Tải bản đầy đủ (.doc) (96 trang)

Luận văn thạc sỹ quản trị kinh doanh: Hoàn thiện phương thức khoán trong kinh doanh tại NH TMCP Đại Dương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.18 MB, 96 trang )

Trờng đại học kinh tế quốc dân

Lấ TH VN ANH
HON THIN PHNG THC KHON
TRONG KINH DOANH TI NGN HNG
THNG MI C PHN I DNG
UChuyên ngành: QUảN TRị KINH DOANH THƠNG
MạIKINH DOANH THƠNG MạI
ngời hớng dẫn khoa học: gs.ts. HOàNG ĐứC THÂN
ngời hớng dẫn kho
Hµ Néi - 2014
2
MỤC LỤC
Sai từ 6-8 trường hợp trừ 3 % 58
TÀI LIỆU THAM KHẢO 95
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
I.TIẾNG VIỆT
TT CHỮ VIẾT TẮT NGHĨA ĐẦY ĐỦ
1 NH TMCP Ngân hàng thương mại cổ phần
2 HĐQT Hội đồng quản trị
3 CBCNV Cán bộ công nhân viên
4 NHNN Ngân hàng nhà nước
5 PGD Phòng giao dịch
6 CVKH Chuyên viên khách hàng
II.TIẾNG ANH
TT
CHỮ
VIẾT TẮT
ĐẦY ĐỦ TIẾNG ANH NGHĨA ĐẦY ĐỦ
1
SWOT


Strengths, weaknesses,
opportunities, threats
Điểm mạnh, điểm yếu, cơ
hội, thách thức
2
KPIs
Key Performance
Indicators
Chỉ số đánh giá thực hiện
công việc
3 JD Job Description Bản mô tả công việc
4
WTO World Trade Organization
Tổ chức thương mại thế
giới
DANH MỤC HÌNH VẼ VÀ BẢNG BIỂU
Sai từ 6-8 trường hợp trừ 3 % 58
TÀI LIỆU THAM KHẢO 95
DANH MỤC HÌNH VẼ
Sai từ 6-8 trường hợp trừ 3 % 58
TÀI LIỆU THAM KHẢO 95
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hệ thống trung gian tài chính nói chung và ngân hàng thương mại nói riêng là
hợp phần quan trọng cho guồng máy hoạt động của nền kinh tế quốc dân. Ngân
hàng thương mại là một trung gian tài chính hoạt động chủ yếu trong nền kinh tế
nhằm thực hiện việc chuyển vốn từ người dư thừa vốn sang người thiếu vốn góp
phần thúc đẩy sản xuất phát triển. Ngân hàng thương mại là cầu nối giữa các chủ
thể trong nền kinh tế, làm các chủ thể gắn bó, phụ thuộc lẫn nhau, tăng sự liên kết,
linh hoạt và năng động của hệ thống. Ngược lại, hoạt động kinh doanh của ngân

hàng thương mại trong nền kinh tế cũng rất nhạy cảm, những biến động trong nền
kinh tế xã hội đều nhanh chóng tác động đến ngân hàng theo chiều hướng tích cực
hoặc tiêu cực.
Kể từ khi Việt Nam chính thức gia nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO),
nước ta từng bước mở cửa và thực hiện tự do hóa thị trường dịch vụ ngân hàng. Các
ngân hàng thương mại Việt Nam đã nhanh chóng đổi mới, mở rộng hoạt động cũng
như cách thức quản lý để thích ứng môi trường và nhu cầu ngày càng tăng cao của
khách hàng. Sự hội nhập quốc tế này sẽ làm cho tính cạnh tranh giữa các ngân hàng
ngày càng khốc liệt cũng như tạo ra những thách thức mới trong thị trường ngân
hàng, giúp cho các ngân hàng Việt Nam sẽ có những bước tiến mới, những chiến
lược ngày càng cải tiến và đem lại hiệu quả cao hơn. Mục tiêu kinh doanh của các
ngân hàng thương mại là bảo đảm an toàn vốn và có lợi nhuận. Ngày nay, các ngân
hàng đang mở rộng danh mục sản phẩm dịch vụ tài chính mà họ cung cấp cho
khách hàng. Quá trình mở rộng danh mục sản phẩm dịch vụ đã tăng tốc trong những
năm gần đây dưới áp lực cạnh tranh gia tăng từ các tổ chức tài chính khác, từ sự
hiểu biết và đòi hỏi cao hơn của khách hàng, và từ sự thay đổi công nghệ. Nó cũng
làm tăng chi phí đồng thời các rủi ro cũng tăng cao và có thể dẫn đến nguy cơ phá
sản. Trong điều kiện đầy khó khăn và thách thức như vậy đã đặt ra câu hỏi lớn cho
các nhà quản trị ngân hàng phải làm thế nào để có thế đem lại hiệu quả kinh doanh
cao nhất. Bài học kinh nghiệm thành công của nhiều ngân hàng thương mại lớn trên
6
thế giới và ở Việt Nam là tăng cường quản trị ngân hàng thông qua xây dựng
phương thức khoán kinh doanh khoa học, hợp lý.
Ngân hàng thương mại cổ phần Đại Dương cũng không nằm ngoài guồng
quay phát triển của các ngân hàng thương mại và đã có được những bước phát triển
nhất định trong nhiều năm qua, tuy nhiên cũng không tránh khỏi việc chịu nhiều áp
lực rất lớn từ môi trường cạnh tranh ngày càng khốc liệt. Ngân hàng thương mại cổ
phần Đại Dương đã áp dụng phương thức khoán trong kinh doanh nhưng vẫn đang
có những hạn chế như tính ổn định và thống nhất, nội dung và quy trình khoán hay
sự triển khai và đánh giá kết quả chưa đồng nhất.

Chính vì thế, hoàn thiện phương thức khoán trong kinh doanh là một trong các
vấn đề cốt lõi của quản trị NH TMCP Đại Dương trong những năm tới. Cần phải
hoàn thiện phương thức khoán trong kinh doanh của NH TMCP Đại Dương trên cơ
sở lý luận và khoa học, xuất phát từ thực tế đó và quá trình công tác tại NHTMCP
Đại Dương tác giả chọn đề tài “Hoàn thiện phương thức khoán trong kinh doanh
tại NH TMCP Đại Dương” để nghiên cứu trong luận văn Thạc sỹ Quản trị kinh
doanh.
2. Tổng quan các công trình nghiên cứu
Một số công trình khoa học có liên quan đến khoán trong kinh doanh có thể kể
ra là:
Luận án tiến sỹ kinh tế của… (2008), “…”, bảo vệ tại trường đại học kinh tế
quốc dân, luận án nghiên cứu. Luận văn thạc sỹ kinh tế của ….(2010), “…”, bảo vệ
tại đại học ngoại thương, luận văn nghiên cứu
Tại ngân hàng thương mại cổ phần Đại Dương đã có luận văn thạc sỹ của
Doãn Minh Trang (2011), “Thực trạng và giải pháp phát tiển hoạt động thanh toán
thẻ tại Ngân hàng thương mại cổ phần Đại Dương”, luận văn nghiên cứu lý luận và
thực trạng về thanh toán thẻ tại ngân hàng thương mại.
Tóm lại, chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu hoàn thiện phương thức
khoán trong kinh doanh của ngân hàng thương mại cổ phần Đại Dương.
7
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1 Mục tiêu nghiên cứu
Luận văn trên cơ sở nghiên cứu lý luận và đánh giá phương thức khoán trong
kinh doanh của ngân hàng TMCP Đại Dương để đề xuất kiến nghị, giải pháp hoàn
thiện phương thức khoán trong kinh doanh tại ngân hàng này.
3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được những mục tiêu đề ra, nhiệm vụ nghiên cứu chủ yếu của đề tài
bao gồm:
- Nghiên cứu lý thuyết về phương thức khoán trong kinh doanh tại ngân hàng
thương mại.

