Tải bản đầy đủ (.pdf) (102 trang)

Quản lý trang thiết bị phục vụ hoạt động đào tạo tại trường Đại học Công nghiệp Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.38 MB, 102 trang )




ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC



VŨ ĐÌNH TUẤN



QUẢN LÝ TRANG THIẾT BỊ
PHỤC VỤ HOẠT ĐỘNG ĐÀO TẠO
TẠI TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP HÀ NỘI



LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ GIÁO DỤC

Chuyên ngành: Quản lý giáo dục
Mã số: 60 14 05




Người hướng dẫn khoa học: TS. Từ Đức Văn







Hà Nội - 2009



ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA SƯ PHẠM




VŨ ĐÌNH TUẤN




QUẢN LÝ TRANG THIẾT BỊ
PHỤC VỤ HOẠT ĐỘNG ĐÀO TẠO
Ở TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP HÀ NỘI




LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ GIÁO DỤC













Hà Nội - 2009

LỜI CẢM ƠN


1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Cơ sở vật chất, thiết bị dạy học, tài chính là những nguồn lực mà các
nhà trường đều cần phải có, đó là những nguồn lực quan trọng góp phần tạo
nên sự thành công của bất kỳ nhà trường nào. Trong các cơ sở đào tạo lực
lượng lao động có kỹ thuật cao đáp ứng sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước thì cơ sở vật chất, thiết bị dạy học phục vụ đào tạo càng thể hiện
rõ vai trò quan trọng. Việc quản lý, sử dụng thiết bị dạy học phục vụ đào tạo
một cách khoa học, hiệu quả là một trong các nhân tố quyết định chất lượng
của đào tạo, đặc biệt là trong cơ sở đào tạo nghề kỹ thuật cao hiện nay.
Đảng và Nhà nước nhận thấy rõ vai trò quan trọng của phát triển giáo
dục và đào tạo, trong đó nhấn mạnh đào tạo nghề cho người lao động. Điều
này được thể hiện trong việc hoạch định các chiến lược kinh tế - xã hội của đất
nước, đó là luôn đặt con người và vấn đề giải quyết việc làm ở vị trí trọng tâm,
lấy lợi ích của người lao động làm điểm xuất phát của mọi chương trình, kế
hoạch phát triển của mình.

Đại hội toàn quốc lần thứ IX Đảng ta đã khẳng định “Phát triển giáo dục
và đào tạo là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá, là điều kiện để phát huy nguồn lực con người - yếu
tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững”.
Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội được thành lập ngày 02 tháng 12
năm 2005 trên cơ sở nâng cấp trường Cao đẳng công nghiệp Hà Nội, là một
trong những cơ sở đào tạo nghề nghiệp lớn nhất Việt Nam, có sứ mạng cung
cấp dịch vụ giáo dục - đào tạo nhiều ngành, nhiều trình độ chất lượng cao, đáp
ứng nguồn nhân lực cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và xuất khẩu
lao động, tạo cơ hội học tập cho mọi đối tượng, hướng tới mục tiêu xây dựng
một trung tâm đào tạo lực lượng lao động kỹ thuật trình độ cao đáp ứng yêu
cầu của thị trường lao động trong nước, khu vực và quốc tế.


2

Với hệ thống đào tạo gồm 4 cấp trình độ từ công nhân lành nghề đến
các cán bộ kỹ thuật cao cấp, đại học, Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội coi
vấn đề đảm bảo chất lượng đào tạo là mục tiêu hàng đầu.
Trong những năm gần đây Nhà trường đã có những chuyển biến mạnh
mẽ cả về quy mô đào tạo, loại hình đào tạo kéo theo số lượng cơ sở vật chất,
thiết bị dạy học bao gồm các thiết bị, máy móc, vật tư phục vụ cho đào tạo
tăng lên rất lớn, việc quản lý và khai thác sử dụng các tài sản này đã góp phần
nâng cao chất lượng đào tạo, tuy nhiên tới nay công tác quản lý thiết bị dạy
học có một số điểm không còn phù hợp với quy mô của nhà trường, chưa phát
huy được tối đa hiệu quả việc sử dụng tài sản phục vụ nhiệm vụ đào tạo đáp
ứng yêu cầu của xã hội.
Vì vậy việc nghiên cứu đề tài “Quản lý trang thiết bị phục vụ hoạt
động đào tạo tại Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội ” là việc cấp thiết cần
được tiến hành ngay để nguồn lực của nhà trường được sử dụng một cách

hiệu quả, nhà trường hoàn thành được sứ mạng cao cả của mình đối với xã
hội.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở đánh giá thực trạng công tác quản lý trang thiết bị phục vụ
hoạt động đào tạo của trường ĐHCN HN thời gian qua, đề xuất các biện pháp
quản lý thiết bị dạy học nhằm nâng cao chất lượng hoạt động đào tạo của nhà
trường.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Hệ thống hoá những vấn đề lý luận liên quan đến đề tài nghiên cứu
- Làm rõ một số khái niệm, phạm trù, quy luật trong hoạt động đào tạo,
lĩnh vực quản lý, quản lý nhà trường.
- Các vấn đề lý thuyết về quản lý trang thiết bị trong hoạt động đào tạo
trường Đại học.


3

3.2. Khảo sát thực trạng hoạt động đào tạo và quản lý trang thiết bị phục vụ
hoạt động đào tạo của trường Đại học Công nghiệp Hà Nội
- Khảo sát thực trạng hoạt động đào tạo của trường Đại học Công
nghiệp Hà Nội.
- Khảo sát thực trạng công tác quản lý trang thiết bị thiết bị phục vụ
hoạt động đào tạo của trường Đại học Công nghiệp Hà Nội.
3.3. Đề xuất các biện pháp quản lý nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng thiết
bị dạy học phục vụ đào tạo của trường Đại học Công nghiệp Hà Nội.
4. Giả thuyết khoa học
Nếu đề xuất về các biện pháp quản lý thiết bị dạy học được triển khai
đồng bộ thì trường Đại học Công nghiệp Hà Nội sẽ quản lý, khai thác, sử
dụng một cách có hiệu quả hơn thiết bị dạy học phục vụ hoạt động đào tạo.
5. Khách thể và đối tƣợng nghiên cứu

- Khách thể nghiên cứu: Trang thiết bị phục vụ hoạt động đào tạo của
trường Đại học Công nghiệp Hà Nội.
- Đối tượng nghiên cứu: Quản lý trang thiết bị phục vụ hoạt động đào
tạo trường Đại học Công nghiệp Hà Nội.
6. Giới hạn, phạm vi nghiên cứu
Trong phạm vi của luận văn, đề tài chỉ tập trung vào các vấn đề:
- Quản lý trang thiết bị hoặc quản lý thiết bị dạy học được quan niệm là
công tác quản lý việc trang bị, bảo quản và sử dụng thiết bị dạy học.
- Thực trạng công tác quản lý thiết bị dạy học phục vụ hoạt động đào
tạo trong những năm 2004 – 2007 ở trường Đại học Công nghiệp Hà Nội.
- Xây dựng biện pháp quản lý thiết bị dạy học nhằm phục vụ hoạt động
đào tạo ở trường Đại học Công nghiệp Hà Nội.
7. Phƣơng pháp nghiên cứu
7.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận: Bao gồm việc nghiên cứu lý
luận về đào tạo; tài chính, tài sản trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo hiện nay.


