Tải bản đầy đủ (.pdf) (29 trang)

dạy học các tác phẩm thơ nguyễn khuyến, tú xương ở trung học phổ thông theo hướng tiếp cận thi pháp tt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (645.06 KB, 29 trang )


1



ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC







PHẠM THỊ THU HIỀN








DẠY HỌC CÁC TÁC PHẨM THƠ NGUYỄN KHUYẾN, TÚ XƯƠNG Ở
TRUNG HỌC PHỔ THÔNG THEO HƯỚNG TIẾP CẬN THI PHÁP



LUẬN VĂN THẠC SĨ SƯ PHẠM NGỮ VĂN









HÀ NỘI – 2012

2




ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC


PHẠM THỊ THU HIỀN




DẠY HỌC CÁC TÁC PHẨM THƠ NGUYỄN KHUYẾN, TÚ XƯƠNG Ở
TRUNG HỌC PHỔ THÔNG THEO HƯỚNG TIẾP CẬN THI PHÁP


LUẬN VĂN THẠC SĨ SƯ PHẠM NGỮ VĂN

Chuyên ngành: LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC
(BỘ MÔN NGỮ VĂN)

Mã số: 60 14 10


Cán bộ hướng dẫn: PGS.TS Trần Khánh Thành






HÀ NỘI - 2012


4
MỤC LỤC
Trang
Lời cảm ơn i
MỤC LỤC ii
MỞ ĐẦU 1
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI 7
1.1. Một số vấn đề thi pháp học 7
1.1.1. Khái niệm về Thi pháp học 7
1.1.2. Các bình diện thi pháp cơ bản trong sáng tạo văn học …………… 8
1.2. Thi pháp văn học trung đại ……………………………………….…… 12
1.2.1. Tính ước lệ …………………………………………………….…… 13
1.2.2. Tính quy phạm …………………………………………………… 14
1.2.3. Tính phi ngã ……………………………………………….………… 14
1.2.4. Thiên nhiên trong thơ văn trung đại ……………………………… 14
1.2.5. Không gian nghệ thuật và thời gian nghệ thuật trong văn
học trung đạị……………………………… …………… ………………… 15

1.2.6 Con người trong văn thơ trung đại …….……… ……………….…… 16
1.3 Một số vấn đề về thi pháp thơ Nguyễn Khuyến và thi pháp thơ
Tú Xương ……………………………………………………………….… 18
1.3.1. Một số vấn đề về thi pháp Nguyễn Khuyến……………………….… 18
1.3.2. Một số vấn đề về thi pháp Tú Xương .………… … . 26
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG DẠY HỌC THƠ TRUNG ĐẠI TRONG
NHÀ TRƢỜNG PHỔ THÔNG HIỆN NAY VÀ ĐỊNH HƢỚNG ĐỔI
MỚI TỪ HƢỚNG TIẾP CẬN THI PHÁP…………………………… … 39
2.1 Thực trạng dạy học thơ trung đại trong nhà trường phổ thông hiện nay…. 39
2.1.1. Thực trạng học thơ trung đại nói chung trong nhà trường
phổ thông hiện nay…………………………………………… ……………. 39
2.1.2. Thực trạng dạy học “Thu điếu” của Nguyễn Khuyến và

5
“Thương vợ” của Tú Xương…………….………………………………… . 41
2.2. Những định hướng đổi mới khi giảng dạy hai bài thơ “Thu điếu”
của Nguyễn Khuyến và “Thương vợ” của Tú Xương từ hướng tiếp
cận thi pháp………………………………………………………………… 43
2.2.1.Dạy bài “Thu điếu” của Nguyễn Khuyến và “Thương vợ” của
Tú Xương từ hướng tiếp cận thi pháp thơ trung đại…………………… …… 43
2.2.2.Dạy bài Thu điếu của Nguyễn Khuyến và Thương vợ của
Tú Xương theo đặc điểm thi pháp tác giả……………………………………. 45
2.2.3. Kết hợp một cách hợp lí với các phưong pháp dạy học các
tác phẩm văn chương…………………………………………………………. 66
Chƣơng 3: THỰC NGHIỆM DẠY BÀI “THU ĐIẾU” (NGUYỄN
KHUYẾN) VÀ “THƢƠNG VỢ” (TÚ XƢƠNG) TỪ HƢỚNG TIẾP
CẬN THI PHÁP…………………………………………………………… 72
3.1 Mục đích thực nghiệm…………………………………………………… 72
3.2 Những khó khăn, thuận lợi đặt ra khi dạy “Thu điếu” của Nguyễn
Khuyến và “Thương vợ” của Tú Xương theo hướng tiếp cận thi pháp……… 72

3.2.1 Khó khăn……………………………………………………………… 72
3.2.2 Thuận lợi …………………………………………………………….… 75
3.3 Thiết kế giáo án thực nghiệm dạy học bài “Thu điếu” củaNguyễn
Khuyến và “Thương vợ” của Tú Xương ………………………… …… … 76
3.3.1 Bài “Thu điếu” của Nguyễn Khuyến………………………………. … 76
3.3.2. Bài “Thương vợ” của Tú Xương ………………………………….… 87
3.4. Tổ chức thực nghiệm…………………………………………… … 96
3.4.1. Chọn lớp thực nghiệm……………………………………………… 96
3.4.2. Dạy thực nghiệm …………………………………………………… 96
3.5. Kết quả thực nghiệm …………………………………………… ……. 97
3.5.1 Tiến hành khảo sát và tổng hợp kết quả với đối tượng khảo
sát là giáo viên ……………………………………………………… …… 97
3.5.2. Tiến hành khảo sát và tổng hợp kết quả với đối tượng khảo

6
sát là học sinh…………………………………………………………….…. 98
3.5.3. Đánh giá kết quả………………………………………………… 99
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ …………………….……….………… 101
TÀI LIỆU THAM KHẢO………………………………… ……………… 103



























3
TÓM TẮT LUẬN VĂN

MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Văn học có vị trí quan trọng đặc thù trong việc bồi đắp tâm hồn, hình
thành nhân cách học sinh. Văn học trang bị những cảm xúc nhân văn, giúp
con người hướng tới Chân - Thiện - Mỹ. Nhờ có văn học mà đời sống tinh
thần của con người ngày càng giàu có, phong phú, tinh tế hơn. Tâm hồn trở
nên bớt chai sạn, thờ ơ, bàng quan trước những số phận, cảnh đời diễn ra
xung quanh mình hàng ngày, trước thiên nhiên và tạo vật. Văn học bồi đắp
cho học sinh lòng yêu nước, thái độ trân trọng truyền thống, và ngôn ngữ mẹ
đẻ Thời nào cũng vậy, tác phẩm văn học chân chính có khả năng kì diệu là
thanh lọc tâm hồn con người, làm người “gần người hơn”. Mặc dầu có vị trí,
chức năng quan trọng đặc biệt như vậy nhưng hiện nay đang xuất hiện tình

