Tải bản đầy đủ (.pdf) (104 trang)

Biện pháp phát triển đội ngũ giáo viên các trường trung học phổ thông trên địa bàn Thành phố Nam Định đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.28 MB, 104 trang )




ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA SƯ PHẠM





NGUYỄN TIẾN DŨNG





Biện pháp phát triển đội ngũ giáo viên các trường
trung học phổ thông trên địa bàn Thành phố Nam Định
đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục hiện nay



luËn v¨n th¹c sÜ GIÁO DỤC HỌC










Hµ néi - 2007





ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA SƯ PHẠM





NGUYỄN TIẾN DŨNG





Biện pháp phát triển đội ngũ giáo viên các trường
trung học phổ thông trên địa bàn Thành phố Nam Định
đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục hiện nay

Mã số : 60 14 05


luËn v¨n th¹c sÜ GIÁO DỤC HỌC





Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Nguyễn Thị Mỹ Lộc



Hµ néi - 2007







1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Hiện nay, toàn Đảng, toàn dân ta đã và đang thực hiện công cuộc đổi
mới với mục tiêu là công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, xây dựng một
xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, nhằm thực hiện lý tưởng dân giầu,
nước mạnh, xã hội phát triển bền vững. Thực chất, dân tộc ta đang chuyển
từ nền văn minh lúa nước (nông nghiệp) sang nền văn minh công nghiệp,
tiếp cận và từng bước hội nhập vào nền văn minh hậu công nghiệp – Văn
minh của nền kinh tế tri thức. Đây là một thực trạng mà chúng ta phải đối
mặt trong quá trình hoạch định chiến lược phát triển của đất nước.
Chúng ta chỉ có thể giải quyết được những thách thức trên bằng cách
phải làm cho nền giáo dục có những biến đổi căn bản, có tính chất cách
mạng, phải phát triển toàn diện con người, phát triển nguồn nhân lực người
- Nguồn tài nguyên vô giá để phát triển kinh tế xã hội.

Hiến pháp ở điều 35 ghi rõ “ Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng
đầu” và ở điều 36: “Nhà nước ưu tiên đầu tư cho giáo dục, khuyến khích
các nguồn đầu tư khác” vì phát triển nguồn lực người là bí quyết, là chìa
khoá dẫn đến thành công của mọi quốc gia trong thời đại ngày nay. Phát triển
nguồn lực người nhằm tạo nên những con người của thời đại mới, những con
người của nền văn minh hậu công nghiệp, của nền kinh tế trí thức.
Để thực hiện được mục tiêu giáo dục, đòi hỏi phải có rất nhiều yếu
tố, trong đó yếu tố căn bản là đội ngũ giáo viên. Nghị quyết hội nghị Ban
chấp hành Trung ương 2 khoá VIII đã khẳng định: "Giáo viên là nhân tố
quyết định chất lượng giáo dục và được xã hội tôn vinh".
Trong thời đại ngày nay, một đất nước muốn phát triển hưng thịnh,
bền vững thì không chỉ nhờ vào tài nguyên, vốn kỹ thuật mà yếu tố quyết
định chính là nguồn lực con người. Do đó việc xây dựng và phát triển
nguồn nhân lực nói chung và đội ngũ giáo viên THPT nói riêng là rất quan





2

trọng và cấp thiết trong giai đoạn hiện nay. Chỉ thị 40 CT / TW ngày
15/6/2004 của Ban bí thư Trung ương Đảng về việc xây dựng, nâng cao
chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục giai đoạn 2005 -
2010 trong đó mục tiêu tổng quát nêu : "Xây dựng đội ngũ nhà giáo và
cán bộ quản lý giáo dục được chuẩn hoá, đảm bảo chất lượng, đủ về số
lượng, đồng bộ về cơ cấu, đặc biệt chú trọng nâng cao bản lĩnh chính trị,
phẩm chất, lối sống, lương tâm, tay nghề của nhà giáo thông qua việc
quản lý, phát triển đúng định hướng và có hiệu quả sự nghiệp giáo dục
để nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực, đáp ứng những đòi hỏi

ngày càng cao của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hoá đất nước".
Thực tế chất lượng và hiệu quả của giáo dục nước ta trong những
năm gần đây tuy đã có những bước khởi sắc, nhưng chưa đáp ứng được với
yêu cầu của thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hoá đất nước và trong xu thế
hội nhập quốc tế. Điều này đã được chỉ rõ trong nghị quyết Trung ương 2
khoá VIII của Ban chấp hành Trung ương Đảng: "Giáo dục và đào tạo nước
ta còn yếu kém, bất cập về cả quy mô, cơ cấu, nhất là chất lượng và hiệu
quả, chưa đáp ứng kịp với những đòi hỏi ngày càng cao về nhân lực của
công cuộc đổi mới về kinh tế xã hội và bảo vệ tổ quốc, thực hiện công
nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa ".
Từ những vấn đề nêu trên đã đặt ra cho ngành GD - ĐT cả nước nói
chung và ngành GD - ĐT tỉnh Nam Định nói riêng một nhiệm vụ vô cùng
quan trọng, cấp thiết đó là: Phát triển đội ngũ giáo viên có trình độ, năng
lực, phẩm chất đáp ứng được nhu cầu phát triển của đất nước trong thời kỳ
hội nhập.
Trong những năm qua cấp học THPT Thành Phố Nam Định đã có cố
gắng về nhiều mặt, nhất là công tác bồi dưỡng, phát triển đội ngũ giáo viên.
Nhưng trước yêu cầu đòi hỏi ngày càng cao về nhân lực của công cuộc đổi
mới về kinh tế xã hội và bảo vệ tổ quốc, trước yêu cầu, nhiệm vụ của giáo





3

dục hiện tại và trong thời gian tới cho thấy ĐNGV THPT trên địa bàn thành
phố Nam Định còn bất cập về chất lượng, số lượng, cơ cấu. Vì vậy đã có
ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng và hiệu quả đào tạo.
Từ thực tế và yêu cầu đòi hỏi phát triển kinh tế xã hội như hiện nay,

nhất thiết phải xây dựng và phát triển ĐNGV THPT đủ về số lượng, mạnh
về chất lượng, đồng bộ về cơ cấu nhằm góp phần thực hiện mục tiêu của sự
nghiệp giáo dục. "Nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài
phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hoá đất nước". Để góp
phần phát triển đội ngũ giáo viên THPT của tỉnh Nam Định tôi chọn đề tài:
“Biện pháp phát triển đội ngũ giáo viên các trường trung học phổ thông
trên địa bàn thành phố Nam Định đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục
hiện nay” làm đề tài của luận văn.
2. Mục đích nghiên cứu
Xây dựng biện pháp phát triển đội ngũ giáo viên các trường trung
học phổ thông trên địa bàn thành phố Nam Định đáp ứng yêu cầu đổi mới
giáo dục hiện nay.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu
Đội ngũ giáo viên các trường THPT trên địa bàn thành phố Nam Định.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Biện pháp phát triển ĐNGV các trường trung học phổ thông trên địa
bàn thành phố Nam Định đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục hiện nay.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Hệ thống hoá những vấn đề lý luận về phát triển đội ngũ giáo viên
trung học phổ thông.
4.2. Đánh giá thực trạng về phát triển ĐNGV các trường THPT trên địa
bàn thành phố Nam Định trong giai đoạn từ năm 2002 đến nay.
4.3. Đề xuất những biện pháp nhằm phát triển đội ngũ giáo viên các





