ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA SƯ PHẠM
GIÁP VĂN CỬ
QUẢN LÝ CƠNG TÁC XÃ HỘI HỐ GIÁO DỤC
MẦM NON Ở THÀNH PHỐ BẮC GIANG
TỈNH BẮC GIANG
LUẬN VĂN THẠC SỸ QUẢN LÝ GIÁO DỤC
CHUYÊN NGÀNH “ QUẢN LÝ GIÁO DỤC”
MÃ SỐ: 60.1405
Người hướng dẫn khoa học
PGS.TS NGUYỄN VĂN LÊ
HÀ NỘI – 2006
MỤC LỤC
Mở đầu
1. Lý do chọn đề tài …………………………………………………………..
1
2. Mục đích nghiên cứu ……………………………………………………….
3
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu …………………………………
3
4. Nhiệm vụ nghiên cứu…………………………………………………………..
3
5. Giả thuyết khoa học …………………………………………………………...
3
6. Giới hạn phạm vi nghiên cứu ……………………………………………..
3
7. Các phương pháp nghiên cứu
4
8 Cấu trúc nội dung luận văn
4
Chương 1: Cơ sở lý luận về quản lý công tác xã hội hoá giáo dục mầm non
1.1. Vài nét về lịch sử nghiên cứu vấn đề ……………………………….……
5
1.2. Giáo dục mầm non trong hệ thống giáo dục quốc dân
14
1.3. Quan niệm về cơng tác xã hội hố giáo dục ……………….………..……
17
1.4. Quan niệm về cơng tác xã hội hố giáo dục mầm non…...……….......
21
1.4.1. Bản
chất
của
cơng
tác
XHHGD
mầm
non
21
…………….................................
1.4.2. Vai trị của cơng tác xã hội hố giáo dục mầm non …….…………........
24
1.4.3. Một số nguyên tắc chỉ đạo việc thực hiện cơng tác xã hội hố
giáo dục mầm non ……………...................................................................................
29
1.4.4. Nội dung của cơng tác xã hội hố giáo dục mầm non …………........
33
Chương 2: Thực trạng xã hội hố giáo dục và quản lý cơng tác xã hội
hố giáo dục mầm non ở thành phố Bắc Giang
2.1 Vài nét về giáo dục và XHH giáo dục ở thành phố Bắc Giang
……….
39
2.2. Thực trạng cơng tác xã hội hóa giáo dục mầm non ở thành phố
Bắc Giang ……………......................................................................................................
47
2.3. Thực trạng trong quản lý cơng tác xã hội hố giáo dục mầm non ở
thành phố Bắc Giang ……….......................................................................................
64
2.4 Đánh giá kết quả và phân tích ưu nhược điểm trong việc thực hiện
67
và quản lý công tác XHHGD mầm non ở thành phố Bắc Giang
……….....................................................................................................................
Chương 3: Một số biện pháp quản lý cơng tác xã hội hố giáo dục mầm
non ở thành phố Bắc Giang
3.1 Mục tiêu và định hướng phát triển giáo dục - đào tạo thành phố Bắc
Giang từ nay đến 2010
76
3.1.1 Mục tiêu chung ………………………………………………………………………..
76
3.1.2 Mục tiêu cụ thể ………………………………………………………………………….
76
3.1.3 Mục tiêu XHHGD trên địa bàn thành phố Bắc Giang …………………… 77
3.2 Các quan điểm và nguyên tắc chỉ đạo việc thực hiện XHHGD ở
77
thành phố Bắc Giang
3.2.1 Các quan điểm ………………………………………………………………………….
77
3.2.2 Các nguyên tắc ………………………………………………………………………….
78
3.3 Một số biện pháp quản lý công tác xã hội giáo dục mầm non ở thành
phố Bắc Giang ………………………………………………………………………
3.3.1. Tổ chức giáo dục nhằm nâng cao nhận thức về cơng tác xã hội
hố giáo dục mầm non .............................................................................................
80
81
3.3.2. Xây dựng kế hoạch phát triển giáo dục mầm non đáp ứng yêu
cầu phát triển sự nghiệp giáo dục, kinh tế – xã hội của địa phương
83
…...
3.3.3. Tổ chức huy động các lực lượng xã hội tham gia cơng tác xã hội
hố giáo dục mầm non ……………...........................................................................
84
3.3.4. Tổ chức các phong trào thi đua có tính xã hội nhằm thực hiện
mục tiêu giáo dục mầm non ……………................................................................
88
3.3.5. Xây
dựng
và
vận
dụng
cơ
chế
điều
hành
……………....................................
3.4
Khảo nghiệm về tính cấp thiết và tính khả thi của các biện pháp
90
100
Kết luận và khuyến nghị ……………........................................................
104
Danh mục tài liệu tham khảo ................................................................................................
109
Phụ lục ...............................................................................................................................................................
112
BẢNG CHÚ THÍCH VIẾT TẮT
CBQL
CÁN BỘ QUẢN LÝ
CMHS
Cha mẹ học sinh
CNH-HĐH
CƠNG NGHIỆP HỐ- HIỆN ĐẠI
HỐ
CHXHCN
Cộng hồ xã hội chủ nghĩa
CSVC
CƠ SỞ VẬT CHẤT
GD-ĐT
Giáo dục - đào tạo
GDMN
GIÁO DỤC MẦM NON
GV
Giáo viên
HS
HỌC SINH
HĐND
Hội đồng nhân nhân
KT-XH
KINH TẾ – XÃ HỘI
SOS
Làng trẻ em
LHPN
LIÊN HIỆP PHỤ NỮ
QL
Quản lý
TBXH
THƯƠNG BINH XÃ HỘI
TH
Tiểu học
THCS
TRUNG HỌC CƠ SỞ
THPT
Trung học phổ thông
TTGDTX
TRUNG TÂM GIÁO DỤC
THƯỜNG XUYÊN
UBND
Uỷ ban nhân dân
VHTT
VĂN HỐ THỂ THAO
XHHGD
Xã hội hố giáo dục
MỞ ĐẦU
1- Lý do chọn đề tài
Giáo dục có một vài trò đặc biệt quan trọng đối với sự tồn tại và phát
triển của mỗi dân tộc cũng như của toàn thể nhân loại. Lịch sử phát triển xã
hội ngày càng khẳng định vai trò, tác dụng to lớn của giáo dục đối với kinh tế
– xã hội. Giáo dục là điều kiện cơ bản và là động lực quan trọng bậc nhất thúc
đẩy sản xuất, thúc đẩy sự phát triển kinh tế – xã hội. Ngày nay, chúng ta đang
bước vào thời đại của cơng nghệ thơng tin, tồn cầu hố, kinh tế tri thức,
trong đó vấn đề giáo dục, văn hoá, con người nổi lên hàng đầu. Ở nhiều nước,
vấn đề này trở thành trung tâm của chiến lược phát triển đất nước. Ở Việt
Nam, quan điểm đó đã được thể hiện trong nhiều văn bản, Nghị quyết của
Đảng, Nhà nước như văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX Đảng
cộng sản Việt Nam đã ghi “…văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là
mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế – xã hội; nguồn lực
con người là yếu tố cơ bản của sự phát triển nhanh và bền vững; giáo dục và
đào tạo, khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu”.
Chiến lược giáo dục, chiến lược con người là bộ phận quan trọng của
chiến lược kinh tế – xã hội. Thời đại mới đặt ra nhiều yêu cầu mới đối với
giáo dục. Từ một nền kinh tế bao cấp chuyển sang nền kinh tế thị trường theo
định hướng xã hội chủ nghĩa, mở cửa hội nhập, thực hiện cơng nghiệp hố,
hiện đại hố đất nước, nhằm mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh” đã tạo ra nhiều biến đổi to lớn, nhanh chóng.
