó, nhƣng
việc chia theo bố cục đều xuất hiện ở thời sau còn ở thời Đƣờng, điều mà các nhà
thơ quan tâm là sao cho bài thơ đạt đƣợc tính toàn vẹn và theo sự vận hành đi từ
ngoại cảnh đến nội tâm (cảm xúc trƣớc cảnh mà nảy sinh tình). Cả luật thi và tuyệt
cú là thơ trữ tình nội tâm, nên khi tâm tình đã đƣợc bộc bạch thì bài thơ kết thúc.
Ngôn ngữ:
Thơ Đƣờng ít lời nhiều ý, ý ở ngoài lời. Ngôn ngữ thơ Đƣờng là ngôn ngữ
tinh luyện, có tính khái quát cao, giàu hình ảnh và cảm xúc. Số chữ đƣợc dùng rất ít
(chỉ 20 chữ ở thơ ngũ ngôn tứ tuyệt và 56 chữ ở thơ thất ngôn bát cú) nhƣng tinh tế
và hàm súc. Đó là do sức gợi sâu xa của các biện pháp tu từ, đặc biệt là phép tỉ dụ,
ẩn dụ, điển cố. Một bài thơ năm chữ tuyệt cú vẻn vẹn chỉ có hai mƣơi chữ, nhƣng
càng ít chữ, càng phải cân nhắc cho nên từ ngữ ở thơ Đƣờng luật phần lớn đƣợc sử
dụng rất đắt.
Ngôn ngữ thơ Đƣờng đƣợc tập hợp theo hai “trƣờng” mang tính đặc trƣng
của hai khuynh hƣớng sáng tác (khuynh hƣớng lãng mạn và khuynh hƣớng hiện
thực). Hệ thống thơ thể hiện con ngƣời vũ trụ, ngôn ngữ mang tính khái quát, cổ
19
kính trang nhã, nhiều hình ảnh ƣớc lệ tƣợng trƣng, gợi liên tƣởng, ngữ âm hài hoà,
thể hiện tâm tình sâu lắng, suy tƣ. Hệ thống thơ phản ánh hiện thực, ngôn ngữ mang
tính cụ thể, tỷ lệ động từ, câu trần thuật cao, ngữ âm sôi động, nhiều thanh trắc.
1.2. Thơ Đƣờng trong chƣơng trình Ngữ văn 10
1.2.1. Nội dung dạy học thơ Đường trong chương trình Ngữ văn 10
1.2.1.1. Khảo sát các bài thơ Đường trong chương trình Ngữ văn 10
Di sản Đƣờng thi còn để lại đến ngày nay vô cùng đồ sộ với hơn 48000 bài
của trên 2300 nhà thơ. Trong đó, những nhà thơ nổi tiếng nhất đời Đƣờng là Lí
Bạch (701– 762), Đỗ Phủ (712– 770), Bạch Cƣ Dị (772– 846),… Ngoài ra còn có
các nhà thơ tuy sáng tác không nhiều nhƣng vẫn để lại những tuyệt tác bất hủ. Ví dụ
nhƣ Thôi Hiệu với Hoàng Hạc lâu – kể ra 10 nhà thơ tiêu biểu nhất đời Đƣờng chƣa
chắc đã có Thôi Hiệu, nhƣng nếu nói đến 10 bài Đƣờng thi hay nhất thì trong đó
chắc chắn có Hoàng Hạc lâu.
Trong số rất nhiều tác giả, tác phẩm nhƣ trên, chƣơng trình Ngữ văn lớp 10
(chƣơng trình chuẩn) chỉ tuyển chọn 5 bài thơ Đƣờng là:
Bảng 1.1. Các bài thơ Đường trong chương trình Ngữ văn 10
STT
Tên tác phẩm
Tên tác giả
Ghi chú
1
Tại lầu Hoàng Hạc tiễn Mạnh Hạo Nhiên đi
Quảng Lăng (Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo
Nhiên chi Quảng Lăng)
Lí Bạch
2
Cảm xúc mùa thu (Thu hứng)
Đỗ Phủ
3
Lầu Hoàng Hạc (Hoàng Hạc lâu)
Thôi Hiệu
Đọc thêm
4
Nỗi oán của người phòng khuê (Khuê oán)
Vƣơng Xƣơng
Linh
Đọc thêm
5
Khe chim kêu (Điểu minh giản)
Vƣơng Duy
Đọc thêm
Mỗi tác phẩm đƣợc lựa chọn ở trên đều là tác phẩm tiêu biểu cho phong cách
tác giả và các trƣờng phái thơ Đƣờng. Lí Bạch là “Thi tiên” – nhà thơ lãng mạn vĩ
đại của Trung Quốc với phong cách thơ hào phóng, bay bổng, lại rất tự nhiên, tinh
tế và giản dị. Đỗ Phủ đƣợc gọi là “Thi thánh” – nhà thơ hiện thực vĩ đại của Trung
Quốc với giọng thơ trầm uất, nghẹn ngào. Vƣơng Xƣơng Linh đại diện cho trƣờng