Tải bản đầy đủ (.doc) (119 trang)

Tiểu luận Lý thuyết tài chính tiền tệ chủ đề GIÁM SÁT VÀ ĐIỀU TIẾT HỆ THỐNG TÀI CHÍNH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (789.6 KB, 119 trang )

Nhóm thực hiện: Nhóm 3
Lớp: Đêm 5 Cao Học K23
Đề tài: GIÁM SÁT VÀ ĐIỀU TIẾT
HỆ THỐNG TÀI CHÍNH
Giảng viên: TS. Diệp Gia Luật
Môn học: Lý Thuyết
Tài Chính - Tiền Tệ
ĐẠI HỌC KINH TẾ TP HỒ CHÍ MINH
KHOA NGÂN HÀNG
Lý thuyết tài chính tiền tệ
Nhóm 4 Trang 2
Lý thuyết tài chính tiền tệ
DANH SÁCH THÀNH VIÊN NHÓM 3 – LỚP ĐÊM 5 CAO HỌC K23
Mã số học
viên
Tên thành viên
Mức độ đóng góp trong công việc
Tiểu luận – Thuyết
trình (%)
Bài dịch (%)
7701230319 Phạm Thiên Bảo 100 100
7701230337 Nguyễn Thị Ngọc Cẩm 100 100
7701230731 Nguyễn Thị Hạnh Nguyên 95 100
7701230739 Đặng Thị Ánh Nguyệt 80 95
7701230810 Nguyễn Thị Thu Phương 100 100
7701235994 Đoàn Thị Thanh Thủy 90 90
7701231128 Lương Nguyễn Thanh Vân 100 100
7701231137 Nguyễn Thị Khánh Vi 100 100
7701230373 Lý Ngọc Dung 100 100
7701231324 Nguyễn Thị Thanh Huyền 95 95
7701230750 Lê Minh Nhật 95 95


7701231447 Nguyễn Hoàng Tùng Sơn 95 95
7701230980 Trần Đức Thắng 95 95
7701231048 Nguyễn Ngọc Thương 100 100
7701231526 Hồ Vân Thy 95 95
7701231571 Đào Hà Vy 100 100
Nhóm 4 Trang 3
Lý thuyết tài chính tiền tệ
MỤC LỤC
HỆ THỐNG TÀI CHÍNH VÀ CÁC MÔ HÌNH GIÁM SÁT, ĐIỀU TIẾT HỆ
THỐNG TÀI CHÍNH LÝ THUYẾT 8
1.1. hỆ thỐng tài chính: 8
1.1.1. Khái niệm: 8
1.1.2. Các thành phần cấu thành hệ thống tài chính quốc gia: 8
1.1.3. Vai trò của hệ thống tài chính: 13
1.2. CÁC TRƯỜNG PHÁI KINH TẾ GẮN LIỀN VỚI CÁC DẠNG HỆ THỐNG
TÀI CHÍNH CƠ BẢN: 15
1.1.4. Mô hình kinh tế cổ điển – Đại diện cho hệ thống tài chính không có sự can thiệp của chính
phủ: 15
1.1.5. Trường phái kinh tế học Keynes – đại diện cho hệ thống tài chính có sự can thiệp triệt để của
Chính phủ: 18
1.1.6. Trường phái kinh tế học tự do mới – Đại diện cho mô hình giảm, sát tài chính linh hoạt tôn
trọng sự tự do, khách quan của thị trường nhưng vẫn sự giám sát đúng mức: 19
LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA HỆ THỐNG TÀI CHÍNH VIỆT
NAM 27
1.3. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA HỆ THỐNG NGÂN
HÀNG: 27
1.1.7. Hệ thống ngân hàng thời Pháp thuộc: 27
1.1.8. Hệ thống ngân hàng Việt Nam ở miền Bắc giai đoạn 1954-1975: 29
1.1.9. Hệ thống ngân hàng ở miền Nam giai đoạn 1954-1975: 29
1.1.10. Hệ thống ngân hàng Việt Nam giai đoạn từ năm 1975 đến nay: 31

1.4. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA THỊ TRƯỜNG
CHỨNG KHOÁN: 35
1.5. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA THỊ TRƯỜNG BẢO
HIỂM: 36
KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH – CÁC THẤT BẠI TÀI CHÍNH VÀ CÁC MÔ
HÌNH GIÁM SÁT, ĐIỀU TIẾT TÀI TRONG THỰC TIỂN 39
1.6. KHỦNG HOÀNG TÀI CHÍNH: 39
1.1.11. Căng thẳng tài chính: 39
Nhóm 4 Trang 4
Lý thuyết tài chính tiền tệ
1.1.12. Khủng hoảng tài chính: 41
1.7. CÁC THẤT BẠI TRONG HỆ THỐNG TÀI CHÍNH: 42
1.1.13. Thông tin bất cân xứng: 43
1.1.14. Hoạt động rửa tiền: 49
1.1.15. Chạy đua lãi suất: 53
1.1.16. Lũng đoạn thị trường: 56
1.1.17. Rối loạn hệ thống tỷ giá: 59
1.8. CÁC MÔ HÌNH GIÀM SÁT, ĐIỀU TIẾT TÀI CHÍNH TRONG THỰC
TIỂN: 67
1.1.18. Vai trò của chính phủ trong hệ thống tài chính: 67
1.1.19. Tổng quan về mô hình giám sát, điều tiết tài chính: 70
1.1.19.1. Các mô hình giám sát, điều tiết tài chính trong thực tiển: 70
1.1.19.2. Xu hướng điều chỉnh mô hình giám sát, điều tiết tài chính trên thế giới hiện nay: 76
1.1.19.3. Xu hướng tăng cường các chuẩn mực giám sát trên thế giới hiện nay: 78
1.1.19.4. Xu hướng điều chỉnh phương thức giám sát trên thế giới hiện nay: 79
1.9. Cơ chế GIÁM SÁT, ĐIỀU TIẾT TÀI CHÍNH VIỆT NAM QUA CÁC GIAI
ĐOẠN: 81
1.1.20. Giai đoạn bao cấp từ năm 1975 đến 1986 – Chính phủ kiểm soát toàn diện hệ thống tài chính:
81
1.1.21. Giai đoạn bắt đầu đổi mới từ năm 1986 đến năm 1990 – Chính phủ dần tôn trọng quy luật thị

trường: 86
1.1.22. Giai đoạn từ năm 1991 đến nay – Chính phủ Việt Nam áp dụng mô hình giám sát, điều tiết hệ
thống tài chính theo định hướng Xã Hội Chủ Nghĩa và đề cao quy luật tư do khách quan của thị
trường: 91
NHẬN XÉT VỀ MÔ HÌNH GIÁM SÁT HỆ THỐNG TÀI CHÍNH VIỆT NAM
HIỆN NAY 100
1.10. tHÀNH TỰU ĐẠT ĐƯỢC: 100
1.1.23. Đối với thị trường tiền tệ, tín dụng ngân hàng: 100
1.1.24. Đối với thị trường chứng khoán: 101
1.1.25. Đối với thị trường bảo hiểm: 103
1.11. NhỮng hẠn chẾ còn tỒn tẠi: 104
1.1.26. Đối với khu vực NHTM: 106
1.1.27. Đối với giám sát TTCK: 108
1.1.28. Giám sát thị trường bảo hiểm: 109
Nhóm 4 Trang 5
Lý thuyết tài chính tiền tệ
1.1.29. Giám sát tập đoàn tài chính: 110
1.1.30. Giám sát thị trường bất động sản: 112
1.12. Các giẢI pháp đỀ xuẤt: 112
1.1.31. Các giải pháp giám sát và điều tiết hệ thống tài chính nói chung: 112
1.1.32. Giám sát các tập đoàn tài chính: 113
1.1.33. Giải pháp hoàn thiện hệ thống thông tin số liệu thống kê và công tác dự báo: 115
1.13. các chỉ tiêu giám sát tài chính: 116
1.1.34. Các chỉ tiêu giám sát an toàn tài chính vĩ mô và vi mô: 116
1.1.35. Một số vấn đề trong việc xây dựng, áp dụng bộ chỉ tiêu, chỉ số tại Việt Nam: 117
Nhóm 4 Trang 6
Lý thuyết tài chính tiền tệ
LỜI GIỚI THIỆU
Trong vài thập niên gần đây, thế giới đã trải qua nhiều cuộc khủng hoảng tài chính
với phạm vi ngày càng lớn, mức độ tác động và tần suất ngày càng gia tăng. Một trong