4


trường trung học phổ thông trên địa bàn thành phố Nam Định đáp ứng
yêu cầu đổi mới giáo dục hiện nay.
5. Giả thuyết khoa học
Nếu đề xuất và triển khai đồng bộ những biện pháp khả thi để phát
triển đội ngũ giáo viên THPT thì các trường trung học phổ thông thành phố
Nam Định sẽ có được đội ngũ giáo viên đáp ứng được yêu cầu đổi mới giáo
dục hiện nay.
6. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung khảo sát thực trạng phát triển ĐNGV các trường
THPT công lập trên địa bàn thành phố Nam Định từ năm 2002 đến nay.
7. Phương pháp nghiên cứu
Các nhóm phương pháp sử dụng trong quá trình nghiên cứu đề tài:
- Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận.
Tham khảo Luật giáo dục, các văn kiện của Đảng, Nhà nước, Bộ
Giáo dục và đào tạo, nghiên cứu sách, tài liệu và báo cáo khoa học trong và
ngoài nước có liên quan đến vấn đề nghiên cứu.
- Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
Phương pháp điều tra xã hội học, trao đổi kinh nghiệm, lấy ý kiến
chuyên gia, phân tích tổng hợp, đánh giá, bình luận và tổng kết kinh
nghiệm.
- Nhóm phương pháp dùng các thuật toán, thống kê
8. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận khuyến nghị, mục lục và tài liệu tham
khảo, nội dung luận văn được trình bày trong 3 chương.
Chương 1: Cơ sở lý luận phát triển đội ngũ giáo viên trung học phổ
thông.
Chương 2: Thực trạng về phát triển đội ngũ giáo viên các trường
trung học phổ thông trên địa bàn thành phố Nam Định.






5

Chương 3: Biện pháp phát triển đội ngũ giáo viên các trường trung
học phổ thông trên địa bàn thành phố Nam Định đáp ứng yêu cầu đổi mới
giáo dục hiện nay.


Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN PHÁT TRIỂN ĐỘI NGŨ GIÁO VIÊN CÁC
TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
1.1. Các khái niệm cơ bản của đề tài
1.1.1. Đội ngũ giáo viên
Theo từ điển Tiếng Việt định nghĩa: “Đội ngũ là tập hợp gồm một số
đông người cùng chức năng, nhiệm vụ hoặc nghề nghiệp, hợp thành lực lượng
hoạt động trong hệ thống (tổ chức) và cùng chung một mục đích nhất định”.
Theo tác giả Đặng Quốc Bảo, đội ngũ là một tập thể người gắn kết
với nhau, cùng chung lý tưởng, mục đích, ràng buộc nhau về vật chất, tinh
thần và hoạt động theo một nguyên tắc.
Theo đó có thể quan niệm: Đội ngũ giáo viên là tập hợp những giáo
viên được tổ chức thành một lực lượng, có chung một lý tưởng, mục đích,
nhiệm vụ đó là: tạo ra “sản phẩm giáo dục”, thực hiện mục tiêu mà nhà
nước – xã hội đề ra cho lực lượng, tổ chức mình. Họ làm theo một kế hoạch
thống nhất và gắn bó với nhau thông qua lợi ích về vật chất và tinh thần
trong khuôn khổ quy định của luật giáo dục và điều lệ nhà trường.
1.1.2. Phát triển
Thuật ngữ phát triển theo triết học là:“ biến đổi hoặc làm cho biến
đổi từ ít đến nhiều, hẹp đến rộng, thấp đến cao, đơn giản đến phức tạp”.

Phát triển là quá trình nội tại, là bước chuyển hoá từ thấp đến cao
theo đường xoáy trôn ốc. Lý luận của phép Biện chứng duy vật khẳng định:
Mọi sự vật, hiện tượng không phải chỉ là sự tăng lên hay giảm đi về mặt số
lượng mà cơ bản chúng luôn biến đổi, chuyển hóa từ sự vật hiện tượng này
đến sự vật hiện tượng khác, cái mới kế tiếp cái cũ, giai đoạn sau kế thừa
giai đoạn trước tạo thành quá trình phát triển, tiến lên mãi mãi.





6

Nguyên nhân của sự phát triển là ở sự liên hệ tác động qua lại của
các mặt đối lập vốn có bên trong các sự vật hiện tượng. Hình thái, cách
thức của sự phát triển đi từ những biến đổi về lượng đến những biến đổi
chuyển hoá về chất và ngược lại.
Con đường xu hướng của sự phát triển, tiến lên từ từ, từ đơn giản đến
phức tạp, từ thấp đến cao, từ kém hoàn thiện đến ngày càng hoàn thiện hơn.
Phát triển có thể là một quá trình thực hiện nhưng cũng có thể là một tiềm
năng của sự vật hiện tượng.
Những đặc trưng cơ bản của phát triển được biểu hiện như:
- Sự phát triển của tất cả mọi sự vật, hiện tượng đều có mối liên hệ,
tác động qua lại và quy định lẫn nhau;
- Phát triển là quá trình vận động không ngừng;
- Phát triển từ những thay đổi về số lượng được chuyển hoá thành
những thay đổi về chất lượng;
- Phát triển thông qua sự đấu tranh giữa các mặt đối lập;
- Phát triển có thể diễn ra bằng cách chuyển hoá, xoáy ốc và nhảy vọt.
Đảng và Nhà nước ta đã xây dựng định hướng chiến lược cho sự

phát triển của đất nước đi lên một cách bền vững gọi là phát triển bền vững.
Phải đảm bảo cho nền kinh tế, văn hoá, xã hội phát triển bền vững được chỉ
đạo bằng tư duy lý luận trên cơ sở có sự phát triển bền vững của môi
trường. Trong đó phát triển bền vững giáo dục là một vấn đề vô cùng quan
trọng vì nó quyết định sự phát triển bền vững của nền kinh tế, văn hoá, xã
hội.
1.1.3. Quản lý, biện pháp quản lý
* Quản lý:
Từ khi xuất hiện xã hội loài người, con người đã biết quy tụ thành bầy,
thành nhóm để tồn tại và phát triển. Từ lao động đơn lẻ đến lao động phối
hợp, phức tạp, con người đã biết phân công, hợp tác với nhau trong cộng đồng
nhằm đạt được năng suất lao động cao hơn. Sự phân công, hợp tác đó đòi hỏi
phải có sự chỉ huy, phối hợp, điều hành … đó chính là chức năng quản lý.





