Tải bản đầy đủ (.pdf) (122 trang)

Một số biện pháp quản lý nhằm nâng cao chất lượng dạy học các môn khoa học Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh tại Viện Đại học Mở Hà Nội.PDF

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.63 MB, 122 trang )





ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA SƯ PHẠM




ĐÀO HẢI VÂN




Một số biện pháp quản lý nhằm nâng cao chất lượng
dạy học các môn khoa học Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ
Chí Minh tại Viện Đại học Mở Hà Nội


luËn v¨n th¹c sÜ GIÁO DỤC HỌC













Hµ néi – 2008




ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA SƯ PHẠM





ĐÀO HẢI VÂN




Một số biện pháp quản lý nhằm nâng cao chất lượng
dạy học các môn khoa học Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ
Chí Minh tại Viện Đại học Mở Hà Nội


Mã số : 60 14 05


luËn v¨n th¹c sÜ GIÁO DỤC HỌC



Người hướng dẫn khoa học: TS. Từ Đức Văn




Hµ néi - 2008





MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
TRANG
1. Lý do chọn đề tài
1
2. Mục đích nghiên cứu
3
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3
4. Giả thuyết khoa học
4
5. nhiệm vụ nghiên cứu
4
6. phạm vi nghiên cứu
4
7. Phương pháp nghiên cứu
4
8. Cấu trúc của luận văn
5

Chương 1: Một số vấn đề lý luận về quản lý nhằm nâng cao chất
lượng dạy học các môn khoa học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh

6
1.1. Sơ lược lịch sử nghiên cứu
6
1.2. Những khái niệm cơ bản
7
1.2.1. Quản lý
7
1.2.2. Quản lý giáo dục
12
1.2.3. Quản lý nhà trường
13
1.2.4. Quản lý dạy học
14
1.2.5. Chất lượng
15
1.2.6. Chất lượng dạy học và các yếu tố tác động đến chất lượng dạy học
17
1.3. Vị trí, tầm quan trọng, đặc điểm của các môn khoa học Mác -
Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh cho sinh viên các trường đại học, cao
đẳng
24
1.3.1. Vị trí, tầm quan trọng
24
1.3.2. Đặc điểm của các môn khoa học Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ
Chí Minh và tính đặc thù của phương pháp giảng dạy- học tập các
môn khoa học này

27
1.4. Những yêu cầu cơ bản trong quản lý dạy học các môn khoa
học Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh
31


1.4.1. Những yêu cầu cơ bản về công tác quản lý dạy học các môn khoa
học Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh
31
1.4.2. Yêu cầu nâng cao chất lượng dạy học các môn khoa học Mác -
Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh
33
Chương 2:
Thực trạng dạy học và quản lý dạy học
các môn khoa
học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh tại Viện Đại học Mở
Hà Nội
35
2.1. Một số nét cơ bản về Viện Đại học Mở Hà Nội
35
2.1.1. Lịch sử hình thànhViện Đại học Mở Hà Nội
35
2.1.2. Bộ máy tổ chức
36
2.1.3. Quy mô đào tạo
37
2.2. Thực trạng dạy học các môn khoa học Mác - Lênin, Tư tưởng
Hồ Chí Minh tại Viện Đại học Mở Hà Nội
40
2.2.1. Về đội ngũ giảng viên các môn khoa học Mác - Lênin, Tư

tưởng Hồ Chí Minh
40
2.2.2. Về kết quả học tập các môn khoa học Mác - Lênin, Tư tưởng
Hồ Chí Minh của sinh viên
43
2.2.3. Về cơ sở vật chất phục vụ dạy học
45
2.3. Thực trạng quản lý hoạt động dạy học các môn khoa học Mác -
Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh tại Viện Đại học Mở Hà Nội
46
2.3.1.Về công tác quản lý mục tiêu, nội dung, chương trình dạy học
46
2.3.2. Về công tác quản lý hoạt động giảng dạy của giảng viên
51
2.3.3. Quản lý hoạt động học tập của sinh viên
55
2.3.4. Quản lý cơ sở vật chất và tài chính
62
2.4. Đánh giá thực trạng công tác quản lý hoạt động dạy học các môn khoa
học Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh tại Viện Đại học Mở Hà Nội
64
2.4.1. Những thành tựu
64
2.4.2. Những hạn chế
65
2.4.3. Các nguyên nhân khác
66
Chương 3: Một số biện pháp quản lý nhằm nâng cao chất lượng dạy
67



học các môn khoa học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh tại Viện
Đại học Mở Hà Nội
3.1. Các định hướng để đề xuất biện pháp
67
3.1.1. Các định hướng
67
3.1.2. Mục tiêu phát triển của Viện Đại học Mở Hà Nội
69
3.2. Các biện pháp quản lý hoạt động dạy học các môn khoa học
Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh
70
3.2.1. Nhóm biện pháp chú trọng xây dựng đội ngũ giảng viên
70
3.2.2. Nhóm biện pháp tăng cường quản lý hoạt động giảng dạy của giảng
viên
72
3.2.3. Nhóm biện pháp tăng cường quản lý hoạt động học tập của sinh viên
81
3.2.4. Nhóm biện pháp thường xuyên chú ý quản lý cơ sở vật chất, thực
hiện chế độ chính sách
88
3.3. Khảo sát mức độ cần thiết và tính khả thi của các nhóm biện pháp
89
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
95
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
98
PHỤ LỤC