Những biến đổi này ảnh hưởng tích cực, trực tiếp đến sự nghiệp giáo dục,
như: Nhà nước đã đầu tư toàn diện, mạnh mẽ cho giáo dục và tiến hành đổi
mới tổng thể hệ thống giáo dục, giáo dục đang thực sự trở thành quốc sách
hàng đầu: nhà nhà, người người cùng quan tâm đến giáo dục, nhưng cũng có
những ảnh hưởng tiêu cực như: tư nhân hoá giáo dục, thị trường hoá giáo dục,
chạy theo bằng cấp, thi cử… Giáo dục đứng trước những thời cơ phát triển
đặc biệt thuận lợi, nhưng cũng đang đối mặt với nhiều thách thức to lớn. Bởi
1
chức năng chủ yếu của giáo dục là hình thành và phát triển nhân cách thế hệ
trẻ. Phát triển giáo dục không phải chỉ quan tâm đến qui mô, tốc độ, số lượng
mà đặc trưng chủ yếu là tổ chức các q trình giáo dục, thơng qua việc tổ
chức dạy và học dưới nhiều hình thức tổ chức giảng dạy và giáo dục nhằm
chuẩn bị cho thế hệ trẻ đi vào cuộc sống xã hội. Nhất là đối với giáo dục mầm
non mà đặc trưng của nó là mang tính giáo dục gia đình và tính tự nguyện
cao. Trẻ em hôm nay sẽ là chủ nhân đất nước những thập niên đầu thế kỷ
XXI, vì thế cần phải bắt đầu từ việc chăm sóc, giáo dục trẻ em tuổi mầm non
và trách nhiệm này không chỉ thuộc về các nhà trường mầm non, mà cịn là
trách nhiệm của gia đình và của toàn xã hội để thực hiện được việc đặt nền
móng cho sự hình thành và phát triển nhân cách trẻ thơ.
Luật Giáo dục năm 2005 của nước CHXHCN Việt Nam khẳng định rõ ở
điều 12 về “Xã hội hoá sự nghiệp giáo dục”.
Theo tinh thần của luật giáo dục, công tác quản lý chỉ đạo, phát triển
giáo dục mầm non cần gắn với công tác vận động xã hội mới đem lại hiệu quả
cao. Tính phong trào là đặc điểm riêng và là quy luật phát triển của giáo dục
mầm non, vì vậy phải phối hợp giữa các bộ, ban ngành và các đồn thể xã
hội thì mới phát triển được giáo dục mầm non. Công tác quản lý cần quán
triệt sâu sắc đặc điểm này mới có thể đưa giáo dục mầm non phát triển một
cách căn bản và có chất lượng.
Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã chỉ rõ:
“Chăm lo phát triển giáo dục mầm non”, thực hiện “Chuẩn hoá, hiện đại hoá,
xã hội hoá”. Xã hội hoá giáo dục mầm non là một quy luật và là khâu then
chốt để thực hiện “chuẩn hoá,” “hiện đại hoá”. Thực hiện chủ trương của
Đảng và Nhà nước ta đến năm 2020 là: “Xây dựng hoàn chỉnh và phát triển
bậc học mầm non cho hầu hết trẻ em trong độ tuổi. Phổ biến kiến thức ni
dạy trẻ cho các gia đình”.
Từ lý luận về cơng tác xã hội hố giáo dục mầm non đã nêu rõ yêu cầu
của việc thực hiện xã hội hố giáo dục, trong đó có cơng tác quản lý xã hội
hoá giáo dục mầm non, thực tiễn giáo dục mầm non và quản lý giáo dục mầm
2
non ở thành phố Bắc Giang đã có những kết quả nhất định. Số trẻ được ra lớp
với tỷ lệ tương đối cao so với mặt bằng chung của cả nước (66%). Tuy nhiên,
vẫn còn những hạn chế tồn tại trong quản lý, trong đó có quản lý cơng tác xã
hội hố giáo dục mầm non. Vì thế, việc nghiên cứu để chỉ ra cơ sở lý luận,
thực trạng của việc quản lý cơng tác xã hội hố giáo dục mầm non là một yêu
cầu cấp bách và cần thiết. Chính vì những lý do trên, tơi chọn đề tài “Biện
pháp quản lý cơng tác xã hội hố giáo dục mầm non ở thành phố Bắc Giang ”
để nghiên cứu.
2- Mục tiêu nghiên cứu
Đề xuất một số biện pháp quản lý cơng tác xã hội hố giáo dục mầm non
góp phần làm cho cơng tác xã hội hố giáo dục mầm non ở thành phố Bắc
Giang đạt kết quả tốt hơn.
3- Khách thể và đối tƣợng nghiên cứu:
Khách thể nghiên cứu: Hoạt động cơng tác xã hội hố giáo dục mầm
non ở thành phố Bắc Giang.
Đối tượng nghiên cứu: Các biện pháp quản lý cơng tác xã hội hố giáo
dục mầm non ở thành phố Bắc Giang.
4- Nhiệm vụ nghiên cứu
4.1 Nghiên cứu cơ sở lý luận, xã hội hoá giáo dục và quản lý cơng tác
xã hội hố giáo dục mầm non.
4.2 Khảo sát thực trạng công tác xã hội hoá giáo dục mầm non và
quản lý xã hội hoá giáo dục mầm non ở thành phố Bắc Giang.
4.3 Đề xuất một số biện pháp quản lý công tác xã hội hoá giáo dục
mầm non ở thành phố Bắc Giang, kiểm định tính cấp thiết và tính khả thi
của các biện pháp nêu ra.
5- Giả thuyết khoa học
Việc quản lý cơng tác xã hội hố giáo dục mầm non ở thành phố Bắc
Giang đã có những kết quả nhất định. Tuy nhiên, vẫn còn tồn tại do nhiều yếu
tố chủ quan, khách quan. Do đó, nếu đề xuất và triển khai những biện pháp
quản lý công tác xã hội hố giáo dục mầm non thích hợp đáp ứng u cầu của
3
sự nghiệp giáo dục mầm non hiện nay thì cơng tác xã hội hoá giáo dục mầm
non ở thành phố Bắc Giang có hiệu quả hơn.
6- Giới hạn, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng tập trung nghiên cứu công tác xã hội hoá giáo dục mầm non
và quản lý xã hội hoá giáo dục mầm non ở thành phố Bắc Giang .
Việc đánh giá thực trạng công tác này chủ yếu từ 2001 đến nay.
7 - Các phƣơng pháp nghiên cứu
7.1 - Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận
Phân tích tổng hợp khái quát các tài liệu lý luận về công tác xã hội hố
giáo dục mầm non.
7.2 - Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
+ Phương pháp quan sát các hoạt động xã hội hoá giáo dục ở các trường
mầm non để thu thập số liệu, phát hiện những vấn đề mới.
+ Phương pháp điều tra: các đối tượng cán bộ quản lý, giáo viên, cha mẹ
học sinh để đánh giá thực trạng.
+ Trò chuyện phỏng vấn sâu một số chuyên gia giáo dục mầm non Sở
Giáo dục và Đào tạo Bắc Giang, Phòng Giáo dục thành phố Bắc Giang để có
thêm thơng tin cụ thể, chính xác.
7.3 - Phương pháp thống kê tốn học: Sử dụng các cơng thức toán thống
kê để xử lý kết quả khảo sát.
8. Cấu trúc nội dung luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và khuyến nghị, danh mục tàu liệu tham
khảo, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục nội dung luận văn được cấu trúc
thành 3 chương:
Chƣơng 1: Cơ sở lý luận về quản lý cơng tác xã hội hố giáo dục mầm non.
Chƣơng 2: Thực trạng xã hội hoá giáo dục và quản lý cơng tác xã hội hố
giáo dục mầm non ở thành phố Bắc Giang.
Chƣơng 3: Một số biện pháp quản lý cơng tác xã hội hố giáo dục mầm non
ở thành phố Bắc Giang.
4
Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ
CÔNG TÁC XÃ HỘI HOÁ GIÁO DỤC MẦM NON
1.1- Vài nét về lịch sử nghiên cứu vấn đề
1.1.1- Nghiên cứu vấn đề xã hội hố giáo dục nói chung.