những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến các bất ổn đó là hoạt động giám sát tài chính còn
yếu kém, không theo kịp sự phát triển nhanh chóng của các định chế tài chính và các
công cụ tài chính.
Trong bối cảnh đó, thị trường tài chính Việt Nam sau hơn hai thập kỷ cải cách tuy
đã có nhiều tiến bộ đáng ghi nhận nhưng vẫn tồn tại nhiều rủi ro không thể xem thường
trong khi công tác giám sát vĩ mô thị trường tài chính hiện còn không ít bất cập. Trên
thực tế, việc giám sát chủ yếu thiên về giám sát tuân thủ, các công cụ phục vụ cho giám
sát an toàn vĩ mô thị trường tài chính chưa hoàn thiện, nhất là giám sát dựa trên rủi ro.
Giám sát rủi ro chéo với các thị trường tài sản như bất động sản, chứng khoán còn lỏng
lẻo do thiếu sự phối hợp, liên thông trong giám sát toàn bộ thị trường tài chính giữa các
cơ quan giám sát chuyên ngành. Do đó, việc hiểu rõ về bản chất, vai trò, tầm quan trọng
của hệ thống tài chính và củng cố, hoàn thiện hệ thống giám sát, điều tiết tài chính hợp
nhất ở nước ta là một yêu cầu cấp thiết, ưu tiên hàng đầu hiện nay.
Chỉ khi hiểu rõ về hệ thống tài chính và những thất bại mà nó gặp phải, ta mới thấy được
tầm quan trọng của công tác giám sát điều tiết mà chính phủ đã và đang thực hiện. Mặc
khác, như đã nói, công tác quản lý tài chính quốc gia hiện nay vẫn còn khá nhiều những
bất cập. Cho nên việc xem xét các sự kiện tiêu cực diển ra trong hệ thống tài chính và các
động thái của chính phủ sẽ giúp ta rút ra được những bài học kinh nghiệm, thấy rõ hơn
các yếu kém vẫn đang tồn tại, từ đó mới có thể hoàn thiện hơn cơ chế giám sát, điều tiết
hệ thống tài chính, đảm bảo nền kinh tế phát triển bền vững, ổn định. Đó cũng chính là
mục tiêu và ý nghĩa của đề tài: “ĐIỀU TIẾT VÀ GIÁM SÁT HỆ THỐNG TÀI
CHÍNH”.
Nhóm 4 Trang 7
Lý thuyết tài chính tiền tệ
HỆ THỐNG TÀI CHÍNH VÀ CÁC MÔ HÌNH GIÁM SÁT, ĐIỀU TIẾT HỆ
THỐNG TÀI CHÍNH LÝ THUYẾT
1.1. HỆ THỐNG TÀI CHÍNH:
1.1.1. Khái niệm:
Tài chính là hệ thống các quan hệ kinh tế trong phân phối, gắn liền với quá trình
hình thành và sử dụng các quỹ tiền tệ. Trong thực tế, các quan hệ tài chính diễn ra rất

phức tạp và đa dạng, chúng đan xen nhau trong một tập hợp hàng loạt các hoạt động khác
nhau của nền kinh tế. Tuy nhiên đó không phải là một hoạt động hỗn loạn mà ngược lại,
chúng tuân thủ những nguyên tắc, những quy luật nhất định, trong đó những quan hệ tài
chính có tính chất đặc thù giống nhau nhóm lại thành một bộ phận riêng. Giữa các bộ
phận này luôn có mối liên hệ, tác động rang buộc lẫn nhau và tạo thành hệ thống tài
chính.
Do vậy, hệ thống tài chính là tổng thể của các bộ phận khác nhau trong một cơ cấu
tài chính, mà ở đó các quan hệ tài chính hoạt động trên những lĩnh vự khác nhau nhưng
có mối liên hệ tác động lẫn nhau theo những quy luật nhât định. Các bộ phận trong hệ
thống tài chính hoạt động trên các lĩnh vực: tạo ra nguồn lực tài chính, thu hút các nguồn
tài chính và chu chuyển các nguồn tài chính (dẫn vốn). Với các lĩnh vực hoạt động này,
toàn bộ hệ thống tài chính thực hiện vai trò đặc biệt quan trọng trong nền kinh tế quốc
dân là đảm bảo nhu cầu về vốn cho phát triển kinh tế xã hội.
1.1.2. Các thành phần cấu thành hệ thống tài chính quốc gia:
Một hệ thống tài chính quốc gia hoàn chỉnh là một tổng thể được cấu thành từ ba
nhân tố chính gồm: thị trường tài chính; các định chế tài chính và cơ sở hạ tầng tài chính
để tổ chức phân bổ các nguồn lực tài chính nhằm đạt được mục tiêu của các chủ thể trong
nền kinh tế.
1.1.2.1. Thị trường tài chính:
Thị trường tài chính là nơi diển ra các hoạt động mua bán các loại giấy tờ có giá,
nơi gặp gỡ của các nguồn cung cầu về vốn, qua đó hình thành nên giá mua và bán các
loại cổ phiếu, trái phiếu, kỳ phiếu, tín phiếu,… hình thành nên giá cả các loại vốn đầu tư
bao gồm: lãi suất đi vay, lãi suất cho vay, lãi suất ngắn hạn, trung hạn và dài hạn. Tuy
Nhóm 4 Trang 8
Lý thuyết tài chính tiền tệ
nhiên để tạo lập môi trường sôi động của thị trường tài chính trên thực cần là sự kết hợp
của nhiều yếu tố, trong đó có ba yếu tố cơ bản:
Đối tượng của thị trường tài chính: bao gồm những nguồn cung cầu về vốn trong
xã hội của các chủ thể kinh tế như nhà nước, các doanh nghiệp, các tổ chức xã hội, các
tầng lớp dân cư.

