1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC
PHẠM DUY PHƢƠNG
QUẢN LÍ THIẾT BỊ DẠY HỌC
Ở CÁC TRƢỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ HUYỆN GIA LỘC,
TỈNH HẢI DƢƠNG
LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÍ GIÁO DỤC
CHUYÊN NGÀNH QUẢN LÍ GIÁO DỤC
MÃ SỐ: 60 14 05
HÀ NỘI - 2013
2
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC
PHẠM DUY PHƢƠNG
QUẢN LÍ THIẾT BỊ DẠY HỌC
Ở CÁC TRƢỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ HUYỆN GIA LỘC,
TỈNH HẢI DƢƠNG
LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÍ GIÁO DỤC
CHUYÊN NGÀNH QUẢN LÍ GIÁO DỤC
MÃ SỐ: 60 14 05
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. Ngô Quang Sơn
HÀ NỘI - 2013
3
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Thế kỉ XXI, toàn cầu hóa và cách mạng khoa học - công nghệ phát
triển mạnh mẽ, thúc đẩy quá trình hình thành xã hội thông tin và kinh tế tri
thức, thế kỉ của khoa học và công nghệ với xu thế hội nhập của nền kinh tế
quốc tế ngày càng cao, với sự cạnh tranh trên thị trường thế giới ngày càng
quyết liệt, với sự phát triển như vũ bão của khoa học - công nghệ Trước
tình hình đó, Đảng và Nhà nước ta đã đẩy nhanh sự nghiệp công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước, trong đó coi “Giáo dục là quốc sách hàng đầu”. Vì vậy,
đòi hỏi ngành Giáo dục và Đào tạo phải đào tạo đội ngũ những người lao
động tự chủ, năng động, sáng tạo, tiếp cận và làm chủ được công nghệ tiên
tiến, có năng lực giải quyết các vấn đề thực tiễn đặt ra, có khả năng bắt kịp
nhịp độ phát triển của thời đại.
Mục tiêu của giáo dục Việt Nam được chỉ rõ trong Điều 2, Luật Giáo
dục 2005: “Đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo đức, tri
thức, sức khoẻ, thẩm mĩ và nghề nghiệp, trung thành với lí tưởng độc lập dân
tộc và chủ nghĩa xã hội; hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và
năng lực của công dân, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc” [29, tr. 1].
Để thực hiện được mục tiêu trên, trong những năm qua Đảng, Nhà
nước ta đã có nhiều chủ trương, chính sách lớn đầu tư cho chiến lược phát
triển Giáo dục và Đào tạo nhằm nâng cao chất lượng giáo dục, đáp ứng nguồn
nhân lực cho sự nghiệp Công nghiệp hóa, Hiện đại hóa đất nước. Nhà nước đã
xây dựng bốn chương trình Quốc gia:
1. Đổi mới nội dung, chương trình, sách giáo khoa.
2. ĐMPPDH.
3. Đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ GV.
4. Nâng cấp CSVC, TBDH.
4
Trong đó việc ĐMPPDH, đổi mới nội dung chương trình, sách giáo
khoa và trang bị TBDH được đặc biệt quan tâm.
TBDH vừa là nguồn tri thức, vừa là phương tiện chứa đựng, truyền tải
thông tin nhằm tích cực hoá quá trình nhận thức, kích thích hứng thú học tập,
phát triển trí tuệ, kĩ năng thực hành của HS góp phần nâng cao chất lượng dạy
và học. TBDH còn góp phần đảm bảo tính trực quan trong quá trình dạy học,
mở rộng khả năng tiếp cận với các sự vật và hiện tượng, cho phép HS có điều
kiện tự chiếm lĩnh kiến thức, hình thành kĩ năng, kĩ xảo và khả năng tự học.
Thời gian qua, quản lí việc trang bị, bảo quản, sử dụng TBDH ở các
trường THCS của huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương đã được quan tâm hơn, góp
phần quan trọng trong việc giữ vững, nâng cao chất lượng giáo dục của huyện.
Từ năm 2002 các trường THCS đã được trang bị TBDH theo Danh mục thiết
bị dạy học tối thiểu do Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định. Từ đó đến nay quản
lí việc trang bị, bảo quản, sử dụng TBDH đã dần đi vào nền nếp. Hằng năm
các trường đều đã được cấp kinh phí và đã có kế hoạch để trang bị bổ sung
TBDH. Hầu hết các trường đã có cán bộ chuyên trách phụ trách TBDH; có
phòng chứa thiết bị, hệ thống tủ giá dần được bổ sung; phòng thí nghiệm,
phòng học bộ môn ngày càng được xây dựng nhiều; có hệ thống hồ sơ sổ quản
lí TBDH được thiết lập; công tác kiểm kê thanh lọc TBDH định kì cũng được
quan tâm. Phong trào đổi mới phương pháp dạy học làm cho CBQL, GV quan
tâm hơn đến việc sử dụng TBDH. Các biện pháp quản lí có tác động tích cực
làm cho nhiều tiết học GV đã sử dụng TBDH như một phần không thể thiếu
của tiết học giúp chất lượng các tiết học ngày càng được nâng cao đáp ứng yêu
cầu của ĐMPPDH. CBQL, GV, NV phụ trách TBDH ngày càng nghiêm túc
hơn trong quản lí TBDH. Tuy vậy, thực tế hoạt động quản lí TBDH vẫn bộc lộ
nhiều hạn chế: Công tác quản lí TBDH ở các trường còn mang tính hành chính,
chưa hiệu quả. Việc trang bị chưa có kế hoạch tổng thể và chi tiết; việc mua
sắm TBDH chưa đảm bảo về số lượng, thiếu đồng bộ (có loại thừa, có loại
thiếu), chất lượng hạn chế (độ bền, độ chính xác chưa đảm bảo, có loại mới
5
mua đã không sử dụng được); công tác bảo quản còn nhiều bất cập; thiếu cán
bộ chuyên trách; thiếu kho chứa hoặc kho chưa đủ diện tích; thiếu hệ thống tủ,
giá, phòng thí nghiệm, phòng học bộ môn; quản lí việc sử dụng TBDH chưa
chặt chẽ; nhiều nơi GV chưa chú ý sử dụng, sử dụng không hiệu quả. Tình
trạng “dạy chay” còn phổ biến, TBDH được sử dụng còn mang tính phong trào,
phần lớn chỉ được sử dụng trong các trường hợp đặc biệt như: Hội thi GV dạy
giỏi, hội giảng hoặc khi có đoàn kiểm tra; còn không ít trường hợp lạm dụng
CNTT trong dạy học. Do đó quản lí TBDH hiện nay đang là vấn đề được nhiều
nhà quản lí giáo dục quan tâm.