Nhìn từ bản chất vấn đề, xã hội hố giáo dục khơng phải là vấn đề hồn
tồn mới. Đó là bước phát triển mới của một chủ trương giáo dục được thực
thi từ nhiều năm qua: Giáo dục là sự nghiệp của quần chúng. Lật lại những
trang sử dựng nước và giữ nước của dân tộc, chân lý về vai trò của quần
chúng nhân dân đã được khẳng định. Người anh hùng dân tộc Nguyễn Trãi đã
từng tổng kết rằng: “Dâng thuyền lên cũng là dân, lật thuyền lên cũng là
dân”. Tư tưởng “lấy dân làm gốc” đã thể hiện sâu sắc trong quá trình phát
triển lịch sử dân tộc và trở thành bản sắc độc đáo của dân tộc Việt Nam. “Dễ
trăm lần không dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong”. Đảng ta đã
vận dụng sáng tạo Chủ nghĩa Mác – Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, ln nêu
cao khẩu hiệu: “Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng”. Những tư tưởng
đó đã được vận dụng có hiệu quả trong công tác giáo dục và trở thành sức
sống tiềm tàng trong truyền thống giáo dục Việt Nam.
Sau cách mạng tháng Tám (1945) thành công, một trong những nhiệm
vụ cấp bách của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà là tiêu diệt “giặc dốt”,
nâng cao dân trí và xây dựng nền giáo dục mới. Vào thời điểm đó, có hơn
95% người Việt Nam mù chữ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kịp thời phát động
chiến dịch chống nạn mù chữ trong toàn dân. Trên mặt trận diệt giặc dốt, các
chiến dịch xố nạn mù chữ, bình dân học vụ diễn ra hết sức sơi nổi, nhanh
chóng nâng cao trình độ dân trí cho nhân dân. Bài học thành cơng là biết phát
huy sức mạnh của toàn dân tộc: “Toàn dân diệt dốt”.
5
Đất nước được hồn tồn thống nhất, chúng ta có điều kiện thuận lợi hơn
để phát triển sự nghiệp giáo dục. Ở giai đoạn này, giáo dục Việt Nam cũng đã
đạt được một số kết quả nhất định, thống nhất được hệ thống giáo dục của hai
miền Nam – Bắc. Song do cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, nền giáo dục
của chúng ta đã không khai thác triệt để bài học cực kỳ q giá đó. Thay vì
thực hiện “sự quản lý giáo dục của Nhà nước”, chúng ta đã “Nhà nước hoá
giáo dục”, làm cho ngành giáo dục rơi vào thế đơn độc, không thu hút được
các nguồn lực của tồn xã hội. Do đó, cơ sở vật chất của giáo dục xuống cấp
và lạc hậu, động lực của người dạy và người học giảm sút, sự phát triển giáo
dục cả về số lượng và chất lượng đều không đáp ứng được yêu cầu phát triển
kinh tế – xã hội của đất nước.
Từ Đại hội Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ VI (1986), đất nước chuyển
sang thời kỳ đổi mới, trong đó có giáo dục cũng đã bước vào một giai đoạn
phát triển thuận lợi. Đường lối đổi mới đã mở đầu cho sự phát triển mới trong
tư duy giáo dục. Giáo dục đứng trước thử thách buộc phát triển với một trình
độ mới để đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Bài học lịch sử của sự
phát triển mới trong tư duy giáo dục, bài học lịch sử của sự phát triển giáo dục
được khơi dậy và nâng cao trên tầm tư duy mới. Đến Hội nghị lần thứ tư Ban
chấp hành Trung ương Đảng khoá VII về tiếp tục đổi mới sự nghiệp giáo dục
đào tạo, đã đặt dấu mốc quan trọng trong lịch sử xây dựng và phát triển nền
giáo dục Việt Nam. Đây là lần đầu tiên Hội nghị toàn thể Ban chấp hành
Trung ương Đảng thảo luận và ra nghị quyết về sự nghiệp giáo dục - đào tạo.
Cũng từ sau Đại hội lần thứ VII, trên các văn kiện của Đảng và Nhà nước, các
tài liệu khoa học giáo dục, trên sách báo đối với các lĩnh vực hoạt động như
chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân, dân số - kế hoạch hoá gia đình, thể
dục thể thao, giáo dục và đào tạo,…chúng ta thường gặp thuật ngữ “Xã hội
hoá”. Đại hội đại biểu Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ VIII (tháng 6/1996)
đã khẳng định, “Xã hội hoá” là một trong những quan điểm để hoạch định hệ
thống các chính sách xã hội. Ngày 21/8/1997, Chính phủ đã ra Nghị quyết
90/CP về “Phương hướng và chủ trương xã hội hoá các hoạt động giáo dục, y
6
tế, văn hoá”. Luật giáo dục năm 2005 đã được Quốc hội nước Cộng hoà xã
hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua, ở chương I - “Những qui định chung”,
điều 12 ghi rõ: Xã hội hoá sự nghiệp giáo dục. Để đẩy mạnh hơn nữa q
trình xã hội hố, ngày 19/8/1999, Chính phủ lại ban hành Nghị định số
73/1999/NĐ-CP về “Chính sách khuyến khích xã hội hố đối với các hoạt
động trong lĩnh vực giáo dục, y tế, văn hoá, thể thao”. Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ IX của Đảng cộng sản Việt Nam đã chỉ rõ: Giáo dục và đào tạo
phải thực hiện “chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá”.
Cũng trong thời kỳ đổi mới này, nhiều nhà khoa học, nhà quản lý giáo
dục đã bàn luận nhiều về xã hội hoá giáo dục. Đặc biệt, tác giả Phạm Minh
Hạc đã viết nhiều tài liệu về xã hội hoá giáo dục, nhiều bài phát biểu chỉ đạo
phong trào xã hội hoá giáo dục. Trong cuốn “Xã hội hố cơng tác giáo dục là
một tư tưởng chiến lược, một bộ phận của đường lối giáo dục, một con đường
phát triển giáo dục nước ta” [20, Tr.16], trong cuốn “Giáo dục Việt Nam
trước ngưỡng cửa của thế kỷ XXI”, tác giả Phạm Minh Hạc một lần nữa
khẳng định: “Sự nghiệp giáo dục không phải chỉ là của Nhà nước, mà là của
toàn xã hội: Mọi người cùng làm giáo dục, Nhà nước và xã hội, Trung ương
và địa phương cùng làm giáo dục, tạo nên một cao trào học tập trong toàn
dân” [19, Tr. 330].
Tác giả Phạm Tất Dong trong cuốn “Xã hội hố cơng tác giáo dục” đã
làm rõ nội hàm khái niệm xã hội hố cơng tác giáo dục và coi xã hội hoá là
một khái niệm đã vận động trong thực tiễn đấu tranh cách mạng ở Việt Nam,
qua mỗi giai đoạn, khái niệm đó lại được phát triển thêm, nội hàm phong phú
hơn. Trong lời giới thiệu cuốn sách “Những nhân tố mới về giáo dục trong
công cuộc đổi mới” Phạm Tất Dong đã nhấn mạnh “Phát triển giáo dục theo
tinh thần xã hội hố”. Ơng đề cao việc huy động tồn dân vào sự nghiệp cách
mạng, coi đó là một tư tưởng chiến lược của Đảng, “Tư tưởng đó được tổng
kết lại khơng chỉ là một bài học kinh nghiệm tầm cỡ lịch sử, mà trở thành một
nguyên lý của cách mạng Việt Nam”. Tư tưởng “xã hội hoá giáo dục” được
thừa nhận như là một nhân tố mới trong sự phát triển giáo dục hiện nay. Hơn
7
thế, “Với tư cách là nhân tố mới của sự phát triển để xuất hiện những nhân tố
mới khác trong quá trình vận động đi lên của các phong trào giáo dục.
Những điều kiện đó chính là những kinh nghiệm rút ra từ thực tế sinh động
của giáo dục, trên cơ sở đó tư duy giáo dục trở lên sâu sắc, nhờ đó nhiều bài
tốn giáo dục - đào tạo đã được giải một cách hợp lý” [10, Tr.41].
