Tải bản đầy đủ (.doc) (117 trang)

Một số giải pháp quản lý công tác xã hội hóa giáo dục mầm non ở thành phố vinh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (570.2 KB, 117 trang )

LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn này, tác giả đã nhận được sự giúp đỡ của
nhiều tập thể và cá nhân:
Với tình cảm chân thành tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn đến các
Thầy giáo, cô giáo, các nhà khoa học Trường Đại học Vinh đã tham gia
giảng dạy và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu tại
trường;
Cảm ơn Ban tổ chức thành ủy Vinh,Phòng Giáo dục và Đào tạo
Thành phố Vinh; Văn phòng HĐND, UBND Thành phố; UBMTQ và các
đòan thể;Hội khuyến học thành phố; Bí thư đảng ủy và Chủ Tịch UBND
các Phường xã, các Trường MN trên địa bàn Thành phố Vinh đã tạo
điều kiện thuận lợi cho bản thân tôi thu thập tài liệu, số liệu và tư liệu
khoa học trong quá trình nghiên cứu;
Đặc biệt, tác giả xin được trân trọng bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc
tới PGS.TS. Ngô Đình Phương đã giúp đỡ,hướng dẫn quá trình học tập,
nghiên cứu và hoàn thành Luận văn này.
Cảm ơn gia đình, bạn bè, đồng nghiệp đã động viên, cổ vũ, giúp
đỡ tôi trong suốt thời gian qua.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng và đã được PGS.TS. Ngô Đình
Phương - người hướng dẫn khoa học đã tận tình giúp đỡ nhưng chắc
chắn Luận văn không tránh khỏi những thiếu sót. Kính mong nhận được
sự góp ý và giúp đỡ của quí thầy giáo, cô giáo, các nhà khoa học.
Tôi chân thành cảm ơn!
Thành phố Vinh, tháng 9 năm 2014
TÁC GIẢ

Trần Thị Cẩm Tú
i
MỤC LỤC
ii
KÝ HIỆU CỤM TỪ VIẾT TẮT


XHHT Xã hội học tập
XHHGDMN Xã hội hóa giáo dục mầm non
XHHGD Xã hội hóa giáo dục
XHH Xã hội hóa
UBND Ủy ban nhân dân
UBMTTQ Ủy ban mặt trận tổ quốc
THPT Trung học phổ thông
THCS Trung học cơ sở
TH Tiểu học
QĐ Quyết định
NQ Nghị quyết
MN Mầm non
HLHPN Hội liên hiệp phụ nữ
HĐND Hội đồng nhân dân
GDTX Giáo dục thường xuyên
GDĐT Giáo dục đào tạo
GD Giáo dục
iii
DANH MỤC BẢNG
Bảng 2.1: Thống kê tình hình thực hiện giáo dục và đào tạo năm 2010 – 2014

39
Bảng 2.2. Nhận thức về công tác xã hội hóa giáo dục mầm non trong giai
đoạn hiện nay

49
Bảng 2.3: Nhận thức về tầm quan trọng của công tác công tác xã hội hóa
giáo dục mầm non

50

Bảng 2.4: Mục tiêu và lợi ích mà Xã hội hóa giáo dục mang lại

51
Bảng 2.5: Nhận thức về nội dung xã hội hóa giáo dục mầm non

53
Bảng 2.6: Đánh giá về vai trò của các cấp, ngành, các lực lượng xã hội về
xã hội hóa giáo dục mầm non

Error: Reference source not found4
Bảng 2.7: Đánh giá mức độ thực hiện các biện pháp Quản lý xã hội hóa
giáo dục mầm non trên địa bàn Thành phố

Error: Reference source not found5
Bảng 2.8: Các yếu tố ảnh hưởng đến việc thực hiện các biện pháp quản lý
xã hội hóa giáo dục

Error: Reference source not found7
iv
Bảng 2.9: Mức độ tham gia công tác XHHGDMN của các lực lượng xã
hội

Error: Reference source not found8
Bảng 3.1: Đánh giá về tầm quan trọng của các giải pháp

85
Bảng 3.2: . Đánh giá mức độ cấp thiết của các giải pháp

86
Bảng 3.3: Đánh giá mức độ khả thi của các giải pháp


87
v
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Sự nghiệp giáo dục và đào tạo trong những năm gần đây đã được Đảng,
Nhà nước và xã hội đặc biệt quan tâm. Đất nước ngày càng phát triển thì đòi
hỏi về giáo dục và đào tạo càng cao, càng toàn diện để đáp ứng được các nhu
cầu của xã hội. Đó cũng là quy luật tất yếu của một xã hội hướng tới sự giàu
có, văn minh, hiện đại công bằng và dân chủ. Rất nhiều nhiệm vụ đã đặt ra
cho giáo dục và đào tạo trong thời gian tới trong đó có nhiệm vụ xã hội hóa
giáo dục. Tại hội nghị Trung ương 6 (Khóa XI) kết luận về kết quả 5 năm
thực hiện Nghị quyết TW2 (khóa VIII) đã nhấn mạnh nhiệm vụ: Đẩy mạnh xã
hội hóa giáo dục, coi giáo dục là sự nghiệp của toàn dân, là giải pháp quan
trọng để tiếp tục phát triển giáo dục. Nhà nước khuyến khích mọi đóng góp,
mọi sáng kiến của xã hội cho giáo dục. Kể từ đó tới nay chúng ta đã có được
những kết quả đáng khích lệ về sự đóng góp của toàn xã hội cho giáo dục,
trong đó có cả giáo dục mầm non. Trong thực tế, xã hội hóa sự nghiệp giáo
dục mầm non phải được coi là triệt để nhất bởi lẽ: trẻ em ở độ tuổi này (dưới
6 tuổi) đang còn non nớt, tự nó khó bảo vệ được mình nếu không có sự chăm
sóc và bảo vệ của người lớn và toàn xã hội. Trẻ em từ 0 - 6 tuổi là thời kỳ
vàng, là cửa sổ của các cơ hội giáo dục khai mở tiềm năng cho trẻ. Nhà giáo
dục Nga A.X.Macarenko đã kết luận rằng: Nền tảng của giáo dục được xây
dựng vững chắc từ trước 5 tuổi, nó chiếm 90% cả quá trình giáo dục. Thực
chất đó là khai phá và phát triển tiềm năng con người. Những gì không có
được ở trẻ em trước 5 tuổi thì sau này khó mà có được. Nếu mầm mống nhân
cách lệch lạc ở độ tuổi này hình thành thì sau này sửa lại nhân cách vô cùng
khó khăn.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ dạy rằng:
Vì lợi ích 10 năm trồng cây

Vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người
1
Tuy nhiên trong một thời gian dài trước đây chúng ta chưa chú trọng
nhiều đến sự nghiệp giáo dục mầm non. Trong giai đoạn phát triển mới, xã
hội hóa sự nghiệp giáo dục mầm non là một tư tưởng giáo dục lớn của Đảng,
chủ trương của Nhà nước nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi
dưỡng nhân tài ngay từ ban đầu để tạo ra lớp công dân mới phát triển toàn
diện, năng động, sáng tạo đáp ứng đòi hỏi của đất nước trong thời kỳ mới.
Những khẳng định của các nhà nghiên cứu đã cho thấy sự cần thiết của sự
nghiệp giáo dục mầm non và tầm quan trọng của vai trò lãnh đạo, chỉ đạo của
Đảng, Nhà nước, hoạt động của các tổ chức, cá nhân, mọi người, mọi nhà,
mọi tổ chức xã hội trong việc chung tay để chăm sóc giáo dục trẻ em, có như
vậy trẻ em mới trở thành những người đủ ý thức và trách nhiệm để lao động
xây dựng và bảo vệ tổ quốc mai sau, và để bảo đảm sự phát triển của đất
nước.
Hồ Chí Minh, người khẳng định rằng giáo dục thế hệ trẻ là trách nhiệm
của toàn dân. Thanh niên, nhi đồng là người chủ tương lai của nước nhà, vì
vậy chăm sóc và giáo dục tốt các cháu là nhiệm vụ của toàn đảng, toàn dân.
Chính vì vậy đây không chỉ là một tư tưởng giáo dục, một xu thế giáo
dục của thời đại mà còn là phương thức để phát triển giáo dục ở mọi nền kinh
tế xã hội khác nhau.
Thực tế công tác quản lý xã hội hóa giáo dục mầm non ở Thành phố
Vinh trong những năm gần đây đã đạt được kết quả tích cực. Tuy nhiên, vẫn
còn nhiều yêu cầu đặt ra nhưng chưa được đáp ứng một cách cơ bản như:
Trình trạng quá tải liên tục trong nhiều trường mầm non, cơ ở vật chất, trang
thiết bị dạy học chưa đáp ứng được các điều kiện quy định về giáo dục mầm
non, một số cơ quan, ban ngành, tổ chức, cá nhân có điều kiện còn thờ ơ,
chưa tích cực trong việc hỗ trợ, phối hợp với các trường mầm non trong các
hoạt động giáo dục,đầu tư nâng cấp cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học,
2

công tác kêu gọi,thu hút, tuyên truyền vận động xã hội hóa một số trường học
còn thiếu phương pháp khoa học và hiệu quả chưa cao, nguồn lực đầu tư từ
ngân sách Thành phố cho bậc học mầm non tuy đã có nhiều cố gắng, tập
trung nhưng chưa đáp ứng được yêu cầu đã đặt ra, vì vậy đã ảnh hưởng không
nhỏ đến chất lượng và hiệu quả của sự nghiệp giáo dục mầm non Thành phố
Vinh.
Nghiên cứu xã hội hóa giáo dục và tăng cường quản lý nhằm nâng cao
hiệu quả công tác xã hội hóa giáo dục mầm non ở Thành phố Vinh không chỉ
là lời giải phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội ….mà còn có ý nghĩa hết sức
quan trọng cung cấp các cơ sở cho việc dự đoán và định kỳ cho sự phát triển
xã hội giáo dục và tăng cường quản lý xã hội hóa giáo dục trong đó có giáo
dục mầm non trong giai đoạn phát triển mới đưa Thành phố Vinh xứng tầm là
Trung Tâm kinh tế, văn hóa vùng bắc trung bộ. Mặt khác trong giai đoạn hiện
nay khi chúng ta có một số khó khăn về nguồn lực để thực hiện thành công
các nhiệm vụ đặt ra cho việc đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục thì việc
đẩy mạnh, nâng cao hiệu quả công tác xã hội hóa giáo dục mầm non là một
vấn đề hết sức quan trọng và cần thiết.
Chính vì vấn đề này tác giả đã chọn đề tài: “Một số giải pháp quản lý
xã hội hóa giáo dục mầm non ở Thành phố Vinh”
2. Mục đích nghiên cứu
Đề xuất những giải pháp quản lý công tác Xã hội hóa giáo dục mầm
non từ đó góp phần nâng cao chất lượng giáo dục mầm non ở Thành phố Vinh
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu: Vấn đề quản lý công tác xã hội hóa giáo
dục mầm non ở thành phố Vinh
3.2.Đối tượng nghiên cứu: Giải pháp quản lý quản lý công tác xã hội
hóa giáo dục mầm non ở thành phố Vinh
3
4. Giả thuyết khoa học
Hiệu quả công tác xã hội hóa giáo dục mầm non sẽ được nâng cao nếu đề xuất

và thực hiện các giải pháp có tính khoa học và tính khả thi.
5.Nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu
5.1. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1.1. Nghiên cứu cơ sở lý luận, xã hội hóa giáo dục và quản lý công
tác xã hội hóa giáo dục mầm non.
5.1.2.Khảo sát thực trạng công tác xã hội hóa giáo dục và quản lý công
tác xã hội hóa giáo dục mầm non trên địa bàn Thành phố Vinh.
5.1.3. Đề xuất một số giải pháp quản lý công tác xã hội hóa giáo dục
mầm non ở Thành phố Vinh
5.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu vấn đề trong phạm vi Thành phố Vinh
6. Phương pháp nghiên cứu
6.1. Các phương pháp nghiên cứu lý luận
- Phương pháp tổng hợp,phân tích hệ thống các tài liệu.
- Phương pháp khái quát hóa các nhận định độc lập.
6.2. Các phương pháp nghiên cứu thực tiễn.
- Phương pháp điều tra
- Phương pháp lấy ý kiến chuyên gia
6.3. Phương pháp thống kê toán học.
Phương pháp này nhằm xử lý các số liệu đã thu được.
7. Đóng góp của luận văn
-Làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực tiễn quản lý công tác xã hội hóa
giáo dục mầm non ở Thành phố Vinh
4
- Đề xuất được các giải pháp quản lý hiệu quả công tác xã hội hóa giáo
dục mầm non ở Thành phố Vinh
8. Cấu trúc luận văn.
Chương 1.Cơ sở lý luận của vấn đề quản lý công tác xã hội hóa giáo
dục mầm non ở Thành phố Vinh
Chương 2. Thực trạng quản lý công tác xã hội hóa giáo dục mầm non