Tìm ra được một số nguyên nhân cơ bản và đề xuất những biện pháp quản
lí nhằm nâng cao hiệu quả trang bị, bảo quản và sử dụng TBDH, góp phần nâng
cao chất lượng dạy học tại các trường THCS là một nhiệm vụ cần thiết hiện nay.
Với những lí do nêu trên, tác giả chọn đề tài nghiên cứu: "Quản lí thiết bị dạy
học ở các trường trung học cơ sở huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương”
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lí luận, phân tích thực trạng việc trang bị, bảo
quản và sử dụng TBDH và công tác quản lí TBDH tại các trường THCS huyện
Gia Lộc, tỉnh Hải Dương, từ đó đề xuất một số biện pháp quản lí TBDH của
các trường THCS huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương.
3. Khách thể và đối tƣợng nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu
Quản lí TBDH tại các trường THCS của huyện Gia Lộc, tỉnh Hải
Dương.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Một số biện pháp quản lí việc trang bị, bảo quản và sử dụng hiệu quả
TBDH ở các trường THCS của huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương
4. Giả thuyết khoa học
Hiện nay quản lí việc trang bị, bảo quản và sử dụng TBDH ở các
trường THCS trên địa bàn huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương đã đạt được một số
6
kết quả nhất định song còn có những bất cập nên dẫn đến hiệu quả sử dụng
TBDH chưa cao.
Nếu chọn lựa, đề xuất và áp dụng một số biện pháp quản lí việc trang
bị, bảo quản và sử dụng TBDH phù hợp với thực tiễn thì sẽ góp phần
ĐMPPDH và nâng cao chất lượng giáo dục.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Hệ thống cơ sở lí luận về quản lí TBDH.
5.2. Khảo sát đánh giá thực trạng quản lí việc trang bị, bảo quản và sử dụng
TBDH của các trường THCS trên địa bàn huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương.
5.3. Đề xuất một số biện pháp quản lí việc trang bị, bảo quản và sử dụng TBDH
của các trường THCS trên địa bàn huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương.
6. Giới hạn và phạm vi nghiên cứu
Do điều kiện thời gian và khả năng có hạn, tác giả chỉ tập trung nghiên
cứu và tiến hành khảo sát công tác quản lí việc trang bị, bảo quản và sử dụng
TBDH ở 15 trường trên tổng số 24 trường THCS của huyện Gia Lộc, tỉnh Hải
Dương.
7. Phƣơng pháp nghiên cứu
7.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lí luận
Để có cơ sở cho việc đề xuất các biện pháp tăng cường công tác quản lí
TBDH ở các trường THCS của huyện Gia Lộc trong giai đoạn hiện nay, đề tài
sử dụng một số phương pháp nghiên cứu lí luận bao gồm: Phân tích, tổng hợp,
hệ thống hóa, khái quát hóa những vấn đề lí luận cơ bản liên quan đến đề tài
nghiên cứu.
Tìm hiểu các khái niệm thuật ngữ có liên quan.
Nghiên cứu các văn bản, nghị quyết của Đảng, các văn bản của Nhà nước,
Quốc hội, của ngành Giáo dục và Đào tạo về công tác quản lí TBDH.
Nghiên cứu cơ sở lí luận về trang bị, bảo quản và sử dụng TBDH.
Các tài liệu khác có liên quan đến đề tài.
7.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
7
7.2.1. Phương pháp quan sát
Đề tài sử dụng phương pháp quan sát một số giờ học có sử dụng TBDH
theo hướng phát huy tính tích cực của người học và một số giờ học sử dụng
TBDH theo phương pháp dạy học truyền thống từ đó so sánh để rút ra những
kết luận khoa học.
7.2.2. Phương pháp điều tra bằng phiếu hỏi
Để điều tra thực trạng việc quản lí sử dụng TBDH trong nhà trường
THCS, đề tài có một số mẫu phiếu hỏi dành cho các CBQL, GV và HS thuộc
các trường THCS của huyện Gia Lộc
Phiếu hỏi cũng được sử dụng để khảo nghiệm tính cần thiết và tính khả
thi của các biện pháp quản lí mà đề tài đưa ra sau khi nghiên cứu lí luận và
thực trạng.
7.2.3. Phương pháp lấy ý kiến chuyên gia
Bằng việc đưa ra phiếu hỏi một số cán bộ quản lí, GV trực tiếp tham
gia quản lí TBDH có kiến thức và kinh nghiệm quản lí TBDH
7.2.4. Phương pháp phỏng vấn
Để hiểu sâu thêm những thông tin thu thập được từ các phiếu điều tra,
tác giả tiến hành phỏng vấn CBQL, GV một số trường THCS của huyện Gia
Lộc và một số GV dạy giỏi, có kinh nghiệm trong sử dụng, bảo quản TBDH.
7.2.5. Phương pháp đánh giá, tổng kết rút kinh nghiệm
Bằng việc đưa ra kết quả nghiên cứu lí luận thực tiễn và lấy thực tiễn
để kiểm nghiệm lại kết quả nghiên cứu lí luận, phương pháp này được sử
dụng nhằm đánh giá tính hợp lí và khả thi của các biện pháp quản lí mà tác
giả luận văn đề xuất.
7.3. Nhóm phương pháp hỗ trợ
Đề tài sử dụng phương pháp toán thống kê để xử lí kết quả nghiên cứu:
sử dụng các công thức tính số trung bình cộng,… để so sánh, đối chiếu các
kết quả nghiên cứu nhằm rút ra những kết luận khoa học cho đề tài.
8. Cấu trúc luận văn
8
Ngoài phần mở đầu, kết luận và khuyến nghị, tài liệu tham khảo và phụ
lục, luận văn gồm 3 chương:
Chƣơng 1: Cơ sở lí luận về quản lí TBDH ở các trường THCS.
Chƣơng 2: Thực trạng quản lí TBDH ở các trường THCS trên địa bàn
huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương.
Chƣơng 3: Một số biện pháp quản lí TBDH ở các trường THCS trên
địa bàn huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương trong giai đoạn hiện nay.
9
CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ QUẢN LÍ THIẾT BỊ DẠY HỌC
Ở CÁC TRƢỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ
1.1. Tổng quan nghiên cứu vấn đề
1.1.1. Ngoài nước
Từ xưa đến nay, giáo dục luôn là một lĩnh vực khoa học mà ở bất cứ
thời đại nào, quốc gia nào cũng dành được nhiều sự quan tâm, nghiên cứu của
các nhà khoa học. Tuy nhiên, nghiên cứu các vấn đề trong giáo dục không
phải là điều dễ dàng, bởi lẽ những vấn đề đó luôn luôn có sự gắn kết, ràng
buộc với những lĩnh vực khác trong xã hội như kinh tế, chính trị, văn hoá xã
hội chính vì vậy nghiên cứu các biện pháp quản lí việc trang bị, bảo quản và
sử dụng TBDH của Hiệu trưởng nhằm nâng cao kết quả học tập và đổi mới
phương pháp là một vấn đề khó khăn và phức tạp. Để nâng cao chất lượng
giáo dục thì trước tiên phải nâng cao chất lượng giảng dạy trong nhà trường
trong đó sử dụng hiệu quả TBDH như là một giải pháp lớn. Để sử dụng có
hiệu quả TBDH, vai trò của các biện pháp quản lí là hết sức quan trọng. Các
nhà nghiên cứu trong và ngoài nước đã nghiên cứu thực tiễn quản lí nhà
trường để tìm ra các biện pháp quản lí hiệu quả nhất.