Viện khoa học giáo dục đã triển khai khá nhiều năm một hệ thống đề tài
về xã hội hoá giáo dục, tổng kết kinh nghiệm, phát triển lý luận, đề xuất cơ
chế xã hội hoá giáo dục. Năm 1999, cuốn sách “Xã hội hố cơng tác giáo dục
– nhận thức và hành động” của Viện khoa học giáo dục do tập thể tác giả Bùi
Gia Thịnh, Võ Tấn Quang, Nguyễn Thanh Bình là một bước hoàn thiện về
nhận thức lý luận và hướng dẫn thực tiễn. Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng đã có
“Đề án xã hội hố giáo dục và đào tạo”, đánh giá thực trạng và đưa ra những
giải pháp xã hội hố giáo dục ở tầm vĩ mơ, nhằm tạo ra những chuyển biển cơ
bản trong giáo dục - đào tạo, chuẩn bị tốt nguồn nhân lực cho sự nghiệp cơng
nghiệp hố, hiện đại hố đất nước trong hai chục năm đầu của thế kỷ XXI.
Nhân kỷ niệm 40 năm thành lập Viện Khoa học giáo dục – năm 2001, từ góc
độ giáo dục học, cuốn sách “Xã hội hoá giáo dục” do Võ Tấn Quang chủ biên
cùng tập thể các tác giả Trần Kiểm, Nguyễn Thanh Bình, Lê Đức Phúc, Thái
Duy Tuyên, Nguyễn Văn Đản, Đào Huy Ngân đã khẳng định: Xã hội hoá giáo
dục – một phương thức làm giáo dục nhằm xã hội hoá cá nhân và cá thể hoá.
Lần đầu tiên cuốn sách với ý nghĩa một chuyên khảo đã đề cập đến đặc trưng
của xã hội hoá giáo dục ở các cấp, bậc học và ở địa bàn nông thôn, vấn đề
quản lý Nhà nước trong việc thực hiện xã hội hoá giáo dục để có sự định
hướng đúng đắn hoạt động xã hội hoá giáo dục ở các nhà trường và địa
phương.
1.1.2- Nghiên cứu vấn đề xã hội hoá giáo dục mầm non
1.1.2.1- Xã hội hoá giáo dục mầm non ở nước ngoài
Nhiều nước trên thế giới đã coi phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu
và đã đầu tư rất lớn cho giáo dục. Tìm hiểu cách làm giáo dục ở nhiều nước
cho thấy xã hội hoá giáo dục là cách làm giáo dục phổ biến ở các nước trên
8
thế giới, kể cả những nước công nghiệp hiện đại, có nền kinh tế phát triển cao.
Tuy nhiên, thuật ngữ họ dùng khơng phải là “xã hội hố giáo dục” mà là “sự
tham gia của cộng đồng vào giáo dục”. Rõ ràng là thuật ngữ này về mặt ngữ
nghĩa đã thể hiện được nội dung cơ bản của xã hội hoá giáo dục.
Đối với giáo dục mầm non, quan điểm về giáo dục mầm non và xã hội
hoá giáo dục mầm non ở các nước còn nhiều ý kiến khác nhau, nhưng về
phương thức, giải pháp thực hiện nhiệm vụ giáo dục mầm non đều có sự
giống nhau cơ bản. Đó là việc huy động mọi thành phần kinh tế, mọi tổ chức
xã hội, cá nhân cùng với nhà nước thực hiện các quá trình giáo dục, là việc
huy động nhiều nguồn vốn, đa dạng hố nhiều loại hình giáo dục mầm non.
Có thể nói, xu thế xã hội hố giáo dục mầm non, tăng đầu tư cho giáo dục
mầm non, quan tâm đến giáo dục mầm non đã mang tính tồn cầu. Hiện nay
nhiều nước đã thấy rõ lợi ích rất lớn của giáo dục mầm non cả về mặt kinh tế
và xã hội, bởi vì sự trợ giúp của nhà nước cho chăm sóc trẻ đã giúp tránh
được lãng phí nguồn nhân lực liên quan đến việc nghỉ dài hạn khỏi công việc
của phụ nữ để ở nhà chăm sóc con cái. Đồng thời, các chương trình dịch vụ
cho trẻ em đã đóng góp vào cơng bằng xã hội và sự phân phối lại thu nhập.
Trong một báo cáo tại Hội nghị quốc tế về chính sách phát triển giáo dục
mầm non tổ chức tại Stockhom, Thụy Điển (từ 13 – 15/6/2001) đã viết: Chính
phủ các nước thuộc OECD hiện đã nhận ra tầm quan trọng của việc đầu tư từ
nhà nước cho giáo dục mầm non, nên ngày càng tăng mức độ đầu tư lớn cho
giáo dục mầm non. Việc đầu tư cho giáo dục mầm non được bắt đầu từ lúc
sinh đến 6 tuổi, tính về tỷ lệ GDP đầu tư cao nhất là các nước Bắc Âu, trung
bình là các nước châu Âu lục địa, thấp nhất là Australia, Anh và Hoa kỳ. Tuy
nhiên các nước được xem là đầu tư thấp trước đây (Netherlands, UK, US) có
xu hướng tăng mức đầu tư lên một cách có ý nghĩa trong 5 năm qua, chẳng
hạn ngân sách dành cho giáo dục mầm non của Anh quốc được tăng lên gấp
hơn 2 lần từ năm 1996, người ta ước tính rằng việc đầu tư sau thời kỳ 1998 –
2002 sẽ đạt 8 tỷ bảng. Trong khối các nước thuộc OECD có sự chia sẻ kinh
phí giữa nhà nước, cha mẹ và doanh nghiệp, nhưng Chính phủ vẫn đóng vai
9
trò chủ yếu. Để tập trung được nhiều nguồn ổn định, kinh phí chủ yếu cho
giáo dục mầm non được chia sẻ bởi các cấp chính quyền khác nhau (quốc gia,
vùng, địa phương cơ sở), cha mẹ trẻ và các nhà sản xuất. Việc đóng góp có
khác nhau đối với từng nước và cả ngay trong phạm vi một nước tại Hoa Kỳ,
chính phủ từng bang chia sẻ đóng góp cho giáo dục mầm non. Trong khi đó ở
Anh quốc, chính quyền tỉnh chịu hầu hết trách nhiệm chi phí. Ở Đan Mạch,
Phần Lan, Na Uy, Thụy Điển có một hệ thống dịch vụ trước tuổi học thống
nhất với nguồn tài chính được chia sẻ bởi các cấp chính quyền quốc gia và địa
phương. Chính phủ Na Uy đảm nhiệm mức độ kinh phí lớn trong những năm
90. Trong khi đó, Phần Lan và Thụy Điển sự phi tập trung hố trách nhiệm tài
chính đã tăng lên cho chính quyền địa phương và thành phố. Hầu hết các
nước trong khối OEDC, các bậc cha mẹ đóng góp từ 25% - 30% chi phí cho
giáo dục mầm non, trừ Phần Lan (15%). Chỉ có Australia, Anh quốc và Hoa
Kỳ, phí đóng góp của cha mẹ đã đủ trang trải phần lớn. Nhưng những khoản
phí này lại được chính phủ hỗ trợ. Tại Mỹ, những nơi giáo dục mầm non
trong sự chu cấp liên quan đến quỹ chi tiêu công cộng của các chương trình
giáo dục và dịch vụ xã hội, cha mẹ trả trung bình 60% của chi phí (hoặc 70 –
80% nếu nằm ngoài hệ thống trường nhà nước). Ở đây, việc chăm sóc giáo
dục trẻ được xem chủ yếu là nhiệm vụ của mỗi cá nhân, gia đình, khơng phải
là nhu cầu cấp thiết của cơng cộng.
Ở Pháp có nhiều hình thức như: trung tâm chăm sóc cơng lập (65% các
trung tâm được chính quyền tỉnh bảo trợ, 17% được các chính quyền khu vực
bảo trợ, số cịn lại bởi các hội hoặc những người chủ bảo trợ); cụm chăm sóc
ở gia đình (Networks) ; người chăm sóc trẻ độc lập ở nhóm trẻ có đăng ký;
các trung tâm chăm sóc trẻ của cha mẹ (do nhóm cha mẹ quản lý tình nguyện
và luân phiên nhau, tham gia cùng các cán bộ chun mơn); các mạng lưới
chăm sóc thuộc tập thể, các trung tâm chăm sóc quay vịng ở gia đình; các
trung tâm “Drop –in” chăm sóc nhóm trẻ 1-3 tuổi 1 tiếng – 1/2 ngày; trường
mẫu giáo, các trung tâm hoạt động phát triển trẻ, mơ hình trung tâm chăm sóc
trẻ do cha mẹ tổ chức, các trung tâm cha mẹ – trẻ “Ngôi nhà xanh”.