trạng nhiều học sinh không thích học môn Ngữ văn. Chất lượng môn Văn
ngày càng đi xuống ở tình trạng báo động.
Để góp phần nâng cao hứng thú học văn và nâng cao chất lượng dạy
học văn, ngoài đổi mới nội dung, chương trình sách giáo khoa, thì cần phải
đổi mới phương pháp dạy học. Hiện nay, trong các nhà trường phổ thông
đang tiến hành đổi mới phương pháp dạy học một cách tích cực trong đó
việc dạy học văn từ hướng tiếp cận thi pháp đang diễn ra phổ biến và rộng
rãi và bước đầu đã có những kết quả. Từ những vấn đề trên, kết hợp khát
khao muốn khám phá cái hay, cái đẹp trong văn học trung đại qua những tác
phẩm của Nguyễn Khuyến và Tú Xương chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề
tài: Dạy học các tác phẩm thơ Nguyễn Khuyến, Tú Xương ở trung học phổ
thông theo hướng tiếp cận thi pháp. Với đề tài này, chúng tôi muốn tìm đến
một cách dạy thích hợp, mang tính khoa học và nghệ thuật, góp phần nâng
cao hiệu quả một giờ giảng dạy văn chương, hình thành khả năng cảm thụ
văn chương một cách toàn diện, từ đó bồi dưỡng cho học sinh tình yêu đối

4
với môn học này, chúng tôi mong muốn đề tài sẽ góp một phần nhỏ vào quá
trình hiện đại hóa việc dạy học môn Ngữ văn hiện nay.
2. Lịch sử nghiên cứu
Là hai tác gia trào phúng xuất sắc, con người và sự nghiệp sáng tác của
Nguyễn Khuyến và Tú Xương đã trở thành đối tượng nghiên cứu của lịch sử
văn học, phê bình văn học và lí luận văn học. Qua quá trình phân tích, tổng
hợp, chúng tôi có thể kể đến những công trình nghiên cứu về con người
cũng như sự nghiệp thơ văn của Nguyễn Khuyến và Tú Xương đều mang
tính khoa học cao và góp phần làm sáng lên giá trị nghệ thuật, giá trị nội
dung hiện thực, trữ tình trong thơ Nguyễn Khuyến và Tú Xương. Ở đó con
người và tác phẩm của Nguyễn Khuyến và Tú Xương được khẳng định và
phân tích. Các công trình, bài viết nghiên cứu đã giúp tôi có định hướng để
tiếp tục nghiên cứu đề tài nhằm hoàn thành đề tài có chất lượng hơn.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Xuất phát từ thực trạng dạy học thơ trung đại hiện nay, luận văn xin đề
xuất phương pháp: Dạy học các tác phẩm thơ Nguyễn Khuyến, Tú Xương ở
trung học phổ thông theo hướng tiếp cận thi pháp nhằm góp phần đổi mới
phương pháp dạy học Ngữ Văn, nâng cao hiệu quả giảng dạy qua đó bồi
dưỡng năng lực nhận thức và tình yêu đối với văn học của học sinh.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện được mục đích nghiên cứu, chúng tôi xác định đề tài có
những nhiệm vụ nghiên cứu chủ yếu sau đây:
- Giải quyết một số vấn đề lý luận về thi pháp học, thi pháp thơ trung đại, thi
pháp thơ Nguyễn Khuyến và thi pháp thơ Tú Xương.
- Tìm hiểu thực trạng dạy học tác phẩm thơ trung đại
- Đề xuất phương pháp dạy học theo hướng tiếp cận thi pháp.
- Thiết kế thể nghiệm giáo án dạy bài Thu điếu của Nguyễn Khuyến và
Thương vợ của Tú Xương theo hướng tiếp cận thi pháp.

5
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
+ Đối tượng nghiên cứu của đề tài là thi pháp văn học trung đại, thi pháp
Nguyễn Khuyến và thi pháp Tú Xương.
+ Định hướng đổi mới dạy bài Thu điếu của Nguyễn Khuyến và Thương vợ
của Tú Xương
4.2. Phạm vi nghiên cứu
+ Nghiên cứu lí luận về dạy học tác phẩm văn chương theo hướng tiếp cận
thi pháp.
+ Vận dụng vào dạy Thu điếu của Nguyễn Khuyến và Thương vợ của Tú Xương.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
- Phương pháp so sánh, thống kê, phân tích

- Phương pháp khảo sát, thực nghiệm
6. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, khuyến nghị, tài liệu tham khảo, luận
văn được trình bày trong 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận của đề tài
Chương 2: Thực trạng dạy học thơ trung đại trong nhà trường trung học phổ
thông hiện nay và định hướng đổi mới từ hướng tiếp cận thi pháp
Chương 3: Thực nghiệm dạy bài “Thu điếu” (Nguyễn Khuyến) và “Thương
vợ” ( Tú Xương)

CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Một số vấn đề về thi pháp học
1.1.1. Khái niệm về thi pháp học
Từ những định nghĩa của V. Girmunxki, Ts. Todorop, V.V .
Vinogradop, Trần Đình Sử, Từ điển thuật ngữ văn học, ta có thể thống nhất
cách hiểu về thi pháp học như sau: thi pháp học là một bộ môn khoa học đặc

6
thù nghiên cứu thi pháp, tức nghiên cứu các phương tiện nghệ thuật tạo nên
tác phẩm nghệ thuật ngôn từ trong sự thống nhất toàn vẹn của nó
1.1.2. Các bình diện thi pháp cơ bản trong sáng tạo văn học
Từ cách hiểu về thi pháp học như trên, vậy dạy một tác phẩm văn học
theo hướng thi pháp học cần chú ý 6 bình diện thi pháp trong sáng tạo văn
học:
1.1.2.1. Thi pháp nhân vật
Nhân vật là hình tượng trung tâm của tác phẩm. Thi pháp học xem xét
nhân vật ở ba khía cạnh: tính cách nhân vật, quan niệm nghệ thuật về con
người, nghệ thuật miêu tả nhân vật.
1.1.2.2. Thi pháp không gian nghệ thuật

Không gian nghệ thuật là trường nhìn được mở ra từ một điểm nhìn,
cách nhìn. Mỗi tác phầm có một không gian do tác giả lựa chọn và miêu tả.
Là một hiện tượng nghệ thuật, không gian nghệ thuật mang tính ước lệ giàu
ý nghĩa cảm xúc. Không gian nghệ thuật gồm có: Không gian sự kiện,
không gian bối cảnh, không gian tâm lý, không gian kể chuyện .
1.1.2.3. Thi pháp thời gian nghệ thuật
Thời gian kể chuyện gồm có: thời gian được trần thuật (hình tượng
thời gian), và thời gian trần thuật (thời gian kể chuyện). Tìm hiểu hình tượng
thời gian, cần quan tâm ý nghĩa của các thời: quá khứ, hiện tại, tương lai, độ
đo thời gian của các nhân vật… Tìm hiểu thời gian trần thuật, cần lưu ý cấp
độ thời gian như : trật tự kể với thời gian sự kiện, thời lưu (độ dài các sự
kiện được tính bằng câu), tần xuất (số lần lặp lại). Các thủ pháp thời gian
như: trì hoãn, gián cách, đảo tuyến, chêm xen, hoán vị, đồng hiện, bỏ lửng,
che giấu, đón trước
1.1.2.4. Thi pháp kết cấu văn bản
Kết cấu tác phẩm thực chất là tác giả mở lối cho người đọc đi vào
dòng sự kiện, dòng đời. Bố trí điểm nhìn cho công chúng sao cho dễ thấy