ở Thành phố Vinh
Chương 3. Một số giải pháp quản lý công tác xã hội hóa giáo dục mầm
non ở Thành phố Vinh
5
CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA QUẢN LÝ XÃ HỘI HÓA GIÁO DỤC MẦM NON
1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Dân tộc Việt Nam đã trải qua hàng ngàn năm lịch sử đấu tranh dựng
nước và giữ nước nhưng các giá trị truyền thống dân tộc tốt đẹp vẫn được lưu
giữ từ buổi bình minh của lịch sử con người đến nay. Xã hội hóa giáo dục là
một truyền thống quý báu bắt nguồn từ những giá trị đạo đức nhân văn và
lòng yêu nước của nhân dân ta từ xa xưa được truyền lại cho thế hệ ngày nay.
“Dựng nước, trước tiên phải lo việc học” là câu nói bất hủ lưu đời của
Vua Quang Trung, Nguyễn Huệ trong triều trị Tây Sơn vào thế kỷ XVIII
(năm 1788) với chủ trương mở rộng nền giáo dục đến tận nhân dân. Chiếu
học tập được ban hành và lập ra các nhà xã học. Với các chính sách về giáo
dục thời kỳ đó Vua Quang Trung đã mong muốn xây dựng một dân tộc có tri
thức để nâng cao ý thức dân tộc vươn lên thoát khỏi những ràng buộc của nền
giáo dục khuôn sáo cũ – Trước đó vào thế kỷ XI (1070) Vua Lý Thánh Tông
là người rất quan tâm đến giáo dục và đào tạo. Quốc Tử Giám là minh chứng
cho chính sách đào tạo hiền tài đúng đắn của nhà vua – là cơ sở giáo dục đầu
tiên của Nhà nước phong kiến Việt Nam.
Đến thế kỷ XV- XVI nền giáo dục Việt Nam đã phát triển rực rỡ. Các
phủ, lộ đều có các trường công [37]. Sau khi nhân dân giành được chính
quyền và tuyên bố nền độc lập, tại phiên họp đầu tiên ngày 3 tháng 9 năm
1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác định 3 nhiệm vụ trọng yếu của chính
quyền là: “Chống giặc đói, chống giặc dốt, chống giặc ngoại xâm”. [21]
Bác khẳng định: “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu” [21]. Sau cách
mạng tháng 8, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, nền giáo dục của
Việt Nam đã đạt được những kết quả bước đầu rất đáng khích lệ và vượt

6
qua rất nhiều những khó khăn, thiếu thốn của một Nhà nước non yếu để
chuyển mình sang quyết tâm xây dựng một nền giáo dục mới đó là: Nền
giáo dục của toàn dân.
Tuy nhiên trong giai đoạn sau khi thống nhất đất nước đến trước thời kỳ
đổi mới (1986) do tác động của cơ chế quan liêu,tập trung bao cấp đất nước nói
chung và giáo dục Việt Nam nói riêng đã rơi vào khủng hoảng. Giáo dục toàn
dân chưa được coi trọng, nguồn lực xã hội không được quan tâm thu hút để
phát triển giáo dục, bản chất xã hội của giáo dục không được coi trọng và phát
huy đúng hướng. Ở giai đoạn này nền giáo dục của Việt Nam không có sự
phát triển và tụt hậu nghiêm trọng vì vậy giáo dục đã không theo kịp với yêu
cầu phát triển kinh tế xã hội của đất nước và xu hướng phát triển của thời đại.
Từ những yếu kém của nền giáo dục và xác định rõ tầm quan trọng
cũng như mức độ ảnh hưởng của giáo dục đối với sự phát triển của đất nước.
Giáo dục đứng trước thử thách buộc phải phát triển với một trình độ mới để
đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói rằng:”
Không có giáo dục, không có cán bộ thì cũng không nói gì đến kinh tế, văn
hóa” [21]. Từ Đại hội Đảng lần thứ VI (1986) đến Đại hội Đảng lần thứ XI
(2011) cũng như trong các văn kiện quan trọng của Đảng và văn bản của Nhà
nước, giáo dục và đào tạo đã được nhìn nhận lại và luôn được khẳng định là
“Quốc sách hàng đầu” “là động lực của sự phát triển đất nước”. Xã hội hóa đã
được coi là quan điểm chủ trương lớn trong hoạch định các chính sách xã hội.
Trong thời kỳ đổi mới này nhiều nhà khoa học, nhà quản lý giáo dục đã
nghiên cứu,bàn bạc nhiều về xã hội hóa giáo dục. Trong cuốn “Xã hội hóa
công tác giáo dục” xuất bản năm 1997 tác giả Phạm Minh Hạc đã khẳng định
“Xã hội hóa công tác giáo dục là một tư tưởng chiến lược, một bộ phận của
đường lối giáo dục, một con đường phát triển giáo dục nước ta” [19].
7
“Coi sức mạnh tổng hợp của toàn dân, của xã hội tham gia vào công tác
giáo dục là điều kiện tiên quyết để phát triển toàn diện và có hiệu quả sự nghiệp

