Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

Lợi ích các bên thông qua đối thoại thương lượng thực tế tồn tại của thực trạng này ở các doanh nghiệp việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (144.58 KB, 19 trang )

Đề tài 3:Lợi ích các bên thông qua đối thoại thương lượng.
Thực tế tồn tại của thực trạng này ở các doanh nghiệp Việt
Nam.
I. Lợi ích các bên thông qua đối thoại, thương lương:
* Khái niệm của đối thoại xã hội:
Đối thoại xã hội là hoạt động tương tác của các đối tác xã hội nhằm
thực hiện 3 hoạt động cơ bản là trao đổi thông tin, tư vấn/ tham khảo và
thương lượng.
Trao đổi thông tin diễn ra khi một bên đối tác công bố, thông báo, đưa ra
những thông tin mới có liên quan, tác động đến các bên đối tác khác.
Tư vấn, tham khảo: Đây là việc một bên đối tác tư vấn, tham khảo ý kiến
của các bên đối tác khác trước khi đưa ra một quyết định có liên quan đến
họ. Mục đích của hoạt động này nhằm nâng cao hiệu quả và chất lượng thực
thi quyết định.
Đối thoại xã hội xoay quanh các vấn đề mà các bên đối tác tham gia
cùng quan tâm như chính sách tiền lương, tiền thưởng phụ cấp, chính sách
bảo hiểm xã hội, vấn đề về điều kiện vịc làm, nâng cao sức cạnh tranh của
doanh nghiệp và các vấn đề khác.

* Khái niệm thương lượng:
Thương lượng là một dạng của đối thoại xã hội nhằm đạt được thỏa
thuận dẫn tới những cam kết của các bên liên quan. Các cuộc thương lượng
có thể được tiến hành trên cơ sở đối thoại hai bên hoặc ba bên.
1. Lợi ích của NLĐ thông qua đối thoại:
• Đối thoại xã hội giúp giải tỏa các căng thẳng trong quan hệ giữa
NLĐ và NSDLĐ. Nó cũng làm cho môi trường làm việc thoải mái
hơn, thân thiện hơn. Điều đó giúp NLĐ không bị các sức ép đè
nén, làm cho họ cảm thấy thoải mái hơn trong quá trình thực hiện
công việc; đồng thời tạo điều kiện cho họ có cơ hội để cải tiến, đổi
mới phương pháp làm việc. Do đó, khả năng làm việc của họ có
điều kiện phát triển.


• Thông qua đối thoại xã hội, NLĐ có thể nêu lên các quan điểm , ý
kiến cải thiện kĩ thuật, phương pháp và thao tác làm việc theo
hướng thuận lợi hơn, hiệu quả hơn. Từ đó làm tăng năng suất lao
động, tăng hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp.
* Liên hệ thực tế:
Tại Cty giày Thông Dụng, khu SX An Phú, thị xã Thuận An, Bình
Dương, công nhân (CN) thường phàn nàn vì các món ăn không hợp khẩu
vị, vệ sinh thực phẩm không đảm bảo, Rất nhiều CN góp ý thẳng với
nhà bếp nhưng nhà bếp không thay đổi. Trong đợt đối thoại trực tiếp giữa
lãnh đạo Cty và NLĐ do CĐCS tổ chức. Ngay sau đó, lãnh đạo Cty đề
nghị CĐ thành lập tổ kiểm tra và cuối cùng "Ý kiến của CN về nhà ăn
được giải quyết kịp thời đã làm CN hài lòng, an tâm làm việc và gắn bó
hơn với Cty" – anh Nguyễn Minh Tiến - Chủ tịch CĐCS Cty giày Thông
Dụng - cho biết. Tổ chức lấy ý kiến CN qua các hộp thư đặt tại dây
chuyền, xưởng sản xuất, các phiếu đề xuất được tổ trưởng thu nhận rồi
gửi về Ban Chấp hành (BCH) công đoàn, sau đó BCH tổng hợp và đề
xuất lãnh đạo Cty kịp thời giải quyết là cách làm được nhiều Cty áp
dụng.
Theo Ông Bùi Thanh Nhân - Phó Chủ tịch LĐLĐ Bình Dương - cho biết:
"Tính riêng năm 2012 đã có 116 DN FDI tổ chức. Thông qua đối thoại là
dịp để DN công khai và giải thích rõ các chính sách của DN, trực tiếp
lắng nghe các ý kiến phản ánh của NLĐ, kịp thời giải quyết các thắc mắc,
bất đồng, góp phần xây dựng mối quan hệ lao động thân thiện, ổn định và
phát triển”. Năm 2012 vừa qua CĐ các cấp cùng các ngành chức năng đã
giải quyết 3.413 đơn, bảo vệ quyền lợi cho NLĐ, đưa 454 người trở lại
làm việc, 133 người được hạ mức kỷ luật, 4.036 người được giải quyết
các quyền lợi liên quan
2. Lợi ích của NLĐ thông qua thương lượng:
• Trước khi tham gia thương lượng 2 bên NLĐ và NSDLĐ đều phải