7

Có nhiều định nghĩa khác nhau về khoa học quản lý tuỳ theo các
quan điểm tiếp cận khác nhau.
- Thuật ngữ quản lý (từ Hán Việt) lột tả bản chất của hoạt động này
trong thực tiễn. Nó gồm hai mặt tích hợp vào nhau, quá trình “quản” gồm
sự coi sóc, giữ gìn, duy trì ở trạng thái ổn định; quá trình “lý” gồm sửa sang
sắp xếp, đưa hệ vào thế “phát triển”.
Theo W.Taylor (1856 – 1915) thì “Quản lý là nghệ thuật biết rõ ràng
chính xác cái gì cần làm và làm cái đó thế nào bằng phương pháp tốt nhất
và rẻ nhất”  15,tr.1.
Theo Henry Fayon (1841 – 1925) thì “Quản lý là quá trình đạt đến

mục tiêu của tổ chức bằng cách vận dụng các hoạt động: kế hoạch hoá, tổ
chức, chỉ đạo (lãnh đạo) và kiểm tra”. Ông còn khẳng định “Khi con người
lao động hợp tác thì điều tối quan trọng là họ cần phải xác định rõ công
việc mà họ phải hoàn thành và các nhiệm vụ của mỗi cá nhân phải là mắt
lưới dệt nên mục tiêu của tổ chức”  15, tr.46.
Theo H. Koontz (người Mỹ) thì “Quản lý là hoạt động đảm bảo phối
hợp những nỗ lực cá nhân nhằm đạt được mục đích của tổ chức trong một
môi trường và đối với những điều kiện nguồn lực cụ thể”.
Theo Mary Parker Pollett thì: quản lý là “Nghệ thuật hoàn thành công
việc thông qua người khác” là “ Quá trình lập kế hoạch, tổ chức, lãnh đạo và
kiểm tra công việc của các thành viên của tổ chức, và sử dụng tất cả các
nguồn lực sẵn có của tổ chức để đạt được các mục tiêu của tổ chức”. (Stoner,
1995).
Theo từ điển Bách khoa về Giáo dục học, khái niệm quản lý nhà
nước về giáo dục được giải nghĩa là việc “Thực hiện công quyền để quản lý
các hoạt động giáo dục trong phạm vi toàn xã hội”.
Theo tác giả Nguyễn Quốc Chí - Nguyễn Thị Mỹ Lộc thì định nghĩa
kinh điển nhất về quản lý là: Quá trình tác động có chủ hướng, có chủ đích
của chủ thể quản lý (người quản lý) đến khách thể (đối tượng quản lý) – trong
một tổ chức – nhằm làm cho tổ chức vận hành và đạt được mục đích của





8

mình.
Bản chất của hoạt động quản lý là sự tác động có mục đích của người
quản lý đến tập thể người bị quản lý nhằm đạt được mục tiêu quản lý. Trong

giáo dục nhà trường đó là tác động của người quản lý đến tập thể giáo viên, học
sinh và các lực lượng khác nhằm thực hiện hệ thống các mục tiêu giáo dục.
Bản chất của hoạt động quản lý có thể mô hình hoá qua sơ đồ sau:





Sơ đồ 1: Mô hình quản lý
Trong đó: Chủ thể quản lý có thể là một cá nhân, một nhóm hay một
tổ chức.
Khách thể (đối tượng) quản lý là những con người cụ thể và sự hình
thành tự nhiên các quan hệ giữa những con người, giữa các nhóm người
khác nhau.
Công cụ quản lý và phương tiện tác động của chủ thể quản lý tới
khách thể quản lý như: Mệnh lệnh, quyết định, chính sách, luật lệ ….
Phương pháp quản lý được xác định theo nhiều cách khác nhau. Nó
có thể là do nhà quản lý áp đặt hoặc do sự cam kết giữa chủ thể quản lý và
khách thể quản lý.
Các chức năng cơ bản của quản lý
- Chức năng kế hoạch hoá; Chức năng tổ chức; Chức năng lãnh đạo
(chỉ đạo); Chức năng kiểm tra.
Mối liên hệ các chức năng quản lý được thể hiện qua sơ đồ sau:

Kế hoạch
Công cụ

Công cụ
Chủ thể quản lý
Đối tượng quản lý

Phương pháp





9



Kiểm tra,
đánh giá



Thông
tin


Tổ chức




Sơ đồ 2: Quan hệ các chức năng quản lý
Các chức năng chính của hoạt động quản lý luôn được thực hiện liên
tiếp, đan xen vào nhau, phối hợp và bổ sung cho nhau tạo thành chu trình
quản lý. Trong chu trình này, yếu tố thông tin luôn có mặt trong tất cả các
giai đoạn, nó vừa là điều kiện, vừa là phương tiện không thể thiếu được khi
thực hiện chức năng quản lý và ra quyết định quản lý.

Quản lý đội ngũ giáo viên
Theo W.L.French định nghĩa: “ Quản trị tài nguyên nhân sự (Quản lý
phát triển – tài nguyên nhân sự) là việc tuyển mộ, tuyển chọn, duy trì, phát
triển, sử dụng, động viên và tạo mọi điều kiện cho tài nguyên nhân sự
thông qua tổ chức, nhằm đạt được các mục tiêu của tổ chức”  16, tr.4..
Như vậy, quản lý ĐNGV tức là quản lý phát triển nhân sự mà ở đó xảy
ra quá trình tác động có mục đích của chủ thể quản lý tới người lao động như
tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng, đánh giá năng lực thực hiện và đãi
ngộ nhằm đạt được mục đích phát triển ĐNGV của các nhà trường.
Với quan niệm về quản lý ĐNGV như trên, và theo nghiên cứu của
Fred C. Lunenburg và Allan C. Ornstein (Mỹ) trong quá trình quản lý nhà
trường, chúng ta có thể chỉ ra các thành tố cơ bản của công tác quản lý đội

Chỉ đạo






10

ngũ trong lĩnh vực giáo dục nhà trường gồm có các bước (Hoạch định
nguồn nhân lực, tuyển chọn, lựa chọn, và sử dụng, đào tạo và phát triển,
đánh giá thực hiện và đãi ngộ).
Từ những khái niệm trên, ta có thể rút ra kết luận chung về quản lý
như sau: Quản lý là quá trình tác động có định hướng, có mục đích, có tổ
chức và có lựa chọn của chủ thể quản lý đến đối tượng (khách thể) quản lý
nhằm giữ cho sự vận hành của tổ chức được ổn định và làm cho nó phát
triển tới mục tiêu đã đề ra với hiệu quả cao nhất.