Công cụ tham gia trên thị trường tài chính: đây là nguồn sống cho hoạt động của
thị trường tài chính bao gồm các chứng khoán có giá như công trái do nhà nước phát
hành, chứng khoán do các doanh nghiệp phát hành, các loại trái phiếu do các tổ chức tài
chính phát hành và các dạng kỳ phiếu, séc,… Ngoài ra khi nền kinh tế phát triển hiện đại,
tối tân, trên thị trường còn xuất hiện các công cụ tài chính để phòng ngừa rủi ro kỹ thuật
cao. Đó là các sản phẩm phái sinh như: hợp đồng kỳ hạn, hợp đồng hoán đổi, hợp đồng
quyền chọn, hợp đồng tương lai,…
Chủ thể tham gia trên thị trường tài chính: Là những pháp nhân hay thể nhận đại
diện cho những nguồn cung cầu về vốn nhàn rỗi, chủ yếu là các ngân hàng thương mại,
công ty tài chính, công ty bảo hiểm, quỹ đầu tư,… và đặc biệt là các công ty môi giới.
Có rất nhiều nhiều tiêu chí để phân loại thị trường tài chính, cụ thể sau đây:
Theo thời gian luân chuyển vốn gồm có :
• Thị trường tiền tệ: có thời gian luân chuyển vốn không quá 1 năm, với hình thức
tài trợ vốn đặc trưng là tại trợ gián tiếp thông qua hoạt động của các ngân hàng thương
mại. Thông thường các chủ thể đi vay trên thị trường này là những chủ thể tạm thời thiếu
hụt tiền tệ phục vụ cho các nhu cầu thanh toán. Chứng khoán mua bán trên thị trường tiền
tệ thường được mua bán rộng rãi hơn chứng khoán dài hạn và như vậy có xu hướng lỏng
hơn. Ngoài ra, các công cụ của thị trường tiền tệ là những khoản vay hay những chứng
khoán đáo hạn cũng có biên độ dao động giá nhỏ hơn các chứng khoán dài hạn và do vậy
chúng là khoản đầu tư an toàn hơn.
• Thị trường vốn: là thị trường mua bán các chứng khoán nợ dài hạn (có thời gian
luân chuyển vốn trên 1 năm) và các chứng khoán vốn. Thị trường này cung cấp vốn cho
các khoản đầu tư dài hạn của các doanh nghiệp, của chính phủ, và các hộ gia đình thông
qua hình thức tài trợ trực tiếp ( tức là chủ thể có nhu cầu sẽ chủ động phát hành chứng
Nhóm 4 Trang 9
Lý thuyết tài chính tiền tệ
khoán ra thị trường để huy động vốn). Do thời gian luân chuyển vốn trên thị trường này
dài hạn hơn so với thị trường tiền tệ nên các công cụ trên thị trường vốn có độ rủi ro cao
hơn và đi theo nó là mức lợi tức kỳ vọng cũng cao hơn.
Theo nguồn gốc chứng khoán gồm:

• Thị trường sơ cấp: là thị trường phát hành chứng khoán lần đầu tiên. Nói cách
khác, đây là thị trường cung ứng các công cụ tham gia thị trường tài chính.
• Thị trường thứ cấp: là thị trường mua đi bán lại các chứng khoán đã được phát
hành trên thị trường sơ cấp, làm thay đổi quyền sở hữu chứng khoán. Do đó tạo nên tính
thanh khoản cho các công cụ trên thị trường góp phần tăng sức thu hút đối với công
chúng tham gia trên thị trường này.
Theo phương thức tổ chức và giao dịch của thị trường gồm:
• Thị trường tập trung: là thị trường mà việc giao dịch mua bán chứng khoán được
thực hiện có tổ chức và tập trung tại một địa điểm nhất định.
• Thị trường phi tập trung: là thị trường mà việc mua bán các chứng khoán chưa
hoặc không được niêm yết trên thị trường tập trung, được thực hiện phân tán ở những địa
điểm khác nhau. Các giao dịch này thường được thực hiện thông qua mạng máy vi tính.
Ngoài ra còn có thể phân loại thị trường tài chính theo tiêu chí công cụ tài chính
gồm:
• Thị trường nợ: trên thị trường này cần vốn đứng ở tư thế người đi vay sẽ cam kết
trả lãi, kỳ hạn thanh toán và hoàn trả nợ gốc khi phát hành các công cụ nợ để huy động
vốn.
• Thị trường vốn cổ phần: trên thị trường này người cần vốn thường là các doanh
nghiệp, kêu gọi sự liên kết vốn từ các nhà đầu tư cung tham gia với tư cách là những
người đồng sở hữu sẽ chia sẻ thu nhập ròng và tài sản của doanh nghiệp.
1.1.2.2. Các định chế tài chính:
Các định chế tài chính là là các tổ chức thực hiện huy động nguồn tiền của những
người tiết kiệm cuối cùng và sau đó cung cấp cho những người cần vốn cuối cùng.
Những người tiết kiệm cuối cùng bao gồm các chủ thể như hộ gia đình, doanh nghiệp và
chính phủ. Trên cơ sở số thu nhập có được, bằng việc tiết kiệm các khoản chi tiêu trong
Nhóm 4 Trang 10
Lý thuyết tài chính tiền tệ
tiêu dùng, các chủ thể này góp phần làm gia tăng thêm nguồn vôn cung ứng cho nhu cầu
đầu tư của xã hội. Những chủ thể cần vốn cuối cùng cũng là các hộ gia đình, doanh
nghiệp và chỉnh phủ. Những chủ thể này đang tiến hành thực hiện các dự án đầu tư sản

xuất kinh doanh, cung cấp hàng hóa cho xã hội mà nhu cầu vốn đầu tư vượt quá khả năng
tự tài trợ.
Có khá nhiều cách để phân loại các định chế tài chính:
Căn cứ vào đặc điểm hoạt động, trong nền kinh tế thị trường xuất hiện những loại
hình định chế tài chính chủ yếu: Ngân hàng thương mại; Các quỹ tiết kiệm; Các quỹ tín
dụng; Các công ty bảo hiểm; Các công ty tài chính; Các quỹ hỗ tương.
Căn cứ vào mức độ thực hiện chức năng trung gian, các định chế trung tài chình
được chia thành 3 loại:
• Các định chế nhận tiền gửi: hoạt động chủ yếu và thương xuyên là nhận tiền gửi
từ các tổ chức, cá nhân, sau đó sử dụng nguồn vốn này để cung cấp các khoản nợ (các
ngân hàng thương mại; các tổ chức tiết kiệm; các hiệp hội cho vay và tiết kiệm; các ngân
hàng tiết kiệm hỗ tương,…).
• Các định chế tiết kiệm theo hợp đồng: thu nhận vốn theo định kỳ trên cơ sở hợp
đồng thỏa thuận với khách hàng và đầu tư chúng vào thị trường vốn dưới các loại tài sản
tài chính dài hạn như: chứng khoán vốn và chứng khoán nợ (các công ty bảo hiệm nhân
thọ; các công ty bảo hiểm tai nạn và tài sản; các quỹ hưu trí,…).
• Các định chế trung gian đầu tư: thực hiện huy động vốn trên thị trường rất đa
dạng bằng cách phát hành các loại chứng từ có giá như tín phiếu, trái phiếu, sau đó mua
danh mục đầu tư trên thị trường tài chính. Đặc trưng của các tổ chức này là huy động vốn
trung dài hạn để đầu tư vào các lĩnh vực chuyên môn hóa mà họ có lợi thế để giảm áp lực
cạnh tranh từ phía ngân hàng (các loại quỹ đầu tư/quỹ tương hỗ; các quỹ hỗ tương thị
trường tài chính; các công ty tài chính,…).
Ngoài ra các định chế tài chính còn bao gồm cả các công ty chứng khoán, các
ngân hàng chỉ định thanh toán; các ngân hàng lưu ký chứng khoán; các công ty quản lý
quỹ đầu tư; các công ty niêm yết và các cơ quan của nhà nước thành lập để giám sát hệ
thống tài chính quốc gia như: Ngân hàng trung ương; Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước;…
Nhóm 4 Trang 11
Lý thuyết tài chính tiền tệ
1.1.2.3. Cơ sở hạ tầng tài chính:
Cơ sở hạ tầng tài chính là khuôn khổ các luật lệ làm nền tảng để các doanh nghiệp,