giáo dục thế hệ trẻ nói riêng và nên giáo dục quốc dân nói chung ”. [19]
Trong cuốn “Giáo dục Việt Nam tới ngưỡng cửa của thế kỷ XXI” tác
giả một lần nữa nêu rõ “Sự nghiệp giáo dục không phải chỉ là của Nhà nước,
mà là của toàn xã hội mọi người cùng làm giáo dục, Nhà nước và xã hội,
Trung ương và địa phương cùng làm giáo dục tạo nên một cao trào học tập
trong toàn dân”. [20]
“Phát triển giáo dục theo tinh thần xã hội hóa. Tư tưởng “Xã hội hóa”
giáo dục được thừa nhận như là một nhân tố mới trong sự phát triển giáo dục
hiện nay. “Với tư cách là nhân tố mới của sự nghiệp giáo dục, tư tưởng xã hội
hóa công tác giáo dục lại tạo ra những điều kiện để xuất hiện nhiều nhân tố
mới khác trong quá trình đi lên của các phong trào giáo dục”. [15]
Tác giả Đặng Quốc Bảo khẳng định: “Xã hội hóa giáo dục phản ánh bản
chất của luận đề giáo dục cho tất cả mọi người, tất cả cho sự nghiệp giáo dục.
Ông cũng nhấn mạnh rằng” “Không có xã hội nào có thể tồn tại nếu không có
sự giáo dục và mọi sự giáo dục đều hướng tới sự tiến bộ của xã hội. Như vậy
là luôn luôn tồn tại nền giáo dục xã hội”. [7]
Nhà nghiên cứu Nguyễn Trần Bạt cho rằng: “Xã hội hóa giáo dục là
tinh thần, là nội dung quan trọng nhất của cải cách giáo dục, bảo đảm sự
thành công của cách giáo dục”. “Xã hội hóa giáo dục có ý nghĩa là Nhà nước
phải tạo ra không gian xã hội, luật pháp và chính trị cho việc hình thành một
khu vực giáo dục mà ở đấy ai cũng có quyền đóng góp vì sự nghiệp giáo dục,
thực hiện sự cạnh tranh về chất lượng giáo dục tức là giáo dục phải thuộc về
xã hội”. [8]
8
Viện khoa học giáo dục đã triển khai khá nhiều năm một hệ thống đề tài
về xã hội hóa giáo dục, tổng kết kinh nghiệm, phát triển lý luận và đề xuất các
cơ chế xã hội hóa giáo dục.
Các nhà khoa học, nhà nghiên cứu như: Hồ Thiện Hùng, Nguyễn Thanh
Bình, Võ Tài Quang, Nguyễn Mậu Bành cũng đã có nhiều nghiên cứu, bài
viết về xã hội hóa giáo dục.

1.2. Lịch sử nghiên cứu xã hội hóa giáo dục mầm non
Vào thời pháp thuộc trước khi Cách mạng tháng 8 thành công Việt Nam
không có nền giáo dục cho các trẻ em trước tuổi đi học. Cả nước chỉ có một
vài trại tế bần để nuôi trẻ mồ côi. Sau khi giành được độc lập, Hồ Chí Minh
đã ban hành sắc lệnh số 146/SL ngày 10/8/1946 nêu những nguyên tắc cơ bản
của nền giáo dục mới trong đó ghi rõ: “Bậc học ấu trĩ nhận giáo dục trẻ em
dưới 7 tuổi và tổ chức theo điều kiện của Bộ Quốc gia giáo dục ấn định sau”.
Hiến pháp 1946 nêu rõ: “Nhà nước bảo vệ quyền lợi cho những người mẹ của
trẻ em, đảm bảo phát triển các nhà đỡ đẻ, các nhà trẻ và vườn trẻ”.
Nghị định 05 ngày 10/9/1945 của Bộ cứu tế đã nêu: “Khuyến khích các
nhà bảo anh, dục anh ấu trĩ viên”.
Ngày 15/12/194 - Ban giáo dục ấu trĩ được thành lập cùng với trường
mẫu giáo đầu tiên được thành lập ở Tây Hồ - Hà Nội. Trong giai đoạn kháng
chiến chống Pháp tuy còn bỡ ngỡ nhưng chúng ta đã thành lập được các lớp
ấu trĩ viên, lớp vỡ lòng, lớp nhà trẻ, nhiều nơi mở Dục Anh viện, cô nhi viện
để nuôi dạy con các liệt sỹ, thương binh và gia đình quân nhân không nơi
nương tựa. Ngày 02/01/1949, Bộ Quốc gia giáo dục đã tổ chức Hội nghị mẫu
giáo toàn quốc đầu tiên trong lịch sử. Thời kỳ chống Mỹ cứu nước, Đảng và
Nhà nước ta đã rất quan tâm đến giáo dục mầm non. Ngày 12/8/1966, Thủ
tướng Chính phủ đã có Chỉ thị số 153/CP nêu rõ: “ Công tác nhà trẻ, mẫu
9
giáo ngày càng được coi trọng để bảo vệ tính mạng và sức khỏe cho các cháu,
tạo điều kiện thuận lợi cho phụ nữ đảm đương nhiệm vụ ”.
Vượt qua những khó khăn gian khổ của 2 cuộc chiến tranh và những tồn
tại, yếu kém trước thời kỳ chuyển đổi sang kinh tế thị trường theo định hướng
XHCN, nhờ thực hiện chủ trương xã hội hóa, giáo dục mầm non đã khắc phục
được tình trạng suy giảm, thử thách để phát triển tạo nên sự chuyển biến một
cách rõ nét.
Trong các hình thức giáo dục thì giáo dục mầm non có thể khẳng định
được xã hội hóa hơn bất kỳ bậc học nào. Đó là sự thể hiện rõ nét và sinh động