7
được chiều rộng và chiều sâu của câu chuyện nhằm thấy được ý nghĩa nhân
sinh cần thiết cho con ngưởi.
Hình thức kết cấu văn học rất đa dạng và cũng phụ thuộc vào thể loại
(riêng đối với thơ luật thì còn phải theo kết cấu định sẵn ví dụ thơ Đường
luật, lục bát, song thất lục bát. v.v… Sự tích cực chủ động sáng tạo của nhà
văn làm phong phú nhiều kiểu kết cấu thú vị.
1.1.2.5. Thi pháp chi tiết nghệ thuật
Chi tiết là những bộ phận nhỏ, tự nó đứng riêng thì không có ý nghĩa,
nhưng khi kết lại nó biểu hiện một ý nghĩa của tác phẩm. Chi tiết chính là
điểm nhìn, thể hiện quan niệm nghệ thuật và tâm hồn tác giả đối với đối
tượng đó. Các chi tiết nghệ thuật bao gồm các loại màu sắc, âm thanh, đồ

vật, đường nét, chất liệu…tạo thành các thế giới nghệ thuật khác nhau về
chất.
1.1.2.6. Thi pháp lời văn nghệ thuật
Lời văn nghệ thuật là thứ ngôn ngữ đặc biệt, được chưng cất từ hiện thực
ngôn ngữ của toàn dân. Các phương diện của lời văn nghệ thuật là ngữ âm,
từ vựng, cú pháp, biện pháp tu từ.
1.2. Thi pháp văn học trung đại
1.2.1. Tính ước lệ
Ước lệ là một quy ước của cộng đồng người. Trong nghệ thuật đó là
quy ước chung của nghệ sĩ và độc giả. Đó là huynh hướng lí tưởng hoá để
tạo ra một thế giới nghệ thuật riêng khác với đời sống thực tại. Cái có thật đi
vào nghệ thuật được cách điệu hoá cao độ. Trong sự cách điệu hoá đó, thiên
nhiên chính là chuẩn mực, là khuôn vàng thước ngọc để đánh giá vẻ đẹp. Vì
vậy, các nhà văn đều lấy thiên nhiên để so sánh với con người để tôn vinh vẻ
đẹp. 1.2.2. Tính quy phạm
Khi sáng tác, các tác giả cũng vay mượn đề tài, cốt truyện, môtip, có
khi cải biên cốt truyện để tạo nên một tác phẩm mới. Đây là sự tuân theo
những kiểu mẫu, khuôn mẫu sẵn có đó thành công thức.

8
1.2.3. Tính phi ngã
Thời phong kiến ý thức cá nhân chưa phát triển. Vì thế, trong văn học,
yếu tố cá nhân cũng bị dấu đi, khiến văn chương có tính phi ngã không có
dấu ấn cái tôi cá nhân, họ thường sử dụng các công thức có sẵn để sáng tác.
1.2.4. Thiên nhiên trong thơ văn trung đại
Trong văn chương xưa, thiên nhiên là yếu tố rất phổ biến và đóng vai
trò hết sức quan trọng trong việc biểu lộ tình cảm, ý chí của con người. Từ
đó dẫn đến việc miêu tả thiên nhiên theo bút pháp đặc biệt là tả cảnh ngụ
tình.
1.2.5. Không gian nghệ thuật và thời gian nghệ thuật trong văn học trung

đại
1.2.5.1 Thời gian nghệ thuật
Từ kinh nghiệm quan sát trực cảm thế giới người ta có hai nhận thức
về thời gian: Thời gian của đời người, của cuộc sống hàng ngày là thời gian
tuyến tính, một đi không trở lại và thời gian của thiên nhiên, đất trời, vũ trụ
là thời gian chu kỳ, tuần hoàn, phi thời gian. Người xưa thường đặt hai loại
thời gian này trong thế đối sánh để làm nổi bật những nỗi niềm, triết lí, hoặc
bi kịch của đời người.
1.2.5.2. Không gian nghệ thuật
Trong thơ ca bác học, không gian trở nên trừu tượng hoặc ước lệ. Đó
là không gian vũ trụ vô tận mà cõi trần chỉ là nhỏ bé chật hẹp.
1.2.6. Con người trong văn thơ trung đại
Người xưa quan niệm con người là một phần của thế giới trong trục
thiên – địa – nhân. Vì thế cá nhân được thể hiện trong quan hệ với vũ trụ
hơn là trong quan hệ với xã hội. Ngoài ra, toàn bộ xã hội trung đại được
nhìn nhận trong một hệ thống tôn giáo đạo đức nên chú ý đến con người xã
hội hơn con người tự nhiên, chú ý đạo đức hơn trí tuệ và bản năng. Con
người do Trời sinh và chịu sự chi phối của Trời về “tính” và “mệnh”.

9
1.3. Một số vấn đề về thi pháp thơ Nguyễn Khuyến và thi pháp thơ Tú
Xƣơng
1.3.1. Một số vấn đề về thi pháp thơ Nguyễn Khuyến
1.3.1.1. Quan niệm nghệ thuật về con người
Nguyễn Khuyến trong thơ vẫn thể hiện quan niệm thẩm mĩ về con
người của thơ ca trung đại. Đó là con người có tầm vóc vũ trụ. Con người ấy
luôn luôn ấp ôm ước mơ, hoài bão, lí tưởng kẽ sĩ Nho học. Con người thân
danh mà chuẩn mực là trung quân. Thế nhưng, sau khi về Yên Đổ, nhà thơ
đã có một quan niệm nghệ thuật về con người ẩn dật.
1.3.1.2. Không gian nghê

̣
thuật
Không gian nghệ thuật trong thơ ông trước hết là không gian vũ trụ.
Ngoài ra còn là không gian làng quê bình đạm, yên ắng nhưng vẫn phập
phồng sự sống và đa chiều tràn đầy màu sắc ánh sáng.
1.3.1.3. Thời gian nghê
̣
thuật
Trong thơ Nguyễn Khuyến vẫn tồn tại một thời gian vũ trụ và thời
gian đời thường.
1.3.1.4. Nguyễn Khuyến – Sự phức điệu trào phúng với trữ tình.
Có khi vui đùa, châm biếm nhẹ nhàng, bỡn cợt hóm hỉnh, có khi nhà
thơ đả kích trực diện những lối sống rởm đời, những kẻ làm tay sai cho giặc.
Khi khác là tiếng nói cảm thán thương thân và xót xa trước cả một thời đại.
Chính sự đan xen sắc thái trữ tình và trào phúng một cách uyển chuyển, sinh
động trong sáng tác của Nguyễn Khuyến theo nhiều cung bậc trên sẽ dẫn tới
sự phức điệu. Nhưng trước cảnh nhiễu nhương của xã hội, dòng thơ trữ tình
Nguyễn Khuyến không thể cuồn cuộn nổi lên những con sóng giận dữ đã
làm cho thơ trào phúng của Nguyễn Khuyến chưa thật sắc nhọn, đích đáng
như lối thơ trào phúng của Tú Xương, Hồ Xuân Hương.
1.3.2. Một số vấn đề về thi pháp Tú Xương
1.3.2.1. Quan niệm về con người trong thơ Tú Xương
* Con người làm trò