4

Làm cơ sở lý luận cho khảo sát thực trạng và đề xuất những biện pháp quản
lý thiết bị dạy học phục vụ hoạt động đào tạo tại trường Đại học Công
nghiệp Hà Nội.
7.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn: Khảo sát điều tra tình hình
thực tiễn; thu thập số liệu, tài liệu có liên quan đến vấn đề nghiên cứu.
Các phương pháp nghiên cứu bổ trợ: Phương pháp thống kê.
8. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và khuyến nghị, danh mục tài liệu tham
khảo, phụ lục, luận văn được trình bày gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về quản lý thiết bị dạy học phục vụ hoạt động
đào tạo.

Chương 2: Thực trạng công tác quản lý thiết bị dạy học phục vụ hoạt
động đào tạo của trường Đại học Công nghiệp Hà Nội.
Chương 3: Các biện pháp quản lý thiết bị dạy học phục vụ hoạt động
đào tạo ở trường Đại học Công nghiệp Hà Nội.





5

Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ THIẾT BỊ DẠY HỌC
PHỤC VỤ HOẠT ĐỘNG ĐÀO TẠO
1.1. Cơ sở lý luận về quản lý đào tạo
1.1.1. Khái niệm hoạt động đào tạo
Theo Từ điển tiếng Việt năm 2002, thì „‟Hoạt động‟‟ là tiến hành những
việc làm có quan hệ với nhau chặt chẽ nhằm một mục đích nhất định trong đời
sống xã hội.[12, tr.452]
Theo Từ điển Giáo dục học thì “Hoạt động‟‟ là hình thức biểu hiện quan
trọng nhất của mối quan hệ tích cực, chủ động của con người đối với thực tiễn
xung quanh. Còn đối với từng khía cạnh của thực tiễn, hoạt động là quá trình
diễn ra một loạt hành động có liên quan chặt chẽ với nhau tác động vào đối
tượng nhằm đạt được mục đích nhất định trong đời sống xã hội.[11]
“Đào tạo” là làm cho trở thành người có năng lực theo những tiêu chuẩn
nhất định.[12, tr.289]
Đào tạo - Quá trình chuyển giao có hệ thống, có phương pháp những
kinh nghiệm, những tri thức, những kỹ năng kỹ xảo nghề nghiệp, chuyên môn,
đồng thời bồi dưỡng những phẩm chất đạo đức cần thiết và chuẩn bị tâm thế
cho người học đi vào cuộc sống lao động tự lập và góp phần xây dựng và bảo
vệ đất nước.

Cách tiến hành hỗ trợ, bồi dưỡng nhằm nâng cao năng lực, phẩm chất
phù hợp với đòi hỏi của cơ quan tổ chức.
Như vậy “hoạt động đào tạo” là tiến hành những việc làm có quan hệ
chặt chẽ với nhau nhằm làm cho học sinh, sinh viên trở thành những người có
năng lực theo những tiêu chuẩn của cấp học cao hơn, tiêu chuẩn của người lao
động.
Đào tạo đại học:
Theo quan niệm tại Hội nghị Thế giới Giáo dục Đại học thế kỷ 21
(Paris, 10/1998), đào tạo đại học được hiểu là tất cả các loại hình học tập, đào


6

tạo hoặc đào tạo cho nghiên cứu được đảm bảo ở trình độ sau trung học bởi
một cơ sở đại học hoặc được những nhà chức trách có thẩm quyền công nhận
như một cơ sở đại học.
Với cách hiểu trên, không phải mọi hoạt động học tập, đào tạo sau trung
học đều thuộc phạm vi đào tạo đại học, mà chỉ có những hoạt động học tập,
đào tạo của một cơ sở đại học hoặc được coi như cơ sở đại học được phép
thực hiện theo chương trình ở bậc đại học thì mới được coi là đào tạo đại học.
Ở nước ta phạm vi của trình độ đại học chỉ bao gồm 2 mức là: trình độ
cao đẳng và trình độ đại học; hoạt động đào tạo đại học được thực hiện ở hai
loại cơ sở là: trường cao đẳng đào tạo trình độ cao đẳng và trường đại học đào
tạo trình độ cao đẳng và đại học; ngoài ra có một loại cơ sở nữa là Học viện do
một số Bộ quản lý, trước đây đã từng là cơ sở đại học, nay vẫn được coi như là
một cơ sở đại học.
Như vậy có thể khái quát quan niệm về đào tạo đại học ở Việt Nam hiện
nay như sau: Đào tạo đại học là các hoạt động học tập, đào tạo hoặc đào tạo
cho nghiên cứu do các cơ sở đại học tổ chức và thực hiện nhằm đảm bảo cung
cấp cho người học một số tri thức, kỹ năng nghề nghiệp tương ứng với trình

độ theo đúng chương trình, thời gian do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền đã
quy định cho đào tạo ở bậc đại học.
1.1.2. Vai trò của đào tạo đại học đối với sự phát triển kinh tế – xã hội
“Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao thông qua GD
ĐH được xem là quy luật tất yếu trong thời đại ngày nay. Vì vậy, GD ĐH có
vị trí quan trọng hàng đầu trong chiến lược phát triển kinh tế – xã hội của mỗi
quốc gia”,[26,tr72].
Từ trước tới nay giáo dục đại học có mục đích là thúc đẩy sự phát triển
kinh tế-xã hội của đất nước bằng cách cung cấp nguồn nhân lực được đào tạo
ở trình độ cao.