Hội nghị Quốc tế về giáo dục lần thứ 39 họp tại Giơ-ne-vơ năm 1984
cũng như nhiều hội nghị về TBDH ở các nước xã hội chủ nghĩa đã khẳng định
ngành giáo dục cần phải được đổi mới thường xuyên về mục đích, cấu trúc, nội
dung, TBDH và phương pháp để tạo cho tất cả các HS có những cơ hội học
tập. Tuỳ theo hoàn cảnh kinh tế, kĩ thuật và xã hội, tất cả các nước trên thế giới
đều có khuynh hướng hoàn thiện TBDH nhằm phù hợp với sự hiện đại hoá nội
dung, phương pháp và hình thức tổ chức dạy học. Các nước có nền kinh tế phát
triển đều quan tâm đến việc nghiên cứu, thiết kế, sản xuất các TBDH hiện đại,
đạt chất lượng cao, cần thiết cho nhu cầu giáo dục mỗi nước.
Từ sau đại chiến thế giới thứ hai (1939-1945) ở Liên Xô (cũ) đã thực
hiện khẩu hiệu: “Điện ảnh hoá quá trình học tập”. Ở Nhật Bản từ năm 1960
10
đã tổ chức nghiên cứu mẫu và sản xuất phim giáo khoa dùng trong nhà
trường, năm 1984 nước Nhật có 29 trung tâm nghe nhìn. Năm 1992 kết quả
điều tra về trang bị máy tính ở Nhật Bản cho thấy bậc tiểu học được 50%, bậc
THCS được 86,1%, bậc THPT được 99,4%. Ở Mĩ và các nước Châu Âu cũng
như một số nước trong khu vực Châu Á Thái Bình Dương như Inđônêxia,
Thái Lan, Philippin, Singapo người ta thay thế dần tranh trong sách giáo
khoa in trên giấy bằng các hình ảnh trên màn ti vi. Như vậy lượng thông tin
cung cấp phong phú và hấp dẫn hơn, việc bảo quản, vận chuyển và sử dụng
có mặt thuận lợi hơn. Hiện nay nhiều nước trên thế giới nghiên cứu, sử dụng
rộng rãi đĩa hình và bước đầu sử dụng Internet trong giáo dục.
Trong khoảng 15-20 năm lại đây, các thiết bị điện tử, máy vi tính,
rôbốt, các đồng hồ điện tử số đo chính xác cao, ti vi, video, đã được nghiên
cứu, thiết kế và tăng cường cho các trường phổ thông.
1.1.2. Trong nước
Thừa kế và phát huy những lí thuyết về giáo dục của nền giáo dục học
thế giới, Việt Nam cũng có nhiều nghiên cứu về TBDH và quản lí việc sử dụng
TBDH. Về vấn đề này, có thể kể đến các nhà khoa học Việt Nam tiêu biểu đã
phát triển và truyền bá lí luận về nguyên tắc dạy học trực quan. Đó là các nhà
tâm lí học Phạm Minh Hạc, Hồ Ngọc Đại; các nhà giáo dục học Tô Xuân
Giáp, Vũ Trọng Rỹ, Trần Khánh Đức, Ngô Quang Sơn… Các tác giả này cho
ta thấy được những vấn đề chung về TBDH như vai trò của TBDH trong hoạt
động dạy học và những yêu cầu sư phạm khi lựa chọn và sử dụng TBDH.
Năm 2005, Chủ nhiệm đề tài Ngô Quang Sơn đã bảo vệ thành công đề
tài cấp Bộ về: “Một số biện pháp quản lí nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng
thiết bị giáo dục, ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông tại các trung
tâm GDTX và trung tâm học tập cộng đồng” mã số: B 2004 - 53 -17; tác giả
đã khẳng định vai trò quan trọng của TBDH trong các hoạt động giảng dạy,
giáo dục và học tập, đó là: “….TBDH là một bộ phận, là một thành tố không
thể thiếu được của quá trình dạy, học tích cực. TBDH vừa là một thành tố,
11
vừa là một phương tiện, một phương hướng, vừa hàm chứa nội dung của quá
trình dạy học, đồng thời tạo hứng thú nhận thức cho học viên. TBDH là một
trong những điều kiện giúp GV và học viên thực hiện tốt phương châm dạy
học phát huy tính tích cực của học viên, tích cực hoá quá trình nhận thức, quá
trình tư duy của học viên …”, đồng thời tác giả đã đưa ra hệ thống 8 giải pháp
quản lí nhằm nâng cao hiệu quả của việc trang bị, sử dụng và bảo quản
TBDH.
Như vậy, có thể nói rằng công tác quản lí TBDH có vai trò to lớn trong
việc nâng cao chất lượng và hiệu quả khai thác TBDH ở mỗi nhà trường. Bởi
vì, nó giúp các nhà quản lí có cái nhìn tổng quan về trình độ, tốc độ phát triển
TBDH và mức độ ảnh hưởng của nó tới công nghệ dạy học ở trong nước, khu
vực và trên thế giới. Đánh giá được thực trạng của TBDH, quá trình đầu tư,
trang bị, bảo quản và chất lượng sử dụng, khai thác TBDH ở nhà trường, từ
đó hoạch định chiến lược phát triển TBDH một cách lâu dài là việc làm hết
sức cần thiết, cấp bách đối với CBQL ở các nhà trường.
Cho đến nay việc nghiên cứu quản lí TBDH ở các trường THCS huyện
Gia Lộc tỉnh Hải Dương thì chưa được đề tài nào đề cập đến. Đây là lí do để
tác giả nghiên cứu một số biện pháp quản lí việc trang bị, bảo quản và sử
dụng hiệu quả TBDH ở các trường THCS huyện Gia Lộc tỉnh Hải Dương.
1.2. Một số khái niệm có liên quan
1.2.1. Quản lí
Quản lí là một hiện tượng xã hội xuất hiện rất sớm. Con người trong
hoạt động của mình, để đạt được mục tiêu cá nhân phải dự kiến kế hoạch, sắp
xếp trình tự tiến hành và tác động đến đối tượng bằng cách nào đó theo khả
năng của mình. Trong quá trình lao động tập thể càng không thể thiếu được
kế hoạch, sự phân công và điều hành chung, sự hợp tác và quản lí lao động.