tìm hiểu trước thông tin => NLĐ nắm bắt được thông tin của
NSDLĐ và hiểu biết hơn về luật lao động để có thể tự bảo vệ lợi
ích của mình.
• NLĐ có thể tăng khả năng giao tiếp và thuyết phục người khác,
tăng sự tự tin khi đứng trước đám đông.
• NLĐ có cơ hội thể hiện những yêu cầu hay mong muốn của mình
trong quá trình thương lượng.
• Khi thương lượng, NLĐ và NSDLĐ đứng ngang hàng và bình
đẳng.
3. Lợi ích NSDLĐ thông qua đối thoại:
• Đối thoại xã hội tạo điều kiện cho NSDLĐ kiểm soát tốt hơn
nguồn nhân lực hiện có. NSDLĐ có điều kiện biết rõ hơn thực lực
và tiềm năng của người lao động. Từ đó có thể có các cách sắp
xếp, bố trí nhằm khai thác tối đa nguồn nhân lực sẵn có trong
doanh nghiệp.
• Thông qua đối thoại xã hội, người sử dụng lao động có thể biết và
cùng người lao động giải quyết kịp thời những mâu thuẫn phát sinh
các xung đột. Góp phần quan trọng trong việc phát hiện và xử lý
các mầm mống tranh chấp lao động và các vấn đề xã hội khác, góp
phần tăng cường tính ổn định xã hội.
4. Lợi ích của NSDLĐ thông qua thương lượng:
• Sản phẩm của thương lượng là thỏa ước lao động tập thể, dựa vào
TƯLĐ tập thể NSDLĐ có thể thống nhất cách thức đãi ngộ, thời gian
làm viêc…đối với NLĐ, tránh xảy ra tranh chấp.
• Thương lương có thể giúp NSDLĐ đánh giá và sử dụng tốt hơn nguồn
nhân lực: sau thương lượng NSDLĐ có thể đánh giá năng lực của
NLĐ và khi căng thẳng giữa NLĐ và NSDLĐ được giải quyết thì sẽ
giảm bớt sức ép làm việc đối với NLĐ, tạo môi trường làm việc tốt
hơn và NLĐ sẽ làm việc với năng suất cao hơn tạo lợi nhuận cho
doanh nghiệp.

• Thương lượng góp phần rút bớt khoảng cách giữa NLĐ và NSDLĐ,
giúp cho NSDLĐ nắm được nhu cầu của NLĐ trong từng thời điểm
kịp thời để đáp ứng cho họ, tạo động lực làm việc cho nhân viên.
5. Những bất cập cụ thể ảnh hưởng tới lợi ích các bên:
5.1 Bất cập chủ quan từ chính mỗi bên:
5.1.1 Về phía NLĐ:
- Các cán bộ công đoàn cấp cơ sở hưởng lương từ chính DN nên ít ai đủ can
đảm đánh đổi thu nhập của mình để bênh vực quyền lợi cho người lao động.
Trong thực tế, vì nhiều lý do, người lao động không muốn thành lập CĐCS,
nếu thành lập thì cán bộ CĐCS lại kiêm nhiệm do người sử dụng lao động
chọn ra nhằm phục vụ cho lợi ích của mình.
- Công đoàn cấp trên của công đoàn cơ sở (CĐCS) chưa thể hiện được vai
trò cần có nên làm tăng gánh nặng trách nhiệm lên CĐCS trong việc bênh
vực quyền lợi cho NLĐ.
- Năng lực, trình độ của đội ngũ làm công tác công đoàn ở doanh nghiệp
nhiều nơi chưa đáp ứng được yêu cầu, thiếu điều kiện và cơ chế hoạt động
bảo vệ cán bộ công đoàn. Đa số cán bộ công đoàn cơ sở hoạt động không
chuyên trách, thiếu thời gian và khả năng cập nhật, phân tích thông tin liên
quan trực tiếp đến quyền lợi, nghĩa vụ và đời sống của người lao động.
5.1.2 Về phía người lao động:
- Tổ chức đại diện của người sử dụng lao động ở cấp trung ương gồm:
Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) và Liên minh Hợp tác
xã Việt Nam. Ở cấp tỉnh đều có Liên minh Hợp tác xã, nhưng vẫn còn nhiều
tỉnh, thành phố chưa có Chi nhánh Phòng Thương mại và Công nghiệp cấp
tỉnh.
- Hiệp hội các doanh nghiệp chưa hoàn toàn gắn kết với VCCI, hoạt động
chỉ mang tính chất xúc tiến thương mại và đầu tư là chủ yếu, chưa thực hiện
vai trò đại diện người sử dụng lao động trong đối thoại, thương lượng với
đại diện người lao động để tham vấn, ký kết thoả ước lao động tập thể, hoà
giải, giải quyết tranh chấp lao động và đình công và chưa có đầu mối để tập