nhà đầu tư, cá nhân lập kế hoạch và thực hiện các giao dịch tài chính với các trung gian
tài chính. Cơ sở hạ tầng tài chính hỗ trợ và thúc đẩy sự hoạt động hiệu quả của hệ thống
tài chính:
Các thành phần của cơ sở hạ tầng tài chính gồm:
• Hệ thống luật pháp và quản lý nhà nước: là các văn bản , quy định do nhà nước
ban hành liên quan đến các hoạt động tài chính nhằm đảm bảo thị trường vận hành đúng
định hướng kinh tế - xã hội đã đề ra, đồng thời bảo vệ hệ thống tài chính khỏi những tiêu
cực khách quan hay chủ quan có thể dẫn đến tổn thất cho các chủ thể tham gia và gây
khủng hoảng kinh tế như: Luật Ngân sách Nhà nước, Luật Ngân hàng Nhà nước, Luật
các Tổ chức tín dụng, Luật Kinh doanh bảo hiểm, Luật Chứng khoán,…
• Hệ thống giám sát: là các hoạt động thanh tra, kiểm tra và là quy trình và các
chuẩn mực, chỉ tiêu, định mức để tiến hành giám sát hệ thống tài chính nhằm mục đích
phát hiện các sai sót, gian lận, các hành vi vi phạm pháp luật. Đồng thời còn là để nhìn
nhận rõ hơn các rủi ro đang tồn tại
• Hệ thống thông tin: là các quy định, các luật hay thông lệ liên quan đến kế toán,
kiểm và các tổ chức trong nên kinh tế (tiêu biểu như trung tâm thông tin tín dụng (CIC)
của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam) thực hiện chức năng thu thập, xử lý, tổng hợp thông
tin về các chủ thể, vấn đề trong hệ thống tài chính đảm bảo tính minh bạch cũng như sực
khỏe của hệ thống tài chính, góp phần hạn chế tình trạng bất cân xứng thông tin.
• Hệ thống thanh toán và Hệ thống dịch vụ chứng khoán: bao hàm các phương
tiện, cơ sở vật chất công nghệ kỹ thuật hiện đại phối hợp với các dịch vụ do một số chủ
thể trong nền kinh tế cung cấp (hệ thống thanh toán liên ngân hàng, hệ thống vi tính tự
động khớp lệnh trên thị trường chứng khoán, các dịch vụ và thiệt bị công nghệ để phục
vụ chuyển tiền, rút tiền, thanh toán tại các ngân hàng thương mại,…) để rút ngắn chu
trình giao dịch trong hệ thống tài chính, đem đến sự tiện ích, hiện đại, kịp thời đáp ứng
mục địch của các chủ thể kinh tế - xã hội, nâng cao hiệu quả hoạt động của nền kinh tế
nói chung.
Nhóm 4 Trang 12
Lý thuyết tài chính tiền tệ
• Nguồn nhân lực: Hệ thống tài chính cũng như các lĩnh vực khác trong cuộc sống

đều chịu sự chi phối của con người, chỉ tồn tại khi có con người và vì mục đích của con
người. Đề hệ thống tài chính hoạt động tốt tất yếu cần phải có nguồn nhân lực dồi dào
lành nghề, am hiểu về lĩnh vực tài chính, có kỹ năng nắm bắt tình hình, dự báo, tính toán
được các rủi ro và có khả năng ứng phó kịp thời với những tình huống bất ngờ có thể xảy
ra. Đó là các nhà phân tích tài chính, các nhà nghiên cứu, sáng tạo ra các sản phẩm mới
với những tính năng ngày càng ưu việt hơn cho thị trường cùng những nhân viên, cán bộ
chuyên nghiệp thấu hiểu về các nghiêp vụ tài chính giúp vận hành các định chế tài chính
một cách hiệu quả, cạnh tranh nhất góp phần tạo sự năng động cho thị trường.
1.1.3. Vai trò của hệ thống tài chính:
1.1.3.1. Cầu nối giữa tiết kiệm và đầu tư:
Hệ thống tài chính bao gồm những định chế tài chính giúp cho tiết kiệm của người
này ăn khớp với đầu tư của người khác. Tiết kiệm và đầu tư là những nhân tố cơ bản
quyết định tăng trưởng kinh tế dài hạn. Khi một nước tiết kiệm phần lớn GDP của mình,
thì nó có nhiều nguồn lực để đầu tư vào tư bản, và khối lượng tư bản lớn hơn làm tăng
năng suất và mức sống.
Nói theo cách chung nhất, hệ thống tài chính có chức năng chuyển các nguồn lực
khan hiếm của nền kinh tế từ người tiết kiệm (những người chi tiêu ít hơn thu nhập) tới
người đi vay (những người chi tiêu nhiều hơn thu nhập). Người ta tiết kiệm vì nhiều lý
do: chuẩn bị tiền bạc cho con cái vào học đại học trong mấy năm tới hoặc dành dụm cho
buổi xế chiều trong vài chục năm nữa. Tương tự như thế, người ta vay tiền vì nhiều lý do:
mua một căn hộ để ởhoặc mở một doanh nghiệp vì kế sinh nhai. Tại bất cứ thời điểm nào
cũng có người muốn tiết kiệm một phần thu nhập để dành cho tương lai, đồng thời lại có
người muốn vay tiền để đầu tư vào các doanh nghiệp mới và mở rộng sản xuất. Và chỉ
khi có hệ thống tài chính các chủ thể này mới thỏa mãn các nhu cầu của mình. Người tiết
kiệm cung ứng tiền của họ cho hệ thống tài chính với hy vọng sẽ nhận lại khoản tiền gốc
cùng với tiền lãi vào một ngày trong tương lai. Người đi vay có nhu cầu về tiền từ hệ
thống tài chính với nhận thức rằng họ phải hoàn trả cả gốc lẫn lãi vào một ngày trong
tương lai.
Nhóm 4 Trang 13
Lý thuyết tài chính tiền tệ

1.1.3.2. Sàng lọc, chuyển giao và phân tán rủi ro:
Hệ thống tài chính với sự hoạt động của các tổ chức quản lý, giám sát, điều hành
hệ thống tài chính cùng với cở sở hạ tầng pháp lý kỹ thuật sẽ sang lọc, chuyển giao và
phân tán rủi ro.
Sự luân chuyển từ người có vốn sang người cần vốn tạo ra lợi nhuận nhưng đồng
thời mang lại rủi ro nhất định cho họ. Tùy theo sự luân chuyển gián tiếp hay trực tiếp, tùy
theo thời gian luân chuyển vốn cũng như cách thức luân chuyển sẽ mang lại cho người có
vốn rủi ro cao hay thấp. Các tổ chức quản lý sẽ sàng lọc giúp cho nguồn vốn được đảm
bảo tin cậy. Các tổ chức giám sát cùng với cơ sở hạ tầng kỹ thuật pháp lý sẽ đảm bảo
nguồn vốn được chuyển giao đến các nhà đầu tư một cách dễ dàng và chuẩn xác nhất, từ
đó nhà đầu tư lựa chọn được những kênh dẫn vốn an toàn, hạn chế bớt rủi ro gặp phải.
Đối với các nguồn vốn đã được đầu tư nếu tiềm ẩn rủi ro lớn, người có vốn có thể phân
tán rủi ro thông qua các công cụ của hệ thống tài chính như công cụ tài chính phái sinh,
bảo hiểm kỳ hạn,…
1.1.3.3. Vận hành hệ thống thanh toán:
Nhóm 4 Trang 14
Tài chính trung gian
Tài chính trực tiếp
Lý thuyết tài chính tiền tệ
Khi tồn tại hệ thống tài chính, vấn đề thanh toán sẽ trở nên dễ dàng và nhanh
chóng hơn. Vì lúc này các định chế tài chính đã trở thành đầu mối quản lý quỹ tiền tệ,
thay mặt các chủ thể phụ trách việc thu chi bằng tiền mặt hay bút tệ. Qua đó góp phần
làm giảm chi phí giao dịch, an toàn trong thanh toán sẽ được nâng cao, tránh được các
vấn đề bị đánh cướp hay tiền giả đồng thời kiểm soát được các hoạt động mua bán thu chi
trái phép. Ngoài ra thị trường tài chính sẽ tạo nên tính thanh khoản cho tài sản tài chính
mà các chủ thể trong nền kinh tế đang nắm giữ, giúp cho họ có thể nhanh chóng chuyển
đổi các tài sản này thành tiền hoặc chuyển giao quyền sở hữu để kịp thời thanh toán các
khoản nợ đến hạn, giảm đáng kể thời gian thu nợ cũng như tìm kiếm nguồn tiền chi trả
trong xã hội.
1.1.3.4. Giám sát doanh nghiệp:

Hệ thống tài chính qua phân bổ tài chính sẽ giám sát được hoạt động tạo lập và sử
dụng vốn của các chủ thể. Hệ thống tài chính với khả năng cung cấp thông tin kịp thời sẽ
giúp cho người có vốn giám sát được các hoạt động của doannh nghiệp từ đó buộc doanh
nghiệp phải tuân thủ những cam kết mà họ đã đưa ra trong khi huy động vốn, giảm bớt
được sự bất cân xứng thông tin và nâng cao năng lực quản trị doanh nghiệp. Bên cạnh
việc giám sát quá trinh sử dụng vốn, hệ thống tài chính với các hệ thống đa dạng cũng
giúp giám sát quá trình tạo lập vốn, giúp cho các chủ thể đưa ra quyết định của mình.
1.2. CÁC TRƯỜNG PHÁI KINH TẾ GẮN LIỀN VỚI CÁC DẠNG HỆ
THỐNG TÀI CHÍNH CƠ BẢN:
1.1.4. Mô hình kinh tế cổ điển – Đại diện cho hệ thống tài chính không có sự
can thiệp của chính phủ:
Trường phái Kinh tế học cổ điển hay Kinh tế chính trị cổ điển là một trong những
xu hướng tư tưởng kinh tế tiến bộ, đã để lại dấu ấn sâu sắc trong lịch sử phát triển các
luận thuyết kinh tế. Nhiều quan điểm chủ đạo của trường phái này vẫn còn lưu giữ ý
nghĩa đến tận ngày nay. Xu hướng tư tưởng của trường phái cổ điển bắt đầu xuất hiện từ
thế kỷ 17 và phát triển mạnh mẽ vào thế kỷ 18 đến nửa cuối thế kỷ 19.
Người đại diện đầu tiên và được xem là ông tổ của kinh tế cổ điển là William
Petty (1623 – 1687), người Anh. Những công trình khoa học của ông chuyên về lĩnh vực
Nhóm 4 Trang 15
Lý thuyết tài chính tiền tệ
thuế, hải quan và thống kê. Là người được K. Marx đánh giá cao qua các phát minh khoa
học kinh tế.
Bên cạnh William Petty, ta không thể không nhắc đến những tên tuổi lớn của
trường phái này gồm Adam Smith (1723-1790), David Ricardo (1772-1823), Thomas
Malthus (1766-1834), John Stuart Mill (1806-1873). Quan điểm về khoa học kinh tế của
họ, giống như các nhà nghiên cứu trước đó, là khoa học về sự giàu có và cách thức nhân
rộng của cải lên.
1.1.4.1. Các đặc điểm của trường phái:
Không công nhận chính sách bảo hộ mậu dịch của nhà nước và chú trọng phân
tích các vấn đề của lĩnh vực sản xuất trong sự tách biệt khỏi lĩnh vực giao thương; đề

xuất và áp dụng các phương pháp nghiên cứu tiến bộ như phương pháp nguyên nhân-hậu
quả, suy diễn, quy nạp, logic trừu tượng. Tuy nhiên, việc đặt ra sự đối nghịch giữa hai
lĩnh vực sản xuất và giao thương đã làm cho các nhà kinh tế học cổ điển đánh giá không
đầy đủ những liên quan mật thiết giữa hai lĩnh vực đó, trong đó có ảnh hưởng của các yếu
tố giao thương lên quá trình sản xuất.
Dựa trên phương pháp phân tích nguyên nhân-hậu quả, tính toán các chỉ số kinh tế
trung bình, các nhà “cổ điển” tìm cách làm sáng tỏ cơ cấu hình thành giá trị hàng hóa. Họ
cho rằng dao động của giá cả trên thị trường không liên quan đến “bản chất tự nhiên” của
tiền và số lượng của chúng, mà liên quan đến các chi phí sản xuất, hay nói cách khác, đến
số lượng lao động bỏ ra.
Phạm trù giá trị vào thời đó được đánh giá là mấu chốt của phân tích kinh tế, là
gốc rễ để nảy mầm các phạm trù khác. Vấn đề giá trị hàm chứa các câu hỏi như sau: giá
trị biểu hiện giống như một hiện tượng và các dạng thức của nó thế nào? Cơ sở, nguồn
gốc hay nguyên nhân nào của giá trị? Giá trị có đại lượng hay không và cách xác định đại
lượng đó như thế nào? Cái gì có thể dùng để đo giá trị? Giá trị thực hiện chức năng nào
trong lý thuyết kinh tế? Ngoài ra, việc đơn giản hóa phân tích và hệ thống hóa đã làm cho
khoa học kinh tế hướng đến phát minh các quy luật mang tính cơ học, tương tự như trong
vật lý học, nghĩa là không tính đến các yếu tố tâm lý, đạo đức, luật pháp và các yếu tố xã
hội khác.
Nhóm 4 Trang 16
Lý thuyết tài chính tiền tệ
Tăng trưởng kinh tế và phồn thịnh xã hội được cho là không phải dựa vào nguyên
tắc xuất siêu, mà là sự năng động và cân bằng trạng thái nền kinh tế quốc gia. Trong vấn
đề này các nhà “cổ điển” không vận dụng các phương pháp phân tích toán học hay mô
hình toán học để có thể chọn ra phương án tối ưu trong số các phương án về tình trạng
kinh tế. Trường phái cổ điển cho rằng cân bằng trong kinh tế là có thể đạt được một cách
tự động theo quy luật thị trường của Jean-Baptiste Say
Từ lâu tiền tệ được cho là của con người tạo ra một cách chủ ý. Đến giai đoạn của
trường phái cổ điển tiền tệ được cho là một dạng hàng hóa tách biệt từ trong thế giới hàng
hóa, và chúng không thể bị thay thế bởi những thỏa thuận giữa mọi người. Tuy nhiên,