7

Mục đích này được thực hiện bằng hai hoạt động có liên quan với nhau
là: Đào tạo sinh viên đáp ứng nhu cầu về nhân lực của các nghành, các tổ chức
trong toàn bộ đời sống chính trị, kinh tế xã hội của đất nước; và làm phong
phú thêm kho tàng kiến thức thông qua hoạt động nghiên cứu khoa học.
“Việc hình thành và tạo dựng nguồn vốn nhân lực của mỗi cá nhân là
một quá trình thay đổi chất lượng sức lao động. Qúa trình này chủ yếu do
trình độ giáo dục quyết định. Theo lý thuyết vốn con người, thì vốn đó được
thể hiện thông qua năng suất lao động, nghĩa là vốn nhân lực càng cao thì
năng suất lao động càng cao. Nguồn vốn nhân lực được tạo ra qua quá trình
giáo dục, bồi dưỡng thể chất, trong đó giáo dục đại học có vai trò rất quan
trọng‟‟[26, tr.24]. Cụ thể là:
- Đào tạo đại học sẽ góp phần làm tăng khả năng tích tụ vốn nhân lực
cho người lao động, tăng quy mô tập trung vốn nhân lực cho toàn bộ nền kinh
tế quốc dân.
Nghiên cứu về quá trình phát triển cúa xã hội loài người trải qua các
phương thức sản xuất từ thấp đến cao, học thuyết Mác đã chỉ rõ: cái làm thay

đổi từ một hình thái kinh tế - xã hội này sang một hình thái kinh tế – xã hội
khác là do sự phát triển của lực lượng sản xuất. Tác động mang tính quyết
định đến sự phát triển của lực lượng sản xuất lại chính là con người trong lực
lượng sản xuất. Luận điểm này đã được thực tiễn kiểm chứng và trở thành như
một chân lý mà các nhà kinh tế học cho dù theo đuổi các trường phái chính trị
khác nhau đều phải thừa nhận.
Mỗi người lao động có lượng vốn nhân lực khác nhau, mỗi cá nhân
muốn tăng khả năng tích tụ vốn nhân lực cho mình thì cách tốt nhất là phải
học, theo học được ở trình độ càng cao thì khả năng tích tụ vốn nhân lực càng
cao, theo học một cách thường xuyên liên tục thì tính bền vững của vốn nhân
lực càng tốt. Bậc học có ảnh hưởng lớn nhất, mang tính quyết định nhất đến
khả năng tích tụ vốn nhân lực cho mỗi người là đào tạo đại học. Nhờ quy mô


8

tích tụ vốn nhân lực ở mỗi cá nhân ngày càng lớn mà sẽ có điều kiện thuận lợi
cho việc tăng quy mô tập trung vốn nhân lực trong nền kinh tế quốc dân.
Trong chiến lược xây dựng và phát triển đất nước vững bước tiến lên
công nghiệp hóa, hiện đại hoá, Đảng ta đã xác định: “Lấy việc phát huy nguồn
lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững”[6]
- ĐTĐH góp phần thúc đẩy sự phát triển nền kinh tế một cách toàn diện.
Vai trò này thể hiện trước hết ở sự thúc đẩy tăng trưởng kinh tế ở mức
cao và có tính bền vững.
Thật vậy, trong mối quan hệ giữa lao động với năng xuất lao động; thì
lao động giữ vai trò quyết định, đồng thời một lực lượng lao động có tiềm
năng cao về vốn nhân lực thì cùng với quá trình lao động là quá trình sáng tạo
làm cho quy trình công nghệ sản xuất sản phẩm và dịch vụ ngày càng phát
triển, trang thiết bị ngày càng hiện đại nên tất yếu năng xuất lao động phải
được nâng cao. Những thuyết tăng trưởng kinh tế mới cho rằng công nghệ

thay đổi càng nhanh thì càng thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế dài hạn. Về phần
mình, công nghệ thay đổi nhanh hơn khi lực lượng lao động có trình độ cao
hơn. Vì vậy tích luỹ vốn con người, đặc biệt là kiến thức sẽ tạo điều kiện phát
triển các công nghệ mới và là nguồn duy trì tăng trưởng.
- Hơn nữa vai trò của ĐTĐH còn thể hiện ở sự đóng góp làm tăng thêm
thu nhập quốc dân bình quân đầu người và nguồn để tái đầu tư với quy mô lớn
và tốc độ nhanh.
Khả năng làm tăng thêm thu nhập quốc dân bình quân đầu người từ
ĐTĐH thực chất là hệ quả của sự tăng trưởng kinh tế; trong điều kiện các
nhân tố khác không có gì thay đổi đáng kể. Đây cũng là xu thế tất yếu thường
xảy ra trong hoạt động thực tiễn vì khi ĐTĐH đã đạt đến một mức độ đủ khả
năng để thúc đẩy kinh tế tăng trưởng thì dân trí cũng đã được nâng cao và
vòng xoáy của thị trường lao động cuốn hút mọi người phải đi theo tiến độ của
nó. Nhờ vậy nhịp độ gia tăng dân số sẽ có mức giảm đáng kể nên thu nhập


9

quốc dân bình quân đầu người sẽ được tăng dần qua các năm. Khi thu nhập
quốc dân đàu người tăng sẽ tạo nguồn tài chính cho việc hình thành các hình
thức phân phối mới hoặc điều chỉnh lại các mức phân phối của các hình thức
đã có theo xu hướng tăng lên; trong đó thu nhập của mỗi cá nhân trong xã hội
cũng được cải thiện. Nếu chỉ xét riêng về mức tăng trưởng thu nhập cá nhân
của những người đào tạo ở trình độ đại học thì tốc độ tăng trưởng thu nhập
cá nhân của những người này cao hơn tốc độ tăng trưởng trung bình của toàn
xã hội, bởi vì „‟lao động có kỹ thuật cao phải bỏ ra một khoản chi phí về
công sức và tiền của để trau dồi nghề nghiệp nhiều hơn, do vậy thu nhạp cao
là để những chi phí cho việc học tập và ít nhất cũng có một số lợi nhuận qua
đầu tư giáo dục‟‟- theo Adam Smith. Người lao động đã tốt nghiệp đại học
lại có cơ hội dành một phần thu nhập của mình cho mục đích tái đầu tư nhằm

tiếp tục mở rộng, nâng cao kiến thức và kỹ năng để có thể đáp ứng được các
đòi hỏi của thị trường lao động ngày càng khó tính, hoặc có thể tham gia đầu
tư vào các hoạt động hác của nền kinh tế. Nhờ vậy nguồn vốn thuộc quyền
sở hữu của mỗi cá nhân được chuyển thành nguồn vốn thuộc quyền sở hữu
cua các nhà đầu tư khác trong xã hội.
- Vai trò của ĐTĐH còn thể hiện ở sự góp phần thúc đẩy sự hình thành
cơ cấu kinh tế mới của nền kinh tế quốc dân.
Theo xu thế phát triển, nền kinh tế của mỗi quốc gia đều có sự dần
thay đổi về cơ cấu để đạt tới một cơ cấu mới đảm bảo được cả tính cân đối
theo ngành và theo vùng.
ĐTĐH đã góp phần đáng kể vào việc làm tăng quy mô vốn nhân lực
cho mỗi ngành.
Sự phân bổ vốn nhân lực có trình độ cao cho mỗi ngành là công việc mà
Nhà nước có thể làm thông qua việc xây dựng và phê duyệt kế hoạch đào tạo
dài hạn cho mỗi ngành. Tương ứng với mức phân bổ về chỉ tiêu cho phép
tuyển chọn đầu vào cho mỗi ngành sẽ là số lượng sinh viên tốt nghiệp ra làm