trung hoạt động của các hiệp hội trong hỗ trợ phát triển quan hệ lao động.
Các hiệp hội hoạt động chưa thường xuyên, thiếu kinh phí, thiếu nhân sự,
thiếu chuyên gia tư vấn hiểu biết sâu về quan hệ lao động. Chưa có khuôn
khổ pháp lý cho tổ chức đại diện người sử dụng lao động hoạt động có hiệu
quả.
- Nhiều DN không cập nhật các văn bản pháp luật khi sửa đổi bổ sung để kịp
thời sửa đổi, bổ sung thỏa ước lao động tập thể (TƯLĐTT) cho phù hợp.
Các DN thay đổi chế độ sở hữu, thay đổi loại hình DN nhưng cũng không
kịp thời sửa đổi, bổ sung thỏa ước cho phù hợp. Có DN thời hạn thỏa ước
hết nhưng không thương lượng, ký kết lại. Có không ít DN ký kết TƯLĐTT
là để cho có và đối phó với việc kiểm tra của cơ quan chức năng.
- NSDLĐ thiếu kỹ năng tổ chức lấy ý kiến tập thể người lao động (kĩ năng
này đòi hỏi người chủ tọa phải biết cách tổ chức lấy ý kiến, biết cách thuyết
phục, dẫn dắt dư luận, thái độ của tập thể người lao động để tạo được sự
đồng thuận), thiếu kỹ năng tổ chức cuộc thương lượng ( gồm xây dựng kế
hoạch, nội dụng chương trình cho cuộc thương lượng, thiết lập các nguyên
tắc thương lượng, xác định thành phần tham gia thương lượng và hình thức
thương lượng, cách phối hợp điều hành thương lượng cũng như cách thức
ghi chép biên bản cuộc thương lượng. Quá trình thương lượng phải tìm hiểu
và nắm rõ tâm lý, tư tưởng, quan điểm và tính cách của đối tác để từ đó định
hình cho mình phong thái, thủ thuật, tác động đến đối tác trong quá trình
thương lượng, đồng thời phải xử lý nhanh những bế tắc đối với các nội dung
trong khi thương lượng).
Ngoài ra cả NSDLĐ và NLĐ đều thiếu kỹ năng thu thập thông tin, đây là kỹ
năng mà các bên phải xác định cần có những thông tin gì liên quan và hỗ trợ
cho việc thương lượng,
ví dụ: Khi thương lượng về tiền lương thì phải thu thập được các văn bản
của nhà nước vê tiền lương, các số liệu về tiền lương của các đơn vị khác có
cùng tính chất công việc hoặc số liệu sản xuất kinh doanh của đơn vị. Phải
cân nhắc, lựa chọn những thông tin, số liệu thật chuẩn xác và có sức thuyết

phục cao nhất để sử dụng.

5.2 Bất cập khách quan ( yếu tố ngoài tầm kiểm soát mỗi bên).
• Người lao động ít được chia sẻ thông tin về tình hình DN
Hiện Bộ luật Lao động đã có nhiều quy định về quyền tiếp cận thông
tin của người lao động như quyền đối thoại, quyền được cung cấp thông tin
liên quan đến hợp đồng, quyền thương lượng tập thể… Tuy nhiên, thực tế
các quyền này chưa được phát huy. Việc chia sẻ thông tin, tham vấn ở nơi
làm việc tại Việt Nam còn chưa phát triển. Người lao động chủ yếu được
thông tin về các nghĩa vụ mà họ phải thực hiện.
Số DN có thương lượng lao động tập thể còn thấp, chỉ khoảng 65%
nhưng chất lượng còn mang tính hình thức, chủ yếu sao chép luật. Việc thực
hiện quy chế dân chủ cơ sở cũng còn mang tính hình thức, chiếu lệ. Vì vậy
điều này đã ảnh hưởng không nhỏ đến lợi ích của các bên thông qua đối
thoại thương lượng.
• Những quy định về thương lượng trong bộ luật lao động.
Trong thời gian qua, việc thương lượng găp nhiều khó khăn, bất cập. Vì
vậy số doanh nghiệp thương lượng và ký kết TƯLĐTT đạt tỷ lệ rất thấp,
trung bình là 62%, khu vực doanh nghiệp ngoài nhà nước chỉ chiếm hơn
50%.Sở dĩ có tình trạng như vậy một phần là do Luật lao động hiện hành
mới chỉ quy định về nội dung của TƯLĐTT, trình tự thủ tục ký TƯLĐTT
mà chưa quy định về vấn đề hết sức quan trọng là trình tự thương lượng tập
thể, đối tượng thương lượng, nội dung thương lượng, thời gian thương lượng
nên việc đàm phán thương lượng ở khá nhiều doanh nghiệp chưa thực chất
và nặng hình thức.
Mặt khác Bộ luật Lao động quy định giao cho Ban chấp hành công
đoàn cơ sở (CĐCS) đại diện tập thể lao động trong doanh nghiệp thương
lượng và ký kết TƯLĐTT với đại diện người sử dụng lao động chưa phù
hợp với khả năng và năng lực của Ban chấp hành CĐCS trong điều kiện
mới. Mặt khác, chưa quy định vai trò của Công đoàn cấp trên cơ sở và cơ