Như vậy quản lí tất yếu nảy sinh và nó chính là một phạm trù tồn tại khách
quan được ra đời từ bản thân nhu cầu của mọi chế độ xã hội, mọi quốc gia,
trong mọi thời đại. Có nhiều quan điểm khác nhau về quản lí.
12
Theo quan điểm của lí thuyết hệ thống, quản lí là "Phương thức tác động
có chủ đích của chủ thể quản lí lên hệ thống, bao gồm hệ thống các quy tắc, các
ràng buộc về hành vi đối với mọi đối tượng ở các cấp trong hệ thống nhằm duy
trì tính trội hợp lí của cơ cấu và đưa hệ thống sớm đạt tới mục tiêu".
Theo quan điểm của điều khiển học, quản lí là "chức năng của những
hệ có tổ chức, với bản chất khác nhau (sinh học, xã hội, kĩ thuật) nó bảo toàn
cấu trúc các hệ, duy trì chế độ hoạt động. Quản lí là một tác động hợp quy
luật khách quan, làm cho hệ vận hành và phát triển".
Frederik. Uinslon Taylo (1856-1915) người Mĩ được coi là "Cha đẻ của
Thuyết quản lí khoa học", là một trong những người mở ra "Kỉ nguyên vàng"
trong quản lí đã thể hiện tư tưởng cốt lõi của mình trong quản lí là "Mỗi loại
công việc dù nhỏ nhất đều phải chuyên môn hoá và đều phải quản lí chặt chẽ".
Ông cho rằng. "Quản lí là nghệ thuật biết rõ ràng chính xác cái gì cần
làm và làm cái đó như thế nào bằng phương pháp tốt nhất, rẻ nhất".
Theo Mác, bất cứ lao động xã hội hay cộng đồng trực tiếp nào tiến
hành trên quy mô tương đối lớn thì ít nhiều cũng đến một sự chỉ đạo để điều
hoà những hoạt động cá nhân và thực hiện những chức năng chung phát sinh
từ sự vận động những tổng quan độc lập của nó. Như vậy Mác đã lột tả được
bản chất quản lí là một hoạt động lao động, một hoạt động tất yếu vô cùng
quan trọng trong quá trình phát triển của loài người. [20, tr.52]
Đề cập đến vấn đề quản lí, tác giả Đặng Vũ Hoạt và tác giả Hà Thế
Ngữ cho rằng. "Quản lí là một quá trình định hướng, quá trình có mục tiêu,
quản lí một hệ thống nhằm đạt được những mục tiêu nhất định".[30, tr.29]
Tác giả Nguyễn Văn Lê quan niệm. "Quản lí là một hệ thống xã hội, là
khoa học và nghệ thuật tác động vào từng thành tố của hệ thống bằng những
phương pháp thích hợp, nhằm đạt các mục tiêu đề ra cho hệ và từng thành tố
của hệ". [26, tr.44]
Những quan niệm về quản lí trên đây tuy có cách tiếp cận khác nhau,
nhưng tác giả nhận thấy chúng đều bao hàm một nghĩa chung, đó là:
13
- Quản lí là các hoạt động thiết yếu đảm bảo phối hợp những nỗ lực cá
nhân, đảm bảo hoàn thành các công việc và là phương thức tốt nhất để đạt
được mục tiêu chung của tập thể.
- Quản lí là quá trình tác động có định hướng, có tổ chức của chủ thể
quản lí lên đối tượng quản lí thông qua các cơ chế quản lí, nhằm sử dụng có
hiệu quả cao nhất các nguồn lực trong điều kiện môi trường biến động để hệ
thống ổn định phát triển, đạt được những mục tiêu đã định.
Như vậy, quản lí là một quá trình tác động có tổ chức, có hướng đích
của chủ thể quản lí tới đối tượng quản lí nhằm đạt mục tiêu đề ra.
Quản lí bao giờ cũng tồn tại với tư cách là một hệ thống bao gồm các
thành phần:
+ Chủ thể quản lí (Người quản lí, tổ chức quản lí) đề ra mục tiêu dẫn
dắt điều khiển các đối tượng quản lí để đạt tới mục tiêu định sẵn.
+ Khách thể quản lí (đối tượng quản lí): Con người (được tổ chức thành
một tập thể, một xã hội), thế giới vô sinh (các trang thiết bị kĩ thuật ) thế giới
hữu sinh (vật nuôi, cây trồng).
+ Cơ chế quản lí: Những phương thức mà nhờ đó hoạt động quản lí
được thực hiện và quan hệ tương tác qua lại giữa chủ thể quản lí và khách thể
quản lí được vận hành điều chỉnh.
+ Mục tiêu chung: Cho cả đối tượng quản lí và chủ thể quản lí, đây là
căn cứ để chủ thể quản lí tạo ra các hoạt động quản lí.
* Bản chất của quản lí
Quản lí là một dạng hoạt động đặc biệt trong xã hội quản lí mang
những đặc điểm sau.
- Quản lí là một dạng hoạt động phức tạp và có tính chuyên biệt.
- Quản lí là hoạt động gián tiếp.
- Quản lí được tiến hành thông qua hoạt động giao tiếp (gián tiếp hay
trực tiếp)
14
- Quản lí hoạt động căng thẳng, tiêu phí nhiều năng lượng, thần kinh và
sức lực.
Bản chất của hoạt động quản lí là tính tất yếu khách quan đồng thời có
tính tất yếu chủ quan vì được thực hiện bởi người quản lí. Mặt khác nó vừa có
tính giai cấp lại vừa có tính kĩ thuật, vừa có tính khoa học lại vừa có tính nghệ
thuật, vừa có tính pháp luật lại vừa có tính xã hội rộng rãi, chúng là những
mặt đối lập trong một thể thống nhất, đó là biện chứng, là bản chất của hoạt
động quản lí.
* Chức năng quản lí
- Chức năng lập kế hoạch: là căn cứ vào thực trạng ban đầu của tổ chức
và căn cứ vào nhiệm vụ được giao mà vạch ra mục tiêu của tổ chức trong từng
thời kì, từng giai đoạn, từ đó tìm ra con đường, biện pháp, cách thức đưa ra tổ
chức đạt mục tiêu đó.
- Chức năng tổ chức thực hiện kế hoạch: là sắp xếp, sắp đặt một cách
khoa học những yếu tố, những con người, những dạng hoạt động thành một hệ
thống toàn vẹn nhằm đảm bảo cho chúng tương tác với nhau một cách tối ưu.
- Chức năng chỉ đạo: là phương thức tác động của chủ thể quản lí nhằm
điều hành tổ chức, nhân lực đã có của tổ chức vận hành theo đúng kế hoạch đã
đề ra và đảm bảo các hoạt động của tổ chức diễn ra trong trật tự, kỉ cương
nhằm đạt được mục tiêu của tổ chức.