10
Một số nước khác trong khu vực châu Á, việc xã hội tham gia vào giáo
dục mầm non cũng được thể hiện rất sinh động.
Chẳng hạn ở Trung Quốc, giáo dục mẫu giáo được coi là một bộ phận
của giáo dục xã hội chủ nghĩa, Bộ và các Vụ y tế đảm nhận trách nhiệm về
chăm sóc sức khoẻ, vệ sinh ở các nhà trẻ, còn vấn đề giáo dục, đào tạo cơ
ni dạy trẻ, quản lý nhà trẻ thì được gắn với giáo dục mầm non. Nguồn kinh
phí cho các nhà trẻ, trường mẫu giáo do Nhà nước, các tập thể doanh nghiệp
và cha mẹ. Có ba loại tổ chức đỡ đầu nhà trẻ, mẫu giáo là các cơ quan nhà
nước, các doanh nghiệp (các xí nghiệp tập thể) và tư nhân. Nhà trẻ nhận trẻ
dưới 3 tuổi. Việc quản lý có sự khác nhau, một số tỉnh nhà trẻ thuộc Vụ Giáo
dục và Vụ này đưa ra các hướng dẫn thống nhất cho cả nhà trẻ và trường mẫu
giáo. Một số tỉnh khác lại do Hội phụ nữ quản lý. Mẫu giáo nhận trẻ 3 – 6
tuổi, do Vụ giáo dục địa phương quản lý. Chính sách nhận trẻ linh hoạt gắn
với các loại hình mẫu giáo để đáp ứng điều kiện kinh tế xã hội và đời sống
của người lao động. Trẻ em có thể học 3 năm, 2 năm hoặc 1 năm, học bán trú,
nội trú, có mẫu giáo nửa ngày hoặc chương trình linh hoạt theo vụ mùa ở
nông thôn. Lớp trước tiểu học học 1 năm, thường gắn vào các trường tiểu học,
mục tiêu giúp trẻ chuẩn bị vào tiểu học
Điểm qua chính sách và hoạt động giáo dục mầm non ở các nước trên đã
cho thấy vai trò, khả năng về nội dung hoạt động mà xã hội, cộng đồng có thể
tham gia làm tốt cho giáo dục mầm non. Từ đó, có thể thấy rõ xã hội hoá giáo
dục mầm non là xu thế chung ở các nước có nền giáo dục tiên tiến trên thế
giới và trong khu vực với cùng một phương thức huy động cộng đồng tham
gia làm giáo dục mầm non. Nó được biểu hiện qua một số điểm chính là quy
mơ giáo dục mầm non được mở rộng, đa dạng hố nhiều loại hình, nhiều
chương trình đáp ứng mọi nhu cầu của cộng đồng, đa phương hoá các nguồn
lực và có sự chia sẻ trách nhiệm của chính quyền các cấp, thực hiện quan
điểm tiếp cận đa ngành trong giáo dục mầm non, chuyển hướng chỉ phục vụ
cho một số đối tượng nhất định sang nền giáo dục có tính đại chúng hơn và
chuyển hoạt động giáo dục từ chỗ chỉ do ngành giáo dục, do nhà nước đảm
11
trách đến việc quảng đại hoá các nhiệm vụ giáo dục - đào tạo cho mọi tập thể,
cá nhân, cộng đồng cùng tham gia. Tất nhiên, tính chất mức độ và mục đích
của mỗi bên giáo dục ở mỗi nước có khác nhau, nhưng những nét sinh động
của q trình xã hội hoá giáo dục mầm non ở các nước tiên tiến trên thế giới
và khu vực có thể cho ta những kinh nghiệm quý. Điều đặc biệt cần quan tâm
ở đây là phải huy động cộng đồng tham gia phát triển giáo dục mầm non để
giáo dục mầm non đáp ứng được nhu cầu của xã hội, phục vụ cho mọi người.
Song cần có sự quản lý thống nhất của nhà nước, có cơ chế và tỷ lệ thích hợp,
cụ thể giữa sự đầu tư của Nhà nước, sự tham gia của xã hội đối với từng loại
hình giáo dục kể cả chính qui và phi chính quy để việc tham gia của cộng
đồng vào giáo dục mầm non trở thành phương thức thực sự có hiệu quả trong
phát triển giáo dục mầm non.
1.1.2.2- Xã hội hoá giáo dục mầm non ở Việt Nam.
Trước năm 1945, dưới thời Pháp thuộc ở Việt Nam khơng có nền giáo
dục trước tuổi đi học. Trong cả nước chỉ có vài trạm y tế bần nuôi trẻ mồ côi.
Sau cách mạng tháng Tám, cùng với việc hình thành chế độ mới, lần đầu tiên
ở Việt Nam có bậc giáo dục trước tuổi đi học chính thức ra đời. Nghị định số
05 ngày 10/9/1945 của Bộ cứu tế xã hội đã ghi: “Khuyến khích các nhà bảo
anh, dục anh, ấu trĩ nhận giáo dục trẻ em dưới 7 tuổi và sẽ tổ chức tuỳ theo
điều kiện do Bộ Quốc gia giáo dục ấn định sau” [13, Tr. 103].
Từ chỗ hầu như chưa có gì, trải qua những năm tháng khó khăn, gian
khổ của hai cuộc kháng chiến, vượt qua thời kỳ chao đảo trong sự chuyển đổi
sang nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, nhờ thực hiện
chủ trương xã hội hoá, nền giáo dục mầm non đã khắc phục được tình trạng
suy giảm, giữ được sự ổn định trên diện rộng, phát triển ở những khu vực có
điều kiện, tạo nên sự chuyển biến rõ rệt.
Nhìn vào các hình thức giáo dục mầm non, có thể khẳng định đây là bậc
học được xã hội hoá cao hơn bất kỳ bậc học nào. Giáo dục mầm non là sự thể
hiện sinh động nguyên tắc Nhà nước, xã hội và nhân dân cùng làm. Song việc
nghiên cứu xã hội hoá giáo dục mầm non còn hết sức hạn chế. Trong báo cáo
12
tổng quan về tình hình nghiên cứu xã hội hố giáo dục của Ban khoa giáo
Trung ương đã nhận định: Có thể thấy đã có một số nghiên cứu chuyên đề về
xã hội hoá sự nghiên cứu chung. Tuy nhiên vẫn còn những vấn đề chưa được
nghiên cứu sâu như xã hội hoá đổi mới giáo dục mầm non, dạy nghề… đó là
những vấn đề cần tiếp tục được nghiên cứu [12, Tr.5].
Đứng trước những yêu cầu và thách thức của việc thực hiện chiến lược
phát triển giáo dục mầm non, nhằm phát triển giáo dục mầm non theo tinh
thần Nghị quyết Trung ương 2 (khoá VIII) và Nghị quyết Đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ IX ngày 25/6/2002 Thủ tướng Chính phủ đã tổ chức hội nghị bàn
về cơng tác giáo dục mầm non. Hội nghị đã đề ra giải pháp cơ bản, trong đó
nhấn mạnh: tiếp tục đẩy mạnh biện pháp xã hội hoá giáo dục mầm non, đa
dạng hố các loại hình giáo dục mầm non. Ngày 15/11/2002, Thủ tướng
Chính phủ đã ra Quyết định số 161/2002/QĐ- TTg về một số chính sách phát
triển về giáo dục mầm non đã khẳng định rõ ở điều 1 nhiệm vụ phát triển giáo
dục mầm non đến năm 2010 “Nhà nước tiếp tục tăng đầu tư phát triển giáo
dục mầm non đồng thời đẩy mạnh xã hội hoá sự nghiệp giáo dục mầm non,
mở rộng hệ thống nhà trẻ và trường, lớp mẫu giáo trên mọi địa bàn dân
cư…” Quyết định 161/2002/QĐ-TTg được coi như chiếc “chìa khố vàng” để
mở cánh cửa giáo dục mầm non phát triển từ nay đến năm 2010. Để thực hiện
Quyết định 161/2002/QĐ-TTG của Thủ tướng Chính phủ có hiệu quả, Bộ
Giáo dục và Đào tạo, Bộ Nội vụ, Bộ Tài chính ngày 24/2/2003 đã ra Thông tư
liên tịch số 05/2005/TTLT-BGD&ĐT-BNV-BTC hướng dẫn một số chính
sách giáo dục phát triển mầm non trong đó đã ra chỉ các bước của việc thực
hiện quy hoạch mạng lưới trường lớp mầm non cơng lập, ngồi cơng lập, thực
hiện xã hội hoá giáo dục đối với giáo dục mầm non.