- Phân tích thực trạng phương thức khoán trong kinh doanh tại NH TMCP Đại
Dương.
- Đề xuất phương hướng và giải pháp hoàn thiện phương thức khoán trong
kinh doanh và phát triển kinh doanh tại NH TMCP Đại Dương.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1 Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là lý luận và thực tiễn về phương thức
khoán trong kinh doanh của ngân hàng thương mại.
4.2 Phạm vi nghiên cứu
+ Phạm vi nội dung: nghiên cứu phương thức khoán có sự quản lý tập trung,
thống nhất trong toàn ngân hàng TMCP Đại Dương. Hoàn thiện căn cứ, nội dung và
quy trình khoán của ngân hàng.
+ Phạm vi không gian: nghiên cứu phương thức khoán trong kinh doanh của
NH TMCP Đại Dương.
+ Phạm vi thời gian: phân tích thực trạng phương thức khoán trong kinh
doanh của NH TMCP Đại Dương từ năm 2008 đến năm 2013 và định hướng đến
năm 2020.
8
5. Phương pháp nghiên cứu
5.1 Phương pháp chung
Luận văn sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, logic và lịch sử, phương
pháp toán thống kê, phương pháp quy nạp và diễn dịch, phương pháp sơ đồ, biểu đồ
và hình, phương pháp phân tích và tổng hợp, các phương pháp truyền thống khác
của nghiên cứu kinh tế.
5.2 Phương pháp cụ thể
Phương pháp thu thập và xử lý số liệu sơ cấp: thông qua phỏng vấn, khảo sát
một số lãnh đạo của ngân hàng thương mại cổ phần Đại Dương và khách hàng giao
dịch với ngân hàng.
Phương pháp chuyên gia: thông qua trao đổi với một số cán bộ có kinh
nghiệm, có chuyên môn cao của ngân hàng.

6. Kết cấu luận văn
Cấu trúc của luận văn được trình bày trên cơ sở 3 chương:
Chương 1 : Lý luận chung về phương thức khoán trong kinh doanh tại ngân
hàng thương mại
Chương 2 : Thực trạng phương thức khoán trong kinh doanh tại NH TMCP
Đại Dương
Chương 3: Phương hướng và giải pháp hoàn thiện phương thức khoán trong
kinh doanh tại NH TMCP Đại Dương
9
CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ PHƯƠNG THỨC KHOÁN TRONG
KINH DOANH TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1.Đặc điểm kinh doanh của ngân hàng thương mại
1.1.1 Đặc điểm lĩnh vực và sản phẩm kinh doanh của ngân hàng
thương mại
Ngân hàng thương mại đã hình thành tồn tại và phát triển hàng trăm năm gắn
liền với sự phát triển của kinh tế hàng hoá. Sự phát triển hệ thống ngân hàng thương
mại (NHTM) đã có tác động rất lớn và quan trọng đến quá trình phát triển của nền
kinh tế hàng hoá, ngược lại kinh tế hàng hoá phát triển mạnh mẽ đến giai đoạn cao
nhất là nền kinh tế thị trường thì NHTM cũng ngày càng được hoàn thiện và trở
thành những định chế tài chính không thể thiếu được. Thông qua hoạt động tín dụng
thì ngân hàng thương mại tạo lợi ích cho người gửi tiền, người vay tiền và cho cả
ngân hàng thông qua chênh lệch lại suất mà thu được lợi nhuận cho ngân hàng.
Ở Việt Nam, theo tinh thần Luật các tổ chức tín dụng công bố ngày
26/12/1997 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều luật các tổ chức tín dụng có hiệu
lực thi hành ngày 01/10/2004, ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng thực hiện
hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là
nhận tiền gửi sử dụng số tiền này để cấp tín dụng, cung ứng dịch vụ thanh toán, và
các hoạt động kinh doanh khác có liên quan.
Cùng với sự phát triển không ngừng của nền kinh tế, hoạt động của NHTM

cũng từng bước được củng cố và hoàn thiện, chuyển hoá dần theo hướng đa năng.
Theo Luật các Tổ chức Tín dụng, nhà lập pháp định nghĩa rằng “ Hoạt động Ngân
hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường
xuyên là nhận tiền gửi và sử dụng số tiền này để cấp tín dụng, cung ứng các dịch vụ
thanh toán”.
10
Như vậy, ngân hàng là một doanh nghiệp đặc biệt kinh doanh về tiền tệ với
hoạt động thường xuyên là huy động vốn, cho vay, chiết khấu, bảo lãnh, cung cấp
các dịch vụ tài chính và các hoạt động khác có liên quan.
a. Đặc điểm về lĩnh vực và sản phẩm kinh doanh của NHTM
Ngân hàng thương mại là các doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ và các dịch vụ
khác liên quan đến tiền tệ. Ngân hàng thương mại là các doanh nghiệp vay mượn,
huy động tiền tệ từ các chủ thể đang nắm giữ tiền tạm thời chưa dùng tới để rồi
dùng tiền đó cho vay, đầu tư vào những lĩnh vực nhà nước cho phép. Đây là đặc
điểm cơ bản nhất để phân biệt lĩnh vực kinh doanh ngân hàng với các lĩnh vực kinh
doanh khác. Tuy nhiên các ngân hàng ngày càng phải hoạt động trong sự cạnh tranh
gay gắt nên sản phẩm và phương thức kinh doanh của ngân hàng cũng có sự thay
đổi, theo đó, sản phẩm của ngân hàng còn bao gồm các dịch vụ khác như : dịch vụ
về tài chính, về thông tin, kế toán ….
Hoạt động kinh doanh ngân hàng là hoạt động chứa đựng nhiều rủi ro. Thường
thì ngân hàng đi vay, huy động vốn ngắn hạn với lãi suất thấp để cho vay với thời
hạn dài hơn và lãi suất cao hơn, từ đó ngân hàng sẽ thu được lợi nhuận. Tuy nhiên
chỉ bằng những kinh nghiệm giản đơn cũng có thể thấy được tính chất tập trung rủi ro
của lĩnh vực ngân hàng. Nếu đến hạn vì một nguyên nhân nào đó người vay tiền
không trả được nợ hoặc trả không đủ sẽ làm cho ngân hàng lâm vào tình trạng rủi ro.
Trường hợp khác nữa là ngân hàng sẽ có thể gặp rủi ro thanh khoản nếu khách hàng
đến rút tiền trước hạn, ngân hàng phải trả tiền cho khách hàng khi đáo hạn nhưng
ngân hàng lại không có đủ tiền để thanh toán do các khoản cho vay hoặc đầu tư chưa
thu hồi được và ngân hàng cũng không thể vay tiền ở các thị trường tài chính khác…
Chính vì đặc điểm này mà ngân hàng phải tạo ra những biện pháp, kỹ thuật để phòng