10

việc cho ngành đó hàng năm; (hoặc thông qua chế độ ưu đãi về lợi ích cho
người học, người đã tốt nghiệp về nhận công tác tại các vùng, ngành mà Nhà
nước cần khuyến khích để tạo sức hấp dẫn và định hướng cho việc chọn ngành
chọn vùng của lao động). Cơ chế này đã được áp dụng trong thực tiễn quản lý
ĐTĐH ở nước ta mấy năm qua như: không thu học phí với sinh viên các
trường sư phạm; áp dụng hệ số lương thu hút đối với người nhận công tác ở
miền núi, hải đảo; ưu đãi điểm chuẩn khi thi tuyển sinh vào các trường cao
đẳng, đại học theo khu vực…
- ĐTĐH có ảnh hưởng mang tính quyết định đến sự phát triển của hệ
thống giáo dục quốc dân và nâng cao vị thế xã hội của quốc gia trên trường

quốc tế.
Bởi vì sự phát triển của hệ thống giáo dục quốc dân được quyết định
bởi chất lượng giáo viên. Chất lượng giáo viên được thể hiện qua mức trình độ
đào tạo và mức độ nâng cao, cập nhật kiến thức cho đội ngũ này như thế nào.
Yêu cầu này chỉ có thể thực hiện được thông qua các chương trình đào tạo ở
các mức khác nhau thuộc phạm vi của ĐTĐH. Đặc biệt khi nền kinh tế phát
triển ở trình độ cao, càng đòi hỏi trình độ giáo viên phải cao hơn hẳn ít nhất
một bậc so với vị trí mà họ được phép đứng giảng. Khi ĐTĐH phát triển mạnh
mẽ sẽ làm cho trình độ dân trí của quốc gia không ngừng nâng cao, làm cho
vị thế xã hội của quốc gia trên trường quốc tế được nâng cao.
- ĐTĐH góp phần tích cực trong việc thiết lập sự công bằng xã hội về
giáo dục. Công bằng xã hội về giáo dục tức là phải đảm bảo quyền được tham
gia dự học đại học của mọi người không phân biệt giới tính, tôn giáo, thu
nhập… nếu các cá nhân có nhu cầu ĐTĐH đáp ứng đủ các tiêu chuẩn mà nhà
nước quy định đối với bậc học này. Để tạo điều kiện cho người nghèo có thể
theo học đại học cần có các ưu đãi về tài chính thông qua giảm hoặc miễn các
khoản đóng góp về học phí, tạo điều kiện cho người sống ở vùng kinh tế – xã


11

hội kém phát triển. Đó chính là cách thức mà ĐTĐH góp phần thiết lập sự
công bằng xã hội.
1.1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động đào tạo
Có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động đào tạo, trong khuôn khổ
luận văn này chỉ xem xét những nhân tố cơ bản nhất tác động và gây ảnh
hưởng đến chất lượng đào tạo. Có thể chia các nhân tố ảnh hưởng theo hai
nhóm: Nhóm các nhân tố bên trong và nhóm các nhân tố bên ngoài.
1.1.3.1. Nhóm nhân tố bên trong.
- Chương trình mục tiêu và nội dung đào tạo.

Mục tiêu đào tạo: Đó là kết quả, là sản phẩm mong đợi của qúa trình
dạy học. Mục tiêu đào tạo hay sản phẩm đào tạo chính là người học tốt nghiệp
với nhân cách đã được phát triển, hoàn thiện thông qua quá trình dạy học.
Nhân cách người học hiểu theo cấu trúc đơn giản gồm có phẩm chất (phẩm
chất của người công dân, người lao động nói chung, lao động ở một lĩnh vực
nhất định) và năng lực (hệ thống kiến thức khoa học - công nghệ, kỹ năng kỹ
xảo thực hành chung và riêng).
Nội dung đào tạo: Để thực hiện được mục tiêu đào tạo, người học cần
phải lĩnh hội một hệ thống các nội dung đào tạo gồm: Khoa học – kỹ thuật –
công nghệ; Giáo dục thể chất, quốc phòng.
Nội dung đào tạo được phân chia thành các môn học cụ thể.
Chương trình đào tạo là nội dung cơ bản, cần thiết và quan trọng trong
quá trình đào tạo. Nó là căn cứ để đánh giá chất lượng đào tạo trong các đơn
vị nhà trường.
Đầu ra của quá trình đào tạo là người lao động. Để người lao động đáp
ứng được nhu cầu của thị trường đòi hỏi các cơ sở đào tạo phải coi chất lượng
đào tạo là sự phù hợp của kết quả sản phẩm đầu ra. Vì thế các cơ sở đào tạo
cần phải nghiên cứu nhu cầu của người sử dụng lao động. Trên cơ sở đó xây
dựng khung chương trình cho phù hợp. Chương trình đào tạo phải đảm bảo


12

mục tiêu đào tạo, phải thiết kế sao cho đảm bảo điều kiện chung (chương
trình khung) là phần cứng do cơ quan chủ quản cấp trên đã phê duyệt và thống
nhất, bên cạnh đó các trường phải xây dựng phần mềm (bao gồm các tiết thảo
luận, tham quan thực tế, nói chuyện chuyên đề) để tạo ra tính đa dạng, phong
phú theo từng ngành nghề cụ thể, tạo bản sắc riêng cho mỗi trường.
Chương trình đào tạo phải tuỳ thuộc theo từng ngành nghề mà bố trí các
môn học, thời gian học sao cho phù hợp với mục tiêu đào tạo. Trong từng môn

học cũng tuỳ theo từng chuyên ngành cụ thể mà bố trí số tiết giảng cho hợp lý.
Việc sắp xếp thứ tự các môn học trong từng học kỳ cũng hết sức quan trọng,
nó phải được sắp xếp theo một trình tự logic cụ thể, hợp lý, có như vậy hoạt
động đào tạo mới diễn ra một cách trôi chảy, hài hoà, học sinh mới tiếp thu
các môn học một cách dễ dàng.
- Nhân lực (Đội ngũ giảng viên)
Đội ngũ giảng viên đóng vai trò quyết định trong các hoạt động đào tạo,
đảm bảo cho quá trình đào tạo được diễn ra theo đúng kế hoạch, có hiệu quả,
góp phần nâng cao chất lượng đào tạo của các đơn vị nhà trường.
Thầy là người truyền thụ kiến thức, dạy người, dạy nghề; trong quá
trình đào tạo, người thầy thiết kế và tổ chức các hoạt động của người học,
hướng nghiệp và khơi nguồn cảm hứng, hứng thú học tập của sinh viên, kích
thích khả năng sáng tạo, giúp sinh viên hình thành những kỹ năng, kỹ sảo, thái
độ nghề nghiệp, phẩm chất đạo đức ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường,
giúp cho người học có thể tự tin khi ra trường đáp ứng được nhu cầu của thị
trường lao động. Đó cũng là cơ sở để khẳng định vị thế và chất lượng đào tạo
của nhà trường trong điều kiện hiện nay.
Để làm được điều này thì đội ngũ giảng viên tối thiểu phải đạt chuẩn
theo quy định, nghĩa là tất cả giảng viên tham gia giảng dạy phải tốt nghiệp
đại học trở lên, phải có chứng chỉ sư phạm do Bộ Giáo dục và Đào tạo quy
định.