- Chức năng kiểm tra đánh giá: là những hoạt động của chủ thể quản lí
tác động đến khách thể quản lí nhằm đánh giá và xử lí các kết quả vận hành
của tổ chức.
Các chức năng quản lí tạo thành một chu trình quản lí, chúng có mối
quan hệ mật thiết với nhau, ảnh hưởng qua lại, làm tiền đề cho nhau, khi thực
hiện hoạt động quản lí trong quá trình quản lí thì yếu tố thông tin luôn có mặt
trong tất cả các giai đoạn với vai trò vừa là điều kiện, vừa là phương tiện để
tạo điều kiện cho chủ thể quản lí thực hiện các chức năng quản lí và đưa ra
các quyết định quản lí.
15
1.2.2. Quản lí giáo dục
Giáo dục là quá trình đào tạo con người một cách có mục đích, nhằm
chuẩn bị cho con người tham gia đời sống xã hội, tham gia lao động sản xuất,
nó được thực hiện bằng cách tổ chức việc truyền thụ và lĩnh hội những kinh
nghiệm lịch sử, xã hội của loài người.
Mỗi xã hội, mỗi hoàn cảnh lịch sử cụ thể bao giờ cũng có một nền giáo
dục tương ứng, trong đó mục đích, nhiệm vụ, nội dung, phương pháp và hình
thức tổ chức giáo dục phản ánh quy định của hoàn cảnh lịch sử, của toàn xã
hội đối với giáo dục. Những tinh hoa văn hóa của loài người, của dân tộc đều
được giáo dục chuyển tải tới thế hệ trẻ nhằm giúp họ khả năng tham gia mọi
hoạt động xã hội, góp phần cải tiến và phát triển xã hội. Chủ tịch Hồ Chí
Minh khi bàn về giáo dục đã chỉ rõ: “Không có giáo dục, không có cán bộ thì
không nói gì đến kinh tế, văn hóa” [9, tr.22]. Giáo dục là một hoạt động xã
hội rộng lớn, có liên quan trực tiếp đến lợi ích, nghĩa vụ và quyền lợi của mọi
người dân, mọi tổ chức kinh tế xã hội, là động lực phát triển và là nhân tố
quyết định tương lai của mỗi quốc gia. Giáo dục có thể được xem như một hệ
thống có tính xã hội khi xuất phát từ nhiều góc độ khác nhau. Các nhà giáo
dục học quan niệm giáo dục như một hệ thống bao gồm các thành tố: Mục
tiêu giáo dục, nội dung, phương pháp, phương tiện, kết quả giáo dục.
Do mỗi phương thức xã hội đều có một cách quản lí khác nhau, cho nên
khái niệm QLGD đã ra đời và hình thành nên từ nhiều quan niệm khác nhau.
Ở các nước TBCN, do vận dụng lí luận quản lí xí nghiệp vào quản lí cơ sở
giáo dục (trường học) nên QLGD được coi như một loại “xí nghiệp đặc biệt”.
Ở các nước XHCN, do vận dụng quản lí xã hội vào QLGD, nên QLGD
thường được xếp trong lĩnh vực quản lí văn hoá tư tưởng như A.Faraxep đã
phân chia trong cuốn sách kinh điển nổi tiếng của mình "Con người trong
quản lí xã hội". Như vậy, QLGD được coi là bộ phận nằm trong lĩnh vực
quản lí văn hoá tinh thần.[13, tr.62]
16
Trong cuốn: "Cơ sở lí luận của khoa học QLGD", tác giả
M.I.Kônđacốp định nghĩa "QLGD là tập hợp các biện pháp tổ chức cán bộ,
giáo dục, kế hoạch hóa, tài chính nhằm đảm bảo sự vận hành bình thường của
các cơ quan trong hệ thống giáo dục để tiếp tục phát triển và mở rộng hệ
thống cả về mặt số lượng cũng như chất lượng". [25, tr. 22]
Ở Việt Nam, QLGD cũng là một lĩnh vực được các nhà khoa học đặc
biệt quan tâm:
Theo tác giả Đặng Quốc Bảo thì: "QLGD theo nghĩa tổng quát là hoạt
động điều hành phối hợp của các lực lượng xã hội nhằm đẩy mạnh công tác
đào tạo thế hệ trẻ theo yêu cầu xã hội". [1, tr. 31]
Tác giả Nguyễn Ngọc Quang cho rằng: "QLGD thực chất là tác động
đến nhà trường, làm cho nó tổ chức tối ưu được quá trình dạy học, giáo dục
thể chất theo đường lối, nguyên lí giáo dục của Đảng, quán triệt được những
tính chất trường trung học phổ thông xã hội chủ nghĩa Việt Nam, bằng cách
đó tiến tới mục tiêu dự kiến, tiến lên trạng thái chất lượng mới". [36, tr. 75]
Tác giả Đỗ Hoàng Toàn quan niệm: "QLGD là tập hợp những biện pháp
tổ chức, phương pháp giáo dục, kế hoạch hoá tài chính, cung tiêu… nhằm đảm
bảo sự vận hành bình thường của các cơ quan trong hệ thống giáo dục, đảm bảo
sự tiếp tục phát triển và mở rộng hệ thống cả về mặt số lượng, cũng như về chất
lượng". 44, tr. 29
Theo tác giả Trần Kiểm: “QLGD là những tác động có hệ thống, có kế
hoạch, có ý thức và hướng đích của chủ thể quản lí ở mọi cấp khác nhau đến
tất cả các mắt xích của toàn bộ hệ thống nhằm mục đích đảm bảo sự hình
thành nhân cách cho thế hệ trẻ trên cơ sở quy luật của quá trình giáo dục về sự
phát triển thể lực, trí lực và tâm lực trẻ em”. [21, tr. 341]
Những định nghĩa nêu trên về QLGD tuy có những cách diễn đạt khác
nhau nhưng đều thể hiện một quan điểm chung, đó là.
QLGD là một hệ thống tác động có kế hoạch, có ý tưởng, có mục đích
của chủ thể quản lí lên đối tượng bị quản lí.
17
QLGD là sự tác động lên tập thể GV, HS và các lực lượng giáo dục
trong và ngoài nhà trường, nhằm huy động họ cùng phối hợp, tác động tham
gia các hoạt động giáo dục của nhà trường để đạt mục tiêu đã đề ra.
Từ những vấn đề trên có thể khái quát như sau:
QLGD chính là quá trình tác động có định hướng của nhà QLGD trong
việc vận dụng nguyên lí, phương pháp chung nhất của kế hoạch nhằm đạt
được những mục tiêu đề ra. Những tác động đó thực chất là những tác động
khoa học đến nhà trường làm cho nhà trường tổ chức một cách khoa học có
kế hoạch quá trình dạy học theo mục tiêu đào tạo.