chức năng của tiền chỉ được đánh giá là phương tiện trao đổi mang tính kỹ thuật.
1.1.4.2. Các nguyên lý cơ bản:
Con người chỉ được xem xét trên phương diện kinh tế với một nguyện vọng duy
nhất: hướng đến lợi ích tư hữu để nâng cao vị thế của mình. Đạo đức, văn hóa, truyền
thống và nhiều thứ khác không nằm trong tầm quan sát.
Mọi chủ thể tham gia vào quá trình kinh tế đều tự do và công bằng trước pháp
luật, kể cả trên phương diện khả năng tiên liệu trước các vấn đề kinh tế.
Mọi chủ thể kinh tế đều nhận được thông tin đầy đủ về giá cả, mức lợi nhuận, tiền
công lao động, giá thuê đất ở bất kỳ thị trường nào, ngay tại thời điểm hiện tại hay trong
tương lai.
Thị trường đảm bảo ổn định tài nguyên: lao động và vốn có thể lập tức được đáp
ứng tại nơi cần chúng.
Độ đàn hồi của lượng lao động theo giá tiền lương là không dưới 1, nghĩa là tiền
công lao động tăng kéo theo tăng số lượng lao động; ngược lại, tiền công giảm thì lượng
lao động cũng giảm.
Mục đích duy nhất của nhà tư bản là tối đa lợi nhuận từ vốn.
Trên thị trường lao động tồn tại sự mềm dẻo tuyệt đối của tiền công lao động,
nghĩa là giá lao động chỉ được xác định bởi cung và cầu của thị trường lao động.
Yếu tố quan trọng làm tăng số lượng của cải là tích lũy tư bản.
Nhóm 4 Trang 17
Lý thuyết tài chính tiền tệ
Cạnh tranh phải là hoàn hảo, và nền kinh tế phải là hoàn toàn giải phóng khỏi sự
can thiệp nhà nước, ở đó “bàn tay vô hình” sẽ điều phối tài nguyên một cách tối ưu.
Như vậy có thể thấy, trường phái kinh tế học cổ điển đã nhấn mạnh đến mô hình
hệ thống tài chính độc lập, đề cao sự vận động khách quan của cung cầu, sự tự điều tiết
của “bàn tay vô hình” và hoàn toàn bác bỏ vai trò của chính phủ trong nền kinh tế.
1.1.5. Trường phái kinh tế học Keynes – đại diện cho hệ thống tài chính có sự
can thiệp triệt để của Chính phủ:
Kinh tế học Keynes là hệ thống lý luận kinh tế vĩ mô lấy tác phẩm Lý thuyết tổng
quát về việc làm, lãi suất và tiền tệ (thường được gọi tắt là Lý thuyết tổng quát) của John

Maynard Keynes (1883-1948) làm trung tâm và lấy nguyên lý cầu hữu hiệu làm nền tảng.
Nguyên lý cầu hữu hiệu khẳng định rằng, lượng cung hàng hóa là do lượng cầu quyết
định. Do đó, vào những thời kỳ suy thoái kinh tế, nếu tăng lượng cầu đầu tư hàng hóa
công cộng (tăng chi tiêu công cộng), thì sản xuất và việc làm sẽ tăng theo, nhờ đó giúp
cho nền kinh tế ra khỏi thời kỳ suy thoái.
1.1.5.1. Các đặc điểm của trường phái:
Trong quan điểm của mình Keynes đã đưa ra một số luận hoàn toàn trái ngược với
trường phái kinh tế học cổ điển như:
• Tiền công có tính cứng nhắc.
• Kỳ vọng về giảm tiền công và giá cả tạo ra vòng xoáy đi xuống của nền kinh tế
hình thành.
• Lãi suất giảm không nhất thiết dẫn tới đầu tư tăng.
• Cái quy định lãi suất, nhất là trong ngắn hạn, chính là cung và cầu về tiền.
• Lãi suất không nên xuống thấp hơn một mức nào đó.
• Có thể đạt được mức cân bằng ngay cả khi có thất nghiệp.
• Thắt chặt chi tiêu trong thời kỳ khủng hoảng chỉ làm cho khủng hoảng thêm trầm
trọng.
Keynes đã đưa ra phương pháp phân tích vĩ mô (tức là phân tích kinh tế xuất phát
từ những tổng lượng lớn để nghiên cứu mối liên hệ và khuynh hướng của chúng nhằm
tìm ra công cụ tác động vào khuynh hướng, làm thay đổi tổng lượng).
Đưa ra mô hình kinh tế vĩ mô với 3 đại lượng:
Nhóm 4 Trang 18
Lý thuyết tài chính tiền tệ
• Một là, đại lượng xuất phát (bao gồm nguồn vật chất như tư liệu sản xuất, sức lao
động, mức độ trang bị kĩ thuật của sản xuất, trình độ chuyên môn hóa của người lao
động, cơ cấu của chế độ xã hội). Là đại lượng không thay đổi hay thay đổi chậm chạp.
• Hai là, đại lượng khả biến độc lập (là những khuynh hướng tâm lý như tiêu dùng,
đầu tư, ưa chuộng tiền mặt, ). Là cơ sở hoạt động của mô hình, là đòn bẩy bảo đảm sự
hoạt động của tổ chức kinh tế tư bản chủ nghĩa.
• Ba là, đại lượng khả biến phụ thuộc (là các chỉ tiêu quan trọng cấu thành nền kinh

tế tư bản chủ nghĩa, cụ thể hóa tính trạng nền kinh tế như: khối lượng việc làm, thu nhập
quốc dân, đơn vị tiền công) có sự thay đổi theo sự tác động của các biến số độc lập.
1.1.5.2. Các nguyên lý cơ bản:
Nhà nước phải can thiệp vào kinh tế.
Lý giải: khủng hoảng kinh tế, thất nghiệp là do chính sách kinh tế lỗi thời, bảo thủ,
thiếu sự can thiệp của Nhà nước (không phải do nội sinh của chủ nghĩa tư bản).
Vị trí trung tâm trong lý thuyết của Keynes là lý thuyết về việc làm vì theo ông
vấn đề quan trọng và nguy hiểm nhất đối với chủ nghĩa tư bản là khối lượng thất nghiệp
và việc làm.
Keynes biểu hiện lợi ích và là công trình sư của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà
nước.
Như vậy, trường phái Keynes đã bác bỏ cách lí giải cổ điển về sự tự điều chỉnh
của nền kinh tế, không đồng ý với phái cổ điển về sự cân bằng kinh tế dựa trên cơ sở tự
điều tiết của thị trường, đề cao vai trò của Chính phủ trong điều tiết, giám sát tài chính.
1.1.6. Trường phái kinh tế học tự do mới – Đại diện cho mô hình giảm, sát tài
chính linh hoạt tôn trọng sự tự do, khách quan của thị trường nhưng vẫn
sự giám sát đúng mức:
1.1.6.1. Hoàn cảnh lịch sử xuất hiện:
Trước cuộc đại suy thoái bắt đầu sau sự sụp đổ của thị trường chứng khoán phố
Wall vào ngày 29/10/1929, rất nhiều thế hệ nghiên cứu kinh tế đã bị thuyết phục bởi khái
niệm “bàn tay vô hình” do Adam Smith đề xướng, nêu cao tính tự do vận động của nền
kinh tế - quy luật kinh tế khách quan. Nhưng từ sau cuộc đại khủng hoảng, người ta đã
Nhóm 4 Trang 19
Lý thuyết tài chính tiền tệ
bắt đầu hồ nghi về khái niệm này khi thất nghiệp bắt buộc gia tăng trên diện rộng – Một
điều mà mô hình cổ điển cho rằng không thể xảy ra.
Vào lúc đó Keynes với lý luận của mình đã đưa ra các tiên đề hoàn toàn trái ngược
với các nhà kinh tế cổ điển rằng nên kinh tế hoạt động trong điều kiện cạnh tranh không
hoàn hảo và đề cao vai trò của nhà nước trong quản lý nền kinh tế vĩ mô, coi chính sách
tổng cầu là phương pháp hữu hiệu để ổn định nền kinh tế vĩ mô và đạt được tăng trưởng