quan lao động trong việc hỗ trợ, giúp đỡ các bên trong thương lượng. Các
quy định về chế tài xử phạt đối với việc thương lượng và ký kết TƯLĐTT
cũng chưa đủ mạnh để bắt buộc các doanh nghiệp phải thực hiện các quy
định đã có về thương lượng, ký kết và đăng ký TƯLĐTT, nên có nhiều
doanh nghiêp lợi dụng để né tránh, thậm chí không thương lượng hoặc ký
kết và đăng ký TƯLĐTT.
Vì vậy việc sửa đổi Luật lao động cần phải khắc phục được những hạn
chế nêu trên. Cụ thể là bổ sung quy định thương lượng tập thể là bắt buộc;
Cần có quy định về trình tự, thủ tục thương lượng. Nội dung thương lượng
và thủ tục ký kết TƯLĐTT cần quy định mềm dẻo và năng động hơn, cần
có quy định cụ thể về vấn đề thưởng, phạt với doanh nghiệp không thương
lượng, ký kết và thực hiện TƯLĐTT.
5.3. Tác động của bên trung gian đối với lợi ích 2 bên:
Quá trình thương lượng chỉ thuộc về các bên của một mối quan hệ
nhất định, mà không có sự tham gia của bất kỳ bên thứ ba nào khác, trừ
trường hợp cuộc thương lượng là bế tắc, cần một bên trung gian giúp nối lại
quá trình thương lượng. Nhà trung gian sẽ giúp làm hài hòa mối quan hệ của
2 bên, đưa ra lời khuyên cho mỗi bên để cuộc thương lượng có thể thành
công. Trong cuộc thương lượng trung gian có thể nêu ý kiến của bản thân
nhưng ý kiến này chỉ mang tính chất tham khảo sẽ không bắt buộc đối với
việc ra quyết định cuối cùng của mỗi bên.
Tác động của bên trung gian:
Đầu tiên nhà trung gian cần tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến mâu thuẫn,
dành thời gian nghiên cứu những mong muốn của hai bên và vì sao họ lại
muốn như thế. Sau đó bên trung gian sắp xếp thời gian để hai bên gặp gỡ và
cùng trao đổi những điểm họ cảm thấy chưa hài lòng. Nếu một bên nhường
một bước thì nhà trung gian có thể cũng khuyên bên bên còn lại cũng nên lùi
một bước để có thể đạt được sự thỏa thuận. Nếu cả hai bên cùng không đạt
được đồng thuận thì nhà trung gian sẽ phân tích cho 2 bên thấy được cái hơn
và thiệt trong vấn đề đó nếu cả hai cùng đạt được sự đồng thuận. Có như vậy

thì cả hai bên mới hiểu nhau hơn và chấp nhận yêu cầu của nhau. Một nhà
trung gian giỏi là không phải là người khăng khăng kéo 2 bên về với nhau
mà không làm cho họ hiểu nhau hơn mà là người giúp 2 bên họ hiểu nhau và
chấp nhận nhau, tôn trọng nhau hơn, cảm thông cho nhau nếu không trong
tương lai mối quan hệ của 2 bên sẽ trở về như trước đây. Thông qua người
trung gian 2 bên có thể hiểu được nhau và tự mình đồng thuận để duy trì mối
quan hệ lâu dài và tốt đẹp hơn, và giúp cho cuộc thương lượng thành công.
II. Thực trạng:
1. Lợi ích của người lao động:
* Lợi ích người lao động bị xem nhẹ tại Hà Nội
Kết quả thanh tra việc chấp hành quy định của pháp luật về lao động,
bảo hiểm xã hội trong khối DN tại các khu công nghiệp, chế xuất tại Hà Nội
do Bộ LĐ-TB&XH phối hợp với Sở LĐ-TB&XH Hà Nội, Ban Quản lý khu
công nghiệp, chế xuất Hà Nội thực hiện tại 26 DN đại diện đã cho thấy, vẫn
còn nhiều tồn tại, bất cập trong việc triển khai quy định của pháp luật tại cơ
sở. Đặc biệt, trong đó nhiều quyền lợi cơ bản của người lao động (NLĐ) còn
bị xem nhẹ
Năm 2012 - năm khó khăn trong hoạt động kinh doanh - nhưng các
DN vẫn cố gắng bảo đảm chế độ phúc lợi nhằm chăm lo tốt hơn cho NLĐ.
Tuy nhiên vẫn còn nhiều quyền lợi cơ bản, chính đáng của NLĐ bị bỏ qua.
Tại 26 DN ở các khu công nghiệp như Nội Bài, Quang Minh, Bắc Thăng
Long, Sài Đồng B, Hà Nội - Đài Tư, Thạch Thất, Phú Nghĩa vẫn còn tồn tại
494 hành vi vi phạm, trung bình 19 hành vi/DN. 17 DN đã bị xử phạt với số
tiền phạt là 355 triệu đồng. Những con số này, đã thể hiện mức độ vi phạm
pháp luật lao động, BHXH tại các DN được thanh tra là khá phổ biến. Có
những quy định căn bản nhưng DN cố tình lơ là.
Cụ thể :
• 100% số DN chưa thực hiện đầy đủ quy định về khám sức khỏe định
kỳ (2 lần/năm) cho NLĐ
• Có 25/26 DN vi phạm nội dung hợp đồng lao động (không cụ thể