13

Như vậy để hoạt động đào tạo được thực hiện tốt, chất lượng đào tạo
ngày một nâng cao, trước hết phải lưu ý đến việc xây dựng đội ngũ giảng viên
không những phải đủ về mặt số lượng, mà còn phải có chất lượng. Muốn vậy
các đơn vị nhà trường phải có kế hoạch cụ thể trong việc tuyển dụng, sử dụng
và có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng nhằm nâng cao trình độ và năng lực của đội

ngũ giảng viên.
Sản phẩm của quá trình đào tạo, hay nói cách khác là đầu ra của quá
trình đào tạo là người lao động. Để người lao động đáp ứng được đòi hỏi của
thị trường lao động thì các yếu tố đầu vào phải tốt. Trong đó chất lượng, năng
lực và trình độ của đội ngũ giảng viên là điều kiện tiên quyết. Do vậy các
trường học cần có biện pháp cụ thể để nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên,
trên cơ sở đó nâng cao chất lượng đầu ra.
- Quy mô đào tạo
Theo xu thế phát triển, hàng năm nhu cầu học tập của con người và yêu
cầu của thị trường lao động tăng lên không ngừng, dẫn tới qui mô đào tạo của
các nhà truờng tăng lên.
Việc tăng quy mô đào tạo sẽ ảnh hưởng đến các hoạt động đào tạo, các
cơ sở nhà trường phải tăng cường cơ sở vật chất, tăng lực lượng giảng viên, bố
trí cơ cấu lại chương trình môn học cho phù hợp… để đảm bảo chất lượng
đào tạo. Khi đó số lượng sinh viên trong 1 lớp sẽ đông, giảng viên phải tăng
cường hơn trong việc bao quát, hướng dẫn cũng như đánh giá kết quả học tập
của mỗi thành viên trong lớp.
- Cơ sở vật chất – trang thiết bị kỹ thuật.
Cơ sở vật chất trang thiết bị dạy học có vai trò tích cực trong việc hỗ trợ
thày và trò trong các hoạt động đào tạo để nâng cao chất lượng đào tạo. Việc
nâng cấp cơ sở vật chất, trang thiết bị kỹ thuật là yêu cầu cấp thiết trong công
tác đào tạo ở nước ta hiện nay.


14

Cơ sở hạ tầng chủ yếu trong giáo dục đào tạo bao gồm các công trình:
Lớp học, phòng thí nghiệm, khu văn hoá thể thao, xưởng thực hành, Ký túc
xá… và các trang thiết bị phục vụ hoạt động dạy học như: Bảng, bàn ghế, hệ
thống máy chiếu, máy tính… Đây là những điều kiện quan trọng góp phần

đảm bảo chất lượng đào tạo của nhà trường bên cạnh các điều kiện khác như
đội ngũ giảng viên, chương trình, tài liệu học tập.
Có thể nói hiện nay cơ sở vật chất phục vụ cho quá trình đào tạo đã
được nhiều trường quan tâm. Nhiêù trường đã có các khu giảng đường
khang trang, hiện đại, đáp ứng được nhu cầu người học. Tuy nhiên còn
nhiều trường do kinh phí còn hạn hẹp, không thể đầu tư xây dựng mới được
khu giảng đường, lớp học.
Trang thiết bị kỹ thuật là nhân tố quan trọng đảm bảo nâng cao chất
lượng đào tạo. Học phải gắn với hành, lý thuyết kết hợp với thực hành. Việc
đảm bảo đủ số lượng máy móc thiết bị, các phương tiện dạy học cho học sinh
thực tập là vấn đề cấp thiết hiện nay. Thực tế cho thấy chỉ cần đủ về mặt số
lượng máy móc cho học sinh thực tập đã là vấn đề khó, chứ chưa nói gì đến
chất lượng của máy móc thiết bị. Đa phần các máy móc phục vụ cho đào
tạo hiện nay ở các trường đều đã lạc hậu so với cá doanh nghiệp và so với
các trường trên thế giới. Điều đó đã làm cản trở trong việc nâng cao chất
lượng đào tạo ở nước ta hiện nay.
Do vậy các nhà trường muốn thu hút học sinh đến học thì cần phải nỗ
lực rất nhiều để nâng cấp hệ thống nhà xưởng, trang thiết bị dạy học, các
phòng chuyên môn hoá, phòng thí nghiệm, khu giảng đường, lớp học.
- Tài liệu giảng dạy
Giáo trình là tài liệu môn học, thông qua bài giảng kết hợp với giáo
trình môn học giúp cho học sinh có thể tiếp thu bài giảng sâu hơn.
Để phù hợp với điều kiện cụ thể, các trường cần khuyến khích giảng
viên viết giáo trình và các tài liệu tham khảo nội bộ… Trong từng năm học, tài


15

liệu phải luôn luôn được sửa đổi, hiệu chỉnh bổ sung kịp thời để phù hợp với
sự phát triển của thời đại nhằm không ngừng nâng cao chất lượng đào tạo.

Giáo án là kế hoach chuẩn bị của người thầy. Thông qua giáo án, người
thầy sẽ truyền thụ kiến thức tới học sinh, vì vậy việc chuẩn bị giáo án phải
được thực hiện một cách nghiêm túc và cẩn thận nếu như muốn nâng cao chất
lượng đào tạo.
Thực tế cho thấy nếu giáo án không được chuẩn bị cẩn thận, kỹ lưỡng,
cũng như việc bố trí thời gian không hợp lý với những nội dung cụ thể cần
truyền đạt, thì chắc chắn bài giảng sẽ không đạt yêu cầu về chất lượng. Có thể
nói hiện nay việc chuẩn bị giáo án của giảng viên là chưa tốt, do đó ít nhiều
ảnh hưởng tới chất lượng đào tạo, nhất là đối với giảng viên trẻ. Vì vậy để
nâng cao chất lượng đào tạo, các trường cần phải coi trọng vấn đề này, luôn
luôn có sự kiểm tra sát sao và có biện pháp sử lý kịp thời với những giảng viên
không có giáo án, không chuẩn bị tốt giáo án khi lên lớp.
- Nguồn lực tài chính
Tài chính trong giáo dục là sử dụng chính sách tiền tệ, quản lý tiền tệ
theo mục đích của giáo dục mà nhà nước có trách nhiệm. Nhà trường, các cơ
sở đào tạo đều do nhà nước chỉ đạo thống nhất, nên phải tuân thủ các quy định
do nhà nước ban hành. Với mục tiêu là hình thành „‟nhân cách – sức lao
động‟‟ với quan điểm „‟giáo dục là quốc sách hàng đầu‟‟. Đồng tiền vận động
vào hoạt động giáo dục đào tạo góp phần củng cố hình thái ý thức xã hội, thúc
đẩy sự hình thành và phát triển sức lao động để có thể tham gia vào thị trường
lao động trong bối cảnh toàn cầu hoá.
Người ta thường minh hoạ luận đề: “Giáo dục là quốc sách hàng đầu‟‟
qua công thức: [24,tr.239]
Giáo dục
Là quốc sách hàng đầu
=
Chính sách giáo dục về
mặt tổ chức sư phạm
+
Ngân sách