về nguyên tắc Nhà nước, xã hội, nhân dân cùng làm. Tuy nhiên, việc đầu tư
nghiên cứu về xã hội hóa giáo dục mầm non còn hạn chế. Trong một báo cáo
tổng quan về tình hình nghiên cứu xã hội hóa giáo dục của Ban khoa giáo
Trung ương đã nêu rõ: “Đã có một số nghiên cứu chuyên đề về xã hội hóa sự
nghiệp giáo dục – các nghiên cứu này góp phần làm rõ, bổ sung thêm những
nghiên cứu chung. Tuy nhiên vẫn còn những vấn đề chưa được nghiên cứu
sâu như xã hội hóa đối với giáo dục mầm non Đó là những vấn đề cần tiếp
tục được nghiên cứu” [6].
Năm 1999 – 2000, Ban nghiên cứu mầm non Viện nghiên cứu phát triển
giáo dục đã có đề tài “Nghiên cứu các giải pháp phát triển giáo dục mầm non
nông thôn” trong đó xã hội hóa giáo dục cũng đã được đề cập là một trong
những giải pháp của hệ thống tuy nhiên chưa đi sâu được vào nghiên cứu
riêng cho giải pháp xã hội hóa giáo dục mầm non. Trong cuốn sách “Xã hội
hóa giáo dục” của Viện khoa học giáo dục năm 2001 đã đề cập một cách hết
sức khái quát đến một số điểm xuất phát của việc định hình xã hội hóa giáo
dục mầm non và vận dụng phương thức xã hội hóa trong giáo dục mầm non.
Thực hiện nghị quyết Trung ương 2 (khóa VIII) và Nghị quyết Đại hội
Đảng toàn quốc lần thứ IX, ngày 25/6/2002 Thủ tướng Chính phủ đã tổ chức
10
Hội nghị bàn về công tác giáo dục mầm non. Tại Hội nghị đã đề ra được
nhiều giải pháp cơ bản cho chiến lược phát triển giáo dục mầm non trong đó
nhấn mạnh: “Tiếp tục đẩy mạnh biện pháp xã hội hóa giáo dục mầm non, đa
dạng hóa các loại hình giáo dục mầm non”.
Ngày 23/6/2006 Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số
149/2006/QĐ-TTg phê duyệt Đề án phát triển giáo dục mầm non giai đoạn
2006 - 2015 với quan điểm chỉ đạo: “Nhà nước có trách nhiệm quản lý, đầu
tư phát triển giáo dục mầm non, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi về cơ chế,
chính sách, đẩy mạnh công tác xã hội hóa” và nhấn mạnh giải pháp: “Thực
hiện triệt để công tác xã hội hóa theo tinh thần Nghị quyết 05/2005/NQCP
ngày 18/4/2005 về đẩy mạnh xã hội hóa các hoạt động giáo dục, y tế, văn hóa

và thể thao” “khuyến khích huy động và tạo điều kiện để các tổ chức xã hội,
tổ chức xã hội nghề nghiệp, tổ chức kinh tế, cá nhân trong và ngoài
nước Trong quá trình thực hiện đề án phát triển giáo dục mầm non giai
đoạn 2006 – 2016 để tăng cường và đảm bảo vững chắc việc thực thi hiệu quả
các giải pháp đã được đề ra, Thủ tướng Chính phủ cũng đã ban hành Quyết
định số 60/2011/QĐ-TTg về quy định một số chính sách phát triển giáo dục
mầm non giai đoạn 2011 – 2015.
Ngoài ra còn nhiều bài viết về xã hội hóa giáo dục các nước trên thế
giới và khu vực của các tác giả đã cung cấp nhiều tư liệu và bài học kinh
nghiệm quý giá,làm cơ sở cho việc định hình quan điểm về xã hội hóa giáo
dục trong đó có xã hội hóa giáo dục mầm non và quan trọng hơn nữa là vận
dụng những quan điểm đó vào thực tiễn một cách phù hợp và đạt hiệu quả.
Ngoài ra nhiều luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ trong nước cũng đã đề
cập đến nhiều khía cạnh khác nhau của XHHGD.Một số nội dung của
XHHGD ở thành phố Vinh cũng đã được nghiên cứu và đề xuất những giải
pháp quan trọng có tính khả thi trong công tác quản lý công tác
11
XHHGDMN .Tuy nhiên những nghiên cứu này còn có hạn chế về việc chưa
tập trung vào những vấn đề có tác động mạnh mẽ và hiệu quả trong quản lý
công tác XHHGDMN như: các cơ chế, chính sách khuyến khích và tăng
cường quản lý công tác XHHGDMN, các biện pháp phối hợp thực hiện quản
lý công tác XHHGD.
1.3. Các khái niệm cơ bản của đề tài
1.3.1. Xã hội hóa giáo dục
a. Xã hội hóa:
Có nhiều định nghĩa khác nhau:
- Xã hội hóa là làm cho trở thành của chung của xã hội. [39]
- Xã hội hóa là quá trình tương tác giữa cá nhân và xã hội (tập thể),
trong đó cá nhân học hỏi và thực hành những tri thức, những kỹ năng và
những phương thức cần thiết để hội nhập với xã hội . [40]

- Xã hội hóa là quá trình con người liên tục tiếp thu văn hóa vào nhân
cách của mình để sống trong xã hội như là một thành viên,tức XHH được
dùng để chỉ XHH cá nhân, là quá trình cá nhân học tập, lĩnh hội kinh nghiệm
xã hội-lịch sử để trở thành cá nhân và thành nhân cách-con người xã hội . [38]
Mặc dầu có các định nghĩa khác nhau nhưng cốt lõi của xã hội chính là
sự tương tác mối liên hệ, thuộc tính vốn có của con người, của cộng đồng
nhằm đáp ứng lại xã hội và chịu ảnh hưởng của xã hội. Trên các lĩnh vực đời
sống chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội hoạt động của con người, của cộng
đồng diễn ra trong mối quan hệ tương hỗ lẫn nhau. Vì vậy chúng ta có thể
hiểu xã hội hóa theo định nghĩa sau:
Xã hội hóa là quá trình cá nhân nhờ hoạt động, tiếp thu giáo dục, giao
lưu…mà học hỏi được cách sống trong cộng đồng, trong đời sống xã hội và
phát triển được khả năng đảm nhiệm các vai trò xã hội với tư cách vừa là cá
thể vừa là một thành viên của xã hội.
12
Trong giai đoạn hiện nay xã hội hóa trở thành một phương châm hành
động của các cấp các ngành, các tổ chức xã hội nhằm phát huy nội lực, huy
động sức lực của cộng đồng, nguồn vốn xã hội từ nhân dân, theo cơ chế:
“Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” “Nhà nước và nhân
dân cùng làm”.
b. Xã hội hóa giáo dục:
Xã hội hóa giáo dục là quá trình tương tác giữa giáo dục và xã hội,
trong đó giáo dục gia nhập và hòa nhập vào xã hội vào cộng đồng, đồng thời
xã hội tiếp nhận giáo dục như là công việc của mình, do mình, vì mình. Đó
chính là mối quan hệ mật thiết và biện chứng. Xã hội hóa giáo dục có tác
dụng rất tích cực đến quá trình xã hội hóa con người, xã hội hóa cá nhân.
Như vậy xã hội hóa giáo dục là bộ phận không thể tách rời của hệ thống
xã hội. Giáo dục và khoa học, công nghệ chính là động lực phát triển kinh tế -
xã hội. Xã hội hóa giáo dục là thực hiện mối liên hệ phổ biến, có tính quy luật
cùng giáo dục và cộng đồng xã hội.