Nhờ đó, giáo dục mầm non đã có sự chuyển biến quan trọng, quy mô trẻ
đến các trường, lớp mầm non được giữ vững, khắc phục được chiều hướng
giảm sút trong những năm đầu thập kỷ 90. Xã hội hoá giáo dục mầm non đã
được chú trọng chỉ đạo thực hiện nên các loại hình giáo dục mầm non phát
triển đa dạng, mở rộng khả năng đóng góp của mọi người, cũng như sự hưởng
13
thụ giáo dục mầm non của trẻ em. Đặc biệt, trẻ 5 tuổi được huy động ở mức
cao 80% - 85%, góp phần đáng kể hồn thành các mục tiêu phổ cập giáo dục
tiểu học. Chất lượng chăm sóc, giáo dục trẻ được nâng lên đáng kể. Trong các
cơ sở giáo dục mầm non tỷ lệ trẻ duy dinh dưỡng giảm nhanh, có nơi dưới
15%.
Cùng với việc đổi mới giáo dục phổ thơng, giáo dục mầm non đã tích
cực đổi mới hình thức, phương pháp giáo dục. Các điều kiện hỗ trợ trẻ học tập
như đồ chơi – sách giáo khoa của trẻ thơ, đồ dùng dạy học được đầu tư và cải
tiến, ngày càng phong phú về chủng loại; chăm sóc sức khoẻ và giáo dục dinh
dưỡng được chú trọng trong mục tiêu nâng cao chất lượng dân số. Những nơi
có điều kiện đã tổ chức cho trẻ được làm quen với tin học, ngoại ngữ… góp
phần bồi dưỡng nhân tài cho đất nước.
Cơ sở vật chất giáo dục mầm non gần đây đã được cải thiện, nhiều
trường trở thành trường trọng điểm, trường đạt chuẩn quốc gia và nhiều
trường lớp ở các loại hình khác nhau đều đáp ứng được yêu cầu chăm sóc
giáo dục trẻ.
Đời sống giáo viên mầm non ngoài biên chế được quan tâm hơn và từ
khi có Chỉ thị 18/2001/ TTg của Thủ tướng Chính phủ, 29,2% số giáo viên
mầm non ngồi biên chế được hưởng chế độ bảo hiểm xã hội và bảo hiểm y tế [5,
Tr.19]. Điều này đã góp phần tạo được niềm tin cho đội ngũ giáo viên mầm
non phấn đấu trong cơng tác chăm sóc, giáo dục trẻ.
Một số thành tựu kể trên chính là thành quả của nền giáo dục cách mạng,
là kết quả đường lối giáo dục đúng đắn, sự chỉ đạo của Đảng, quản lý Nhà
nước, nhờ sức phấn đấu, đóng góp to lớn của đội ngũ cán bộ, giáo viên mầm
non. Và một điều cần phải khẳng định, đó là những gì giáo dục mầm non có
được hơm nay cũng là kết quả của sự quan tâm ngày càng lớn của toàn xã hội
đến việc chăm sóc, giáo dục trẻ thơ. Vì vậy, chúng ta cần có sự nhìn nhận,
đánh giá cơng tác xã hội hoá giáo dục mầm non trong hơn mười năm qua.
Việc nghiên cứu vấn đề xã hội giáo dục mầm non đã được một số ít cơng
trình đề cập đến. Tuy nhiên, các nghiên cứu này phần lớn mới chỉ dừng lại ở
những giải pháp mang tầm vĩ mô hoặc ghi nhận từ thực tiễn một vài mơ hình
đã thành cơng trong việc huy động cộng đồng, chưa đưa ra được cơ sở lý luận
của xã hội hoá giáo dục mầm non và hệ thống các biện pháp quản lý công tác
14
xã hội hoá giáo dục mầm non giúp cho việc tổ chức thực hiện có hiệu quả
cơng tác xã hội hoá giáo dục mầm non ở thành phố Bắc Giang nói riêng và
tồn quốc nói chung.
Tồn bộ những tri thức khoa học về lý luận và thực tiễn nêu trên, tác giả
đã trân trọng tiếp thu và trình bày trong chương 1: Cơ sở lý luận của công tác
quản lý xã hội hoá giáo dục mầm non.
Luận văn này cũng là một tổng kết từ thực tiễn xã hội hoá giáo dục mầm
non trên địa bàn thành phố Bắc Giang, nhằm nâng cao nhận thức, tìm biện
pháp tổ chức thực hiện vấn đề này có hiệu quả hơn nữa.
1.2- Giáo dục mầm non trong hệ thống giáo dục quốc dân
Chương II, Hệ thống giáo dục Quốc dân Điều 21, 22 Luật giáo dục năm
2005 của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ghi rõ: “Giáo dục
mầm non thực hiện việc ni dưỡng; chăm sóc, giáo dục trẻ em từ ba tháng
tuổi đến sáu tuổi”.
“Mục tiêu của giáo dục mầm non là giúp trẻ phát triển về thể chất, tình
cảm, trí tuệ, thẩm mỹ, hình thành những yếu tố đầu tiên của nhân cách, chuẩn
bị cho trẻ vào học lớp một” [16, tr.6].
Giáo dục mầm non là mắt xích đầu tiên trong hệ thống giáo dục quốc
dân. Nó có tầm quan trọng đặc biệt trong sự nghiệp xây dựng và đào tạo thế
hệ trẻ, vì giáo dục mầm non là giai đoạn khởi đầu đặt nền móng cho sự hình
thành và phát triển nhân cách trẻ. Nhiều cơng trình nghiên cứu đã chứng minh
rằng nhân cách của con người được hình thành tương đối đầy đủ trong 5 năm
đầu tiên của cuộc đời.
Đây là thời kỳ tăng trưởng về cơ thể và phát triển các mặt trí tuệ, tình
cảm, xã hội nhanh nhất, nhân cách bắt đầu hình thành, khối lượng những thu
hoạch đạt được rất lớn khiến ta có thể coi sự phát triển trong những năm đó có
tác dụng quyết định rất lớn đến tồn bộ tương lai sau này. Ngược lại, những
trục trặc về tăng trưởng và phát triển trong thời kỳ này nếu không được phát
triển và khắc phục thích đáng có thể để lại những hậu quả lâu dài, ảnh hưởng
khơng ít đến việc rèn luyện những năng lực cần thiết mai sau. Nhà giáo dục
Xơ Viết lỗi lạc A.S Makarenko có nói: Những cơ sở văn bản của việc giáo
15
dục trẻ đã được hình thành từ trước tuổi lên 5. Những điều dạy cho trẻ trong
thời kỳ đó chiếm tới 90% tiến trình giáo dục trẻ. Về sau, việc giáo dục đào tạo
con người vẫn tiếp tục nhưng lúc đó là lúc bắt đầu nếm quả, cịn những nụ
hoa thì đã được vun trồng 5 năm đầu tiên.
Do vậy, giáo dục mầm non có một vị trí ngày càng được khẳng định toàn
bộ sự nghiệp giáo dục - đào tạo con người. Điều này hoàn toàn phù hợp với
chủ trương đẩy mạnh phát triển giáo dục của UNESCO bao gồm 21 điểm, ở
điểm 5 nhấn mạnh: “Giáo dục trẻ em trước tuổi đến trường phải là một mục
tiêu lớn trong chiến lược giáo dục”.