1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Dân tộc Việt Nam đã viết lên bản anh hùng ca chói lọi trong thế kỷ XX
bằng chiến thắng lẫy lừng chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, bằng những
thành tựu của hơn 30 năm kiên định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội trên
phạm vi cả nước, của hơn 20 năm đổi mới toàn diện đất nước, nay lại tiếp tục
tiến những bước mạnh mẽ, vững chắc vào thế kỷ XXI với thế và lực mới.
Lịch sử đấu tranh cách mạng Việt Nam đã là những minh chứng hùng hồn
cho một sự thật không gì có thể phủ nhận: Chính sự lãnh đạo tài tình, sáng
suốt của Đảng Cộng sản Việt Nam đã đưa con thuyền cách mạng Việt Nam
vượt qua muôn vàn bão táp phong ba đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác,
đã đoàn kết cả dân tộc đồng tâm chung sức lập nên bao kỳ tích. Việt Nam có
được những thành tựu quan trọng và rất đáng tự hào như ngày hôm nay là vì
Việt Nam có Đảng Cộng sản vững mạnh. Đảng luôn lấy chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành
động. Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh thực sự là vũ khí lý
luận sắc bén của Đảng ta, của nhân dân ta.
Trong thời kỳ mở cửa, hội nhập khu vực và quốc tế của Đảng và Nhà
nước ta, bọn phản động trong và ngoài nước đẩy mạnh những hoạt động
chống phá quyết liệt sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa
ở Việt Nam. Trong chiến lược "Diễn biến hoà bình" với những âm mưu, thủ
đoạn thâm độc, kẻ địch rất chú trọng đến lĩnh vực tư tưởng văn hoá, tìm mọi
cách phá hoại hòng làm cho cách mạng Việt Nam mất phương hướng, làm
cho Đảng Cộng sản mất vai trò lãnh đạo, tiến tới các hoạt động bạo loạn, lật
đổ khi có thời cơ. Phục vụ cho mưu đồ này, kẻ địch đã ra sức tuyên truyền

xuyên tạc, bóp méo, đòi Việt Nam phải từ bỏ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh - nền tảng tư tưởng của cách mạng Việt Nam.
Trước thực tế đó, để đối phó có hiệu quả với những âm mưu, thủ đoạn
của kẻ thù, để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam trong


2
thời kỳ phát triển mới, mọi người dân Việt Nam, đặc biệt là thế hệ trẻ cần
thấm nhuần sâu sắc và vận dụng sáng tạo những nguyên lý và phương pháp
luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh để giải quyết những
vấn đề thực tiễn trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Đây chính là
vũ khí lý luận sắc bén - thứ vũ khí mà sức mạnh, tính đúng đắn, khoa học và
cách mạng của nó đã được kiểm nghiệm bằng chính lịch sử đấu tranh cách
mạng hào hùng của Việt Nam qua hai cuộc kháng chiến thần thánh chống
Pháp, chống Mỹ và qua thực hiện xây dựng đất nước xã hội chủ nghĩa những
năm qua. Việc học tập, nghiên cứu, quán triệt những nội dung cơ bản của chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vừa được coi là nhiệm vụ cấp
bách, vừa mang tính chiến lược lâu dài. Nhiệm vụ này càng phải được triển
khai thực hiện một cách nghiêm túc cho đối tượng học sinh - sinh viên -
những chủ nhân tương lai của đất nước. Vì vậy, một trong bốn quan điểm chỉ
đạo phát triển giáo dục của "Chiến lược phát triển giáo dục 2001 - 2010" đã
nêu rõ: "Xây dựng nền giáo dục có tính nhân dân, dân tộc, khoa học, hiện đại,
theo định hướng xã hội chủ nghĩa, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh làm nền tảng". Thủ tướng Chính phủ cũng đã có Quyết định số
494/QĐ-TTg ngày 24/6/2002 phê duyệt Đề án "Một số biện pháp nâng cao
chất lượng và hiệu quả giảng dạy, học tập các môn Khoa học Mác - Lênin,
Tư tưởng Hồ Chí Minh trong các trường đại học, cao đẳng; môn chính trị
trong các trường trung học chuyên nghiệp và dạy nghề". Quyết định đã nhấn
mạnh: các môn Triết học Mác - Lênin, Kinh tế chính trị Mác - Lênin, Chủ
nghĩa xã hội khoa học, Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam và tư tưởng Hồ Chí

Minh là những môn học bắt buộc đối với sinh viên cao đẳng, đại học thuộc
tất cả các ngành, kể cả khoa học xã hội và nhân văn hay khoa học tự nhiên.
Nội dung của một trong các môn Khoa học Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí
Minh là một trong những nội dung thi tốt nghiệp đối với bậc đại học, cao
đẳng.