* Biện pháp quản lý
Biện pháp là cách thức, là con đường để tác động đến đối tượng.
Trong giáo dục người ta thường quan niệm biện pháp là yếu tố hợp thành
của phương pháp, phụ thuộc vào phương pháp. Trong tình huống sư phạm
cụ thể, phương pháp và biện pháp giáo dục có thể chuyển hoá lẫn nhau.
Biện pháp, theo chúng tôi chính là những cách thức cụ thể để thực
hiện phương pháp quản lý. Vì đối tượng quản lý phức tạp đòi hỏi những
biện pháp quản lý rất đa dạng và linh hoạt. Các biện pháp quản lý có liên
quan chặt chẽ với nhau tạo thành một hệ thống các biện pháp, các biện
pháp này sẽ giúp cho các nhà quản lý thực hiện tốt hơn các phương pháp
quản lý của mình mang lại hiệu quả tối ưu của bộ máy.
1.1.4. Quản lý giáo dục, quản lý nhà trường
* Quản lý giáo dục
- Quản lý giáo dục là hệ thống tác động có kế hoạch và hướng đích
của chủ thể quản lý ở các cấp khác nhau ở tất cả các khâu, các bộ phận của
hệ thống nhằm bảo đảm cho các cơ quan trong hệ thống giáo dục vận hành
tối ưu, đảm bảo cho sự phát triển mở rộng về cả số lượng cũng như chất
lượng để đạt tới mục tiêu giáo dục.
Mục tiêu của quản lý giáo dục chính là trạng thái mong muốn trong
tương lai đối với hệ thống giáo dục, đối với trường học, hoặc đối với những
thông số chủ yếu của hệ thống giáo dục trong mỗi nhà trường. Những
thông số này được xác định trên cơ sở đáp ứng những mục tiêu tổng thể của





11

sự phát triển kinh tế xã hội trong từng giai đoạn phát triển của kinh tế đất

nước. Mục tiêu này gồm: Đảm bảo quyền học sinh vào các ngành học, các
cấp học, các lớp học đúng chỉ tiêu và tiêu chuẩn. Đảm bảo chỉ tiêu và chất
lượng đạt hiệu quả đào tạo, phát triển tập thể sư phạm đồng bộ, nâng cao
trình độ chuyên môn nghiệp vụ và đời sống vật chất. Xây dựng và hoàn
thiện các tổ chức chính quyền, Đảng, đoàn thể, quần chúng để thực hiện tốt
nhiệm vụ giáo dục và đào tạo.
Đối tượng của quản lý giáo dục là hoạt động của cán bộ, giáo viên,
học sinh và tổ chức sư phạm của nhà trường trong việc thực hiện kế hoạch
và chương trình GD & ĐT nhằm đạt được mục tiêu giáo dục đã quy định
với chất lượng cao.
* Quản lý nhà trường
Quản lý nhà trường là một bộ phận trong quản lý giáo dục, nhà
trường (cơ sở giáo dục) chính là nơi tiến hành giáo dục - đào tạo có nhiệm
vụ trang bị kiến thức cho một nhóm dân cư nhất định.
- Nhà trường là một thiết chế đặc biệt của xã hội, thực hiện chức
năng kiến tạo các kinh nghiệm xã hội cho nhóm dân cư nhất định. Nhà
trường là nơi tổ chức cho việc kiến tạo xã hội nói trên đạt được các mục
tiêu xã hội đặt ra cho nhóm dân cư được qui định vào sự kiến tạo này một
cách tối ưu theo quản lý xã hội. Từ đó ta thấy quản lý hoạt động giáo dục
trong nhà trường phổ thông chính là xây dựng mối quan hệ quản lý giữa
các hình thức công tác tập thể, cách đối xử giữa học sinh và giáo viên. Do
con đường giáo dục lâu dài, đặc biệt hàm súc về trí tuệ và cảm xúc, do các
tình huống trong đời sống nội tại, tâm hồn nên tập thể của toàn trường có
sự biến đổi liên tục. Tất cả những điều đó đặt ra yêu cầu cao đối với việc
quản lý nhà trường, việc tổ chức hợp lý quá trình giáo dục – học tập, việc
xây dựng các điều kiện vật chất kỹ thuật tổ chức sư phạm và việc tạo ra
những điều kiện khác của lao động, của giáo viên, của học sinh.
1.1.5. Đổi mới giáo dục
Đổi mới giáo dục là sự đổi mới một lĩnh vực nằm trong đổi mới kinh






12

tế xã hội do Đảng khởi xướng từ năm 1986.
1.2. Cơ sở kinh tế, chính trị, xã hội, tâm lý, giáo dục về phát triển đội
ngũ giáo viên
Việc phát triển đội ngũ giáo viên các trường THPT chỉ có thể thực
hiện thành công khi dựa trên nền tảng cơ sở lý luận của kinh tế, chính trị,
xã hội, tâm lý, giáo dục.
1.2.1. Về kinh tế, chính trị, xã hội
Ngày nay Việt Nam đang trong quá trình hội nhập quốc tế, vì vậy sự
nghiệp phát triển giáo dục nói chung, phát triển đội ngũ giáo viên nói riêng phải
được tiếp cận ở mọi vấn đề, mọi lĩnh vực theo yêu cầu và đòi hỏi thực tế của xã
hội. Phát triển giáo dục phải gắn liền với phát triển kinh tế, chính trị xã hội.
Xét trên quan điểm kinh tế học giáo dục. Chúng ta không thể phát
triển giáo dục chỉ bằng hệ thống chính sách giáo dục mà còn đòi hỏi phải
có nguồn ngân sách đủ để thực hiện các mục tiêu của chính sách giáo dục.
Đầu tư cho giáo dục không phải chỉ là công việc xây dựng trường học, mua
sắm trang thiết bị mà còn phải đầu tư chủ yếu cho phát triển con người.
Đầu tư cho giáo dục tức là đầu tư vào vốn con người (Investment in Human
Capital), đầu tư cho giáo dục lợi ích thu về của nó không thể tính bằng đô
la vì nó bao gồm cả giá trị kinh tế và phi kinh tế, các giá trị này thường chỉ
thể hiện lợi ích sau một thời gian khá lâu dài nhưng có giá trị bền vững.
Như vậy đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho phát triển, loại đầu tư thông
minh nhất, hiệu quả nhất trong mọi loại đầu tư của các quốc gia trong thế
giới hiện đại. Chính vì vậy mà Anfed Marshall khẳng định rằng: “Những
khoản tiền bỏ vào để mở trường học sẽ thừa sức được thanh toán bằng sự

xuất hiện của Moda, Bethoven, Sexphia, Newton”.
Chức năng kinh tế của giáo dục chính là: Đào tạo nhân lực là tái sản
xuất sức lao động xã hội, tạo lực lượng trực tiếp sản xuất cho nền kinh tế và
quản lý xã hội.
Như lý luận Marx-Lênin coi giáo dục có vai trò quan trọng trong
cách mạng XHCN. Quy luật kinh tế cơ bản của chủ nghĩa xã hội đã xác