ngừa rủi ro cho người gửi tiền, người vay tiền và cho chính bản thân mình.
Ngân hàng thương mại kinh doanh mang tính hệ thống cao và chịu sự quản lí
nghiêm ngặt của nhà nước. Có thể nói, tình hình lưu thông và giá trị của tiền tệ có
ảnh hưởng sâu rộng đến toàn bộ nền kinh tế; hơn nữa, rủi ro trong kinh doanh ngân
hàng luôn mang tính lan truyền, tính hệ thống cao hơn hẳn nhiều lĩnh vực kinh
11
doanh khác. Do đó đòi hỏi các cơ quan quản lý nhà nước phải có các biện pháp
quản lý nghiêm ngặt sao cho chính sách tiền tệ quốc gia được đảm bảo thực hiện, hệ
thống tài chính ngân hàng được đảm bảo an toàn, quyền lợi của người gửi tiền và
người đầu tư được bảo vệ. Hơn nữa, để tạo ra các dịch vụ toàn diện cho khách hàng,
đồng thời các ngân hàng có thể hỗ trợ nhau khi đứng trước nguy cơ rủi ro, các ngân
hàng luôn phải duy trì ràng buộc theo hệ thống trong quá trình hoạt động của mình
cả về mặt tổ chức và về mặt kỹ thuật.
Như vậy, căn cứ vào khái niệm trên thì hoạt động của NHTM có thể được
nhận dạng thông qua một số đặc điểm sau:
Thứ nhất, hoạt động NHTM là loại hình kinh doanh với mục đích kiếm lời
(bao gồm hai hình thức chủ yếu là kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng). Trong đó,
hoạt động kinh doanh tiền tệ được biểu hiện ở nghiệp vụ huy động vốn dưới các hình
thức khác nhau để cấp tín dụng cho khách hàng có nhu cầu về vốn với mục tiêu tìm
kiếm lợi nhuận. Còn hoạt động dịch vụ ngân hàng được biểu hiện thông qua các nghiệp
vụ sẵn có về tiền tệ, thanh toán, ngoại hối và chứng khoán để cam kết thực hiện công
việc nhất định cho khách hàng trong một thời hạn nhất định nhằm mục đích thụ hưởng
tiền công dịch vụ do khách hàng chi trả dưới dạng phí hay hoa hồng.
Thứ hai, hoạt động NHTM là loại hình hoạt động kinh doanh có điều kiện,
nghĩa là chỉ khi nào NHTM thoả mãn đầy đủ những điều kiện khắt khe do pháp luật
quy định (vốn pháp định, phương án kinh doanh ) thì mới được phép hoạt động
trên thị trường.
Thứ ba, hoạt động NHTM là loại hình kinh doanh có độ rủi ro cao hơn nhiều
so với các loại hình kinh doanh khác và thường có ảnh hưởng sâu sắc, mang tính
chất dây chuyền đối với nền kinh tế. Sở dĩ nói như vậy là vì, trong hoạt động ngân

hàng, đặc biệt là hoạt động kinh doanh tiền tệ, do các NHTM phải tiến hành huy
động vốn của người khác để cấp tín dụng cho khách hàng và trên nguyên tắc
NHTM chỉ có thể đòi tiền của người vay sau một thời hạn nhất định, nên đã tạo ra
khả năng rủi ro cao cho hoạt động Ngân hàng kéo theo đó là sự rủi ro đối với người
gửi tiền ở NHTM, cũng như rủi ro đối với nền kinh tế. Vì vậy, hoạt động ngân hàng
12
ở nhiều quốc gia khác nhau trên thế giới thường được điều chỉnh và kiểm soát hết
sức chặt chẽ bằng những đạo luật riêng biệt, nhằm đảm bảo cho hoạt động này được
vận hành an toàn và hiệu quả trong nền kinh tế thị trường.
b. Các chức năng của NHTM
Chức năng trung gian tín dụng được xem là chức năng quan trọng nhất của
ngân hàng thương mại. Khi thực hiện chức năng trung gian tín dụng, NHTM đóng
vai trò là cầu nối giữa người thừa vốn và người có nhu cầu về vốn. Với chức năng
này, ngân hàng thương mại vừa đóng vai trò là người đi vay, vừa đóng vai trò là
người cho vay và hưởng lợi nhuận là khoản chênh lệch giữa lãi suất nhận gửi và lãi
suất cho vay và góp phần tạo lợi ích cho tất cả các bên tham gia: người gửi tiền và
người đi vay Cho vay luôn là hoạt động quan trọng nhất của ngân hàng thương
mại, nó mang đến lợi nhuận lớn nhất cho ngân hàng thương mại.
Chức năng trung gian thanh toán: NHTM đóng vai trò là thủ quỹ cho các
doanh nghiệp và cá nhân, thực hiện các thanh toán theo yêu cầu của khách hàng như
trích tiền từ tài khoản tiền gửi của họ để thanh toán tiền hàng hóa, dịch vụ hoặc
nhập vào tài khoản tiền gửi của khách hàng tiền thu bán hàng và các khoản thu khác
theo lệnh của họ. Các NHTM cung cấp cho khách hàng nhiều phương tiện thanh
toán tiện lợi như séc, ủy nhiệm chi, ủy nhiệm thu, thẻ rút tiền, thẻ thanh toán, thẻ tín
dụng… Tùy theo nhu cầu, khách hàng có thể chọn cho mình phương thức thanh
toán phù hợp. Nhờ đó mà các chủ thể kinh tế không phải giữ tiền trong túi, mang
theo tiền để gặp chủ nợ, gặp người phải thanh toán dù ở gần hay xa mà họ có thể sử
dụng một phương thức nào đó để thực hiện các khoản thanh toán. Do vậy các chủ
thể kinh tế sẽ tiết kiệm được rất nhiều chi phí, thời gian, lại đảm bảo thanh toán an
toàn. Chức năng này vô hình chung đã thúc đẩy lưu thông hàng hóa, đẩy nhanh tốc