quyền lợi, nghĩa vụ các bên, thậm chí có cả những thỏa thuận trái
luật);
• 20/26 DN chưa đăng ký sử dụng máy, thiết bị có yêu cầu nghiêm ngặt
về an toàn lao động;
• 17/26 DN vi phạm 2 nội dung là chưa thực hiện kiểm định đầy đủ các
máy, thiết bị có yêu cầu nghiêm ngặt về an toàn lao động và chưa cấp
thẻ an toàn lao động hoặc cấp thẻ chưa đúng, chưa đủ cho người làm
các công việc có yêu cầu nghiêm ngặt về an toàn lao động
• 16/26 DN huy động NLĐ làm thêm với số giờ quá mức quy định; kỷ
luật lao động và kế hoạch an toàn - vệ sinh hằng năm tại 50% DN
được thanh tra chưa đúng hoặc chưa được xây dựng.
• Ngoài ra, còn 12/26 DN chậm nộp tiền BHXH và những nội dung
trong thỏa ước lao động tập thể và nội quy lao động chưa phù hợp với
quy định của pháp luật LĐ…
• DN thì trả lương cho NLĐ thấp nhưng vẫn cao hơn mức lương tối
thiểu do Nhà nước quy định để né luật. Lương thấp, đời sống còn
nhiều khó khăn nên NLĐ buộc phải chấp nhận bằng mọi giá, mọi điều
kiện, kể cả điều kiện lao động nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm, đe dọa
đến sức khỏe và tính mạng.
* Lợi ích người lao động bị xem nhẹ tại tỉnh Hậu Giang
Thời gian gần đây, trên địa bàn tỉnh xuất hiện nhiều doanh nghiệp vi
phạm Luật Bảo hiểm xã hội (BHXH), Luật Bảo hiểm y tế (BHYT) quy định
về đăng ký, đóng bảo hiểm; chiếm dụng tiền BHXH, BHYT, bảo hiểm thất
nghiệp (BHTN). Trong khi đó, hàng tháng các đơn vị vẫn trừ vào lương và
tiền công của người lao động.
Thống kê của BHXH tỉnh, tính đến ngày 31-12-2012, toàn tỉnh có hơn
1.652 doanh nghiệp hoạt động, với trên 200.000 lao động. Trong số này, chỉ
có 915 doanh nghiệp tham gia BHXH, BHYT và thực tế chỉ có 281 doanh
nghiệp tham gia đóng, nộp bảo hiểm thường xuyên, số còn lại chỉ có đăng
ký cho có rồi trốn trách nhiệm, không tham gia bảo hiểm cho người lao

động.
Điều này đã ảnh hưởng không nhỏ đến quyền lợi chính đáng của
người lao động. Bởi nếu họ bị thất nghiệp hay rủi ro bị tai nạn lao động thì
xem như trắng tay, vì đơn vị sử dụng lao động không tham gia loại hình bảo
hiểm nào cho mình. Vì sợ mất việc nên không ít lao động không dám lên
tiếng đòi chủ doanh nghiệp thực hiện các chế độ BHXH, BHYT đúng luật.
Do không được tham gia loại hình bảo hiểm nào, nên mọi chi phí nếu xảy ra
tai nạn lao động thì gia đình phải chịu, công ty cũng không hỗ trợ gì.
Theo thống kê chưa đầy đủ, trên địa bàn tỉnh có khoảng 300 lao động
bị tai nạn lao động, trong đó có khoảng 170 người không có BHXH, BHYT.
Trường hợp Lê Văn Đực, ở khu vực 3, phường 7, thành phố Vị Thanh, làm
việc cho một công ty xây dựng cũng vừa bị tai nạn lao động vào cuối năm
2012. Do không được tham gia các loại bảo hiểm nên gia đình phải chịu lo
tất cả chi phí, do nhà nghèo nên phải vay mượn hơn 40 triệu đồng để điều
trị.

Một số doanh nghiệp, chủ sử dụng lao động còn không thực hiện rõ
ràng, cụ thể hợp đồng lao động, không xây dựng bảng lương, trợ cấp mất
việc cho công nhân, như Công ty Cổ phần Xây dựng công trình 585, Chi
nhánh Hậu Giang.
Ông Đinh Xuân Phương, Phó Giám đốc công ty này, nói: “Hiện nay, công ty
đang thi công các công trình ở Hậu Giang với số công nhân hiện tại hơn 80.
Để kịp tiến độ các dự án, đầu năm nay, chúng tôi tuyển thêm 20 công nhân
lao động phổ thông. Hiện nay, lao động còn thiếu, công ty đang tập trung
tuyển thêm, tuy nhiên do công nhân “ra vô như cơm bữa”, nên chúng tôi
không biết phải tham gia BHXH như thế nào, giấy tờ, thủ tục, tôi cũng
không biết liên hệ với ai”.
Kết quả thanh tra năm 2012 của Thanh tra Sở Lao động - Thương
binh và Xã hội tỉnh cho thấy, việc chấp hành quy định của pháp luật về lao
động, bảo hiểm xã hội… trong khối doanh nghiệp vẫn còn nhiều tồn tại, bất