Xã hội hóa giáo dục là: Huy động toàn xã hội làm giáo dục, động viên
các tầng lớp nhân dân góp sức xây dựng nền giáo dục quốc dân dưới sự quản
lý của Nhà nước để xây dựng một xã hội học tập.
Nghị quyết 05/2005/NQ.CP chỉ ra rằng: Thực hiện xã hội hóa nhằm 2
mục tiêu lớn:
Thứ nhất là phát huy tiềm năng trí tuệ và vật chất trong nhân dân, huy
động toàn xã hội chăm lo sự nghiệp giáo dục…, thứ hai là tạo điều kiện để
toàn xã hội, đặc biệt là các đối tượng chính sách, người nghèo được thụ
hưởng thành quả giáo dục ở mức độ ngày càng cao.
Khi nói về những chủ trương, chính sách và những biện pháp lớn về
phát triển giáo dục đào tạo, Đảng ta đã yêu cầu: “Huy động các nguồn đầu tư
trong nhân dân, viện trợ của các tổ chức quốc tế, kể cả vay vốn của nước
ngoài để phát triển giáo dục”
13
“Mặt trận tổ quốc, các đoàn thể nhân dân, các tổ chức xã hội, mọi gia
đình và mọi người cùng với ngành giáo dục đào tạo chăm lo xây dựng sự
nghiệp giáo dục theo phương châm: “Nhà nước và nhân dân cùng làm”, xây
dựng môi trường giáo dục nhà trường, gia đình và xã hội”. [3]
Tác giả Phạm Minh Hạc đã nêu: Xã hội hóa giáo dục là “Làm cho xã
hội nhận rõ trách nhiệm đối với giáo dục, giáo dục phục vụ đắc lực cho
phát triển kinh tế - xã hội, thực hiện việc kết hợp giáo dục trong nhà trường
với ngoài nhà trường, tạo điều kiện để giáo dục kết hợp với lao động, học
đi đôi với hành; xã hội hóa giáo dục có quan hệ hữu cơ với dân chủ hóa
giáo dục”. [19]
Xã hội hóa giáo dục là một quan điểm cơ bản, có tính chiến lược trong
việc xây dựng và phát triển giáo dục của Đảng và Nhà nước ta trong giai đoạn
hiện nay. Đó là sự thể hiện đường lối vận động quần chúng, huy động sức
mạnh của toàn thể xã hội vào việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị mà Đảng
ta luôn coi trọng trong suốt quá trình lãnh đạo đấu tranh cách mạng.
Hồ Chủ tịch cũng đã căn dặn và nêu rõ quan điểm: “Giáo dục là sự

nghiệp của quần chúng, cần phải phát huy đầy đủ dân chủ xã hội chủ nghĩa,
xây dựng quan hệ thật tốt, đoàn kết thật chặt chẽ giữa thầy và thầy, giữa thầy
và trò, giữa học trò với nhau, giữa cán bộ các cấp, giữa nhà trường và nhân
dân để hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ đó…”. [22]
Như vậy, XHHGD cần phải được hiểu trên phương diện rộng là toàn thể
xã hội tham gia vào sự nghiệp giáo dục, là cho hoạt động giáo dục trở thành
hoạt động chung của toàn xã hội.
1.3.2. Quản lý và quản lý XHHGD
a. Quản lý:
Quản lý được hình thành từ khi xã hội loài người xuất hiện bởi ở đó có
các quan hệ giữa con người với nhau, con người với thiên nhiên, con người
với xã hội điều này làm nảy sinh nhu cầu về quản lý.
14
Có nhiều cách hiểu khác nhau về quản lý:
- Quản lý là trông coi và gìn giữ theo những yêu cầu nhất định. [39]
- Quản lý là tác động có mục đích đến tập thể những con người để tổ
chức và phối hợp hoạt động của họ trong quá trình lao động. [31]
- Quản lý là xác lập sự tương hợp giữa các công việc cá nhân và hình
thành những chức năng chung, xuất hiện trong toàn bộ cơ chế sản xuất, khác
với vận động của những bộ phận riêng lẻ của nó. [9]
Tác giả Trần Kiểm cho rằng: Quản lý là những tác động của chủ thể
quản lý trong việc huy động, phát huy, kết hợp, sử dụng điều chỉnh, điều phối
các nguồn lực (nhân lực, vật lực, tài lực) trong và ngoài tổ chức (chủ yếu là
nội lực) một cách tối ưu nhằm đạt mục đích của tổ chức với hiệu quả cao
nhất. [25]
Từ trên những khái niệm ta có thể nêu ra 4 chức năng cơ bản của quản
lý đó là:
+ Chức năng kế hoạch: Là công tác xác định trước mục tiêu của tổ chức,
đồng thời chỉ ra các phương pháp, biện pháp để thực hiện mục tiêu, trong điều
kiện biến động của môi trường.