Thấm nhuần tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Bồi dưỡng thế hệ cách
mạng cho đời sau là một việc làm rất quan trọng và rất cần thiết. Việt Nam là
nước đứng thứ hai trên thế giới phê chuẩn Công ước về Quyền trẻ em của
Liên hiệp quốc (20/2/1990), chính thức cam kết cùng cộng đồng quốc tế và để
nâng cao trách nhiệm trong pháp lý cho việc thực hiện cam kết quốc tế ra sức
bảo vệ, chăm sóc trẻ em, phấn đấu cho tương lai tươi sáng của trẻ em Việt
Nam. Mặt khác, để lại cơ sở pháp lý cho việc thực hiện cam kết quốc tế và để
nâng cao trách nhiệm trong chăm sóc và giáo dục trẻ em (16/8/1991).
Trong nhiều văn kiện của Đảng và Nhà nước, như trong chỉ thị số 38CT/TƯ ngày 30/5/1994 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về tăng cường cơng
tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em và trong Luật bảo vệ, chăm sóc và
giáo dục trẻ em đều xác định: “Trẻ em là hạnh phúc của gia đình, tương lai
của đất nước, là lớp người kế tục sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” và
cơng nhận quyền bình đẳng của tất cả trẻ em: “Trẻ em, không phân biệt gái,
trai… không phân biệt dân tộc, tôn giáo, thành phần, địa vị xã hội, chính kiến
của cha mẹ hoặc người ni dưỡng, đều được bảo vệ, chăm sóc và giáo
dục…” [60, Tr. 718]. Từ đó, nêu rõ trách nhiệm: “Sự nghiệp bảo vệ, chăm sóc
và giáo dục trẻ em là trách nhiệm của Đảng, Nhà nước, các đoàn thể nhân
dân, của mọi cơng dân và mỗi gia đình. Trong phạm vi khả năng của mình,
cần tạo điều kiện tối đa để mọi trẻ em được bảo vệ, chăm sóc và được phát
triển tồn diện về đức, trí, thể, mỹ ” [60, Tr.110], “Chăm sóc và giáo dục tốt
16
các cháu là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân. Cơng tác đó phải kiên trì, bền
bỉ”, “Trước hết, các gia dình (tức là ơng, bà cha mẹ, anh chị) phải làm thật
tốt công việc ấy. Các Đảng uỷ đường phố và hợp tác xã phải chịu trách nhiệm
chỉ đạo thiết thực và thường xuyên. Uỷ ban thiếu niên nhi đồng, đoàn thanh
niên, ngành giáo dục và các ngành, các đồn thể cần phải có kế hoạch cụ thể
chăm sóc, giáo dục các cháu càng ngày càng khoẻ mạnh và tiến bộ. Các Tỉnh
uỷ, Thành uỷ cần phải phụ trách đơn đốc việc này cho có kết quả tốt. Vì tương
lai con em ta, dân tộc ta, mọi người, mọi ngành phải có quyết tâm chăm sóc
và giáo dục các cháu bé cho tốt.” [16, Tr. 260 – 261].
Chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục trẻ em ngay những tháng năm đầu tiên
của cuộc đời là một việc làm hết sức cần thiết và có ý nghĩa vơ cùng quan
trọng trong sự nghiệp chăm lo đào tạo và bồi dưỡng thế hệ trẻ trở thành
những người chủ tương lai của nước Việt Nam, sánh vai với các cường quốc
năm châu.
Tư tưởng đó giờ đây vẫn cịn ngun giá trị và hồn toàn phù hợp với tư
tưởng của thời đại “Trẻ em hôm nay, thế giới ngày mai”. Ngày nay, nhân tố
con người được coi là chủ thể của sự sáng tạo ra mọi của cải vật chất và văn
hoá, là chủ thể xây dựng một xã hội công bằng, nhân ái. Nguồn lực con người
là nguồn nhân lực cơ bản tạo ra sự tăng trưởng của các nguồn lực khác (nguồn
lực vật chất, nguồn lực tài chính). Vì vậy, con người phát triển cao về trí tuệ,
cường tráng về thể chất, phong phú về tinh thần, trong sáng về đạo đức là
động lực của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, đồng thời là mục tiêu của
xã hội.
Chính vì lẽ đó, Nghị quyết Hội nghị lần thứ hai Ban chấp hành Trung
ương Đảng khoá VIII đã định hướng chiến lược phát triển giáo dục - đào tạo
trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đã tiếp tục khẳng định mục tiêu
của giáo dục mầm non đến năm 2020 là “xây dựng hoàn chỉnh và phát triển
bậc học mầm non cho hầu hết trẻ em trong độ tuổi. Phổ biến kiến thức ni
dạy trẻ cho các gia đình”. Và Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX tiếp tục nhấn
17
mạnh: “Chăm lo phát triển giáo dục mầm non, mở rộng hệ thống nhà trẻ và
trường lớp mẫu giáo trên mọi địa bàn dân cư…” [61, Tr. 109].
Hội nghị của Thủ tướng Chính phủ (25/6/2002) bàn về phát triển giáo
dục mầm non theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 2 (khố VIII) và Nghị
quyết Đại hội Đảng tồn quốc lần thứ IX, đã một lần nữa khẳng định: Giáo
dục mầm non là bộ phận quan trọng cấu thành hệ thống giáo dục quốc dân,
góp phần đào tạo con người Việt Nam phát triển tồn diện.
1.3- Quan niệm về cơng tác xã hội hoá giáo dục.
Xã hội hoá giáo dục là quá trình tương tác giữa giáo dục và xã hội,
trong đó giáo dục gia nhập và hồ nhập vào xã hội, vào cộng đồng, đồng thời
xã hội tiếp nhận giáo dục như là cơng việc của mình, do mình và vì mình. Đó
là mối quan hệ biện chứng. Xã hội hố giáo dục có tác dụng tích cực đến q
trình xã hội hoá con người, xã hội hoá cá nhân.
Ở đây, cần phân biệt rõ khái niệm xã hội hoá cá nhân và xã hội hoá giáo
dục. Nội hàm xã hội hoá cá nhân và cá thể hoá trong lý thuyết này không phải
là nội dung chủ yếu của xã hội hoá giáo dục như chúng ta đang bàn, mặc dù
xét đến cùng cũng phải tiến tới một cách đúng hướng là xã hội hoá giáo dục
phải nhằm xã hội cá nhân và cá thể hố. Vì vậy, cần thấy nội hàm của khái
niệm xã hội hoá giáo dục của ta không tương đồng với nội hàm khái niệm xã
hội hoá của nhiều nước trên thế giới, nhất là trong khu vực.
Đặt vấn đề xã hội hoá giáo dục là tìm cách hồn ngun bản chất xã hội
của giáo dục, gắn giáo dục vào đúng vị trí của nó. Giáo dục là bộ phận không
thể tách rời của hệ thống xã hội. Giáo dục cùng với khoa học và công nghệ là
động lực phát triển kinh tế – xã hội. Như vậy, xã hội hoá giáo dục là thực hiện
mối liên hệ phổ biến, có tính quy luật giữa giáo dục và cộng đồng xã hội.
Thiết lập được mối quan hệ này là làm cho giáo dục phù hợp với sự phát triển
xã hội. Nội dung quy luật này là ở chỗ: “Mọi người phải làm giáo dục để cho
mọi người ”. Xã hội hoá giáo dục phải gồm hai vế: Mọi người có nghĩa vụ
chăm lo giáo dục để giáo dục phục vụ cho mọi người, để mọi người được
quyền đi học, học thường xuyên, học suốt đời. Hai vế trên đã nêu rõ hai yêu
18
cầu của xã hội hoá giáo dục là phải xã hội hoá trách nhiệm, nghĩa vụ đối với
giáo dục và phải xã hội hoá quyền lợi về giáo dục đối với mọi người. Hai yêu
cầu đó có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, tác động lẫn nhau và thực hiện kết
hợp, đồng thời. Yêu cầu thứ hai là hệ quả của yêu cầu thứ nhất và cũng là
biện pháp thúc đẩy yêu cầu thứ nhất. Yêu cầu thứ hai chính là đỉnh cao của xã
hội hố giáo dục. Lâu nay chúng ta vẫn lấy yêu cầu thứ nhất làm tiêu chí số
một để đánh giá thành tích về xã hội hố giáo dục chính là vì mối quan hệ nói
trên trong khi điều kiện kinh tế – xã hội chưa cho phép thực hiện tốt ngay yêu
cầu thứ hai – cái đích của xã hội hố giáo dục.