10
Con người làm trò là con người không xuất hiện một cách bình
thường, tự nhiên như nó vốn có mà xuất hiện trong tư thế đang “diễn trò”,
đang hài hước hóa chính mình.
* Con người hữu danh vô tài
Con người hữu danh vô tài là con người đỗ đạt, có chức tước, địa vị

trong bộ máy cai trị phong kiến nhưng kém về tài năng và học vấn.
* Con người trượt chuẩn
Con người trượt chuẩn theo Tú Xương, trước hết là con người trượt ra
khỏi vị trí, danh phận vốn có của mình, trượt ra khỏi những chuẩn mực đạo
đức qui định. Trượt chuẩn là dấu hiệu đầu tiên trong quá trình băng hoại về
đạo đức con người trước sự Âu hóa văn minh. Con người trượt chuẩn mà Tú
Xương đề cập sẽ trở thành con người tha hóa trong truyện ngắn của Nguyễn
Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Nam Cao,…
* Con người thị tài
Con người thị tài là con người tự đề cao tài năng của bản thân.
1.3.2.2. Không gian nghệ thuật trong thơ Tú Xương
* Không gian trường thi
Tú Xương miêu tả không gian trường thi để thể hiện quan niệm trước
cuộc đời. Không gian trường thi trong thơ Tú Xương chính là xã hội đương
thời thu nhỏ. Ở đây có sự nhố nhăng của buổi giao thời, sự xuống cấp, trượt
chuẩn của con người và đặc biệt có cả sự chế ngự của đồng tiền, tranh giành
đầy phàm tục.
* Không gian tết
Với cái nhìn độc đáo, tác giả xem không gian Tết là không gian Tú
Xương dành cho con người làm trò trong thơ ông. Bởi vì hơn bất cứ ngày
bình thường nào, trong ngày Tết, những thói xấu, thói rởm đời, lố lăng, mới
càng biểu hiện nổi bật.
* Không gian hưởng lạc

11
Không gian hưởng lạc trong thơ Tú Xương là những nơi ăn chơi nổi
tiếng thời bấy giờ như Hoàng Thao, Phố Giầy, Tràng Lạc, Viễn Lai, Ông
coi ăn chơi là một thói xấu do đó đã cường điệu lên để phản ứng lại xã hội.
* Không gian đêm tối
Không gian đêm tối là không gian của nỗi lòng, của tâm trạng. Hình

ảnh bóng đêm trong thơ ông làm ta liên tưởng đến xã hội bế tắc không lối
thoát lúc bấy giờ.
1.3.2.3. Thơ Tú Xương – Giọng điệu và phương thức thể hiện
* Giọng tâm tình
Giọng điệu tâm tình sẽ nảy sinh khi nhà thơ có sự bộc lộ cái tôi trong
lòng.
* Giọng cười biến hóa
Phần lớn các nhà nghiên cứu đều xác định tiếng cười trong thơ ông
không phải tiếng cười đơn nhất một giọng mà là tiếng cười lắm cung bậc
nhiều sắc thái. Mặc dù có sự biến hóa như vậy nhưng xuyên suốt thơ ông
vẫn nổi lên một giọng cười chủ đạo, không thể lẫn. Đó là tiếng cười sắc sảo,
dữ dội, cay độc và đáo.
* Chất giọng dân gian
Chất giọng dân gian trong thơ Tú Xương được tạo nên từ các yếu tố
sau đây: sự tiếp thu hệ thống hình tượng nghệ thuật và hệ thống thành ngữ,
tục ngữ và cách ví von so sánh.

CHƢƠNG 2
THỰC TRẠNG DẠY HỌC THƠ TRUNG ĐẠI TRONG NHÀ
TRƢỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG HIỆN NAY VÀ ĐỊNH
HƢỚNG ĐỔI MỚI TỪ HƢỚNG TIẾP CẬN THI PHÁP.
2.1. Thực trạng dạy học thơ trung đại trong nhà trƣờng trung học phổ
thông hiện nay

12
2.1.1. Thực trạng học thơ trung đại nói chung trong nhà trường trung
học phổ thông hiện nay
Như chúng ta đã biết, để khám phá, tìm hiểu cái hay, cái đẹp của một
một bài thơ trung đại thì không chỉ đòi hỏi ở người giáo viên cần phải có sự
hiểu biết sâu sắc những kiến thức về thi pháp thời đại, thi pháp tác giả, thể

loại văn học,… mà còn đòi hỏi người học sinh cũng phải có những kiến thức
nhất định về những vấn đề trên. Đây là một đòi hỏi chỉ có thể thực hiện ở
những học sinh yêu thích, say mê tìm hiểu tác phẩm văn học. Trong bối
cảnh hiện nay, còn được mấy học sinh yêu thích bộ môn này trong một lớp!
Vì vậy mà giáo viên chỉ đơn giản là truyền thụ kiến thức một chiều thiên về
nội dung. Việc tìm hiểu tác phẩm quá chú trọng nội dung tư tưởng tác phẩm
trong dạy học văn trong một thời gian dài đã gây hậu quả nghiêm trọng.
Chất nghệ thuật, chất văn đã bị thủ tiêu, giờ văn như một giờ giảng đạo đức,
một giờ bàn luận về những vấn đề lịch sử, chính trị, xã hội … người học trở
lên chán học, người dạy thì quen với cách dạy như vậy, ít chịu tìm tòi, khám
phá, sáng tạo mà coi đó là những lối mòn trong đời dạy học. Chất lượng giờ
dạy vì thế mà ngày càng đi xuống, môn Văn ngày càng mất đi vị thế quan
trọng của mình trong việc trang bị kiến thức khoa học, nghệ thuật, và quan
trọng hơn là thiên chức giáo dục nhân cách đạo đức cho học sinh.
2.1.2. Thực trạng dạy học “Thu điếu” của Nguyễn Khuyến và “Thương
vợ” của Tú Xương
Qua thực tiễn dạy học hai bài thơ này, hầu hết giáo viên và học sinh đều
rất hứng thú khi tìm hiểu. Sự hứng thú đến từ phong cách hai tác giả và
những đặc sắc nghệ thuật điển hình trong hai bài thơ. Dù được sáng tác
trong một giai đoạn lịch sử cách đây đã hơn một thế kỷ, nhưng dường như
những vấn đề mà tác giả nêu ra trong hai bài thơ vẫn vô cùng ý nghĩa.
Tuy nhiên khi dạy học hai bài thơ này, qua một thời gian dài vẫn tồn tại
nhiều hạn chế. Đặc biệt là trước khi Bộ Giáo dục và Đào tạo chủ trương cải
cách sách giáo khoa và đổi mới phương pháp dạy học. Cách dạy cũ chỉ chú