+ Chức năng tổ chức: Là sắp xếp, phân công các nhiệm vụ, các nguồn
lực (con người, các nguồn lực khác) một cách tối ưu nhằm làm cho tổ chức
vận hành theo kế hoạch, đạt được mục tiêu đặt ra.
+ Chắc năng chỉ đạo: Là phương thức tác động của chủ thể quản lý
nhằm điều hành tổ chức vận hành đúng theo kế hoạch, thực hiện đúng mục
tiêu quản lý.
+ Chức năng kiểm tra: Là phương thức hoạt động của chủ thể quản lý
lên đối tượng quản lý nhằm thu thập thông tin phản hồi, đánh giá và xử lý các
kết quả vận hành của tổ chức từ đó ra các quy địnhquản lý điều chỉnh nhằm
thực hiện được mục tiêu đề ra.
15
b. Quản lý công tác XHHGD:
Quản lý XHHGD là quá trình chỉ đạo, điều hành công tác XHHGD, là
hệ thống những tác động có ý thức, có mục đích, có kế hoạch, phù hợp với
quy luật của chủ thể quản lý đến các lực lượng trong và ngoài ngành giáo dục
nhằm thực hiện có chất lượng và hiệu quả mục tiêu giáo dục.
Hay nói cách khác đó là hệ thống các tác động có hướng đích của chủ
thể quản lý các cấp đến các đối tượng quản lý nhằm làm cho công tác
XHHGD đạt được các mục tiêu dự kiến:
Quản lý XHHGD chính là tăng cường hiệu quả của công tác XHH được
thể hiện bằng việc ban hành các văn bản pháp luật, các quy định, quyết định,
thông tư, hướng dẫn…
Hệ thống văn bản là hành lang pháp lý để khuyến khích, phát huy công
tác XHHGD. Quản lý XHHGD cần phải mềm dẻo và linh hoạt để tạo được
những phong trào, định hướng phong trào, phát huy dân chủ trong nhân dân,
huy động mạnh mẽ nội lực của nhân dân và toàn xã hội để phục vụ cho sự
nghiệp phát triển giáo dục.
Đảng và Nhà nước phải có các chủ trương chính sách, quy định để tạo
điều kiện cho mọi tổ chức, cá nhân được tự do tham gia XHHGD và can thiệp
khi có các hành vi vi phạm các chủ trương, chính sách và quy định đó.

Trên cơ sở chức năng quản lý chúng ta có thể xác định các nội dung của
quản lý công tác XHHGD như sau:
- Lập kế hoạch công tác XHHGD
- Tổ chức thực hiện kế hoạch công tác XHHGD
- Chỉ đạo thực hiện kế hoạch công tác XHHGD
- Kiểm tra, đánh giá kết quả công tác XHHGD.
1.3.3. Giải pháp và giải pháp quản lý công tác XHHGD
- Giải pháp:
“Giải pháp là phương pháp giải quyết một vấn đề cụ thể” [39].
16
Trong quá trình nghiên cứu và thực hiện chúng ta cần phân biệt với một
số khái niệm như phương pháp, biện pháp – chúng giống nhau ở chỗ là đều
nói về cách làm, cách tiến hành, cách giải quyết một công việc, một vấn đề
nào đó. Tuy nhiên biện pháp khác ở chỗ chủ yếu nhấn mạnh đến cách làm,
các hành động cụ thể trong khi đó thì phương pháp nhấn mạnh đến trình tự
các bước có quan hệ với nhau để tiến hành công việc có mục đích. Giải pháp
cũng là phương pháp nhung được thực hiện ở tầm vĩ mô.
- Giải pháp quản lý công tác XHHGD:
Giải pháp quản lý công tác XHHGD chính là hệ thống các biện pháp,
phương pháp, cách thức quản lý việc thực hiện công tác XHHGD nhằm huy
động toàn thể xã hội tham gia một cách có hiệu quả vào sự nghiệp giáo dục.
1.4. Bản chất và các đặc trưng của XHHGD
1.4.1. Bản chất của công tác XHHGD
Xã hội hóa giáo dục mầm non (XHHGDMN) là một bộ phận của
XHHGD- Chính vì vậy khi xem xét vấn đề XHHGDMN phải đặt nó trong
mối quan hệ mật thiết, chặt chẽ, khăng khít với XHHGD và nghiên cứu rộng
ra XHHGDMN không bao giờ tách rời sự phát triển của xã hội. Sự tồn tại và
phát triển của giáo dục luôn chịu sự chi phối của trình độ phát triển xã hội và
ngược lại. Bản chất của XHHGDMN là lôi cuốn mọi lực lượng xã hội phát
triển giáo dục mầm non (GDMN) để thực hiện có hiệu quả các mục tiêu giáo

dục cho mọi trẻ em trong độ tuổi.
1.4.2. Đặc trưng của công tác XHHGDMN
- Giáo dục mầm non là bậc học đầu tiên trong hệ thống giáo dục quốc
dân đặt nền móng cho việc hình thành và phát triển nhân cách trẻ em. Xét về
các loại hình giáo dục cơ sở các bậc học, ngành học khác GDMN mang tính
xã hội cao nhất, rộng khắp và sâu đậm nhất vì nó đòi hỏi cả về nuôi nấng và
chăm lo về thể chất lẫn tinh thần, trí tuệ cho trẻ của gia đình, trường lớp, mầm
17
non, mọi ngành, mọi cấp và tất cả cộng đồng. Vì vậy phải thực hiện mục tiêu
nâng cao chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ em trên cơ sở một sự phát triển đa
dạng và ổn định, đổi mới phương thức nuôi dạy bằng những cải cách cơ bản
và toàn diện.
- Nếu xét về quá trình xã hội hóa (XHH) theo phân đoạn thì xã hội hóa
ở giai đoạn trẻ mầm non là gia đoạn XHH sớm nhất được bắt đầu từ khi trẻ
sinh ra cho đến khi đi học. Nó là một quá trình hình thành và phát triển nhân
cách cho trẻ em từ 0 – 6 tuổi và diễn ra theo con đường XHH cá nhân trong
đó trẻ tiếp thu các chuẩn mực giá trị xã hội và có sự luyện tập, học hỏi dưới
sự hướng dẫn của giáo viên và những người lớn khác. Trẻ tiếp nhận kinh
nghiệm xã hội bằng cách thâm nhập vào môi trường xã hội, hệ thống quan hệ
xã hội với người khác. Trẻ mầm non là đối tượng chăm sóc giáo dục được sự
chăm lo của giáo dục nhà trẻ, trường lớp mẫu giáo và của gia đình một cách
tự giác lẫn tự phát. Chất lượng và hiệu quả của quá trình XHHGDMN phụ
thuộc vào việc lựa chọn phương thức hoạt động chăm sóc giáo dục đối với trẻ
em sao cho vừa khai thác tối ưu các nguồn lực đảm bảo mục tiêu phát triển
GDMN cả về quy mô và chất lượng, đồng thời vừa tạo ra những cơ hội nhiều
mặt để phát triển tiềm năng của trẻ.
- Trẻ em ở lứa tuổi mầm non là đối tượng quan tâm của nhiều ngành
(giáo dục, y tế, UBCS – GDTE, phụ nữ ) nhiều lực lượng (gia đình, nhà
trường và các lực lượng xã hội) nhiều chương trình cùng đồng thời thực hiện
việc chăm sóc giáo dục trẻ em mầm non, nên việc tham gia vào GDMN là