QLGD có thể xem là sự tác động có ý thức nhằm điều khiển, hướng
dẫn các quá trình giáo dục, những hoạt động của cán bộ, GV và HS, HS, huy
động tối đa các nguồn lực khác nhau để đạt tới mục đích của nhà QLGD và
phù hợp với quy luật khách quan.
1.2.3. Quản lí nhà trường
1.2.3.1. Nhà trường
Trên cơ sở thế giới quan duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác-Lênin
và xem xét quá trình lịch sử phát triển của nhà trường cùng với sự phát triển
của loài người thì thấy nhà trường là một dạng tổ chức chuyên biệt đặc thù
của xã hội, được hình thành từ nhu cầu mang tính tất yếu khách quan của xã
hội, nhằm truyền thụ kinh nghiệm xã hội cần thiết cho từng nhóm dân cư nhất
định trong cộng đồng xã hội. [28, tr. 81]
Nhà trường được tổ chức và hoạt động sao cho việc truyền thụ và lĩnh
hội đó đạt được mục tiêu tồn tại và phát triển của cá nhân, phát triển cộng
đồng và xã hội. Việc tổ chức các hoạt động nói trên được thông qua quá trình
sư phạm, quá trình giáo dục được tổ chức, một cách khoa học, nhằm xây dựng
và hoàn thiện nhân cách người học, mà những nhân cách đó là những tiêu
chuẩn về đạo đức và năng lực của người học đáp ứng được những yêu cầu
phát triển của xã hội mà không một dạng tổ chức nào trong xã hội khác với tổ
chức nhà trường có thể thay thế được nó.
18
Ngày nay, nhà trường được thành lập và hoạt động dưới sự điều chỉnh
bởi các quy định xã hội, nó có tính chất và nguyên lí hoạt động, có mục đích
rõ ràng và có nhiệm vụ cụ thể, có nội dung giáo dục được chọn lọc, có tổ chức
bộ máy và đội ngũ được đào tạo, có kế hoạch hoạt động và được hoạt động
trong môi trường tự nhiên và xã hội nhất định, có sự đầu tư của người học,
cộng đồng, nhà nước và xã hội, các cơ quan quản lí, các cấp trong xã hội.
Vậy nhà trường là cơ quan giáo dục chuyên biệt, có đội ngũ các nhà
giáo được đào tạo, nội dung chương trình được chọn lọc, phương pháp giáo
dục phù hợp với mọi lứa tuổi, các phương tiện kĩ thuật phục vụ cho giáo dục,
mục đích giáo dục của nhà trường phù hợp với xu thế phát triển của xã hội và
thời đại. Nhà trường là một tổ chức chuyên biệt trong xã hội, thực hiện chức
năng tái tạo nguồn nhân lực phục vụ cho duy trì và phát triển của xã hội.
Trường học là tổ chức giáo dục cơ sở mang tính nhà nước, xã hội là nơi
trực tiếp làm công tác đào tạo thế hệ trẻ.
1.2.3.2. Quản lí nhà trường
Có nhiều quan niệm khác nhau về quản lí nhà trường.
Trong cuốn "Cơ sở lí luận của khoa học QLGD", tác giả M.I.Kônđacốp
đã viết " Không đòi hỏi một định nghĩa hoàn chỉnh, chúng ta hiểu quản lí nhà
trường (công việc nhà trường) là một hệ thống xã hội - sư phạm chuyên biệt,
hệ thống này đòi hỏi những tác động có ý thức, có kế hoạch và hướng đích
của chủ thể quản lí đến tất cả các mặt của nhà trường, nhằm đảm bảo sự vận
hành tối ưu về mặt kinh tế xã hội, tổ chức sư phạm của quá trình dạy học và
giáo dục thế hệ đang lớn lên". [25, tr. 316]
Tác giả Phạm Minh Hạc cho rằng: "Việc quản lí nhà trường phổ thông
(có thể mở rộng ra là việc QLGD nói chung) là quản lí hoạt động dạy, học tức
là làm sao đưa hoạt động đó từ trạng thái này sang trạng thái khác để dần tiến
tới mục tiêu giáo dục". [15, tr. 71]
Cũng theo tác giả Phạm Minh Hạc: "Quản lí nhà trường thực hiện đường
lối của Đảng trong phạm vi trách nhiệm của mình tức là đưa nhà trường vận
19
hành theo nguyên lí giáo dục để tiến tới mục tiêu giáo dục, mục tiêu đào tạo đối
với ngành giáo dục, với thế hệ trẻ và từng HS". [15, tr. 71]
Theo tác giả Trần Kiểm: "Quản lí nhà trường là thực hiện đường lối giáo
dục của Đảng trong phạm vi trách nhiệm của mình, tức là đưa nhà trường vận
hành theo nguyên lí giáo dục, để tiến tới mục tiêu giáo dục, mục tiêu đào tạo
đối với ngành giáo dục, với thế hệ trẻ và với từng HS”. 21, tr. 29
Tác giả Nguyễn Ngọc Quang thì cho rằng: "Quản lí nhà trường là quản
lí hoạt động dạy và học, tức là làm sao đưa hoạt động đó từ trạng thái này
sang trạng thái khác để dần dần tiến tới mục tiêu giáo dục" [36, tr. 34].
Giáo trình QLGD và đào tạo của Trường Cán bộ QLGD Trung ương 2
nêu rằng, quản lí nhà trường bao gồm hai loại tác động: Tác động của những
chủ thể quản lí bên trong và bên ngoài nhà trường (là những tác động quản lí
của các cơ quan QLGD cấp trên nhằm hướng dẫn và tạo điều kiện cho hoạt
động giảng dạy, học tập, giáo dục của nhà trường, hoặc những chỉ dẫn những
quyết định của các thực thể bên ngoài nhà trường nhưng có liên quan trực tiếp
đến nhà trường như cộng đồng được đại diện dưới hình thức hội đồng giáo
dục nhằm định hướng phát triển của nhà trường và hỗ trợ, tạo điều kiện cho
việc thực hiện phương hướng phát triển đó); tác động của những chủ thể quản lí
bên trong nhà trường (bao gồm các hoạt động: Quản lí GV, quản lí HS, quản lí
quá trình dạy học - giáo dục, quản lí CSVC thiết bị trường học, quản lí tài
chính trường học, quản lí mối quan hệ giữa nhà trường và cộng đồng). [42,
tr.102]
Như vậy, quản lí nhà trường chính là QLGD trong phạm vi xác định,
đó là nhà trường - đơn vị giáo dục cơ sở. Quản lí nhà trường là quản lí có tính
chất chung đó là quản lí quá trình hoạt động được thực hiện trên những
nguyên lí, những cơ sở chung của quy luật quản lí, đồng thời quản lí nhà
trường có nét riêng mang tính đặc thù của QLGD. Do vậy, quản lí nhà trường
cần phải vận dụng tất cả các nguyên lí chung của quản lí, QLGD để đẩy mạnh
mọi mặt hoạt động của nhà trường hướng tới mục tiêu đào tạo chung.