cập; quyền lợi cơ bản của người lao động còn bị xem nhẹ. Ông Phạm Hồng
Vũ, Chánh Thanh tra Sở Lao động - Thương binh và Xã hội tỉnh, cho biết:
“Trong năm 2013, chúng tôi sẽ chủ trì, thành lập Đoàn thanh tra liên ngành,
trong đó tập trung ở những doanh nghiệp chưa tham gia BHXH để yêu cầu
chủ sử dụng lao động thực hiện đúng quy định; riêng đối với các doanh
nghiệp nợ đọng có khả năng thanh toán nhưng không thanh toán, mà cố tình
chây ỳ, chúng tôi sẽ báo cáo với UBND tỉnh để có hướng xử lý nghiêm”.
*Lợi ích người lao động được chú trọng ở tỉnh Yên Bái
Toàn tỉnh Yên Bái có 77.230 công nhân viên chức lao động
(CNVCLĐ). Trong nhiệm kỳ 2008-2013, công đoàn các cấp của tỉnh đã thực
hiện tốt chức năng tham gia quản lý, chăm lo và bảo vệ lợi ích hợp pháp,
chính đáng cho CNVCLĐ. Cụ thể, các cấp công đoàn đã vận động
CNVCLĐ và các doanh nghiệp tham gia tích cực các loại hình bảo hiểm;
cùng với cấp ủy, chính quyền đoàn thể các cấp kiểm tra, giám sát việc thực
hiện pháp luật về lao động, Luật Công đoàn tại trên 100 doanh nghiệp. Phối
hợp với liên ngành điều tra 158 vụ tai nạn lao động. Tổ chức thực hiện các
biện pháp xây dựng quan hệ lao động hài hòa, tiến bộ góp phần cho doanh
nghiệp ổn định và phát triển, bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho người lao động.
Bằng nhiều hình thức phù hợp, các cấp công đoàn đã thực hiện tốt công tác
tuyên truyền, giáo dục chính trị, tư tưởng, nâng cao nhận thức, bản lĩnh
chính trị, ý thức trách nhiệm và tinh thần làm việc của công nhân viên chức
và người lao động, qua đó nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả công
việc…
Liên đoàn lao động tỉnh đã phối hợp quản lý các dự án vay vốn, hỗ trợ
và tạo việc làm cho gần 450 CNVCLĐ nghèo với số tiền hơn 1 tỷ đồng, hỗ
trợ làm 40 nhà theo chương trình “Mái ấm công đoàn”… Công đoàn các cấp
đã giới thiệu 6.303 đoàn viên ưu tú cho Đảng bồi dưỡng và đã kết nạp 4.714
đồng chí vào Đảng Cộng sản Việt Nam
2. Hoạt động thương lượng thỏa ước lao động tập thể trong các
khu công nghiệp Bắc Ninh

Theo quy định của pháp luật lao động, Thoả ước lao động tập thể
(TƯLĐTT) là văn bản thoả thuận giữa tập thể lao động và người sử dụng
lao động, quyền lợi và nghĩa vụ của hai bên trong quan hệ lao động.
Trong quan hệ lao động, người sử dụng lao động và người lao động có hai
quá trình tương tác rất quan trọng là:
Một là, quá trình đối thoại, thương lượng và ký kết TƯLĐTT;
Hai là, quá trình tranh chấp lao động và đình công.
Các quá trình này có mục đích chung là xác định quyền, lợi ích mà người
sử dụng lao động dành cho tập thể người lao động để hai bên bắt đầu, tiếp
tục hay chấm dứt quan hệ lao động. Trong hai quá trình trên, quá trình
đối thoại, thương lượng và ký kết TƯLĐTT luôn được coi là quá trình
quan trọng, là kênh tương tác chính để tạo dựng và duy trì quan hệ lao
động lành mạnh. Nếu quá trình thứ nhất có vấn đề thì sẽ có nguy cơ xảy
ra quá trình thứ hai.
+ Từ thực tế mối quan hệ lao động đã và đang nảy sinh nhiều vấn đề mới
mẻ, bức xúc, phức tạp, khó dự liệu, đòi hỏi cần có sự hài hòa về lợi ích,
quy định có lợi hơn cho người lao động so với quy định của pháp luật. Vì
vậy, việc thương lượng, ký kết và thực hiện TƯLĐTT trong các loại hình
doanh nghiệp có ý nghĩa quan trọng giải quyết hài hòa quan hệ lao động
và hoạt động của tổ chức công đoàn, đặc biệt là công đoàn cơ sở doanh
nghiệp. Với mục đích thực hiện “4 thật”: Chủ thể thật, nội dung thật,
thương lượng thật, thực hiện thật. Vấn đề “4 thật” phải đảm bảo: chủ thể
có năng lực, có tâm → quá trình thương lượng là thực chất → TƯLĐTT
có chất lượng →quan hệ lao động tốt, hài hòa, ổn định, tiến bộ.
Theo thống kê của Ban quản lý các KCN Bắc Ninh, hiện tại, các KCN
Bắc Ninh có 261 DN đi vào hoạt động, sử dụng 72.210 lao động. Có 149
công đoàn cơ sở được thành lập (trong đó: CĐCS thuộc khối HCSN: 2;
NQD: 125; CĐCS chỉ đạo phối hợp: 22). Số DN có TƯLĐTT là 67 (TS
40; ĐĐ 7; QV 17; YP 3), chiếm 44,97%, số chưa có TƯLĐTT là
82, chiếm 55,03%.