kinh tế. Tuy nhiên mô hình của ông lại không giải thích được hiện tượng nền kinh tế vừa
suy thoái, vừa lạm phát cao.
Và rồi từ giữa những năm 70 của thế kỷ XX, hệ thống kinh tế tư bản chủ nghĩa lại
lâm vào cuộc khủng hoảng lớn do đó bộc lộ sự bất lực của các chính sách kinh tế của
Nhà nước tư sản dựa trên học thuyết của trường phái Keynes. Tất yếu đã dẫn đến sự xuất
hiện của khuynh hướng phê phán học thuyết này và do đó phục hồi tư tưởng tự do kinh tế
nhưng có sửa đổi để thích ứng với tình hình mới.
1.1.6.2. Đặc điểm của trường phái kinh tế tự do mới:
Chủ nghĩa tự do mới: dựa trên nền tảng lập trường tự do tư sản cổ điển đồng thời
lại muốn áp dụng và kết hợp quan điểm của trường phái Keynes, trường phái trọng
thương ở mức độ nhất định để hình thành hệ tư tưởng mới điều tiết nền kinh tế tư bản chủ
nghĩa.
Tư tưởng cơ bản của học thuyết kinh tế trường phái tự do mới là: Cơ chế thị
trường có sự điều tiết của Nhà nước ở mức độ nhất định (ủng hộ tự do kinh doanh nhưng
thừa nhận sự điều tiết nhất định của Nhà nước, khẩu hiệu: “Tự do kinh doanh nhiều hơn,
thị trường nhiều hơn, Nhà nước can thiệp ít hơn”).
Trong việc lí giải các hiện tượng và qua trình kinh tế trường phái này nhấn mạnh
yếu tố tâm lý cá nhân trong việc qui định sản xuất và tiêu dùng, đồng thời sử dụng các
công cụ toán học để chứng minh cho lý thuyết của mình.
Trường phái kinh tế của chủ nghĩa tự do mới phát triển rộng rãi ở các nước tư bản
với màu sắc khác nhau, tên gọi khác nhau. Ví dụ: chủ nghĩa cá nhân mới (Anh), chủ
nghĩa bảo thủ mới (Mỹ), nền kinh tế thị trường xã hội (Đức),
Nhóm 4 Trang 20
Lý thuyết tài chính tiền tệ
1.1.6.3. Một số lý thuyết tiêu biểu:
Lý thuyết về nền kinh tế thị trường xã hội ở CHLB Đức:
Nền kinh tế thị trường xã hội: là một nền kinh tế thị trường kết hợp tự do cá
nhân, năng lực hoạt động kinh tế với công bằng xã hội.
Nền kinh tế thị trường xã hội không phải là nền kinh tế thị trường tư bản truyền
thống (cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20), không phải là nền kinh tế kế hoạch hoá ở các nước

xã hội chủ nghĩa trước đây, cũng không phải là nền kinh tế thị trường hiện đại của trào
lưu tự do mới vì trào lưu này quá coi nhẹ vai trò của nhà nước và các vấn đề xã hội.
Đây là nền kinh tế thị trường kích thích mạnh mẽ sáng kiến các nhân và lợi ích
toàn xã hội, đồng thời phòng tránh được các khuyết tật lớn của thị trường, chống lạm
phát, giảm thất nghiệp, quan tâm thực hiện công bằng xã hội. Các quyết đinh kinh tế và
chính trị của nhà nước được hoạch định trên cơ sở chú ý đến những nhu cầu và nguyện
vọng cá nhân.
Mô hình này theo đuổi các mục tiêu:
• Bảo đảm và nâng cao tự do về vật chất cho mọi công dân bằng cách bảo đảm cơ
hội kinh doanh cá thể bằng một hệ thống an toàn xã hội.
• Thực hiện công bằng xã hội theo nghĩa là công bằng trong khởi nghiệp và phân
phối.
• Bảo đảm ổn định bên trong của xã hội (khắc phục khủng hoảng kinh tế, mất cân
đối).
Tư tưởng trung tâm của mô hình là:
• Tự do thị trường, tự do kinh doanh, không có sự khống chế của độc quyền, bảo vệ
quyền sở hữu tư nhân, bảo vệ hệ thống kinh tế tư bản chủ nghĩa, tính độc lập kinh tế và
chịu trách nhiệm của chủ doanh nghiệp, thừa nhận vai trò nhất định của Nhà nước (để
đảm bảo phối hợp sự tự do kinh tế với các quy tắc và chuẩn mực xã hội).
• Được tổ chức theo kiểu “sân bóng đá” (Ropke và Erhard nêu ra) Trong đó:
 Xã hội là một sân bóng đá
 Các giai cấp và tầng lớp xã hội là các cầu thủ
 Nhà nước là trọng tài, đóng vai trò bảo đảm cho trận đấu diễn ra theo
luật, tránh khỏi những tai họa.
Nhóm 4 Trang 21
Lý thuyết tài chính tiền tệ
• Các tiêu chuẩn của nền kinh tế thị trường xã hội:
• Thứ nhất, tuyệt đối đảm bảo quyền tự do cá nhân.
• Thứ hai, bảo đảm công bằng xã hội thông qua các chính sách xã hội của nhà nước.
• Thứ ba, chính sách kinh doanh theo chu kỳ. Nhà nước phải có chính sách khắc

phục hậu quả của khủng hoảng chu kỳ, điều chỉnh mất cân đối.
• Thứ tư, chính sách tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội
• Thứ năm, chính sách cơ cấu. Được coi là tiêu chuẩn đặc trưng, hạt nhân trong
chính sách tăng trưởng. (Vấn đề chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo yêu cầu cách mạng khoa
học công nghệ, đào tạo con người, ).
• Thứ sáu, bảo đảm tính phù hợp với cạnh tranh trên thị trường, ngăn ngừa sự phá
vỡ hay hạn chế cạnh tranh quá mức trên thị trường
Ngày nay, lý thuyết này được phát triển thành lý thuyết “Xã hội có tổ chức”,
“Xã hội phúc lợi chung”.
Các chức năng của cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường - xã hội:
Cạnh tranh là yếu tố trung tâm không thể thiếu, để có hiệu quả phải có sự bảo hộ
của Nhà nước trên cơ sở tôn trọng quyền tự do của các xí nghiệp.
Chức năng cơ bản của cạnh tranh là:
• Sử dụng các nguồn tài nguyên một cách tối ưu
• Khuyến khích tiến bộ kĩ thuật
• Phân phối thu nhập
• Thỏa mãn nhu cầu người tiêu dùng
• Đảm bảo tính linh hoạt của sự điều chỉnh
• Thực hiện kiểm soát sức mạnh kinh tế và chính trị
• Đảm bảo quyền tự do lựa chọn và hành động cá nhân.
Các nhân tố đe dọa cạnh tranh là:
• Từ chính phủ: có thể hạn chế, bóp méo cạnh tranh, với tư cách người quản lí xã
hội sẽ làm suy yếu cạnh tranh.
• Từ phía tư nhân: về cơ bản đó là sự hình thành tổ chức độc quyền
Do đó, các nhà kinh tế học Đức cho rằng cần phải có biện pháp bảo vệ cạnh tranh.
Yếu tố xã hội trong kinh tế thị trường - xã hội được quan tâm đặc biệt với nội
dung: nâng cao mức sống của các nhóm dân cư thu nhập thấp, bảo trợ xã hội đồng thời
bảo vệ tất cả các thành viên trong xã hội. Muốn giải quyết tốt các vấn đề xã hội cần phải
Nhóm 4 Trang 22
Lý thuyết tài chính tiền tệ