13

định chức năng kinh tế của hệ thống giáo dục quốc dân XHCN. Giáo dục
vừa là mục đích, vừa là sức mạnh của kinh tế. Như chủ tịch Hồ Chí Minh
đã nhận định mục tiêu của chế độ mới là làm cho mọi người dân “ai cũng
có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”, mọi người dân Việt Nam phải
có kiến thức mới để tham gia vào công cuộc xây dựng nước nhà, giữ vững
nền độc lập để làm cho đất nước hưng thịnh, giầu mạnh. Người cũng vạch
ra mối liên hệ biện chứng giữa phát triển giáo dục và phát triển kinh tế
“Giáo dục phải cung cấp cán bộ cho kinh tế. Kinh tế tiến bộ thì giáo dục
mới tiến bộ được”, đồng thời Người cũng rất coi trọng việc vận dụng mối
quan hệ này cho mục tiêu thiết thực của đời sống kinh tế và những nhiệm
vụ của cách mạng trong xu thế phát triển lâu dài. Người nhắc nhở toàn
Đảng, toàn dân: “Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm
năm thì phải trồng người”. Qua đó ta thấy Bác đã nhấn mạnh nhân tố con
người, đầu tư cho con người phát triển toàn diện về nhân cách và năng lực
nhằm tạo nên những con người của thời đại mới. Những con người của
nền văn minh hậu công nghiệp, của nền kinh tế trí thức.
Giáo dục được nhìn nhận như là con đường quan trọng nhất để

phát triển xã hội, giáo dục trở thành “Quốc sách hàng đầu” của nhiều
quốc gia. Chức năng văn hoá - xã hội của phát triển giáo dục được thể hiện
rất rõ trong chính mục tiêu của nó đó là: Nâng cao dân trí, bồi dưỡng nhân
tài làm cho mỗi người lao động tự chủ, năng động, sáng tạo và thông minh,
bên cạnh đó không ngừng giáo dục tư tưởng, đạo đức, chính trị để mỗi
người trở thành công dân có ích cho xã hội.
Chăm lo cho phát triển giáo dục là chăm lo đầu tư cho phát triển con
người. Giáo dục phát triển dựa trên nền tảng của kinh tế, chính trị, xã hội,
nhưng giáo dục cũng chính là nền tảng, cội gốc và là bệ phóng cho nền
chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội phát triển bền vững.
Chỉ thị 40-CT/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng đã cụ thể hoá
chức năng nhiệm vụ của các cấp, các ngành, đó là: “Xây dựng đội ngũ nhà





14

giáo, cán bộ quản lý giáo dục là nhiệm vụ của các cấp uỷ Đảng và chính
quyền, là một bộ phận công tác cán bộ của Đảng và Nhà nước, trong đó
ngành Giáo dục giữ vai trò chính trong việc tham mưu và tổ chức thực hiện”.
Đồng thời Chỉ thị 40 cũng đã chỉ rõ: “Tổ chức điều tra đánh giá đúng thực
trạng đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục, về tình hình tư tưởng, đạo
đức, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, phương pháp giảng dạy, năng lực
quản lý trong nhà trường và các cơ quan quản lý giáo dục các cấp. Trên cơ
sở kết quả điều tra, căn cứ vào chiến lược phát triển giáo dục, Bộ GD-ĐT,
UBND các tỉnh thành phố tiến hành xây dựng quy hoạch, kế hoạch đào tạo,
đào tạo lại, bồi dưỡng nâng cao trình độ đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý
giáo dục, đảm bảo đủ số lượng, cân đối về cơ cấu, đạt chuẩn, đáp ứng yêu

cầu thời kỳ mới”.[3].
1.2.2. Về tâm lý học
Tâm lý học quản lý được ứng dụng trong quản lý và phát triển nguồn
nhân lực rất phổ biến hiện nay, bởi vì bất kể chủ thể quản lý, đối tượng
quản lý nào cũng đều là con người, đều có những đặc điểm tâm lý riêng
biệt. Vì vậy việc nghiên cứu cấu trúc và quy luật tâm lý trong hoạt động
giáo dục của người giáo viên có ý nghĩa quan trọng trong việc phát triển
ĐNGV khi xác định được cấu trúc tâm lý của nhân cách cũng như của kỹ
năng và năng lực sư phạm của họ.
Người giáo viên có vị trí quan trọng trong sự nghiệp cách mạng tư
tưởng - văn hoá và được xã hội tôn vinh khi họ là người thực hiện nhiệm
vụ giáo dục và đào tạo theo đường lối, quan điểm của Đảng Cộng Sản Việt
Nam. Đối tượng của hoạt động sư phạm là quá trình phát triển nhân cách
của con người. Công cụ của lao động sư phạm là nhân cách của người giáo
viên. Nghề dạy học là nghề tái sản xuất sức lao động - lao động trí óc mang
tính khoa học, tính nghệ thuật, tính sáng tạo. Giáo viên có nhiệm vụ biến
người học trở thành một người có nhân cách theo một mẫu hình xác định
cho xã hội trong tương lai. Nhân cách con người được coi là yếu tố tâm lý
quan trọng, quy định nội dung của cuộc sống. Nhân cách của các thế hệ





15

tương lai đều được tạo ra bằng lao động sư phạm của người giáo viên ngày
hôm nay. Do đó, phát triển ĐNVG có tác dụng to lớn tới sự phát triển của
cả nền kinh tế, văn hoá, xã hội trong tương lai.
Dựa trên quan điểm tâm lý học quản lí của PGS.TS Nguyễn Thị Mỹ

Lộc thì một trong những yếu tố quan trọng trong việc phát triển ĐNGV
chính là người quản lý tạo được động cơ học tập, bồi dưỡng phấn đấu vươn
lên, động cơ làm việc hăng say, nhiệt tình của người giáo viên. Điều đó
được thể hiện qua sơ đồ sau:






Sơ đồ 3: Các yếu tố cơ bản của thuyết kỳ vọng về động cơ.
Trong công tác phát triển đội ngũ giáo viên thì việc tìm hiểu, nắm bắt
được nhu cầu, tâm tư nguyện vọng của họ là rất quan trọng. Người lãnh đạo
nhà trường thấu hiểu về tâm lý giáo viên có thể khơi dậy ở họ những đức
tính tốt đẹp, có thể giải quyết tốt những xung đột trong tổ chức mình từ đó
xây dựng được những tập thể, tổ chuyên môn đoàn kết, tạo được động cơ
làm việc hăng say, hiệu quả, đồng thời nâng cao hiệu quả công việc của
nhà trường trên cơ sở nắm bắt, sử dụng thông tin phản hồi kịp thời, động
viên, khen thưởng đúng lúc.
1.2.3. Về phát triển giáo dục
Mỗi giai đoạn phát triển kinh tế xã hội nói chung, phát triển giáo dục
nói riêng đều đặt ra những mục tiêu, yêu cầu phát triển ĐNGV mang đặc
thù riêng. Phát triển ĐNGV THPT hiện nay được minh hoạ bằng các quan
điểm chỉ đạo sau:

Nỗ lực =>
Thành quả

Thành quả =>
Kết quả


Trị lượng
Nỗ lực
Thành quả
Kết quả
(Tiền thưởng, sự khen ngợi, cảm
giác hoàn thành nhiệm vụ )





16

1.2.3.1. Các quan điểm chỉ đạo phát triển giáo dục
Hiến pháp nước Công hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1992), Luật
Giáo dục (2005), Báo cáo chính trị tại Đại hội X của Đảng (2006) và chiến
lược phát triển giáo dục 2001 - 2010 đã chỉ rõ những quan điểm chỉ đạo
phát triển giáo dục nước ta là:
Giáo dục là quốc sách hàng đầu: Phát triển giáo dục là nền tảng,
nguồn nhân lực chất lượng cao là một trong những động lực quan trọng
thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, là yếu tố cơ bản để phát
triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững.
Xây dựng nền giáo dục có tính nhân dân, dân tộc, khoa học, hiện
đại, theo định hướng xã hội chủ nghĩa, lấy chủ nghĩa Mác – LêNin và tư
tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng. Thực hiện công bằng xã hội trong giáo
dục, tạo cơ hội bình đẳng để ai cũng được học hành. Nhà nước và xã hội có
cơ chế, chính sách giúp đỡ người nghèo học tập, khuyến khích những
người tài giỏi phát triển tài năng.
Giáo dục con người Vịêt Nam phát triển toàn diện, có đạo đức, trí

thức, sức khoẻ và thẩm mỹ, phát triển được năng lực của cá nhân, đào tạo
những người lao động có kỹ năng nghề nghiệp, năng động, sáng tạo, trung
thành với lý tưởng độc lập và chủ nghĩa xã hội, có ý chí vươn lên lập thân, lập
nghiệp, có ý thức công dân, góp phần làm cho dân giàu nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh, phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc.
Phát triển giáo dục phải gắn với nhu cầu phát triển KT-XH, tiến bộ
khoa học-công nghệ, củng cố quốc phòng, an ninh, đảm bảo sự hợp lý về
cơ cấu trình độ , cơ cấu ngành nghề, cơ cấu vùng miền, mở rộng quy mô
trên cơ sở đảm bảo chất lượng và hiệu quả, kết hợp giữa đào tạo và sử
dụng. Thực hiện nguyên lý học đi đôi với hành, giáo dục kết hợp với lao
động sản xuất, lý luận gắn liền với thực tiễn, giáo dục nhà trường kết hợp
với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội.
Giáo dục là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và của toàn dân. Xây





17

dựng xã hội học tập, tạo điều kiện cho mọi người, ở mọi lứa tuổi, mọi trình
độ được học thường xuyên, học suốt đời. Nhà nước giữ vai trò chủ đạo
trong phát triển sự nghiệp giáo dục. Đẩy mạnh xã hội hoá, khuyến khích,
huy động và tạo điều kiện để toàn xã hội tham gia phát triển giáo dục.
Tư tưởng chỉ đạo của Chiến lược phát triển giáo dục trong giai đoạn
2001 - 2010 là khắc phục tình trạng bất cập trên nhiều lĩnh vực, tiếp tục đổi
mới một cách có hệ thống và đồng bộ, tạo cơ sở để nâng cao rõ rệt chất
lượng và hiệu quả giáo dục, phục vụ đắc lực sự nghiệp công nghiệp hoá,
hiện đại hoá, chấn hưng đất nước, đưa đất nước phát triển nhanh và bền

vững, nhanh chóng sánh vai cùng các nước phát triển trong khu vực và trên
thế giới.
1.2.3.2. Định hướng chiến lược giáo dục và đào tạo đến năm 2010 của
Chính phủ
* Mục tiêu chung
Tạo bước chuyển biến cơ bản về chất lượng giáo dục theo hướng
tiếp cận với trình độ tiên tiến của thế giới, phù hợp với thực tiễn của Việt
Nam, phục vụ thiết thực cho sự phát triển KT – XH của Đất nước, của từng
vùng, từng địa phương, hướng tới một xã hội học tập. Phấn đấu đưa nền
giáo dục nước ta thoát khỏi tình trạng tụt hậu trên một số lĩnh vực so với
các nước phát triển trong khu vực.
Ưu tiên nâng cao chất lượng đào tạo nhân lực, đặc biệt chú trọng
nhân lực khoa học - công nghệ trình độ cao, cán bộ quản lý, kinh doanh
giỏi và công nhân kỹ thuật lành nghề, trực tiếp góp phần nâng cao sức cạnh
trạnh của nền kinh tế, đẩy nhanh tiến độ phổ cập THCS.
Đổi mới mục tiêu, nội dung, phương pháp, chương trình giáo dục
phát triển đội ngũ nhà giáo đáp ứng yêu cầu vừa tăng quy mô, vừa nâng cao
chất lượng, hiệu quả và đổi mới phương pháp dạy – học; đổi mới quản lý
giáo dục tạo cơ sở pháp lý và phát huy nội lực phát triển giáo dục.
* Mục tiêu phát triển cấp học Trung học phổ thông
Thực hiện chương trình phân ban hợp lý nhằm đảm bảo cho học sinh