+ Một số doanh nghiệp đầu tàu, hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu
quả luôn duy trì việc ký kết TƯLĐTT với công đoàn cơ sở, thường xuyên
sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với tình hình thực tế và kết quả kinh doanh.
Nội dung thương lượng, ký kết có nhiều điểm có lợi hơn so với quy định
của pháp luật như: chế độ hiếu hỷ, bảo đảm việc làm, mức lương cơ bản,
chế độ nâng bậc lương, giảm giờ làm việc, bồi dưỡng sức khỏe, trợ cấp
thêm khi chấm dứt HĐLĐ, chế độ ăn giữa ca, tặng quà sinh nhật, các
ngày lễ pháp định, khen thưởng, chế độ phúc lợi khác …Vì vậy,
TƯLĐTT đã có tác dụng khuyến khích, phát huy dân chủ, vai trò và vị trí
của BCH Công đoàn cơ sở đã được thể hiện rõ nét – là người đại diện cho
tập thể người lao động để thương lượng và ký kết TƯLĐTT nhằm đạt
được những thỏa thuận với người sử dụng lao động về quyền và nghĩa vụ
của mỗi bên trong quan hệ lao động.
+ Bên cạnh đó, có nhiều doanh nghiệp mặc dù đã xây dựng TƯLĐTT,
nhưng thực tế chất lượng TƯLĐTT chưa cao, chủ yếu còn sao chép luật;
một số đơn vị chưa sửa đổi TƯLĐTT cho phù hợp với chính sách mới;
một số chủ sử dụng lao động né tránh thương lượng, ký kết TƯLĐTT,
+ Nguyên nhân là do một số quy định của pháp luật chưa rõ về đối tượng,
thời gian thương lượng, chưa quy định vai trò của cơ quan lao động hỗ trợ
hai bên thương lượng (người lao động - chủ doanh nghiệp), thiếu chế tài
xử phạt nghiêm các hành vi vi phạm pháp luật lao động. Người sử dụng
lao động vẫn còn đang còn xem nhẹ quyền lợi người lao động, né tránh
việc ký kết cũng như thực hiện thoả ước, thiếu tôn trọng quy tắc ứng xử
đối với tổ chức công đoàn. Các tổ chức công đoàn không phải khi nào
cũng đủ bản lĩnh và năng lực về thương lượng; việc thanh tra lao động
chưa thường xuyên, kém hiệu quả dẫn đến tình trạng vi phạm các quy
định về TƯLĐTT.
- Tiền lương thấp, điều kiện làm việc không bảo đảm khiến số vụ đình
công gia tăng, những quy định trong Luật Lao động, Luật Công đoàn còn
quá nhiều kẽ hở, gây bất lợi cho người lao động (NLĐ) là những vấn đề

"nóng" tại nhiều hội thảo do Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội tổ
chức gần đây.Theo số liệu của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, mặc
dù nền kinh tế đang có nhiều khởi sắc và hồi phục nhanh nhưng từ đầu
năm đến nay, cả nước đã xảy ra 64 vụ đình công. Riêng trong tháng 2-
2010 đã xảy ra 26 vụ. Điều này cho thấy, quan hệ lao động trong các
doanh nghiệp đang có dấu hiệu xấu đi, chủ yếu là quan hệ tiền lương, tiền
công giữa doanh nghiệp và NLĐ.Theo ý kiến của các chuyên gia lao
động, tiền lương tối thiểu được quy định hiện nay chỉ được xem là lưới đỡ
để NLĐ không bị rơi xuống mức nghèo đói và không bị bóc lột. NLĐ
phải thương lượng, mặc cả với chủ sử dụng để thỏa thuận về điều kiện
làm việc, mức tiền lương, tiền công tương xứng với công sức bỏ ra. Trên
thực tế, tại nhiều doanh nghiệp, do tổ chức công đoàn yếu kém nên họ
không thể giúp đỡ công nhân trong thương lượng. Tại nhiều doanh
nghiệp, chủ sử dụng lao động đã không chấp nhận đối thoại hoặc những
kiến nghị chính đáng của NLĐ. Điều đó khiến quan hệ lao động ngày
càng căng thẳng,dẫn đến đình công.
Thu nhập bình quân tháng của người lao động trong các loại hình doanh
nghiệp như sau:
(Nguồn: Báo cáo tổng hợp đề tài khoa học độc lập cấp Nhà nước mã số ĐT
Đl 2007. G/50 của Bộ Lao động - Thương binh và xã hội).
Thỏa ước lao động tập thể là căn cứ chủ yếu để từng người lao động ký
hợp đồng lao động cá nhân với người sử dụng lao động. Những nơi chưa có
tổ chức công đoàn thì giới chủ áp đặt, quyết định tất cả.Những nơi có tổ
chức công đoàn nhưng hoạt động kém hiệu quả, dù có đàm phán, thương
lượng thì cũng không thể nào đem lại đầy đủ quyền lợi mà luật pháp đã quy
định.
NSDLD biết rõ hơn được thực lực và tiềm năng của NLD => có thể sử dụng
tốt hơn nguồn nhân lực, tổ chức, sắp xếp, khai thác được tiềm năng của
NLD, tạo được hiệu quả công việc tốt hơn giúp doanh nghiệp phát triển.
NSDLD giải quyết kịp thời những mâu thuẫn, xung đột xảy ra => tạo môi

trường lao động trong doanh nghiệp cũng như bầu không khí lao động lành
mạnh. Từ đó góp phần tăng hiệu quả sản xuất, kinh doanh.
Hiểu được tâm tư, nguyện vọng của NLD => nắm bắt được mong muốn của
nhân viên trong doanh nghiệp, thay đổi chính sách phù hợp, các phương án
nhằm thỏa mãn tốt nhất mong muốn của cá nhân NLD, để từ đó nâng cao sự
trung thành và quyết tâm cống hiến cho doanh nghiệp của NLD
Kịp thời bổ sung nội quy, chính sách phù hợp với từng giai đoạn phát triển
của công ty về nguồn lực, quy luật phát triển của kinh tế thị trường cũng như
nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh nhờ quá trình tham khảo, lấy ý kiến
đóng góp từ NLD
3. Hài hòa lợi ích hai bên trong công ty may Nhà Bè (NBC):