tăng nhịp độ tăng trưởng kinh tế, phân phối thu nhập một cách công bằng, xây dựng hệ
thống bảo hiểm xã hội.
Vai trò của Chính phủ
Cần đảm bảo các quy tắc sau:
Quy tắc 1: Cần có Chính phủ nhưng chỉ cần can thiệp khi cần thiết với mức độ
hợp lí (Nguyên tắc hỗ trợ).
Quy tắc 2: Tạo sự hài hòa giữa các chức năng của Chính phủ với thị trường, can
thiệp phải thích hợp với hệ thống thị trường, bảo đảm tương hợp với các quy luật thị
trường.
Các lý thuyết kinh tế của chủ nghĩa tự do mới ở Mỹ:
• Lý thuyết trọng tiền:
Nội dung lý thuyết cho rằng:
Thứ nhất, mức cung tiền tệ là nhân tố quyết đinh đến việc tăng sản lượng quốc gia
và do đó ảnh hưởng đến việc làm, giá cả (các biến số của kinh tế vĩ mô). Suy thoái và lạm
phát cao là do nhà nước cung quá ít hoặc quá nhiều tiền cho nền kinh tế.
Cụ thể: tiền cung ứng tăng nhanh hơn mức thu nhập thì dân cư sẽ chi tiêu ngay số
tiền đó là cầu tiêu dùng tăng dẫn đến tăng giá và lạm phát. Ngược lại, tiền cung ứng ít
hơn mức cần thiết thì chi tiêu giảm, tổng cầu giảm, hàng hóa bán ra chậm, dẫn đến trì trệ,
thu hẹp sản xuất, hiện tượng suy thoái kinh tế và thất nghiệp xảy ra.
Tóm lại: biến động trong cung ứng tiền tệ sẽ dẫn đến biến động trong thu nhập,
trong hoạt động sản xuất kinh doanh và giá cả cùng với những biến động trong cơ cấu
kinh tế và cạnh tranh, dẫn tới chu kì kinh doanh (khủng hoảng kinh tế).
Có thể tác động vào chu kì kinh tế tư bản chủ nghĩa bằng việc chủ động điều tiết
mức cung tiền tệ. Việc điều tiết này do Nhà nước thực hiện thông qua ngân hàng trung
ương. Hiệu quả phụ thuộc vào trình độ và năng lực của Nhà nước.
Thứ hai, giá cả phụ thuộc vào khối lượng tiền tệ trong lưu thông nên có thể thông
qua chính sách tiền tệ để ổn định giá cả, chống lạm phát.
Nhóm 4 Trang 23
Lý thuyết tài chính tiền tệ
Vì V có tính ổn định, Q không phụ thuộc hoặc phụ thuộc rất ít vào M.

Nên M thay đổi tác động trực tiếp đến P, do đó tác động đến giá cả, lạm phát và sự
phát triển kinh tế.
Chủ trương ưu tiên chống lạm phát hơn là chống thất nghiệp (Thậm chí có thể
chấp nhận tỉ lệ thất nghiệp cao để ngăn ngừa lạm phát), lạm phát là căn bệnh nan giải của
xã hội chứ không phải thất nghiệp.
Chỉ có chính sách tiền tệ mới giữ vai trò chủ đạo tác động đến ổn định và phát
triển kinh tế (không phải là các chính sách tài khóa như thuế và chi tiêu), trái với Keynes.
Tư tưởng điều tiết tiền tệ (Friedman) là: chủ động điều tiết mức cung tiền tệ trong
từng thời kì phát triển, trong thời kì khủng hoảng kinh tế nên tăng khối lượng tiền tệ,
trong thời kì ổn định nên giảm mức cung tiền tệ. Nhìn chung giữ mức cung của tiền tăng
với tỉ lệ ổn định (3 - 4% / năm).
Thứ ba, ủng hộ và bảo vệ quan điểm tự do kinh doanh, ủng hộ chế độ tư hữu, bảo
vệ quyền tự do hoạt động của doanh nghiệp. Nhà nước không nên can thiệp nhiều vào
kinh tế (chỉ giới hạn ở điều chỉnh mức cung tiền tệ, điều tiết lưu thông tiền tệ để ngăn
chặn lạm phát).
• Lý thuyết trọng cung:
Lý thuyết này xuất hiện ở Mỹ vào năm 1980, biểu hiện rõ sự đối lập với những tư
tưởng trọng cầu của Keynes. Nội dung của lý thuyết cho rằng:
Khối lượng sản xuất là kết quả của chi phí sản xuất, phản ánh kết quả hoạt động
kinh tế. Chi phí này mang lại kích thích kinh tế: chi phí sản xuất tăng thì khối lượng sản
xuất càng lớn ⇒ cung tăng sẽ tạo ra cầu mới, cơ chế thị trường tự điều tiết sẽ dẫn tới cân
Nhóm 4 Trang 24
Lý thuyết tài chính tiền tệ
bằng cung cầu. Sự điều tiết của chính phủ sẽ làm biến dạng cung cầu. Nhà nước (Chính
phủ) có nhiệm vụ là xây dựng các điều kiện để các yếu tố kích thích kinh tế xuất hiện,
nền kinh tế sẽ đạt được trạng thái lí tưởng.
 Khuyến khích nâng cao khối lượng và hiệu quả sản xuất.
 Tôn trọng tính chủ động của giới chủ, giảm tới mức tối đa sự can thiệp
của Nhà nước - Nguyên tắc: Đề cao lợi ích của khu vực tư nhân.
 Xem cạnh tranh là yếu tố cần thiết (tự do cạnh tranh).

Tiết kiệm là yêu cầu của mọi nền kinh tế. Muốn phát triển kinh tế không phải ở
chỗ kích thích cầu mà phải tăng năng suất lao động bằng con dường kích thích lao động,
đầu tư và tiết kiệm. Không có tiết kiệm sẽ không có bất kì sự tăng trưởng nào. (Phủ nhận
quan điểm của Keynes đã coi tiết kiệm như là nguồn gốc của sản xuất thừa, phủ nhận
việc kích thích cầu).
Sự tác động vào tổng cung sẽ tạo ra những thế năng cho những mục tiêu ổn định
dài hạn và việc hoạch định chính sách của Nhà nước chỉ mang lại hiệu quả cao khi nhằm
vào các mục tiêu ổn định dài hạn.
Các nhân tố ảnh hưởng đến tổng cung của nền kinh tế là:
 Lao động: số lượng, chất lượng người lao động.
 Vốn: khai thác và sử dụng triệt để mọi nguồn vốn.
 Tiến bộ kĩ thuật: cải tiến kĩ thuật, áp dụng khoa học, công nghệ mới.
Đây là yếu tố phải quan tâm hàng đầu nhằm khai thác một cách tối ưu.
Cần giảm thuế: sẽ tăng được tiết kiệm và đầu tư, kích thích sản xuất kinh doanh và
cải tiến kĩ thuật, từ đó tăng sản phẩm và lợi nhuận, do đó không giảm thu ngân sách mà
làm cho tăng (tổng thu về thuế tăng). (Phê phán chính sách thuế cao của Keynes).
Công cụ chủ yếu để phân tích kinh tế là lí thuyết đường cong Laffer thể hiện mối
quan hệ giữa thu nhập và mức thuế.
Tóm lại, cần có chính sách thuế hợp lí, mức thuế phù hợp.
Đánh giá chung về trường phái kinh tế tự do mới:
• Những tiến bộ:
Các lý thuyết kinh tế của chủ nghĩa tự do mới đều nhận thấy những hạn chế của cơ
chế thị trường tự do cạnh tranh (nhất là lạm phát, thất nghiệp, bất công xã hội, khủng
Nhóm 4 Trang 25

×