20
Tóm lại: Quản lí nhà trường là một bộ phận của QLGD. Thực chất của
quản lí nhà trường, suy cho cùng là hệ thống những tác động có mục đích,
có kế hoạch, hợp quy luật của chủ thể quản lí nhằm làm cho nhà trường vận
hành theo đúng đường lối và nguyên lí giáo dục của Đảng, thực hiện được
các tính chất của nhà trường xã hội chủ nghĩa Việt Nam mà điểm hội tụ là
quá trình dạy học, giáo dục thế hệ trẻ. Là một thiết chế đặc biệt của xã hội
nên nhà trường cùng công tác quản lí trường học là vô cùng quan trọng bao
gồm sự quản lí các tác động qua lại giữa trường học và xã hội đồng thời
quản lí chính nhà trường. Người làm công tác quản lí nhà trường phải làm
sao cho hệ thống các thành tố vận hành liên hệ chặt chẽ với nhau, đưa đến
kết quả mong muốn.
Người ta có thể phân tích quá trình giáo dục của nhà trường như một hệ
thống gồm các thành tố và được biểu diễn bằng sơ đồ sau:
M: Mục tiêu dạy học
N: Nội dung dạy học
P: Phương pháp dạy học
Th: Thầy
Tr: Trò
ĐK: Điều kiện
QL: Quản lí
Sơ đồ 1.1. Quan hệ giữa các thành tố của quá trình dạy học:
1.2.4. Quản lí hoạt động dạy học
Chúng ta đã biết, quản lí giáo dục là hoạt động có ý thức của nhà quản
lí nhằm đạt tới mục tiêu quản lí. Nhà quản lí cùng với đông đảo đội ngũ GV,
HS, các lực lượng xã hội… bằng hành động của mình biến mục tiêu đó thành
hiện thực. Dạy học và giáo dục trong sự thống nhất với nhau là hoạt động
trung tâm của nhà trường. Mọi hoạt động đa dạng và phức tạp khác của nhà
trường đều hướng vào tiêu điểm này. Vì vậy quản lí nhà trường thực chất là
QL
M
P
Tr
ĐK
Th
N
21
quản lí quá trình sư phạm của thầy, hoạt động học tập - tự giáo dục của trò,
diễn ra chủ yếu trong quá trình dạy học.
Như vậy, quản lí hoạt động dạy - học thực chất là những tác động của
chủ thể quản lí vào quá trình dạy học (được tiến hành bởi tập thể GV và HS,
với sự hỗ trợ đắc lực của các lực lượng xã hội) nhằm góp phần hình thành và
phát triển toàn diện nhân cách HS theo mục tiêu đào tạo của nhà trường.
1.2.5. Biện pháp
Có nhiều định nghĩa khác nhau về biện pháp, nhưng nói chung biện
pháp được hiểu “là cách thức, là con đường để tác động đến đối tượng”.
Trong thực tế công tác quản lí chúng ta thường gặp các loại biện pháp sau
đây:
- Biện pháp hành chính, pháp chế.
- Biện pháp kinh tế.
- Biện pháp chuyên môn, nghiệp vụ, kĩ thuật.
- Biện pháp động viên, khích lệ.
- Biện pháp huy động nguồn lực (từ bên ngoài, nội tại).
- Biện pháp tổng hợp
- Biện pháp quản lí (thực hiện các chức năng)…
1.2.6. Biện pháp quản lí
Có nhiều định nghĩa về biện pháp quản lí, nhưng nói chung biện pháp
quản lí được hiểu là cách thức, con đường mà nhà quản lí lựa chọn để tác
động đến đối tượng quản lí.
Cũng như các lĩnh vực khác của xã hội, trong giáo dục để đạt được
mục tiêu đặt ra, các nhà quản lí cũng phải đưa ra nhiều cách thức, biện pháp
quản lí.
Tùy theo từng tình huống cụ thể trong quá trình quản lí giáo dục, mà
nhà quản lí tiến hành sử dụng một hoặc nhiều biện pháp quản lí. Ví dụ:
phương pháp khen thưởng, có thể thực hiện bằng cách biểu dương, thưởng về
vật chất.
22
1.2.7. Đổi mới phương pháp dạy học
PPDH là khái niệm cơ bản của lí luận dạy học, nhưng đến nay vẫn còn
nhiều vấn đề cần được tiếp tục nghiên cứu và thống nhất trong cách định
nghĩa, phân loại cũng như xác định mô hình cấu trúc của PPDH. Khái niệm
PPDH có thể hiểu theo nghĩa rộng là những hình thức và cách thức hoạt động
của GV và HS trong những điều kiện dạy học xác định nhằm đạt được mục
tiêu dạy học.
PPDH là một khái niệm phức hợp, có nhiều bình diện, phương diện
khác nhau Có thể nêu ra một số đặc trưng của PPDH như sau: PPDH định
hướng mục tiêu dạy học; PPDH là sự thống nhất của PP dạy và PP học;
PPDH thực hiện thống nhất chức năng đào tạo và giáo dục; PPDH là sự thống
nhất của lôgic nội dung dạy học và lôgic tâm lí nhận thức; PPDH có mặt bên
ngoài và mặt bên trong, mặt khách quan và mặt chủ quan; PPDH là sự thống
nhất của cách thức hành động và phương tiện dạy học.
Do tính phức hợp của khái niệm PPDH nên việc phân loại và mô tả cấu
trúc của khái niệm PPDH rất khác nhau và theo nhiều bình diện khác nhau
như mô hình cấu trúc 2 mặt của PPDH, mô hình 3, 4 thành tố cơ bản,
Trong luận văn này, chỉ xin trình bày mô hình 3 thành tố: Quan điểm dạy học
(QĐDH) – Phương pháp dạy học (PPDH) – Kĩ thuật dạy học (KTDH).
Quan điểm dạy học: là những định hướng tổng thể cho các hành động
PP, trong đó có sự kết hợp giữa các nguyên tắc dạy học làm nền tảng, những cơ
sở lí thuyết của của LLDH đại cương hay chuyên ngành, những điều kiện dạy
học và tổ chức cũng như những định hướng mang tính chiến lược dài hạn, có
tính cương lĩnh, là mô hình lí thuyết của PPDH. Tuy nhiên các quan điểm dạy
học chưa đưa ra những mô hình hành động cũng như những hình thức xã hội cụ
thể của PP.