Tổng công ty may Nhà Bè (NBC) là một doanh nghiệp hàng đầu của
ngành dệt may Việt Nam có phương châm hoạt động uy tín-chất lượng-hiệu
quả.Sau hơn 30 năm xây dựng và phát triển,đến nay tổng công ty cổ phần
may Nhà Bè đã có 33 đơn vị và xí nghiệp thành viên bao gồm 14 xí nghiệp
trực thuộc,11 đơn vị hạch toán độc lập,8 công ty kinh doanh thương mại và
dịch vụ khác với gần 17000 cán bộ công nhân viên,13000 máy móc thiết bị
chuyên dùng,hiện đại.Hoạt động tại nhiều địa phương trong cả nước.Năm
2005 NBC được trao giải thưởng “doanh nghiệp có quan hệ lao động tốt”
trong cuộc bình chọn “doanh nghiệp tiêu biểu trong ngành dệt may Việt
Nam.Đối một với ngành thâm dụng lao động bậc nhất như dệt may thì giải
thưởng này rất có ý nghĩa.NBC không chỉ thực hiện trách nhiệm đối với
người lao động bằng lời nói suông mà bằng những việc làm cụ thể.
Công ty NBC luôn cố gắng làm hài hòa lợi ích giữa người lao động và
phía công ty, và luôn cố gắng đem lại lợi ích cao đối với NLĐ. Hằng năm
ngoài việc đào tạo cho công nhân mới,NBC còn tổ chức hoặc liên kết với
các đơn vị chuyên môn khác đào tạo nâng cao. Nội dung đào tạo gồm nghiệp
vụ kiểm tra chất lượng sản phẩm, thiết kế, sơ đồ, quản trị, ngoại ngữ, bồi
dưỡng tổ trưởng…

NBC tuân thủ nghiêm túc các quy định của pháp luật về sử dụng lao
động. Tình hình lao động thực tế tại NBC luôn đạt và vượt các mức yêu cầu
quy định trong luật.
Mức lương trung bình của mỗi lao động tại NBC hiện nay là 1700000
đồng. Tiền lương ngoài giờ, tăng ca đều được tăng hệ số theo luật định.
NBC có nhiều xí nghiệp nên có thể điều chuyển,sắp xếp sản xuất một cách
hợp lý giữa các xí nghiệp này. Do đó NBC dần từng bước khống chế việc
tăng ca, tăng giờ làm nhằm bảo vệ sức khỏe công nhân.
Việc đóng bảo hiểm xã hội và bảo hiểm y tế của công nhân được giám sát
chặt chẽ từ phía lãnh đạo Công ty và Công đoàn.
Công nhân tự do và được khuyến khích gia nhập Công đoàn. Công đoàn
được tạo điều kiện để phát huy vai trò và thực hiện đầy đủ các nhiệm vụ.
Công đoàn có tiếng nói quan trọng đối với những hoạt động liên quan đến
lao động trong công ty.
NBC luôn hoạt động với phương châm người lao động phải tuyệt đối
được an toàn, công ty đã xây dựng và áp dụng nhuần nhuyễn các cơ chế về
an toàn lao động. Thiết bị, nhà xưởng và con người tại NBC phải thực hiện
an toàn lao động. Tại mỗi xí nghiệp sản xuất đều lắp đặt hệ thống thông gió,
làm mát, chiếu sáng, bình chữa cháy…Số lượng nhà vệ sinh được bố trí đủ
tương ứng số lượng công nhân từng xí nghiệp.Công nhân được phục vụ ăn
trưa và nước uống.Thời gian nghỉ giữa ca được thực hiện nghiêm túc.
Ngoài ra công ty xây dựng trạm y tế để sơ cứu công nhân trong trường
hợp cần thiết. Một số xí nghiệp có nhà lưu trú cho công nhân với giá ưu đãi
và điều kiện sinh hoạt khá tươm tất. Công nhân được hỗ trợ mua vé tàu về
nghỉ tết. Tùy thời điểm và điều kiện cho phép, công ty có những hình thức
phúc lợi khác cho công ty.
Chính ví công ty luôn có hững chính sách và chế độ đem lại lợi ích cho
người lao động cũng như việc hài hòa lợi ích giữa công nhân và công ty nên
việc xảy ra mâu thuẫn, tranh chấp trong công ty rất hạn chế ít khi xảy ra.
Không có hiện tượng công nhân bỏ việc,tăng cường được hiệu quả sản xuất

kinh doanh cho công ty, tăng cường tính ổn định xã hội,giúp công ty tối
thiểu được nhiều chi phí trong việc đào tạo nhân lực…

×