độ thanh toán, tốc độ lưu chuyển vốn, từ đó góp phần phát triển kinh tế.
Chức năng tạo tiền: tạo tiền là một chức năng quan trọng, phản ánh rõ bản
chất của NHTM. Với mục tiêu là tìm kiếm lợi nhuận như là một yêu cầu chính cho
sự tồn tại và phát triển của mình, các NHTM với nghiệp vụ kinh doanh mang tính
đặc thù của mình đã vô hình chung thực hiện chức năng tạo tiền cho nền kinh tế.
13
Chức năng tạo tiền được thực thi trên cơ sở hai chức năng khác của NHTM là chức
năng tín dụng và chức năng thanh toán. Thông qua chức năng trung gian tín dụng,
ngân hàng sử dụng số vốn huy động được để cho vay, số tiền cho vay ra lại được
khách hàng sử dụng để mua hàng hóa, thanh toán dịch vụ trong khi số dư trên tài
khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng vẫn được coi là một bộ phận của tiền giao
dịch, được họ sử dụng để mua hàng hóa, thanh toán dịch vụ… Với chức năng này,
hệ thống NHTM đã làm tăng tổng phương tiện thanh toán trong nền kinh tế, đáp
ứng nhu cầu thanh toán, chi trả của xã hội. Ngân hàng thương mại tạo tiền phụ
thuộc vào tỉ lệ dự trữ bắt buộc của ngân hàng trung ương đã áp dụng đối với nhtm.
do vậy ngân hàng trung ương có thể tăng tỉ lệ này khi lượng cung tiền vào nền kinh
tế lớn.
1.1.2 Đặc điểm tổ chức hệ thống kinh doanh
Ngân hàng thương mại được phân loại theo hình thức sở hữu thì bao gồm NH
Nhà nước, quốc doanh, cổ phần, liên doanh, chi nhánh NHTM nước ngoài và kể từ
ngày 1/4/2007 cấp giấy phép cho NHTM nước ngoài hoạt động. Xét theo loại hình
kinh doanh thì NHTM gồm có NHTM bán buôn, bán lẻ hoặc vừa bán buôn vừa bán
lẻ. Nếu phân loại theo đối tượng kinh doanh chia thành ngân hàng hội sở, chi nhánh
(cấp1, cấp2), phòng giao dịch. Thông thường, hệ thống của một ngân hàng thường
bao gồm các cấp hội sở chính, sở giao dịch và các chi nhánh, các phòng giao dịch,
quỹ tiết kiệm trực thuộc sở giao dịch, các chi nhánh. Luật các tổ chức tín dụng 2010
mới chỉ đề cập rằng các ngân hàng thương mại được phép thành lập các chi nhánh,
văn phòng đại diện, các đơn vị sự nghiệp ở trong nước, chi nhánh, văn phòng đại
diện, hay các hình thức hiện diện khác ở nước ngoài.
Cơ cấu tổ chức bộ máy nhà nước ngân hàng thương mại quan trong ở hai bộ

máy như sau hội đồng quản trị (HĐQT) là bộ máy quyền lực cao nhất của NHTM,
mọi hoạt động của ngân hàng đều đặt dưới quyền quản trị của HĐQT. Đối với
NHTM Nhà nước thì toàn bộ thành viên của HĐQT do Chính phủ quyết định bổ
nhiệm hoặc chính phủ ủy nhiệm cho Thống đốc ngân hàng nhà nước quyết định bổ
nhiệm, miễn nhiệm sau khi có thoả thuận với ban tổ chức – cán bộ chính phủ.
14
Nhiệm kỳ của HĐQT là 5 năm, thành viên HĐQT từ 5-7 người. Đối với NH TMCP
thì HĐQT do đại diện cổ đông bầu ra, thành viên 3-11 người, nhiệm kỳ 2-5 năm.
Thứ hai là ban điều hành với nhiệm vụ điều hành hoạt động đặt dưới quyền của
tổng giám đốc hoặc giám đốc. Đối với NHTM quốc doanh thì tổng giám đốc và các
phó tổng giám đốc do Chính phủ hoặc Thống đốc bổ nhiệm. Đối với NHTM khác
thì tổng giám đốc, các phó tổng giám đốc do HĐQT bổ nhiệm và được Thống đốc
chuẩn y.
Cơ cấu quan hệ tổ chức của NHTM gồm có hội đồng quản trị, ban kiểm soát,
ban tổng giám đốc (ban khối, hội sở, phòng chức năng, chi nhánh). Ban điều hành
nắm quyền điều hành hoạt động của ngân hàng đặt dưới quyền của tổng giám đốc
hoặc giám đốc.
1.1.3 Đặc điểm môi trường kinh doanh của ngân hàng thương mại
Mỗi doanh nghiệp đều hoạt động trong môi trường rất phức tạp gồm môi
trường bên trong và môi trường bên ngoài doanh nghiệp hay còn gọi là môi trường
vĩ mô và môi trường nhiệm vụ. Mỗi môi trường tác động tích cực và tiêu cực, tạo
cho doanh nghiệp những cơ hội và thách thức, có tác động trực tiếp tới hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp, doanh nghiệp hoạt động hiệu quả, suy thoái hay phát
triển bền vững đều dựa vào sự nắm bắt cơ hội, né tránh những nguy cơ do môi
trường bên ngoài mang lại, vì thế hiểu được các tác động đến doanh nghiệp đóng
vai trò rất quan trọng cho sự phát triển. Ngân hàng thương mại chịu tác động của
môi trường bên ngoài (môi trường vĩ mô): nhân tố chính trị - pháp luật, nhân tố kinh
tế, nhân tố công nghệ và nhân tố văn hóa xã hội. Nền chính trị ổn định góp phần tạo
điều kiện cho các ngân hàng kinh doanh ổn định. Theo chỉ đạo của Chính Phủ và
Thủ Tướng Chính Phủ tại nghị quyết số 01/NQ-CP ngày 09/01/2009 nhằm kiểm

soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, góp phần ngăn chặn suy giảm kinh tế, duy trì
tăng trưởng kinh tế, đảm bảo an ninh xã hội và đảm bảo an toàn hệ thống ngân
hàng, các quyết định đưa ra và triển khai kịp thời có hiệu quả các giải pháp về tiền
tệ, tín dụng và ngân hàng. Tuy nhiên, pháp luật nước ta vẫn còn nhiều hạn chế và
yếu kém không đáp ứng được sự phát triển của ngành kinh tế. Theo các nhà đầu tư
15
nước ngoài thì Việt Nam là một địa điểm đầu tư hấp dẫn nhưng khi đi sâu vào tìm
hiểu về môi trường thì yếu tố pháp luật luôn là những trở ngại lớn cho đầu tư. Về
nhân tố công nghệ thì sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin và internet
trong những năm gần đây đã tạo điều kiện cho các ngân hàng có thể đổi mới quy
trình nghiệp vụ cũng như cách thức phân phối, cách thức quản trị…Trước ảnh
hưởng của thị trường tài chính thế giới, biến động của các đồng vốn đầu tư tác động
đến cung cầu ngoại tệ và diễn biến tỷ giả, các ngân hàng sẽ thích ứng nhanh với sự
thay đổi của nhân tố kinh tế, đề ra các chính sách hạn chế tác động tiêu cực của
khủng hoảng. Phân tích cụ thể về môi trường kinh tế, các nhân tố trong nhóm kinh
tế ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của ngành ngân hàng: tín dụng và vấn đề
thanh khoản của hệ thống ngân hàng, đầu cơ và biến động giá cả, lạm phát và tăng
trưởng, sự sụt giảm trên thị trường chứng khoán. Nhân tố văn hóa – xã hội cũng
đóng vai trò khá quan trọng, nó quy định hành vi của từng khách hàng và sẽ là môi
trường tiềm năng cho các nhà quản trị ngân hàng có thể khai thác.
Bên cạnh đó ngân hàng thương mại chịu tác động của môi trường bên trong
như sản phẩm, thị trường mục tiêu của ngân hàng, các nguồn lực marketing và bán
hàng, nguồn nhân lực, hệ thống thông tin, cơ sở hạ tầng…Ngân hàng cần tìm ra các
điểm mạnh, điểm yếu, các cơ hội và thách thức, để từ đó phát huy điểm mạnh và
hạn chế điểm yếu. Ngân hàng thương mại đang ngày càng phát triển dẫn đến việc
các đối thủ cạnh tranh trong ngành ngày càng cao. Việc xem xét thêm năng lực
thương lượng của người mua, năng lực thương lượng của nhà cung cấp, đối thủ
cạnh tranh tiềm tàng, các sản phẩm thay thế cho thấy rằng môi trường của ngân
hàng thương mại có nhiều thách thức. Các nhân tố đóng vai trò then chốt cho sự
thành công của ngân hàng thương mại bao gồm năng lực kiểm soát rủi ro, uy tín của

ngân hàng, tỷ lệ lãi suất tiền gửi và tiền vay, dịch vụ chăm sóc khách hàng, sự thuận
tiện trong giao dịch và công nghệ. Các ngân hàng biết tận dụng những ưu điểm và
phát huy điểm mạnh thì sẽ thành công.
16
1.2.Cơ sở lý luận về phương thức khoán trong kinh doanh tại
NHTM
1.2.1.Khái niệm và các phương thức khoán trong kinh doanh
Bàn về khái niệm cơ chế “Khoán kinh doanh” thì trước tiên cần phải hiểu cơ
chế chính là cách thức sắp xếp tổ chức để làm đường hướng cơ sở theo đó mà thực
hiện. Trong trường hợp này, cơ chế chính là mối liên hệ vận động bên trong của các
cấu trúc cũng như các mối quan hệ hữu cơ bên trong một tổng thể thống nhất, có sự
ràng buộc, tác động lẫn nhau không thể thiếu một chi tiết hay bộ phận nào. Khoán
doanh nghiệp là phương thức quản lý doanh nghiệp mà bên nhận khoán được giao
quyền quản lý doanh nghiệp có nghĩa vụ thực hiện một số chỉ tiêu, bảo đảm các
điều kiện và được hưởng các quyền lợi theo hợp đồng khoán.
Thuật ngữ “khoán” được nhắc đến trong khoán lương sản phẩm, khoán lương
theo thời gian, khoán kinh doanh là một khái niệm mới được đề cập đến trong Nghị
định của Chính phủ số 80/2005/NĐ-CP ngày 22 tháng 6 năm 2005 về giao, bán,
khoán kinh doanh, cho thuê công ty nhà nước. ''Khoán kinh doanh là phương thức
quản lý doanh nghiệp nhà nước mà bên nhận khoán được giao quyền quản lý doanh
nghiệp, có nghĩa vụ thực hiện một số chỉ tiêu, bảo đảm các điều kiện và được hưởng
các quyền lợi theo hợp đồng khoán” - Nghị định Chính phủ số 80/2005/NĐ-CP.
Mục đích chính của “khoán kinh doanh” là tạo điều kiện cơ cấu lại doanh nghiệp
nhà nước, nâng cao hiệu quả kinh tế và sức cạnh tranh của khu vực kinh tế nhà
nước, đồng thời thông qua đó bảo toàn vốn của nhà nước, tạo ra quyền tự chủ cho
các đơn vị trực thuộc. Mặt khác, bảo đảm việc làm cho người lao động, thay đổi
phương thức quản lý doanh nghiệp, tạo động lực để phát huy quyền làm chủ của
người lao động, sử dụng có hiệu quả hơn số tài sản đã đầu tư, khai thác mọi tiềm
năng trong các thành phần kinh tế để đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh. Nguyên
tắc cơ bản của quy chế khoán kinh doanh là tuân thủ và không tách rời quy định đã

ban hành, phải đảm bảo một cách đúng đắn về chế độ quy định về thuế, tài chính kế
toán của nhà nước. Mặt khác, tạo ra quyền tự chủ, năng động nhạy bén kịp thời
trong kinh doanh, luôn đảm bảo công tác quản lý thực hiện khoán và điều quan
trọng là không được tách rời việc quản lý công ty và không khoán trắng.
17
Chính vì thế, NH TMCP Đại Dương đã từng bước áp dụng phương thức khoán
kinh doanh nhằm mang lại hiệu quả hoạt động tốt nhất. Giao khoán được hiểu là
một hình thức giao quyền, nhiệm vụ xác định mức độ chịu trách nhiệm, khuyến
khích tính năng động sáng tạo của đơn vị sản xuất đối với một loại hình công việc
nào đó, thông qua các chỉ tiêu thuộc về nhiệm vụ như khối lượng công việc, tiến độ
hoàn thành và các chỉ tiêu được khuyến khích bằng lợi ích vật chất. Khoán là một
biện pháp quản lý kinh tế trong hạch toán kinh doanh nên khi tiến hành giao khoán
phải dựa vào các nguyên tắc, các chỉ tiêu kinh tế có căn cứ thực tế để thực hiện, các
biện pháp kiểm soát để đảm bảo tiến hành sản xuất kinh doanh, gắn chặt quyền lợi
và trách nhiệm giữa một bên là đơn vị giao khoán, thường là tổng công ty với một
bên là đơn vị nhận khoán như các phòng ban, nhóm sản xuất của công ty. Khoán thì
có thể khoán cho từng bước công việc đối với từng cá nhân, song cũng có thể khoán
cho cả tập thể người lao động cho cả một khối lượng công việc. Chế độ khoán này
thường được áp dụng nhằm một mặt tạo ra tính chủ động, sáng tạo và nâng cao chất
lượng công việc. Thực chất của công tác khoán là quá trình xác định mức độ tự chịu
trách nhiệm, tính chủ động trong kinh doanh khuyến khích tính năng động sáng tạo
của các đơn vị sản xuất thông qua các chỉ tiêu khuyến khích bằng lợi ích vật chất,
các chỉ tiêu qui định về nhiệm vụ quyền hạn.
Tính tất yếu của việc áp dụng cơ chế khoán trong tổ chức sản xuất, trên cơ sở
lý luận, khoán là hình thức nhằm phát huy khả năng, tính độc lập, chủ động sáng tạo
trong thực hiện sản xuất. Áp dụng chế độ khoán tạo điều kiện gắn tập thể người lao
động lại với nhau, gắn sản phẩm tạo ra với thu nhập, tiết kiệm tận dụng các nguồn
lực phù hợp với điều kiện thực tế hiện nay. Thực hiện khoán và đánh giá kết quả
cuối cùng qua đó thực hiện quyết toán, trả lương cho người lao động có căn cứ hơn.
Trong quá trình thực hiện thì việc cung cấp các điều kiện phục vụ công việc như cơ