18

có học vấn phổ thông cơ bản theo một chuẩn thống nhất, đồng thời tạo điều
kiện cho sự phát huy năng lực của mỗi học sinh, giúp học sinh có những

hiểu biết về kỹ thuật, chú trọng hướng nghiệp để tạo điều kiện thuận lợi cho
việc phân luồng sau THPT, để học sinh vào đời hoặc chọn ngành nghề học
tiếp sau khi tốt nghiệp.
Tăng tỷ lệ học sinh trong độ tuổi vào học THPT từ 38% năm 2000
lên 45% vào năm 2005 và 50% vào năm 2010.
* Phát triển đội ngũ nhà giáo, đổi mới phương pháp giáo dục
Phát triển đội ngũ nhà giáo đảm bảo đủ về số lượng, hợp lý về cơ
cấu và chuẩn về chất lượng đáp ứng nhu cầu vừa tăng quy mô vừa nâng cao
chất lượng và hiệu quả giáo dục.
Đổi mới và hiện đại hoá phương pháp giáo dục. Chuyển từ việc
truyền đạt tri thức thụ động, thầy giảng, trò ghi sang hướng dẫn người học
chủ động tư duy trong quá trình tiếp cận tri thức, dạy cho người học
phương pháp tự học, tự thu nhận thông tin một cách hệ thống và có tư duy
phân tích, tổng hợp, phát triển được năng lực của mỗi cá nhân, tăng cường
tính chủ động, tính tự chủ của học sinh, sinh viên trong quá trình học tập,
hoạt động tự quản trong nhà trường và tham gia các hoạt động xã hội.
Đổi mới chương trình đào tạo và bồi dưỡng giáo viên, giảng viên,
chú trọng việc rèn luyện, giữ gìn và nâng cao phẩm chất đạo đức nhà giáo.
Điều chỉnh cơ cấu đội ngũ giáo viên phổ thông, tăng cường giáo
viên nhạc hoạ, thể dục thể thao, nữ công gia chánh, giáo viên hướng nghiệp
và dạy nghề để đa dạng hoá việc học và hoạt động của học sinh trong quá
trình tiến tới học 2 buổi/ ngày. Nâng dần tỷ lệ giáo viên tiểu học có trình độ
cao đẳng. Phấn đấu đến 2015 tất cả giáo viên THCS đều có trình độ cao
đẳng trở lên, trong đó những giáo viên là trưởng, phó các bộ môn có trình
độ đại học. Nâng tỷ lệ giáo viên THPT có trình độ thạc sỹ lên 10% vào
năm 2010. Đặc biệt chú trọng đầu tư cho việc xây dựng đội ngũ giáo viên
cho các tỉnh miền núi, vùng sâu, vùng xa, cho đồng bào các dân tộc thiểu
số. Giáo viên được thường xuyên tham gia các lớp bồi dưỡng nâng cao






19

trình độ.
* Các giải pháp phát triển giáo dục.
- Đổi mới mục tiêu, nội dung, chương trình giáo dục.
- Phát triển đội ngũ nhà giáo, đổi mới phương pháp giáo dục.
- Đổi mới quản lý giáo dục.
- Tiếp tục hoàn chỉnh cơ cấu hệ thống giáo dục quốc dân và phát
triển mạng lưới trường, lớp, cơ sở giáo dục.
- Tăng cường nguồn tài chính, cơ sở vật chất cho giáo dục.
- Đẩy mạnh xã hội hoá giáo dục.
- Đẩy mạnh hợp tác quốc tế về giáo dục.
Trong các giải pháp trên thì phát triển đội ngũ nhà giáo, đổi mới
phương pháp giáo dục là các giải pháp trọng tâm, đổi mới quản lý giáo dục
là khâu đột phá.
1.3. Các đặc trưng của trường trung học phổ thông trong thời kỳ đổi
mới giáo dục
1.3.1. Trường trung học phổ thông
1.3.1.1. Chức năng, nhiệm vụ của trường trung học phổ thông
Mục tiêu của giáo dục phổ thông là giúp học sinh phát triển toàn diện
về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản, phát triển
năng lực cá nhân, tính năng động và sáng tạo, hình thành nhân cách con
người Việt Nam XHCN, xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân, giúp
học sinh củng cố và phát triển những kết quả giáo dục THCS, hoàn thiện
học vấn phổ thông và những hiểu biết thông thường về kỹ thuật và hướng
nghiệp, có điều kiện phát huy năng lực cá nhân để lựa chọn hướng phát
triển, tiếp tục học đại học, cao đẳng, trung cấp, học nghề hoặc đi vào cuộc

sống lao động, tham gia xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Trường THPT là bậc học cuối cùng của ngành học phổ thông, là
nơi hoàn thiện kiến thức cơ bản toàn diện cho học sinh
Học sinh THPT là lớp người có độ tuổi từ 15 đến 18. Hầu hết học
sinh trong lứa tuổi này thể hiện ước mơ hoài bão của mình. Họ có nhiều





20

nỗ lực cá nhân nhằm giải quyết các mâu thuẫn giữa năng lực bản thân
với yêu cầu của xã hội.
Đặc điểm về bậc học, độ tuổi, gia đình, việc làm đã phân hoá
nguyện vọng của học sinh THPT theo 2 hướng chính.
Một là: Đa số học sinh có nguyện vọng tiếp tục học cao hơn để
vào các trường Cao đẳng, Đại học.
Hai là: Tham gia vào thị trường lao động để kiếm sống sau đó có
điều kiện học lên.
Vì vậy trường THPT là cái nôi đào tạo nguồn nhân lực cho sự phát
triển, áp dụng các phương pháp, các biện pháp quản lý để thực hiện kế
hoạch được giao, nhiệm vụ năm học và xa hơn nữa là thực hiện mục tiêu
giáo dục lâu dài của nhà trường.
Trường THPT có nhiệm vụ:
a) Tổ chức giảng dạy, học tập và các hoạt động giáo dục khác của
chương trình giáo dục phổ thông;
b) Quản lý giáo viên, cán bộ, nhân viên, tham gia vào quá trình tuyển
dụng và điều động giáo viên, cán bộ, nhân viên;
c) Tuyển sinh và tiếp nhận học sinh, vận động học sinh đến trường,

quản lý học sinh theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo;
d) Huy động, quản lý, sử dụng các nguồn lực theo quy định của pháp luật;
đ) Xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật theo yêu cầu chuẩn hoá, hiện đại hoá;
e) Phối hợp với gia đình người học, tổ chức, cá nhân trong hoạt động
giáo dục;
g) Tổ chức cho nhà giáo, cán bộ, nhân viên và người học tham gia
các hoạt động xã hội;
h) Thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn khác theo quy định của pháp luật.
Theo chúng tôi, từ góc độ quản lý, có thể xếp các nhiệm vụ và quyền
hạn của trường THPT đã nêu trên thành 5 nhóm chủ yếu sau:
- Nhóm 1: Thực thi luật pháp và chính sách của nhà nước, quy chế của