13
trọng về phần nội dung, phần nghệ thuật bị coi nhẹ và được xem xét một
cách lẻ tẻ, không có hệ thống. Hiện nay, trong xu thế đổi mới phương pháp
dạy học, tình hình dạy học văn nói chung và hai bài thơ trên nói riêng có
nhiều khả quan hơn. Nhiều phương pháp mới được sử dụng nhằm tiếp cận

văn bản một cách toàn diện hơn. Nhưng vì đây là hai bài thơ thuộc văn học
trung đại, viết theo thể thất ngôn bát cú đường luật, là những bài thơ tiêu
biểu của Nguyễn Khuyến và Tú Xương. Một bài thơ nhỏ phải hòa vào
“dòng chảy ” nghệ thuật chung trong toàn bộ sáng tác của nhà thơ và những
đặc điểm thi pháp thời đại. Giáo viên đã chú trọng tìm hiểu những nét đặc
sắc nghệ thuật của hai bài thơ nhưng có lẽ vẫn bỏ sót nhiều yếu tố quan
trọng do nhiều nguyên nhân. Phần sau của luận văn xin được bổ xung thêm
những yếu tố này nhằm góp phần nâng cao hiệu quả dạy học hai bài thơ này.
2.2. Những định hƣớng đổi mới khi giảng dạy hai bài thơ “Thu điếu”
của Nguyễn Khuyến và “Thƣơng vợ” của Tú Xƣơng từ hƣớng tiếp cận
thi pháp
2.2.1.Dạy bài “Thu điếu” của Nguyễn Khuyến và “Thương vợ” của Tú
Xương từ hướng tiếp cận thi pháp thơ trung đại
Với cách dạy từ hướng thi pháp thì việc giúp học sinh nắm được
những đặc điểm cơ bản về thi pháp thời đại chính là chìa khóa để giải mã
một bài thơ cụ thể như thế này. Vì thời gian có hạn, chúng ta không thể đi
giới thiệu tất cả các đặc điểm về thi pháp của văn học trung đại mà chỉ chú
trọng nhấn mạnh những đặc điểm nghệ thuật được sử dụng nhiều nhất trong
hai bài thơ mà thôi. Có thể tập trung vào các khía cạnh như đề tài, thể loại,
bút pháp, thi liệu, ngôn ngữ, hình ảnh,… Đây sẽ tạo nền tảng cơ sở để tìm
hiểu bài thơ một cách khoa học và có hệ thống.
2.2.2.Dạy bài Thu điếu của Nguyễn Khuyến và Thương vợ của Tú Xương
theo đặc điểm thi pháp tác giả
2.2.2.1. Dạy bài Thu điếu theo đặc điểm thi pháp thơ Nguyễn Khuyến

14
Thi pháp thơ Nguyễn Khuyến là những nét nghệ thuật sáng tạo
đặc sắc mang dấu ấn Nguyễn Khuyến vượt ra ngoài những quy phạm của
văn học trung đại. Trong bài thơ Thu điếu nét đắc trưng thi pháp thơ Nguyễn
Khuyến là được thể hiện ở những bình diện sau:

+ Thi đề: Nguyễn Khuyến phá vỡ tính ước lệ ngay từ thi đề. Nếu như thơ ca
cổ nói đến mùa thu thì thường đó là hình ảnh của một bức tranh thu có tính
chất khái quát, phổ quát với âm hưởng buồn sầu rất chung chung thì ở đây,
qua thi phẩm, nhà thơ đã đưa chúng ta về với không - thời gian của mùa thu
đồng bằng Bắc Bộ, rất cụ thể và sinh động, không lẫn với bất kì bức tranh
thu nào.
+ Thi hứng: Các nhà thơ xưa thường tìm cảm hứng trong cảnh vật Trung
Hoa, như sông Xích Bích, hồ Động Đình, bến Tầm Dương, sông Tiêu
Tương, bến Phong Kiều, Nhưng trong các thi phẩm Nguyễn Khuyến
những cảnh quen thuộc thường ngày của nông thôn Việt Nam đã đem đến
nguồn thi hứng trong thơ ông.
+ Thi liệu: trong bài Thu điếu vẫn là trời nước, gió, trúc – những thi liệu
quen thuộc nhưng ở đây lại là những hình ảnh trời thu xanh ngắt, ngõ trúc
quanh co, ao thu bé tẻo teo, hiện lên với đặc điểm chung là rất sinh động,
cụ thể, rất riêng của vùng đồng chiêm trũng nơi quê hương tác giả.
+ Ngôn ngữ nghệ thuật: sử dụng dày đặc những từ thuần Việt trong sáng, dể
hiểu, giàu sức gợi: xanh ngắt, lạnh lẽo, trong veo, bé tẻo teo, gợn tí, vèo, lơ
lửng, vắng teo, bèo. Ở đây các từ được khai thác để diễn đạt các cảm giác
khác nhau về mùa thu. Vần eo ở bài Thu điếu là một sáng tạo của Nguyễn
Khuyến tạo cảm giác thu nhỏ, xa vắng. Hẳn trong thơ ca cổ về mùa thu
không có được điều tuyệt diệu này. Ngoài ra, các từ láy được sử dụng trong
bài thơ góp phần tạo nên ấn tượng nhẹ nhàng, chậm chạp, yên tĩnh, vắng vẻ
của cảnh thu: lạnh lẽo, tẻo teo, lơ lửng. Cảnh thu được nhìn từ quan điểm
của một nhà nho ẩn dật đã được diễn tả bằng yếu tố tạo hình, tạo ấn tượng
của từ ngữ rất thành công.

15
+ Không gian nghệ thuật: mở ra với bầu trời xanh ngắt, tầng mây lơ lửng.
Dưới mặt đất có ao nước lạnh lẽo, những làn sóng xanh biếc gợn nhẹ, những
đám béo, và dưới lớp bèo là những con cá chứng tỏ sự hiện diện của nó bằng