sở vật chất, nhân sự đóng vai trò rất quan trọng, quyết định tiến độ hoàn thành
công việc. Thực hiện chế độ khoán góp phần cắt giảm các chi phí không cần thiết,
tận dụng các lợi thế trong việc cung ứng các điều kiện, mặt khác tạo ra tính chủ
động hơn cho nhân viên. Thực hiện cơ chế khoán góp phần tinh giảm bộ máy quản
lý cồng kềnh kém hiệu quả, chức năng nhiệm vụ từng người được quy định rõ ràng
và qua đó nâng cao hiệu quả và chất lượng công tác.
18
1.2.2.Căn cứ và nội dung khoán trong kinh doanh
Trên cơ sở thực tiễn, trong thời gian vừa qua hầu hết các doanh nghiệp vận
dụng cơ chế khoán áp dụng trong kinh doanh đáp ứng được những yêu cầu của sản
phẩm, thị trường như chất lượng sản phẩm, tiến độ công việc, thu nhập của người
lao động nhờ đó cũng tăng lên. Chuyển sang nền kinh tế thị trường, thực hiện chế
độ khoán đã giúp cho các doanh nghiệp tổ chức hoạt động sản xuất có hiệu quả hơn,
mặt khác phát huy được khả năng, tính tự chủ trong sản xuất đồng thời doanh
nghiệp vẫn quản lý giám sát chặt chẽ. Vì vậy trong thời gian qua không ít doanh
nghiệp đã thực sự lớn mạnh và tự khẳng định được vị trí của mình trên thị trường
cạnh tranh quyết liệt.
Hiện nay trong mỗi công ty đều tổ chức theo các nhóm chuyên môn hoá trong
lĩnh vực mang tính tổng hợp hoặc một lĩnh vực cụ thể nào đó và ngân hàng cũng
không nằm ngoài cách tổ chức đó. Việc giao khoán mỗi loại hình công việc cần
phải căn cứ vào khả năng tổ chức quản lý, trình độ lao động, lĩnh vực chuyên môn
mà nhóm đảm nhiệm để giao công việc. Phân công được như vậy mới có thể phát
huy được năng lực của nhóm và khả năng hoàn thành công việc được giao một cách
hiệu quả nhất. Việc giao khoán cần được người có trách nhiệm và có khả năng đảm
nhận, đây là một nhân tố khá quan trọng cần phải quan tâm khi thực hiện giao
khoán. Công tác tổ chức, quản lý, điều hành cụ thể ở hầu hết các ngân hàng nếu
chưa hợp lý là một trong những nguyên nhân gây ra sự chậm trễ, điều này là do cơ
chế chỉ đạo còn chồng chéo, chưa rõ ràng về chức năng, nhiệm vụ, các phòng ban
chưa hướng vào phục vụ công tác khoán. Do vậy để thực hiện một cơ chế khoán có
hiệu quả thì việc đổi mới bộ máy quản lý, phân chia rõ ràng chức năng nhiệm vụ

của từng phòng ban hướng vào mục đích chung là yêu cầu cấp thiết đặt ra. Thêm
vào đó, cấp bậc công việc hiện nay phản ánh thu nhập của cán bộ công nhân viên
song trong thực hiện khoán nhân tố này cần lưu ý để thực hiện việc trả lương và
chia lương hợp lý.
Thực chất của công tác khoán là quá trình xác định mức độ tự chịu trách
nhiệm khuyến khích tính năng động sáng tạo của ngân hàng thông qua các chỉ tiêu
19
thuộc về nhiệm vụ, các chỉ tiêu khuyến khích bằng lợi ích vật chất. Thông qua cơ
chế khoán một mặt tạo điều kiện cho các đơn vị tự chủ trong kinh doanh, hội sở
ngân hàng chỉ quản lý thông qua các chỉ tiêu giao khoán do đó có thể tiết kiệm thời
gian. Vai trò và tác dụng của việc thực hiện khoán thể hiện trong một số điểm sau,
ưu thế của khoán là nâng cao trách nhiệm và gắn bó trách nhiệm giữa những người
lao động, gắn thu nhập của họ vào kết quả thực hiện do đó khuyến khích tăng năng
suất, giảm các chi phí đẩy nhanh tiến độ hoàn thành công việc được giao. Thông
qua hình thức khoán công việc mà ngân hàng có thể tiến hành phân tích kinh tế,
kiểm tra quá trình hoạt động tại đơn vị cơ sở thông qua các chỉ tiêu kinh tế, đồng
thời có thể kịp thời điều chỉnh, sửa đổi những mặt yếu kém trong công tác thực
hiện. Thông qua cơ chế khoán tạo điều kiện cho các đơn vị tự tổ chức kế hoạch kinh
doanh của mình cho phù hợp với tình hình thực tế, phù hợp với tính hình thuê lao
động, cung ứng của cơ sở vật chất. Thực tiễn ở các doanh nghiệp cũng cho thấy
hiệu quả của hình thức khoán đối với công việc, chất lượng sản phẩm, giải quyết
được các khó khăn phát sinh đồng thời tạo điều kiện hoàn thành, đáp ứng được các
yêu cầu của khách hàng, thị trường. Hiện nay thị trường ngày càng mở rộng, khả
năng tự đáp ứng về các điều kiện phục vụ cho sản xuất như chất lượng cơ sở vật
chất, nhân công ngày càng tăng cao. Do đó nếu tận dụng được các lợi thế ở địa bàn
khu vực sẽ có lợi cho công việc, đặc biệt là khi áp dụng cơ chế khoán.
1.2.3.Quá trình thực hiện khoán trong kinh doanh
Điều kiện để thực hiện quy chế khoán kinh doanh cho từng đối tượng cũng
được quy định một cách cụ thể. Đối với xí nghiệp thì phải đảm bảo các điều kiện là
doanh nghiệp hạch toán độc lập, có kế hoạch sản xuất, kinh doanh ổn định, có khả