giáo dục


16

Chất lượng giáo dục phụ thuộc vào nguồn lực tài chính. Đây là nhân tố
gián tiếp ảnh hưởng đến chất lượng đào tạo. Nếu không có nguồn tài chính dồi
dào chắc chắn không thể đầu tư cho việc xây dựng cơ sở vật chất, trang thiết
bị dạy học phục vụ cho quá trình đào tạo.
Mặt khác, muốn có đội ngũ giảng viên giỏi, có trình độ, có năng lực
thực sự thì nhà trường phải đưa ra mức thù lao hấp dẫn cũng như chính sách
đãi ngộ thoả đáng.
Hơn nữa khi không đủ nguồn lực tài chính, chắc chắn vật tư, trang thiết
bị máy móc phục vụ cho quá trình đào tạo cũng thiếu. Với tình trạng đó dễ
hiểu vì sao chất lượng đào tạo sẽ không cao.
Như vậy tăng nguồn kinh phí là điều cần thiết để tăng chất lượng đào
tạo hiện nay. Nhưng nếu tăng mức học phí thì nguồn này là do nhà nước quy
định.
Để đa dạng hoá các nguồn tài chính, các trường có thể liên doanh, liên
kết đào tạo, vay mượn từ các tổ chức khác. Có như vậy mới huy động được
nhiều nguồn để bổ sung vào mua sắm trang thiết bị vật tư phục vụ cho quá
trình đào tạo.
- Chất lượng tuyển sinh đầu vào
Các đối tượng này phần lớn ở lứa tuổi 18, có đặc điểm chung của lứa
tuổi thanh niên mới lớn, đa phần ý thức học tập chưa cao, cuộc sống tự lập còn
hạn chế. Do vậy khi rời gia đình để đi học, các em rất cần đến sự quan tâm của
đội ngũ giảng viên và cán bộ quản lý. Các ảnh hưởng tiêu cực cũng dễ tác
động mạnh vào lứa tuổi này. Việc tổ chức quản lý và giáo dục học sinh là rất
cần thiết, giúp các em có thái độ đúng đắn trong quá trình học tập và rèn
luyện.

Thực tế do sự phát triển của các trường về số lượng học sinh, về quy mô
đào tạo chưa tương xứng với sự phát triển về cơ sở vật chất, số học sinh trong
một lớp học là rất cao cũng là một vấn đề khó khăn trong hoạt động đào tạo.


17

1.1.3.2. Nhóm các yếu tố bên ngoài
- Các yếu tố về cơ chế chính sách của nhà nước
“Đại hội IX của Đảng đã khẳng định mục tiêu tổng quát của chiến lược
phát triển kinh tế xã hội 2001 – 2010 là “Đưa đất nước ta ra khỏi tình trạng
kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất, văn hoá, tinh thần của nhân
dân, tạo nền tảng đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công
nghiệp theo hướng hiện đại hoá”.
Mục tiêu phát triển của bậc học cao đẳng, đại học là: “Đáp ứng nhu cầu
nguồn lực có trình độ cao phù hợp với cơ cấu kinh tế xã hội của thời kỳ CNH
– HĐH. Tăng cường năng lực thích ứng với việc làm trong xã hội, tạo việc
làm cho mình, cho người khác, nâng cao tỷ lệ sinh viên trên một vạn dân từ
118 lên 200 vào năm 2010, tăng quy mô đào tạo thạc sỹ từ 11.727 lên 38.000,
nghiên cứu sinh từ 3.870 lên 15.000 vào năm 2010”.
Cơ chế chính sách của nhà nước ảnh hưởng rất lớn tới sự phát triển của
giáo dục đại học, cao đẳng và THCN về cả quy mô, cơ cấu và chất lượng đào
tạo. Sự tác động của cơ chế, chính sách của nhà nước đến chất lượng đào tạo
thể hiện ở các khía cạnh sau:
Khuyến khích hoặc kìm hãm mức độ cạnh tranh trong đào tạo, tạo ra
môi trường bình đẳng cho các cơ sở đào tạo cùng phát triển nâng cao chất
lượng hay không.
Khuyến khích hay kìm hãm việc huy động các nguồn lực để tiến
hành nâng cao chất lượng cũng như mở rộng liên kết, hợp tác quốc tế
trong đào tạo.

Các chính sách về đầu tư, về tài chính đối với các cơ sở đào tạo THCN;
Hệ thống đánh giá, kiểm định, các chuẩn mực đánh giá chất lượng đào tạo,
quy định về quản lý chất lượng đào tạo và cơ quan chịu trách nhiệm giám sát
việc kiểm định chất lượng đào tạo THCN.


18

Các chính sách về lao động, việc làm và tiền lương của lao động qua
đào tạo, chính sách đối với giáo viên và học sinh ở bậc giáo dục chuyên
nghiệp.
Các quy định trách nhiệm và mối quan hệ giữa các cơ sở đào tạo và
người sử dụng lao động, quan hệ giữa nhà trường và các cơ sở sản xuất.
Tóm lại: Cơ chế chính sách tác động đến tất cả các khâu từ đầu vào, đến
quá trình đào tạo và đầu ra của các trường.
- Các yếu tố về môi trường
Xu thế toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế tác động đến tất cả các mặt đời
sống xã hội của đất nước, đòi hỏi chất lượng đào tạo của Việt Nam phải được
nâng lên để sản phẩm tạo ra đáp ứng nhu cầu của thị trường khu vực và thế
giới. Đây cũng là cơ hội cho giáo dục nghề nghiệp nhanh chóng tiếp cận trình
độ tiên tiến.
Phát triển khoa học và công nghệ yêu cầu người lao động phải thường
xuyên học tập để nắm bắt kịp thời và làm chủ công nghệ mới, đòi hỏi các
nhà trường phải cải tiến, đổi mới các hoạt động đào tạo bao gồm: nội dung,
chương trình, phương pháp cho phù hợp, đổi mới trang thiết bị cho học tập
và nghiên cứu.
Kinh tế xã hội phát triển làm cho nhận thức của xã hội và công chúng
về giáo dục nghề nghiệp được nâng lên, người học ngày càng khẳng định được
vị thế, vai trò của mình trong sự nghiệp CNH – HĐH đất nước. Từ đó cơ hội
thu hút đầu tư cho giáo dục nghề nghiệp ngày càng tăng lên, các nhà trường

ngày càng có điều kiện hoàn thiện cơ sở vật chất, cải thiện chất lượng đào tạo.
Thị trường lao động phát triển và hoàn thiện tạo ra môi trường cạnh tranh lành
mạnh cho các cơ sở đào tạo nâng cao chất lượng.