việc đớp động dưới chân bèo, chiếc thuyền câu mà trên đó, chắc hẳn người
câu đang ngồi. Trên bờ là một cái ngõ nhỏ có hàng trúc quanh có, vắng vẻ.
Các yếu tố không gian tổng hợp lại thành một bức tranh thu điển hình ở
nông thôn Bắc Bộ.
+ Thời gian nghệ thuật: xét về mùa, đây là mùa thu, khi thiên nhiên, đất trời
ở Bắc Bộ đẹp nhất, mát mẻ, dễ chịu nhất trong năm. Nhưng thời gian trong
cảm nhận của con người ở đây dường như ngưng đọng. Các hoạt động của
nhịp điệu chậm chạp: chỉ là sóng gợn lăn tăn, lá vàng khẽ bay trong gió,
mây lơ lửng, ngõ vắng teo, tiếng cá đớp động dưới chân bèo. Người ngồi
câu cũng có tư thế gần như bất động: “Tựa gối buông cần lâu chẳng đươc.”.
Nhịp thời gian ngưng đọng đó gợi ấn tượng về sự nhàn nhã của cuộc sống
ẩn dật.
+ Con người: nếu trong thơ ca trước đó, tính ước lệ, quy phạm khiến cho
hình ảnh của tác giả thường mờ nhạt, khó có thể cụ thể trong giọng điệu,
cảm xúc thì ở bài thơ này, hình ảnh thi hào Nguyễn Khuyến hiện lên rất rõ.
Hơn thế, đó là hình ảnh của một con người với tâm trạng thế tình vời vợi,
khôn khuây. Tập trung thể hiện rõ trong cặp câu thơ kết với tư thế “tựa gối
buông cần” – tư thế co lại, như thu nhỏ mình để tránh cái “lạnh lẽo” giữa
“ao thu”. Âm thanh “cá đâu đớp động dưới chân bèo” khi “tựa gối buông
cần lâu chẳng được” có thể tác giả đang theo đuổi những ý nghĩ thầm kín,
riêng tư nào đó nên “lâu chẳng được” chỉ khi tiếng cá đớp động mới kéo
người câu cá trở lại với việc câu cá của mình. Trong thơ văn có truyền thống
lấy việc câu cá để từ chối việc làm quan và coi việc câu cá là “câu người” để
chờ thời. Vì vậy đằng sau tư thế “tựa gối buông cần” là cả tấm lòng của tác
giả, là tâm trạng không yên trước thực tại đất nước. Thời thế thay đổi quá
nhanh, non sông mất vào tay giặc mà mình thì không thể làm gì để giúp đời,

16
giúp nước. Sống làm một ẩn sĩ giữa thời buổi đất nước đang bị thực dân
Pháp xâm lược nên ông không thể ung dung đi câu như một ẩn sĩ thực thụ

mà để tránh đời để quên đi những bận lòng mà hòa vào thiên nhiên, non
nước của quê hương không vương giàu sang, phú quý. Hai câu kết đã góp
phần bộc lộ đôi nét về chân dung tác giả. Trong những tự tình qua các bài về
thu, Nguyễn Khuyến và Đỗ Phủ đều có những tâm sự đau buồn như nhau.
Nhưng nếu Đỗ Phủ đã dùng những hình tượng trong thiên nhiên làm bối
cảnh, để miêu tả rõ ràng những uất hận trong đời ông thì Nguyễn Khuyến
dùng cảnh thu tượng trưng cho những nỗi niềm chán nản, tủi nhục của mình
một cách xa xôi. Hay một số thi sĩ thế hệ 1930 – 1945, khi mỗi năm hoa cúc
nở giữa những chiếc lá vàng rơi, khi gió heo may hui hắt dưới vầng trăng
trong sang, họ cũng cảm thấy rạo rực cần mượn thi ca để bộc lộ những nỗi
hoài niệm riêng tư. Hoặc than khóc cho kiếp duyên dang dở như bà Tương
Phố trong “Giọt lệ thu”. Hoặc lắng nghe hồn mình ngơ ngác, đơn côi giữa
mùa thu như Lưu Trọng Lư trong Tiếng thu. Hoặc duyên dáng mơ màng như
Xuân Diệu trong bài Đây mùa thu tới.
Tóm lại, Thu điếu là sự thể hiện một trong những nét đặc sắc của nghệ
thuật phương Đông: lấy động tả tĩnh. Để gợi cái yên ắng của cảnh vật, cái
tĩnh lặng của tâm trạng, tác giả đã đưa vào bức tranh một nét động duy nhất
“cá đâu đớp động đưới chân bèo”. Dù vẫn theo một số nguyên tắc tả cảnh
của thi pháp thơ cổ điển nhưng nhà thơ đã vượt lên những hình thức ước lệ
khi nói về mùa thu như “sen tàn, cúc nở”, “lá ngô đồng rụng”. Nguyễn
Khuyến đã đưa vào thơ những hình ảnh rất thực của cảnh vật quê hương. Vì
thế cảnh thu trong thơ Nguyễn Khuyến tuy đơn sơ nhưng vô cùng gợi cảm
tạo nên những rung động sâu sắc trong lòng người đọc. Nhìn lại các bài thơ
mùa thu ngày xưa. Thu hứng của Đỗ Phủ là một trong thi phẩm tài tử nhất
đời Đường, bút pháp miêu tả kỳ diệu, chuyên dùng những hình tượng trong
thiên nhiên làm bối cảnh trợ lực để tự tình những nỗi uất hận bình sinh của
tác giả. Còn ngày nay vào thế kỷ XIX ở nước ta, các bài thơ Thu vịnh, Thu

17
ẩm nhất là bài Thu điếu của Nguyễn Khuyến là những bài thơ Nôm tuyệt tác

trứ danh được người đời truyền tụng cho đến ngày nay. Tuy xây dựng theo
những quy luật gò bó, chặt chẽ của thơ Đường luật mà bao nhiêu tình ý,
cảnh trí Việt Nam đã được giao thoa một cách dung dị, uyển chuyển chưa
từng thấy.
2.2.2.2. Dạy bài Thương vợ theo đặc điểm thi pháp thơ Tú Xương
Những nét nghệ thuật sáng tạo đặc sắc mang dấu ấn thi pháp thơ Tú
Xương vượt ra ngoài những quy phạm của văn học trung đại trong bài thơ
Thương vợ được thể hiện ở những bình diện sau:
+ Đề tài: người vợ. Trong thơ trung đại Việt Nam, các nhà thơ ít khi viết về
người vợ. Và có viết về họ chỉ khi họ đã qua đời. Chỉ có một số nhà thơ như
Cao Bá Quát, Bùi Hữu Nghĩa, Phạm Văn Nghị là có viết về vợ mình ngay
lúc đang sống. Nhưng viết nhiều nhất và hay nhất, mà lại là về một người vợ
đang còn hiện hữu trên đời thì có lẽ Trần Tế Xương là tác giả tiêu biểu hơn
cả.
+ Bút pháp, giọng điệu: Thương vợ tiêu biểu cho sự hòa hợp giữa hai phẩm
chất nghệ thuật nổi bật trong sáng tác của ông: trào phúng và trữ tình, trong
đó trữ tình là chính, là cơ bản. Qua bài thơ này cho chúng ta thấy, bên cạnh
một Tú Xương trào phúng sắc sảo, ngang ngạnh, tinh quái, khác đời là một
Tú Xương khác rất mực đằm thắm, biết tự hạ mình để làm đẹp người khác.
+ Nhân vật trữ tình trong bài thơ: Thương vợ viết về bà Tú nhưng thực ra
lại có sự song hành của cả hai hình tượng: hình tượng bà Tú được thể hiện
một cách nổi bật trực tiếp và hình tượng ông Tú được khắc hoạ một cách
gián tiếp nấp sau người vợ nhưng vẫn khá rõ nét.
+ Thể thơ: là một bài thơ Nôm được viết theo thể thơ thất ngôn bát cú
đường luật. Ông không lấy nguyên mẫu một bài thơ đường luật Trung Hoa
mà ông đã sáng tạo rất lớn trong bài thơ của mình. Thơ Đường đấy, cũng đề,
thực, luận, kết, thất ngôn bát cú nhưng không một chút khệnh khạng, chỉnh
tề, mũ cao áo dài đạo mạo mà gần gũi thân thương như lời nói hàng ngày.