Chính vì lẽ đó, trong hoạt động thực tiễn cần phân biệt rõ tính chất xã
hội của giáo dục và xã hội hố giáo dục, hai cái đó khơng phải là một và
khơng đồng nhất. Nếu khơng có định hướng rõ ràng thì tự thân hoạt động giáo
dục vẫn có tính chất xã hội và nhân văn của nó. Và cũng phải xác định rõ
rằng: Nội hàm xã hội hoá giáo dục nói ở đây thuộc phương thức, phương
châm, cách làm giáo dục. Nó thuộc phương thức tổ chức và quản lý giáo dục.
Xã hội hố giáo dục là: Huy động tồn xã hội làm giáo dục, động viên
các tầng lớp nhân dân góp sức xây dựng nền giáo dục quốc dân dưới sự quản
lý của Nhà nước để xây dựng một xã hội học tập.
Khi nói về những chủ trương, chính sách và những biện pháp lớn, Nghị
quyết 04- NQ-HNTW Hội nghị lần thứ tư Ban chấp hành Trung ương Đảng
khoá VII về tiếp tục đổi mới sự nghiệp giáo dục và đào tạo đã ghi: “Huy động
các nguồn đầu tư trong nhân dân, viện trợ của các tổ chức quốc tế, kể cả vay
vốn của nước ngoài để phát triển giáo dục.”
“Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân, các tổ chức xã hội, mọi gia
đình và mọi người cùng với ngành giáo dục - đào tạo chăm lo xây dựng sự
nghiệp giáo dục theo phương châm: “Nhà nước và nhân dân cùng làm”, xây
dựng môi trường giáo dục nhà trường, gia đình và xã hội” [51, Tr. 65].
Cũng trong Hội nghị Trung ương lần thứ tư khoá VII, đồng chí Đỗ Mười
Tổng Bí thư Ban chấp hành Trung ương Đảng nhấn mạnh: “Đương nhiên Nhà
nước cần đầu tư nhiều hơn cho giáo dục. Nhưng vấn đề quan trọng là phải
19
quán triệt sâu sắc và tiến hành tốt việc xã hội hoá các nguồn đầu tư, mở rộng
phong trào xây dựng và phát triển giáo dục trong nhân dân, coi giáo dục là
sự nghiệp của toàn xã hội” [51, Tr.11].
Trong hội nghị kiểm điểm việc thực hiện Nghị quyết Ban chấp hành
Trung ương lần thứ tư khoá VII về “Tiếp tục đổi mới sự nghiệp giáo dục và
đào tạo”, Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo đã cụ thể hoá hơn: “đẩy mạnh
cuộc vận động xã hội hoá giáo dục, tiến tới hình thành một phong trào quần
chúng, với sự tham gia tích cực, chủ động của tất cả các tổ chức xã hội dưới
sự lãnh đạo của Đảng để cùng ngành ta làm giáo dục chứ không phải chỉ để
hỗ trợ cho ngành”.
Quan điểm này đã được thể chế hoá ở Điều 12 của Luật giáo dục năm
2005 về xã hội hoá sự nghiệp giáo dục.
“Mọi tổ chức, gia đình và cơng dân đều có trách nhiệm chăm lo sự
nghiệp giáo dục, phối hợp với nhà trường thực hiện mục tiêu giáo dục, xây
dựng môi trường giáo dục lành mạnh và an tồn.
Nhà nước giữ vai trị chủ đạo trong phát triển sự nghiệp giáo dục; thực
hiện đa dạng hố các loại hình nhà trường và các hình thức giáo dục; khuyến
khích huy động và tạo điều kiện để tổ chức, cá nhân tham gia phát triển sự
nghiệp giáo dục” [19, Tr. 14].
Như vậy, Luật giáo dục năm 2005 đã xác định rõ vai trò chỉ đạo của Nhà
nước, vai trò tham gia của xã hội, vai trò chủ động của giáo dục nhà trường.
Nội dung của cơ chế thể hiện ở chỗ: Nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong phát
triển giáo dục; Nhà nước và mọi tổ chức, cá nhân đều có trách nhiệm góp
phần xây dựng giáo dục một cách đa dạng trên mọi mặt, từ việc mở các loại
hình trường cơng lập, bán cơng, dân lập, tư thục, đến việc xây dựng phong
trào học tập và môi trường giáo dục lành mạnh, từ nhà nước ưu tiên đầu tư và
giữ vai trò chủ yếu trong tổng nguồn lực đầu tư cho giáo dục, đến khuyến
khích mọi nguồn đầu tư kinh phí của Nhà nước và nước ngồi. Giáo dục nói
chung và nhà trường nói riêng ln giữ vai trị chủ động trong việc phối hợp
với các lực lượng xã hội, với gia đình thực hiện phát triển giáo dục về các
20
mặt: Quy mô, chất lượng và hiệu quả giáo dục; nâng cao dân trí, đào tạo nhân
lực, bồi dưỡng nhân tài.
Sự kết hợp ba yếu tố: “nhà nước – xã hội – giáo dục” trong mọi hoạt
động của sự nghiệp giáo dục đã được thể chế hoá ở Luật giáo dục, trở thành
một qui định pháp lý mang tính động lực, chỉ đạo hành động “Liên kết đồng
bộ” ba yếu tố đó, tạo nên tác động tổng hợp cho sự phát triển giáo dục và cho
việc giải quyết các mâu thuẫn của giáo dục.
Xã hội hoá giáo dục là một quan điểm cơ bản, có tính chiến lược trong
việc xây dựng và phát triển giáo dục của Đảng và Nhà nước ta hiện nay. Đó là
sự thể hiện đường lối vận động quần chúng, huy động sức mạnh của toàn xã
hội vào việc thực hiện nhiệm vụ chính trị mà Đảng ta ln coi trọng trong
suốt q trình lãnh đạo đấu tranh cách mạng. Tuỳ từng thời kỳ cách mạng và
tùy từng lĩnh vực cơng tác, tư tưởng đó được thể hiện trong những nội dung
khác nhau. Khi bàn về công tác giáo dục, Hồ Chủ Tịch đã dạy: “Phải mật
thiết liên hệ với gia đình học trị. Bởi vì giáo dục trong nhà trường, chỉ là một
phần, còn cần có sự giáo dục ngồi xã hội và trong gia đình để giúp cho việc
giáo dục trong nhà trường được tốt hơn. Giáo dục trong nhà trường dù tốt
mấy nhưng thiếu giáo dục trong gia đình và ngồi xã hội thì kết quả cũng
khơng hồn tồn” [15, Tr.157]. Người chỉ rõ: “Giáo dục là sự nghiệp của
quần chúng, cần phải phát huy đầy đủ dân chủ xã hội chủ nghĩa, xây dựng
quan hệ thật tốt, đoàn kết chặt chẽ giữa thầy và thầy, giữa thầy và trò, giữa
học trò với nhau, giữa cán bộ các cấp, giữa nhà trường và nhân dân để hồn
thành thắng lợi nhiệm vụ đó…” [15, Tr. 258].
Xã hội hoá được coi như một quan điểm chỉ đạo không những để phát
triển sự nghiệp giáo dục nói riêng mà cịn để hoạch định hệ thống chính sách
xã hội nói chung: “Các vấn đề chính sách xã hội đều giải quyết theo tinh thần
xã hội hoá. Nhà nước giữ vai trò nòng cốt đồng thời động viên mỗi người
dân, các doanh nghiệp, các tổ chức xã hội, các cá nhân và tổ chức nước
ngoài cùng tham gia giải quyết những vấn đề xã hội ” [16, Tr .114].
21