năng bao quát các nhân viên trong quá trình khoán kinh doanh. Đối với các phân
xưởng, cửa hàng thì phải chủ động trong hoạt động sản xuất kinh doanh của cửa
hàng mình, có sự phân cấp quyền hạn rõ rệt, có các kế hoạch sản xuất kinh doanh
phù hợp với quy chế khoán. Đối với các cá nhân cần đảm bảo về mặt tài chính và có
khả năng trong việc kinh doanh, chấp nhận các điều kiện mà doanh nghiệp đưa ra
khi giao khoán.
20
Để thực hiện được các phương thức khoán thì phải có các cơ sở pháp lý cũng
như các biện pháp để đảm bảo nghĩa vụ của giám đốc các đơn vị khi được ủy quyền
giao trách nhiệm quản lý và sử dụng phần chi phí cho phép nhằm đem lại lợi nhuận
cao nhất cho ngân hàng. Việc thực hiện khoán kinh doanh nhằm bảo đảm việc làm
cho người lao động, thay đổi phương thức quản lý doanh nghiệp, tạo động lực để
phát huy quyền làm chủ của người lao động, có thể sử dụng hiệu quả hơn số tài sản
đã đầu tư, khai thác mọi tiềm năng trong các thành phần kinh tế để đầu tư phát triển
sản kinh doanh. Nó góp phần giảm bớt chi phí và trách nhiệm trực tiếp kinh doanh
của cấp trên.
Bên khoán và bên nhận khoán cần có trách nhiệm rõ ràng, ghi nhận thành tích
và cả chỉ ra những khuyết điểm còn tồn đọng. Các cán bộ nhân viên cần phải quản
lý và sử dụng vốn, tài sản và tiếp nhận lao động của doanh nghiệp theo các quy định
không trái pháp luật, kế thừa các quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp. Cần phải có
quyết định tổ chức kinh doanh, phương thức trả lương, thưởng trong doanh nghiệp
một cách công bằng, đảm bảo an toàn lợi ích của người lao động. Khuyến khích
nhân viên bằng nhiều hình thức như được hưởng và tự quyết định việc phân phối
các thu nhập do vượt định mức khoán. Đối với phần lợi nhuận vượt định mức
khoán, người nhận khoán kinh doanh được chi trả phần lương bổ sung tương ứng
với phần vượt kế hoạch đó. Đồng nghĩa với điều đó, người lao động chịu giảm thu
nhập nếu không hoàn thành các định mức, yêu cầu khoán đã ghi trong hợp đồng
nhận khoán.
Bên giao khoán cần phải kiểm tra, theo dõi việc thực hiện các cam kết trong
hợp đồng khoán kinh doanh, xử lý các trường hợp vi phạm cam kết ghi trong hợp

đồng. Tuy nhiên không can thiệp vào việc điều hành của người nhận khoán, tạo
điều kiện thuận lợi cho người nhận khoán thực hiện các cam kết ghi trong hợp đồng
khoán kinh doanh.
21
1.3.Phương thức khoán trong kinh doanh của doanh nghiệp
1.3.1 Định vị chiến lược và kế hoạch kinh doanh của ngân hàng
thương mại
Chiến lược cấp đơn vị kinh doanh là tổng thể các cam kết và hành động giúp
doanh nghiệp giành lợi thế cạnh tranh bằng cách khai thác các năng lực cốt lõi của
họ vào những thị trường sản phẩm cụ thể. Vấn đề cơ bản mà mỗi ngân hàng cần giải
quyết khi lựa chọn chiến lược kinh doanh, đó là họ sẽ cung cấp cho khách hàng sản
phẩm hay dịch vụ nào, cách thức tạo ra các sản phẩm dịch vụ và làm cách nào đưa
nó đến với khách hàng. Theo Derek F. Abell, để xây dựng chiến lược cấp đơn vị
kinh doanh phải giải quyết ba vấn đề chính, đó là nhu cầu khách hàng, các nhóm
khách hàng và các khả năng khác biệt hóa. Các công ty cần xác định các thị trường
mục tiêu và dựa trên các năng lực cốt lõi, cũng như cơ hội từ môi trường, xây dựng
chiến lược để cung cấp giá trị đến các khách hàng mục tiêu, thoả mãn tốt nhất nhu
cầu khách hàng. Tiến trình hoạch định chiến lược của một đơn vị kinh doanh gồm
tám bước được thể hiện trong hình sau:
Hình 1.1: Tiến trình hoạch định chiến lược đơn vị kinh doanh
(nguồn: giáo trình quản trị chiến lược)
Mỗi đơn vị kinh doanh cần định rõ sứ mệnh riêng biệt của nó bao gồm những
gì mang lại cho khách hàng và cách thức tạo lập lợi thế cạnh tranh. Một đơn vị kinh
doanh cần phải xem xét những tác động của các yếu tố chủ yếu trong môi trường vĩ
22
mô (kinh tế, nhân khẩu học, công nghệ, chính trị - luật pháp, văn hoá - xã hội) và
các nhân tố quan trọng của môi trường vi mô (khách hàng, đối thủ cạnh tranh, nhà
phân phối, những người cung cấp) có khả năng ảnh hưởng đến khả năng sinh lời
của công ty. Việc phân tích bên trong cũng giúp các nhà quản trị nhận thức rõ các
điểm mạnh, điểm yếu của tổ chức để từ đó có các chiến lược, kế hoạch kinh doanh

phù hợp với từng đặc thù của doanh nghiệp. Phân tích điểm mạnh, điểm yếu, cơ
hội, đe dọa (SWOT) có thể là phân tích nền tảng dựa trên lập luận cho rằng các nỗ
lực chiến lược phải hướng đến việc tạo ra sự phù hợp tốt nhất giữa các khả năng
nguồn lực của công ty và tình thế bên ngoài. Tuy vậy, vấn đề có tầm quan trọng
thiết yếu chính là làm cách nào để công ty có thể tạo dựng lợi thế cạnh tranh và duy
trì nó một cách bền vững.
Ðể xây dựng được chiến lược của một ngân hàng, tư duy của một nhà chiến
lược phải luôn trả lời được các câu hỏi là làm thế nào để phát triển kinh doanh, để
đáp ứng nhu cầu khách hàng, để vượt lên trên đối thủ. Hơn nữa, nhà quản trị còn
phải làm sao quản lý từng mảng chức năng trong kinh doanh, để phản ứng trước
điều kiện thay đổi của môi trường hay để đạt được hiệu quả kinh doanh. Trong lĩnh
vực tài chính ngân hàng, muốn xác định được định hướng đúng đắn và đạt được
mục tiêu chiến lược trong tương lai, người quản lý phải hiểu được hiện trạng một
ngân hàng đang ở đâu, cần phải làm gì để thay đổi được nội lực của ngân hàng và
cái đích luôn hướng tới là gì. Quy trình chính để xác định chiến lược bao gồm xác
định sứ mệnh, tầm nhìn của ngân hàng. Các yếu tố cơ bản cấu thành sứ mệnh, tầm
nhìn của một ngân hàng bao gồm sứ mệnh - lí do tồn tại của ngân hàng, tầm nhìn -
tuyên bố về những mong muốn của ngân hàng trong tương lai, giá trị cốt lõi - triết lý
chủ đạo trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
Mỗi một ngân hàng đều có một sứ mệnh riêng đem lại lợi ích đến với khách
hàng, cổ đông, nhân viên và xã hội. Ðối với khách hàng, ngân hàng sẽ cung cấp các
sản phẩm dịch vụ cao cấp với chất lượng quốc tế, mang tính độc đáo và sáng tạo
cao. Với giá trị chất lượng vượt trội nhằm thỏa mãn nhu cầu chính đáng của khách
hàng, ngân hàng luôn hướng đến những sản phẩm dịch vụ hoàn hảo, mang giá trị
đặc trưng khác biệt cho từng đối tượng phục vụ. Ðối với nhân viên, sứ mệnh của
23
ngân hàng chính là xây dựng một môi trường làm việc chuyên nghiệp, năng động,
sáng tạo và nhân văn, tạo điều kiện thu nhập cao và cơ hội phát triển công bằng cho
tất cả nhân viên. Ðối với xã hội, sứ mệnh của ngân hàng là làm thế nào hài hòa giữa
lợi ích của ngân hàng và lợi ích của xã hội, đóng góp tích cực vào các hoạt động