18

Tài năng của Tú Xương là ở chỗ đã đưa được vào trong thể thơ gò bó này
rất nhiều chi tiết chân thực và sinh động từ cuộc sống một cách rất tự nhiên.
Vì thế nét tiêu biểu của bài thơ Nôm đường luật này là từ ngữ giản dị, giàu
sức biểu cảm, vận dụng thành công hình ảnh, ngôn ngữ văn học dân gian.
Nhưng giản dị được nâng lên tới bác học, tầm thi hào.
+ Chất liệu dân gian: chất liệu dân gian của bài thơ được thể hiện không chỉ
có giọng điệu, ngôn ngữ mà còn là hình ảnh, cảm xúc, quan niệm thẩm mĩ.
- Về ngôn ngữ: bài thơ được viết bằng chữ Nôm, thứ chữ ghi âm tiếng Việt.
Mà các từ ngữ trong bài thơ đều là những từ ngữ hết sức giản dị, dễ hiểu,
gần gũi với ngôn ngữ giao tiếp thường ngày của nhân dân.
- Về hình ảnh thơ: các hình ảnh lấy chất liệu từ văn học dân gian: "thân cò
lặn lội". Câu thơ của Tú Xương có sự kế thừa đầy sáng tạo. Ca dao nói theo
chiều thuận “cái cò lặn lội ”, Tú Xương lại nói theo chiều đảo “lặn lội thân
cò”. Cái ý ngược xuôi, bươn trải nổi lên rõ nét trong phép đảo ngữ ấy.
Không phải là “cái cò” nữa mà là “thân cò”. Từ cụ thể mà Tú Xương đã
nâng lên tầm khái quát về thân phận người phụ nữ trong xã hội xưa. Ca dao
mới có không gian “bờ sông” trống vắng, lộng gió. Câu thơ của Tú Xương
có cả không gian và thời gian. “Quãng vắng” đêm trường, có cả màn đêm
tăm tối để cho bà Tú thành cái “thân cò” mà đi ăn đêm. Ý thơ không dừng ở
đó. Câu thơ Tú Xương vừa phảng phất ca dao nhưng lại vừa rất đường thi
“ý tại ngôn ngoại”. “Cái cò” trong ca dao nỉ non, ai oán trong tiếng khóc và
dòng lệ, còn bà Tú biết hi sinh nên chẳng nhiều lời, cứ âm thầm, lặn lội, một
mình mình biết, một mình mình hay. Hình ảnh bà Tú là hình ảnh đẹp đẽ của
biết bao người phụ nữ Việt Nam, bình dị, tần tảo, hy sinh cả cuộc đời cho
gia đình, cho chồng con
- Sử dụng linh hoạt các thành ngữ dân gian, cách nói dân gian: cha ông xưa
đã dặn “Con ơi nhớ lấy câu này, Sông sâu chớ lội, đò đầy chớ qua”. Vậy mà
bà Tú phải qua sông trên con đò như thế. Ông Tú đổi từ “đầy” thành “đông”,
kết hợp với mấy từ tượng hình, tượng thanh, tạo nên câu thơ có hình, có


19
giọng: eo sèo mặt nước, vừa quá tải, vừa hỗn độn, chòng chành rất đáng sợ.
Chỉ đảo nhẹ một cấu trúc câu tạo sự cân đối theo thể luật đường, chỉ thay
một vài chữ trong kho tàng tiếng nói dân gian, “nhà thơ đất Vị Hoàng đã
sáng tạo được một hình tượng thẩm mỹ tuyệt vời chân thực, giản dị, tự nhiên
thấm đẫm chất dân tộc, rất gần gũi, sống mãi trong không gian và thời gian.
Khi nhìn ngắm, chúng ta thấy rung rinh, ẩn hiện biết bao hình hài, đường nét
chung của vạn triệu bà mẹ, người chị Việt Nam ngày ấy cũng như bây giờ.
Những bà mẹ, người chị gian nan, vất vả hơn nhiều những “con cò, con vạc”
thủa xưa.
Hai câu thực phảng phất lời ăn tiếng nói của nhân gian với những thành
ngữ được sử dụng rất tự nhiên “một duyên, hai nợ”, “năm nắng, mười mưa”.
Ở đây là “một duyên, hai nợ”, “năm nắng mười mưa” chứ không phải như
trong thành ngữ “một nắng hai sương”. Vậy điều gì giúp bà vượt qua “một
duyên, hai nợ” , “năm, mười” mưa nắng, mưa nắng của cuộc đời, mưa nắng
của cái tính ngang ngược, đành hanh mà không ít lần ông Tú gây ra. Đó
chính là cái tình, cái nghĩa vợ chồng. Điều kỳ diệu là người mẹ, người vợ đó
không hề ý thức rằng đó là sự hy sinh. Như bao người phụ nữ Việt Nam
khác, bà làm mọi việc một cách tự nhiên, âm thầm, không hề đòi hỏi, oán
trách.
- Chất liệu dân gian còn được thể hiện qua khẩu ngữ đời thường: vẫn là
cách nói dân gian, nghĩ sao nói vậy, không còn nuột nà, ý nhị mà ông dùng
tiếng chửi – chửi mát qua hai câu cuối. Tú Xương nhập thân vào bà Tú để
chửi, để rủa chính thói đời bạc bẽo, trách cứ sự vô tích sự của mình. Thói
đời là những nếp cư xử , hành động xấu chung mà người đời hay mắc phải.
Thói đời mà Tú Xương muốn nói đến ở đây là tư tưởng trọng nam khinh nữ,
là thói vô tâm của các ông chồng với vợ. Thói xấu ấy cũng đã thấm vào
người ông Tú, khiến ông ăn ở bạc với vợ, sống thiếu trách nhiệm, đổ mọi
gánh nặng lên đôi vai người vợ. Như vậy, ông Tú không chỉ chửi chung thói
đời mà còn chửi chính bản thân mình. Đây là lời chửi mang đặc trưng riêng