1.1.4. Khái niệm Quản lý – Quản lý nhà trường nhà trường.


19

Quản lý là một loại hình lao động quan trọng nhất trong các hoạt động
của con người. Quản lý đúng tức là con người đã nhận thức được quy luật, vận
động theo quy luật và sẽ đạt được những thành công to lớn. Theo Tự điển
Tiếng Việt thông dụng thì Quản lý là: Tổ chức, điều khiển hoạt động của một
đơn vị, cơ quan.[11] Trong cuốn “Những vấn đề cốt yếu của quản lý” Harold
Koontz khẳng định: Quản lý là một hoạt động thiết yếu, nó đảm bảo phối hợp
những nỗ lực hoạt động cá nhân nhằm đạt được các mục đích của nhóm (tổ
chức). Mục tiêu của quản lý là hình thành một môi trường mà trong đó con
người có thể đạt đựoc các mục đích của nhóm với thời gian, tiền bạc, vật chất
và sự bất mãn cá nhân ít nhất. Trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội,
con người muốn tồn tại và phát triển đều phải dựa vào sự nỗ lực của cá nhân,
của một tổ chức, từ một nhóm nhỏ đến phạm vi rộng lớn hơn ở tầm quốc gia,
quốc tế, đều phải thừa nhận và chịu một sự quản lý nào đó. C. Mác đã
viết:”Tất cả mọi lao động xã hội trực tiếp hay lao động chung nào tiến hành
trên quy mô tương đối lớn, thì ít nhiều cũng cần đến một sự chỉ đạo để điều
hoà những hoạt động cá nhân và thực hiện những chức năng chung phát sinh
từ sự vận động của toàn bộ cơ thể sản xuất khác với sự vận động của những
khí quan độc lập của nó. Một người độc tấu vĩ cầm tự mình điều khiển lấy
mình, còn một dàn nhạc thì cần phải có nhạc trưởng”
Ngày nay thuật ngữ quản lý đã trở nên phổ biến, nhưng chưa có một
định nghĩa thống nhất. Có người cho quản lý là hoạt động nhằm đảm bảo sự

hoàn thành công việc thông qua sự nỗ lực của người khác. Cũng có người cho
quản lý là một hoạt động thiết yếu nhằm đảm bảo sự phối hợp những nỗ lực cá
nhân nhằm đạt được mục đích của nhóm. Nhiều người cho rằng: Quản lý
chính là các hoạt động do một hoặc nhiều người điều phối hành động của
những người khác nhằm thu được kết quả mong muốn.[24,tr.12]
Hai tác giả Nguyến Quốc Chí và Nguyến Thị Mỹ Lộc nhấn mạnh khía
cạnh Quản lý là chức năng đặc biệt của mọi tổ chức:”Hoạt động quản lý là tác


20

động có định hướng, có chủ đích của chủ thể quản lý (người quản lý) đến
khách thể quản lý (người bị quản lý) trong một tổ chức nhằm làm cho tổ chức
vận hành và đạt được mục đích của tổ chức”.
Xét về mặt tổ chức và kỹ thuật của hoạt động quản lý, quản lý chính là
sự kết hợp được mọi nỗ lực chung của con người trong tổ chức và việc sử
dụng tốt của cải vật chất thuộc phạm vi sở hữu của tổ chức để đạt tới mục tiêu
chung của tổ chức và mục tiêu riêng của mỗi người một cách khôn khéo và có
hiệu quả nhất. Quản lý phải trả lời được các câu hỏi:‟‟ Phải đạt được mục tiêu
nào đề ra?‟‟, “Phải đạt mục tiêu đó như thế nào và bằng cách nào?‟‟, “Phải thu
hút, lôi kéo thêm ai và bằng cách nào?‟‟, “Phải đấu tranh với thế lực nào và
đấu tranh như thế nào?‟‟
Từ những ý chung của các định nghĩa, xét quản lý với tư cách là một
hành động, có thể định nghĩa: Quản lý là sự tác động có tổ chức, có hướng
đích của chủ thể quản lý tới đối tượng quản lý nhằm sử dụng có hiệu quả
nhất các tiềm năng, các cơ hội của tổ chức để đạt được mục tiêu đề ra trong
điều kiện biến động của môi trường.
Quản lý nhà trường
Theo M.I.Kônđacốp:‟‟Nhà trường là một thiết chế đặc biệt của xã hội, là
nơi thực hiện các chức năng kiến tạo các kinh nghiệm xã hội cho một nhóm

dân cư được huy động vào sự kiến tạo này một cách tối ưu theo quan niệm xã
hội, thực hiện chức năng tạo nguồn cho các yêu cầu của xã hội, đào tạo các
công dân cho tương lai‟‟.
Ngay khi mở đầu cuộc kháng chiến chống Pháp, năm 1947 Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã chỉ thị:”Sự học tập trong nhà trường có ảnh hưởng rất lớn cho
tương lai cuat thanh niên và tương lai của thanh niên là tương lai của nước
mình. Vì vậy cốt nhất là phải dạy cho học trò biết yêu nước thương nòi… phải
dạy cho họ có ý trí tự lập tự cường quyết không chịu thua kém ai, quyết không
chịu làm nô lệ”.[24, tr.217]