hướng đến cộng đồng, thể hiện tinh thần trách nhiệm với công dân và niềm tự hào
đối với tổ quốc. Ðối với cổ đông, sứ mệnh ở đây được hiểu là trở thành người đồng
hành số một của đối tác và cổ đông, luôn gia tăng các giá trị đầu tư hấp dẫn và bền
vững. Như vậy, tuyên bố sứ mệnh của một tổ chức cần đưa ra thông tin để trả lời ba
câu hỏi sau: mục tiêu của tổ chức là gì, tổ chức sẽ làm gì và phục vụ ai, những
nguyên tắc và giá trị nào là kim chỉ nam cho mọi hoạt động của tổ chức.
Khi quyết định tầm nhìn, hướng đi của một ngân hàng trong tương lai cần phải
xem xét một cách kỹ lưỡng các yếu tố bên trong và bên ngoài. Các yếu tố bên ngoài
ở đây có thể là triển vọng tương lai của ngân hàng, cần được đánh giá xem có tốt
không nếu tiếp tục tập trung vào những sản phẩm, thị trường khách hàng, công nghệ
sẵn có và đi theo chiến lược hiện tại hay cũng có thể là những thay đổi về cạnh
tranh trên thị trường đang tăng cường hay làm suy yếu triển vọng. Ngân hàng nên
chọn nhóm khách hàng, thị trường mới nào để phục vụ, những cơ hội mới nào trên
thị trường tài chính mà ngân hàng phải theo đuổi hay chúng ta có nên lập kế hoạch
hay bỏ qua một số nhóm khách hàng mà chúng ta đang phục vụ hay không. Các yếu
tố bên trong ở đây là ta xác định được tham vọng của ngân hàng là gì, công việc
kinh doanh có tạo ra được sự tăng trưởng và lợi nhuận cần thiết để làm hài lòng cổ
đông hay không, những sức mạnh nguồn lực nào có thể trợ giúp ngân hàng trong
việc tung ra các sản phẩm dịch vụ mới trên thị trường. Các yếu tố cơ bản của một
tầm nhìn chiến lược là phải thể hiện khát vọng kinh doanh của người quản lí, cung
cấp được một cái nhìn toàn cảnh về cái đích mà họ luôn hướng đến, hoạch định
được một đường lối chiến lược, từ đó đưa ra được những thách thức vượt trên tầm
hiện tại của ngân hàng.
Những bước đi vững chắc của NH TMCP Đại Dương (Oceanbank) là phấn
đấu mục tiêu nằm trong năm ngân hàng hàng đầu Việt Nam có số lượng khách hàng
sử dụng dịch vụ ngân hàng điện tử và doanh số giao dịch qua kênh ngân hàng điện
24
tử chiếm tỷ trọng cao nhất trong tương lai, áp dụng những giải pháp công nghệ hàng
đầu trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng. Ngân hàng với tầm nhìn và sứ mệnh trở
thành một ngân hàng được khách hàng tin tưởng và lựa chọn thông qua những trải

nghiệm từ dịch vụ tốt, sản phẩm đa dạng, các quy trình hướng tới sự phục vụ khách
hàng tốt nhất và hệ thống kênh phân phối đa dạng. Là một ngân hàng với nhiều
khác biệt thông qua việc cung cấp các giải pháp tài chính phù hợp cho tất cả khách
hàng. Oceanbank là một tổ chức mà người lao động muốn lựa chọn để làm việc, vì
tại đây mỗi người lao động luôn được tạo điều kiện học tập và phát triển, phát huy
hết khả năng và năng lực của mình.
Mục tiêu chiến lược chính là trạng thái tương lai mà một doanh nghiệp cũng
như ngân hàng cố gắng thực hiện, là kết quả cuối cùng của các hành động được
hoạch định. Ðể xác định được mục tiêu chiến lược, cần phải căn cứ vào nguồn lực và
ràng buộc từ môi trường bên ngoài cũng như căn cứ vào sự cần thiết phải đạt được
mục tiêu. Các mục tiêu thường thấy của một ngân hàng chính là chiếm được thị phần
thị trường lớn, tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường, đáp ứng yêu cầu khách hàng,
tăng doanh thu, lợi nhuận, thị phần, đa dạng hóa các nguồn thu dựa trên các khoản
thu nhập ổn định. Tính khả thi của chiến lược cần phù hợp với thực tế và nguồn lực
phân bổ trong từng giai đoạn cụ thể. Mỗi ngân hàng cần phải vạch ra chiến lược đối
với các cấp quản trị, từ tổng giám đốc điều hành cho đến các cấp quản trị ở mức thấp
nhất cần phải gắn trách nhiệm trong việc thu được kết quả cụ thể.
Khi thực hiện phân tích chiến lược, cần triển khai xây dựng các nội dung như
xây dựng năng lực cốt lõi và định vị ngành, đánh giá năng lực cạnh tranh, phân tích
môi trường chiến lược, phát hiện cơ hội chiến lược. Ðể xác định được năng lực cốt
lõi và định vị ngành thì phải phân tích được nội lực của ngân hàng, xác định và xây
dựng được năng lực cốt lõi. Nội lực của một doanh nghiệp hay ngân hàng tập trung
vào những khía cạnh chủ yếu sau tài chính, nhân sự, quản trị, marketing và nghiên
cứu phát triển. Giá trị cốt lõi của ngân hàng chính là cách thức mà các nhà quản trị
dự định tiến hành kinh doanh, những đặc tính tạo dựng cho tổ chức, điều khiển hành
vi và tạo ra nền tảng văn hóa của tổ chức. Năng lực cốt lõi là cái mà doanh nghiệp
làm được, trong khi các đối thủ cạnh tranh không làm được hoặc làm được không
25

×