20
của Tú Xương. Nhà thơ dùng lời ăn tiếng nói của dân gian “cha mẹ” – một
cách chửi có gọng điệu chanh chua, nanh nọc, gay gắt, quyết liệt, lôi cả gốc
rễ tông giống của vấn đề ra mà chửi. Tú Xương đã vượt qua cái hạn chế của
tầng lớp và thời đại mình để đi thẳng, nhìn thẳng vào vấn đề. Vì vậy, lời
chửi ấy không chỉ để chửi mình mà còn để chửi đời. Chính cái xã hội thực
dân nửa phong kiến ấy đã đẻ ra thói đời bạc bẽo, những kẻ hợm hĩnh sống
trên lưng người khác, xã hội ấy đã đẩy một Trần Tế Xương tài hoa xuất
chúng vào bước đường cùng, khiến người vợ vốn “ung dung, tính hạnh
khoan hòa”, “con gái nhà dòng” của ông phải cực khổ, vất vả. Ý nghĩa tố
cáo xã hội trở nên nổi bật ở câu kết bài thơ và man mác trong toàn bài, nóng
hổi hơi thở thời đại. Lời chửi cuối bài thơ như càng khẳng định thêm tình
cảm của ông Tú đối với bà Tú. Người chồng ấy tuy ăn bám vợ con nhưng
thực chất không hề “ăn ở bạc”, không hề “hờ hững”, mà ngược lại dù bất lực
trước hoàn cảnh nhưng vẫn luôn dõi theo, cảm thông, sẻ chia, biết ơn vợ.
- Ngoài ra, chất liệu dân gian cò được thể hiện ở tâm trạng, tình cảm của
nhân vật trữ tình: từ toàn bộ bài thơ, thấy ngầm ẩn hình ảnh tác giả - một
người ý thức sâu sắc và chua chát về sự bất lực của mình, đồng thời, dành
cho người vợ tần tảo niềm yêu thương, trân trọng, cảm thông, cảm thương
và sự tri ân sâu sắc. Còn bà Tú, ta không thầy bà "phát ngôn" trong bài thơ,
nhưng chính sự "im lặng" ấy đã nói lên tất cả, về tình nghĩa, về sự thủy
chung, về đức hy sinh thầm lặng Tình cảm vợ chồng tình nghĩa, thủy
chung gắn bó đó cũng rất gần gũi với điệu tình cảm, với quan niệm thẩm mĩ
của dân gian.
Thương vợ là bài thơ ngắn gọn, súc tích, có ngôn ngữ giản dị, giọng
thơ ân tình, hóm hỉnh đã khắc họa chân dung bà Tú – người vợ tảo tần đảm
đang, chịu thương chịu khó, giàu dức hi sinh vì chồng con, mang vẻ đẹp
truyền thống của người phụ nữ Việt Nam. Đồng thời thấy được yêu thương,
trân trọng, cảm thông, cảm thương và sự tri ân sâu sắc của Tú Xương đối

với vợ mình. Bài thơ còn thể hiện ý nghĩa tố cáo sâu sắc xã hội đương thời.

21
2.2.3. Kết hợp một cách hợp lí với các phƣơng pháp dạy học các tác
phẩm văn chƣơng
2.2.3.1. Phương pháp đọc sáng tạo là nền tảng để học sinh tiếp cận nội
dung và nắm bắt những đặc điểm về nghệ thuật của bài thơ
Trong một giờ dạy học tác phẩm văn chương phương pháp đọc là một
trong những phương pháp quan trọng nhất giúp cho các em từ những tiếp
xúc ban đầu với văn bản nghệ thuật mà hình thành những sự thể nghiệm
nghệ thuật, từ đó có cách tiếp cận sâu sắc và toàn diện đối với tác phẩm
nghệ thuật. Đặc biệt cách đọc diễn cảm có một tác động to lớn đối với cả
người đọc và người nghe. Khi đọc đúng giọng điệu của tác phẩm văn học thì
hiệu quả nghệ thuật sẽ rất lớn, bởi chính giọng điệu cũng là một phương
diện nghệ thuật của tác phẩm. Trước khi gọi học sinh đọc bài thơ, giáo viên
cần cho học sinh xác định giọng điệu của bài thơ hoặc định hướng cho học
sinh vì ở bài khác nhau lại có giọng điệu riêng. Chẳng hạn với Nguyễn
Khuyến trong Thu điếu cần được đọc với giọng chậm, nhẹ nhàng, trầm tĩnh.
Nhịp ngắt chủ yếu là 2/2/3 (hoặc 4/3). Chú ý nhấn giọng vào những từ, cụm
từ như: trong veo, bé tẻo teo, hơi gợn tí, khẽ đưa vèo, lơ lửng, quanh co, tựa
gối buông cần. Với Tú Xương, giọng điệu trong Thương vợ giọng đọc xót
xa, thương cảm khi viết về thân phận và cuộc sống lam lũ, vất vả của bà Tú.
Hai câu luận đọc với giọng ngậm ngùi, nhấn vào các chữ âu đành phận như
một tiếng thở dài. Hai câu kết đọc với giọng mạnh hơn, bật lên ngữ điệu của
tiếng chửi, vừa mỉa mai, tự trào, vừa cay đắng, thấm thía bi kịch. Yêu cầu
khi đọc trước hết là phải đọc to rõ ràng và khó nhất phải thể hiện đúng giọng
điệu.
Hoạt động đọc quyết định một phần không nhỏ tới kết quả giờ dạy,
chính vì thế hướng dẫn học sinh đọc thành công một văn bản văn học cũng
là một thành công của giáo viên.


22
2.2.3.2. Kết hợp một cách hợp lý các phương pháp xã hội học, phương pháp
so sánh văn học và ứng dụng công nghệ thông tin, sử dụng đồ dùng dạy hoc
nhằm nâng cao hiệu quả giờ dạy
Dù một giờ dạy học tác phẩm văn chương theo quan điểm, khuynh
hướng nào chúng ta không nên tuyệt đối hóa hay lạm dụng một phương
pháp dạy học mà cần có sự kết hợp một cách hợp lý, nhuần nhuyễn nhiều
phương pháp khác nhau. Với đề tài: Dạy học các tác phẩm thơ Nguyễn
Khuyến, Tú Xương ở trung học phổ thông theo hướng tiếp cận thi pháp,
ngoài việc sử dụng phương pháp hình thức là phương pháp chủ đạo, cần
phối hợp với các phương pháp xã hội học, phương pháp so sánh văn học và
kết hợp với việc ứng dụng công nghệ thông tin, sử dụng đồ dùng dạy học
một cách đúng mực.

CHƢƠNG 3
THỰC NGHIỆM DẠY “THU ĐIẾU” (NGUYỄN KHUYẾN) VÀ
“THƢƠNG VỢ” (TÚ XƢƠNG) TỪ HƢỚNG TIẾP CẬN THI PHÁP
3.1. Mục đích thực nghiệm
Việc dạy thực nghiệm bài Thu điếu của Nguyễn Khuyến và Thương
vợ của Tú Xương theo hướng tiếp cận thi pháp nhằm những mục đích sau:
- Kiểm chứng, xác nhận tính đúng đắn và tính khả thi của việc dạy học hai
bài thơ này theo hướng tiếp cận thi pháp.
- Kiểm chứng, xác nhận tính đúng đắn của giả thuyết khoa học đã đề xuất
- Tiếp thu ý kiến phản hồi từ phía giáo viên và học sinh trong quá trình thực
nghiệm để điều chỉnh, sửa chữa, bổ sung, hoàn thiện những đề xuất đổi mới
về cách khai thác tác phẩm, cách tổ chức hoạt động dạy học cho học sinh.
- Đi đến những kết luận có căn cứ về kết quả nghiên cứu, là gợi ý để người
nghiên cứu có thể tiếp tục suy nghĩ về phương pháp dạy học các tác phẩm
khác theo hướng tiếp cận thi pháp.

×