21

ngành nhằm tổ chức có hiệu quả hoạt động giáo dục nói chung và dạy học
nói riêng, trong đó lấy việc thực thi các quy chế giáo dục đối với hoạt động
dạy học làm nhiệm vụ trọng tâm.
- Nhóm 2: Quản lý và nâng cao năng lực của ĐNGV, nhân viên và
điều hành bộ máy tổ chức của nhà trường nhằm tổ chức có hiệu quả hoạt
động giáo dục và dạy học., trong đó lấy việc nâng cao năng lực dạy học cho
đội ngũ giáo viên và đổi mới nội dung chương trình, phương pháp dạy học
làm nhiệm vụ cốt yếu.
- Nhóm 3: Huy động đầy đủ và sử dụng có hiệu quả cơ sở vật chất và
thiết bị giáo dục để phục vụ cho mọi hoạt động giáo dục của trường, trong
đó coi việc huy động và sử dụng thiết bị dạy học làm nhiệm vụ chủ yếu.
- Nhóm 4: Xây dựng và phát huy tác dụng của môi trường giáo dục

nói chung và môi trường sư phạm trong trường nói riêng, trong đó lấy việc
phối hợp giáo dục giữa gia đình, cộng đồng và xã hội làm trụ cột.
- Nhóm 5: Thu nhận, xử lý có chất lượng các thông tin về giáo dục và
thông tin phục vụ cho hoạt động dạy học, đồng thời tăng cường ứng dụng
công nghệ thông tin và truyền thông vào dạy học và quản lý dạy học.
1.3.1.2. Vai trò của trường trung học phổ thông
Trường THPT là cơ sở giáo dục của bậc trung học, bậc học nối tiếp
bậc tiểu học và cấp trung học cơ sở của hệ thống giáo dục quốc dân nhằm
hoàn chỉnh học vấn phổ thông. Trường THPT có vai trò hết sức quan trọng
trong việc trang bị kiến thức tương đối toàn diện ở cấp trung học phổ
thông, giúp các em có cơ sở vững chắc để tiếp tục học đại học, cao đẳng,
trung cấp, học nghề hoặc đi vào cuộc sống lao động.
Để đạt được những nhiệm vụ trên, thì nhân tố có tính quyết định và cũng
là động lực của sự phát triển giáo dục chính là nhân tố con người- là đội ngũ
các thầy giáo, cô giáo mà trong đó có đội ngũ giáo viên trung học phổ thông.
1.3.2. Đội ngũ giáo viên trung học phổ thông





22

Theo luật giáo dục nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, giáo
viên là nhà giáo giảng dạy ở cơ sở giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông,
giáo dục nghề nghiệp. [8; tr 56]
Theo Điều 30 – chương IV của điều lệ trường Trung học của Bộ Giáo
dục và Đào tạo ban hành thì giáo viên trường trung học là người làm nhiệm
vụ giảng dạy, giáo dục trong nhà trường, gồm: Hiệu trưởng, phó hiệu trưởng,
giáo viên bộ môn, giáo viên tổng phụ trách đoàn (đối với trường THPT).

Vì thế, ta có thể hiểu ĐNGV THPT là tập hợp những giáo viên được
tổ chức thành một lực lượng có tổ chức, có chung một lý tưởng, mục đích,
nhiệm vụ đó là thực hiện mục tiêu giáo dục đã đề ra cho lực lượng tổ chức
mình. Họ làm theo một kế hoạch thống nhất và gắn bó với nhau thông qua
lợi ích về vật chất và tinh thần trong khuôn khổ quy định của pháp luật.
1.3.2.1. Chức năng, nhiệm vụ của đội ngũ giáo viên trường trung học phổ thông
Đội ngũ giáo viên trường THPT là những người có trình độ đại học
hoặc sau đại học về chuyên môn giảng dạy và có chứng chỉ bồi dưỡng
nghiệp vụ sư phạm.
* Giáo viên THPT phải có những tiêu chuẩn:
- Phẩm chất đạo đức tốt.
- Đạt trình độ chuẩn về đào tạo chuyên môn, nghiệp vụ.
- Đủ sức khoẻ theo yêu cầu nghề nghiệp.
- Lý lịch bản thân rõ ràng.
* Giáo viên THPT có chức năng, nhiệm vụ:
- Giáo dục, giảng dạy theo đúng chương trình, kế hoạch. Soạn bài,
chuẩn bị thí nghiệm, kiểm tra đánh giá quản lý học sinh trong các hoạt động
giáo dục, tham gia các hoạt động giáo dục, tham gia các hoạt động bộ môn.
- Rèn luyện đạo đức, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ để nâng cao
chất lượng và hiệu quả giáo dục.
- Thực hiện nghĩa vụ công dân, pháp luật của Nhà nước và điều lệ
của nhà trường.
- Giữ gìn phẩm chất, danh dự, uy tín của nhà giáo.





23


- Phối hợp với các đoàn thể, tổ chức xã hội trong các hoạt động giáo dục.
Nghề dạy học là một nghề lao động đặc biệt: Đối tượng lao động là
con người, công cụ lao động chủ yếu là nhân cách nhà giáo, môi trường
giáo dục mang tính văn hoá, đạo đức cao. Sản phẩm của loại lao động đặc
biệt này cũng rất đặc biệt: Đó là con người có nhân cách (phẩm chất và
năng lực) đáp ứng yêu cầu của xã hội. Vì vậy, nhà giáo có vai trò hết sức
quan trọng trong nhà trường và được xã hội tôn vinh.
Trong lịch sử, dân tộc ta đã có truyền thống hiếu học, quý trọng nhân
tài, coi hiền tài là nguyên khí của quốc gia, lấy giáo dục làm cơ sở để chấn
hưng đất nước, vai trò của người thầy cũng đã được đánh giá rất cao. Bên
cạnh đó truyền thống tôn sư trọng đạo luôn được gìn giữ và phát huy.
Để đáp ứng được yêu cầu đòi hỏi của thời kỳ CNH, HĐH đất nước
người giáo viên phải có những phẩm chất sau:
Về tư tưởng chính trị, đạo đức: Phải luôn tin tưởng vào đường lối của
Đảng, trung thành với Tổ quốc, với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa
xã hội. Giáo viên phải là người yêu nước thương nòi, bằng những hành
động cụ thể, không ngừng rèn luyện đạo đức cách mạng, phải là tấm gương
sáng về đạo đức và tự học cho học sinh noi theo. Phải là người có tâm với
nghề, nhiệt tình, sáng tạo, hết lòng thương yêu học sinh.
Về kiến thức: Phải hiểu biết sâu rộng về kiến thức chuyên môn, có
kiến thức chuyên môn tốt sẽ là cơ sở cho phương pháp dạy học tốt, hiểu
biết về tâm sinh lý học sinh, ngoài ra phải có hiểu biết về kinh tế chính trị,
văn hoá - xã hội phụ trợ cho kiến thức giảng dạy.
Về kỹ năng sư phạm: Có thể nói dạy - học là một nghệ thuật, vì vậy
người giáo viên phải có kỹ năng sư phạm tốt, bao gồm: kỹ năng lập kế
hoạch, soạn giáo án, kỹ năng tổ chức dạy học trên lớp… có thể nói kỹ năng
sư phạm là cầu nối của quá trình tương tác thầy - trò trong quá trình dạy
học tạo ra chất lượng và hiệu quả giáo dục.
1.3.2.2. Vị trí, vai trò của đội ngũ giáo viên trường trung học phổ thông
Đội ngũ giáo viên là nhân tố quan trọng quyết định sự nghiệp GD-

×