một trong những nhiệm vụ của các ngành, các lực lượng xã hội.
- Giáo dục mầm non có nhiều loại hình, nhiều chương trình mang tính
xã hội cao như: Các hình thức trường mầm non công lập, bán công, dân lập,
tư thục, các nhóm, lớp mầm non tư thục, dân lập, nhóm trẻ gia đình, nhóm
tuổi thơ. Các chương trình chính quy thực hiện tại nhà trẻ, trường mẫu giáo,
18
trường mầm non là chương trình chỉnh lý ở nhà trẻ, chương trình cải cách ở
mẫu giáo, chương trình với mục tiêu ưu tiên: Chương trình chăm sóc giáo dục
trẻ ở nhóm trẻ gia đình, chương trình giáo dục các bậc cha mẹ, chương trình
mẫu giáo chuẩn bị cho trẻ 5 tuổi vào tiểu học Vì vậy việc huy động các lực
lượng tham gia vào XHHGDMN có nhiều điều kiện thuận lợi nhất là trong
việc thực hiện đa dạng hóa các loại hình, đa phương hóa các nguồn lực.
- Giáo dục mầm non là bậc học không bắt buộc nên sự tồn tại, phát triển
phục thuộc rất nhiều vào sự quan tâm của các cấp ủy Đảng, chính quyền địa
phương và nhận thức của nhân dân.
Đề thực hiện có hiệu quả XHHGDMN cần quan tâm 4 vấn đề sau:
+ Cộng đồng hóa trách nhiệm, nhiệm vụ của các chủ thể trong
XHHGDMN
+ Đa dạng hóa các loại hình giáo dục mầm non
+ Đa phương hóa thu hút các nguồn lực cho GDMN - Nhà nước - nhân
dân, Trung ương - địa phương, ngành giáo dục - các ngành hữu quan trong
nước - ngoài nước.
+ Thể chế hóa thành các quy định, chế tài đối với nhiệm vụ, trách nhiệm
của các lực lượng xã hội đối với việc tham gia vào GDMN.
1.4.3. Vai trò của công tác XHHGDMN trong giai đoạn hiện nay
1.4.3.1. XHHGDMN khai thác được tối ưu tiềm năng của xã hội, khắc
phục những khó khăn của quá trình phát triển giáo dục mầm non
Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước từ những kết quả khiêm tốn
ban đầu của GDMN, đến nay qua nhiều thập kỷ hệ thống GDMN trên cả nước
đã phát triển rộng khắp, thu hút được số trẻ ra lớp đạt tỷ lệ cao so với một số

nước đang phát triển trong vùng Đông Nam Á. Đảng và Nhà nước ngày càng
quan tâm hơn đến công tác GDMN vì vậy chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ
em nhiều nơi đạt kết quả rất tốt. Tuy nhiên một thực tế khi chuyển sang nền
19
kinh tế thị trường, ngân sách nhà nước và kinh phí tập thể đã không thể tài trợ
cho GDMN. Do chịu ảnh hưởng của tư tưởng bao cấp trong một thời gian dài,
chỉ tập trung xây dựng nhà trẻ, mẫu giáo chính quy với nguồn kinh phí do
Nhà nước và khu vực kinh tế tập thể (HTX) công tác XHHGDMN đã không
được quan tâm nên dẫn đến sự giảm sút nghiêm trọng, một số các nhà trẻ,
trường mẫu giáo đã không còn hoạt động.
Hiện nay GDMN đang đứng trước những thử thách lớn – Đó là mâu
thuẫn giữa nhu cầu phát triển GDMN và sự đầu tư hạn hẹp cho GDMN từ
ngân sách nhà nước. Mâu thuẫn giữa một mặt là yêu cầu của phổ cập giáo dục
tiểu học đòi hỏi phát triển với quy mô rộng lớn của lớp mẫu giáo 5 tuổi, đảm
bảo cho 100% trẻ 5 tuổi được chuẩn bị vào tiểu học với một mặt là không đủ
điều kiện để phát triển mà khó khăn trước hết là đội ngũ giáo viên và cơ sở
vật chất. Một vấn đề cần quan tâm đó là chính sách đầu tư cho GDMN vẫn
còn bất hợp lý cả về phương diện kế hoạch và thực tiễn, mới chỉ đầu tư cho
trẻ em ở khu vực mầm non công lập mà còn thiếu quan tâm đến đầu tư trẻ
thuộc khu vực ngoài công lập.
Sự mâu thuẫn giữa yêu cầu của việc đào tạo con người của thế kỷ XXI
và tương lai với điều kiện, khả năng kinh tế có hạn của Nhà nước đã thấy rõ.
Chính vì vậy trong giai đoạn hiện nay XHHGD nói chung và XHHGDMN
nói riêng có vai trò hết sức quan trọng bởi nó có yếu tố đóng góp hết sức tích
cực và cần thiết cho việc thực hiện hiệu quả các mục tiêu phát triển của giáo
dục. XHHGDMN sẽ mang lại nhiều nguồn lực phục vụ mọi hoạt động của
GDMN. Huy động các nguồn lực và đa dạng hóa các nguồn lực bao gồm
nguồn lực vật chất (nhân lực, vật lực, tài lực), nguồn lực tinh thần (sáng kiến
kinh nghiệm, góp ý tư vấn ), nguồn lực vừa có ý nghĩa vật chất lẫn tinh thần
như công nghệ thông tin, thông tin Những nguồn lực này sẽ góp phần giải

20

×