21

Như vậy trường học là một bộ phận của hệ thống xã hội mà ở đó tiến
hành quá trình giáo dục đào tạo, gọi chung là “cơ sở giáo dục”.
Luật Giáo dục 2005 ghi rõ: Nhà trường trong hệ thống giáo dục quốc
dân được tổ chức theo các loại hình sau đây:
- Trường công lập do nhà nước thành lập, đầu tư xây dụng cơ sở vật
chất, bảo đàm kinh phí cho các nhiệm vụ chi thường xuyên;
- Trường dân lập do cộng đồng dân cư ở cơ sở thành lập, đầu tư xây
dựng cơ sở vật chất và bảo đảm kinh phí hoạt động.
- Trường tư thục do các tổ chức xã hội, tổ chức xã hội – nghề nghiệp, tổ
chức kinh tế hoặc cá nhân thành lập, đầu tư xây dựng cơ sở vật chất và bảo
đảm kinh phí hoạt động bằng vốn ngoài ngân sách nhà nước.
- Nhà trường trong hệ thống giáo dục quốc dân thuộc mọi loại hình đều
được thành lập theo quy hoạch, kế hoạch của nhà nước nhằm phát triển sự
nghiệp GD&ĐT‟‟. Nhà nước tạo điều kiện để trường công lập giữ vai trò nòng
cốt trong hệ thống giáo dục quốc dân.(5,chương 3).
Bản chất của việc quản lý nhà trường là quản lý hoạt động dạy – học,
tức là làm sao đưa hoạt động đó từ trạng thái này sang trạng thái khác để dần

tiến tới mục tiêu giáo dục. Như vậy “Quản lý nhà trường‟‟ chính là một bộ
phận của quản lý giáo dục. Tác giả Phạm Viết Lượng quan niệm: “QL nhà
trường là hoạt động của cơ quan quản lý nhằm tập hợp và tổ chức các hoạt
động của giáo viên, học sinh và các lực lượng giáo dục khác, cũng như huy
động tối đa các nguồn lực giáo dục để nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo
trong nhà trường‟‟. Một cách tổng quát: QL nhà trường là quá trình nắm
vững các văn bản pháp quy, nắm vững thực trạng nhà trường về CB,GV và
các điều kịên vật chất, nắm được các thông tin về môi trường, từ đó lựa
chọn, sắp xếp, hướng dẫn thực hiện các quyết định QL theo một phương án
tối ưu, nhằm làm cho các đối tượng QL vân động hướng tới việc thực hiện
có hiệu quả các nhiệm vụ của nhà trường.


22

Có thể thấy công tác QL trường học bao gồm QL các tác động qua lại
giữa trường học và xã hội, đồng thời QL chính nhà trường. Có thể phân tích
quá trình giáo dục của nhà trường như một hệ thống bao gồm các thành tố:
- Thành tố vật chất của nhà trường: Bao gồm toàn bộ “cái vỏ vật
chất‟‟ của nhà trường, đó là: ngôi trường với các phòng học, phòng làm
việc của Hội đồng giáo viên, phòng làm việc của Hiệu trưởng và các phó
hiệu trưởng…; sân chơi, bãi tập, bàn ghế, bảng tủ, các đồ dùng dạy học,
sách giáo khoa, thưi viên…
Cái vỏ vật chất ấy là kết tinh, là thành quả hoạt động của các thành tố
khác của hệ thống lớn, hệ thống toàn xã hội.
- Thành tố con người của nhà trường: Bao gồm trước hết là hai thành
viên cơ bản của nhà trường: người dạy và người học, ngoài ra là những thành
viên trực tiếp liên quan đến hoạt động của nhà trường: đội ngũ cán bộ công
nhân viên, lao công, bảo vê., nhân viên hành chính, kế toán, thủ quỹ văn thư…
Thành tố con người của nhà trường còn bao gồm tất cả các cán bộ quản lý như

Hiệu trưởng, phó hiệu trưởng. Hơn nữa còn bao gồm cả các bậc phụ huynh
học sinh, các tổ chức, đoàn thể tồn tại hoạt động trong nhà trường.
- Thành tố tinh thần/ý thức của nhà trường: Đó là toàn bộ các tri thức,
kỹ năng, tháo độ mà xã hội đã tích luỹ được tái tạo và phát triển trong nhà
trường thông qua hoạt động giảng dạy giáo dục học tập trong nhà trường.
- Thành tố quá trình của nhà trường: Quá trình cơ bản, chủ yếu, có
tính chất “thống trị‟‟ của nhà trường không phải là cái gì khác ngoài quá
trình sư phạm. Ngoài ra còn các quá trình thứ yếu – tuy không kém phần
quan trọng khác thuộc về thành tố quá trình của nhà trường, chẳng hạn như
quá trình xây dựng trường lớp (vật chất), quá trình xây dựng và phát triển
đội ngũ giáo viên…[17. tr.34]
QL nhà trường là quản lý hệ thống xã hội sư phạm chuyên biệt, hệ
thống này đòi hỏi những tác động có ý thức, có khoa học và có tính hướng


23

đích của chủ thể QL trên tất cả các mặt của đời sống của nhà trường. Như vậy
QL nhà trường thực chất là QL lao động sư phạm của thầy, hoạt động học tập,
tự giáo dục của trò, diễn ra chủ yếu trong quá trình dạy học; là QL tập thể giáo
viên và học sinh để chính họ lại QL (đối với giáo viên) và tự QL (đối với học
sinh) trong quá trình dạy – học. Đồng thời QL nhà trường còn bao gồm QL
các công việc khác có tính chất điều kiện như: Đội ngũ, tổ chức hoạt động của
các đoàn thể trong trường, QL cơ sở vật chất, chăm lo đời sống vật chất, tinh
thần cho cán bộ, công chức và học sinh.
1.1.5. Các chức năng của quản lý
Chức năng quản lý là hình thức biểu hiện sự tác động có chủ đích của
chủ thể quản lý lên khách thể quản lý. Là tập hợp các nhiệm vụ mà chủ thể
quản lý phải thực hiện để đạt mục đích và mục tiêu quản lý đề ra.
Henri Fayol (1841-1925) xuất phát từ các loại hình “hoạt động quản lý”,

ông là người đầu tiên trên cơ sở xác định rõ công việc mà mỗi thành viên của
tổ chức phải làm đã phân biệt chúng thành năm chức năng cơ bản: Kế hoạch
hoá, tổ chức, chỉ huy, phối hợp và kiểm tra mà sau này được kết hợp thành
bốn chức năng: Kế hoạch hoá, tổ chức, chỉ đạo, kiểm tra.
1.1.5.1. Chức năng kế hoạch hoá
Là căn cứ vào thực trạng ban đầu của tổ chức và nhiệm vụ được giao
mà vạch ra mục tiêu của tổ chức trong từng thời kỳ, từng giai đoạn, từ đó tìm
ra con đường, biện pháp, cách thức đưa tổ chức đạt mục tiêu đó. Việc lập kế
hoạch cần quyết định xem phải làm những gì, làm như thế nào, làm khi nào và
ai làm. Lập kế hoạch là hoạt động suy tính trước mọi công việc, đòi hỏi sự
cân nhắc, bàn bạc của nhiều người, càng có nhiều người tham gia suy nghĩ thì
ý thức tập thể và tinh thần trách nhiệm chung càng được nâng cao. Việc lập kế
hoạch là cơ sở đảm bảo cho quá trình quản lý đạt hiệu quả cao, nó thay thế cho
các hoạt đồng rời rạc, tuỳ tiện.

×