Phương pháp dạy học: Khái niệm PPDH ở đây được hiểu với nghĩa
hẹp, đó là các PPDH, các mô hình hành động cụ thể. PPDH cụ thể là những
cách thức hành động của GV và HS nhằm thực hiện những mục tiêu DH xác
23
định, phù hợp với những nội dung và điều kiện dạy học cụ thể. PPDH cụ thể
quy định những mô hình hoạt động của GV và HS. PPDH cụ thể bao gồm
những PP chung cho nhiều môn và các PP đặc thù bộ môn. Bên cạnh các
PPDH truyền thống quen thuộc như thuyết trình, đàm thoại, trực quan, làm
mẫu, có thể kể một số PP khác như: PP nghiên cứu trường hợp, PP điều phối,
PP đóng vai,
Kĩ thuật dạy học: là những động tác, cách thức hành động của GV và HS
trong các tình huống hành động nhỏ nhằm thực hiện và điều khiển quá trình
dạy học. Các KTDH chưa phải là các PPDH độc lập. Bên cạnh các KTDH
thường dùng, có thể kể đến một số KTDH phát huy tính tích cực, sáng tạo của
người học như: Kĩ thuật công não, kĩ thuật thông tin phản hồi, kĩ thuật bể cá, kĩ
thuật tia chớp,
Quan điểm dạy học là khái niệm rộng, định hướng cho việc lựa chọn
các phương pháp dạy học cụ thể. Các phương pháp dạy học là khái niệm hẹp
hơn, đưa ra mô hình hành động. Kĩ thuật dạy học là khái niệm nhỏ nhất, thực
hiện các tình huống hành động. Một quan điểm dạy học có những phương
pháp dạy học phù hợp, một phương pháp dạy học cụ thể có các kĩ thuật dạy
học đặc thù. Tuy nhiên, có những phương pháp phù hợp với nhiều quan điểm
dạy học cũng như những kĩ thuật dạy học dùng trong nhiều phương pháp khác
nhau. Vì vậy việc phân loại các phương pháp dạy học cũng chỉ mang tính
tương đối. Trong thực tế, nhiều khi người ta dùng chung khái niệm phương
pháp dạy học cho các bình diện, phương diện khác nhau vì chúng đều thuộc
phạm trù phương pháp dạy học.
Định hướng chung về đổi mới PPDH đã được quy định trong Khoản 2,
Điều 28 Luật giáo dục và được cụ thể hoá trong những định hướng xây dựng
chương trình và biên soạn sách giáo khoa THCS. Định hướng đó là: “Phương
pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng
tạo của HS; phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng
24
phương pháp tự học, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác
động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho HS”. [29, tr. 8]
Có thể nói cốt lõi của ĐMPPDH ở trường THCS là hướng tới giúp HS
học tập tích cực, chủ động, sáng tạo, từ bỏ thói quen học tập thụ động, ghi
nhớ máy móc. Cụ thể là:
Đổi mới tính chất và nội dung hoạt động của GV và HS, chuyển từ dạy
học truyền thụ một chiều, học tập thụ động, chủ yếu là ghi nhớ kiến thức để
đối phó với thi cử sang học tập tích cực, chủ động, sáng tạo, chú trọng hình
thành năng lực tự học dưới sự giúp đỡ, hướng dẫn, tổ chức của GV.
Đổi mới các hình thức tương tác xã hội trong dạy học, chuyển từ dạy
học đồng loạt cả lớp đối diện với GV, học tập đơn phương sang tổ chức dạy
học theo các hình thức tương tác: học cá nhân, học theo nhóm
Đổi mới các hình thức tổ chức dạy học:
+ Đa dạng hoá các hình thức tổ chức dạy học, làm cho việc học sinh
động, lí thú, tránh nhàm chán, đơn điệu, từ đó có thể khắc phục điểm yếu,
phát huy điểm mạnh của các hình thức tổ chức dạy học khác nhau
+ Làm cho việc học gắn với môi trường thực tế, gắn với kinh nghiệm
sống của cá nhân HS, tạo điều kiện tổ chức học tập với hình thức điều tra,
nghiên cứu trong thực tiễn cuộc sống,
1.2.8. Hiệu quả
Trong kinh tế học, hiệu quả được hiểu là chi phí bỏ ra thấp nhất mà thu
được lợi nhuận cao nhất.
Hiệu quả trong giáo dục là sự đầu tư kinh tế trong giáo dục và kết quả
mang lại cho sự phát triển giáo dục, kinh tế - xã hội, trong đó bao gồm cả sự
đầu tư TBDH.
- Hiệu suất trong thể hiện ở một số quá trình và hoạt động sau:
1. Quản lí và tổ chức việc sử dụng, kể cả giám sát và đánh giá.
2. Cách thức, phong cách và kĩ năng sử dụng của GV và HS.
25
3. Những hoạt động cải tiến, thay đổi tiến bộ hoặc phát triển có liên
quan đến thiết bị.
4. Cường độ và nhịp độ sử dụng thiết bị trong quá trình giáo dục.
5. Hao phí và tổn thất xảy ra trong việc sử dụng thiết bị, tính theo
những đơn vị tài chính hoặc thời gian.
- Hiệu suất ngoài thể hiện qua một số quá trình và hoạt động sau:
1. Quá trình và hoạt động học tập của người học.
2. Hoạt động giảng dạy của GV.
3. Môi trường học tập, trong đó có các quan hệ như: hợp tác, tham gia,
thực hành nghiên cứu khoa học và các quá trình thông tin, truyền thông, giao
tiếp văn hoá - xã hội.
4. Các quan hệ và sinh hoạt văn hoá, đời sống xã hội của cộng đồng dân
cư địa phương và gia đình.
Biện pháp quản lí hiệu quả TBDH phải phù hợp với nội dung và phương
pháp giáo dục, phải đảm bảo tính khoa học, tính sư phạm, an toàn cho người sử
dụng và phải phù hợp với đặc điểm tâm lí và khả năng tư duy của HS, mang
tính khoa học và mức độ chuẩn xác trong việc phản ánh hiện thực.
1.3. Sử dụng hiệu quả thiết bị dạy học góp phần đổi mới phƣơng pháp
dạy học ở các trƣờng trung học cơ sở trong giai đoạn hiện nay
1.3.1. Cơ sở vật chất sư phạm
Cơ sở vật chất sư phạm là tất cả các phương tiện vật chất được huy
động vào việc giảng dạy, học tập và các hoạt động mang tính giáo dục khác
để đạt được mục đích giáo dục.
Hệ thống CSVC sư phạm bao gồm: các công trình xây dựng, sân chơi
bãi tập, vườn thực nghiệm, trang bị chuyên dùng, thiết bị giáo dục các bộ
môn, các phương tiện phục vụ việc giảng dạy và học tập. Đây là một hệ thống
đa dạng về chủng loại và có một số bộ phận tương đối phức tạp về mặt kĩ
thuật. Tính đa dạng và phong phú của hệ thống tạo ra không ít trở ngại trong
quản lí và sử dụng.