3
Trên thực tế hiện nay, đại đa số sinh viên các trường đại học, cao đẳng
và học sinh ở các trường trung học chuyên nghiệp vẫn chưa ý thức được đầy
đủ vị trí, vai trò của các môn Khoa học Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh.
Cho nên đã nảy sinh tình trạng sinh viên, học sinh chưa thực sự hứng thú với
các môn học này, chỉ học thụ động, miễn cưỡng qua loa, chiếu lệ, học mang
tính chất đối phó, hầu như không có khả năng ứng dụng, vận dụng trong thực
tiễn. Nhìn chung, chất lượng giảng dạy học tập các môn học này chưa ngang
tầm yêu cầu, nhiệm vụ đặt ra. Tình trạng này cũng diễn ra ở Viện Đại học
Mở Hà Nội với nhiều nguyên nhân khác nhau, trong đó có những nguyên
nhân thuộc về công tác quản lý đào tạo.
Làm thế nào để quản lý nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy của giảng
viên, tăng tính hấp dẫn của các môn Khoa học Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí
Minh, tạo hứng thú để sinh viên khắc phục tình trạng thụ động, kích thích
tính chủ động trong học tập các môn học này ở các trường đại học, cao đẳng
nói chung, ở Viện Đại học Mở Hà Nội nói riêng? Đây là vấn đề cần phải có
câu trả lời khoa học với các biện pháp khả thi để giải quyết.
Với những lý do nêu trên, chúng tôi lựa chọn đề tài luận văn có nội
dung vận dụng lý luận quản lý đào tạo vào quản lý quá trình dạy học một nội
dung khoa học cụ thể trong Viện Đại học Mở Hà Nội: "Một số biện pháp
quản lý nhằm nâng cao chất lượng dạy học các môn khoa học Mác -
Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh tại Viện Đại học Mở Hà Nội".
2. Mục đích nghiên cứu

Đề xuất các biện pháp quản lý nhằm nâng cao chất lượng dạy học các
môn khoa học Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh tại Viện Đại học Mở Hà Nội.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu
Quản lý quá trình dạy học các môn Khoa học Mác - Lênin, Tư tưởng
Hồ Chí Minh tại Viện Đại học Mở Hà Nội.
3.2. Đối tượng nghiên cứu


4
Một số biện pháp quản lý nhằm nâng cao chất lượng dạy học các
môn Khoa học Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh tại Viện Đại học Mở
Hà Nội.

4. Giả thuyết khoa học
Việc quản lý hoạt động dạy học các môn Khoa học Mác - Lênin, Tư
tưởng Hồ Chí Minh tại Viện Đại học Mở Hà Nội đã được thực hiện tương đối
tốt, nhưng đứng trước yêu cầu của sự nghiệp đổi mới giáo dục và đào tạo hiện
nay, cần thiết phải có những biện pháp quản lý nhằm nâng cao chất lượng dạy
học các môn Khoa học Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh một cách hợp lý,
khoa học, góp phần nâng cao chất lượng đào tạo của Viện Đại học Mở Hà Nội.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận về quản lý nhằm nâng cao chất
lượng dạy học các môn học khoa học Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh.
- Khảo sát, đánh giá đúng thực trạng dạy học và quản lý dạy học các
môn khoa học Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh tại Viện Đại học Mở Hà
Nội, chỉ ra những nguyên nhân và rút ra những bài học kinh nghiệm.
- Xác định các biện pháp quản lý chủ yếu nhằm nâng cao chất lượng
dạy học các môn Khoa học Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh tại Viện Đại
học Mở Hà Nội.

6. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu quản lý hoạt động dạy học và đề xuất một
số biện pháp quản lý nhằm nâng cao chất lượng dạy học các môn Khoa học
Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh tại Viện Đại học Mở Hà Nội. Các số
liệu dùng để phân tích được giới hạn trong thời gian từ năm học 2003 - 2007.
7. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện luận văn chúng tôi lựa chọn các nhóm phương pháp nghiên
cứu sau
7.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý thuyết


5
- Nghiên cứu vận dụng phương pháp luận khoa học của chủ nghĩa duy
vật biện chứng, duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin.
- Nghiên cứu các Nghị quyết, Văn kiện, tài liệu của Đảng, Nhà nước
có liên quan đến đề tài.
- Nghiên cứu thu thập tài liệu, tạp chí; đọc, phân tích, tổng hợp, hệ
thống hoá liên quan nội dung vấn đề nghiên cứu
7.2. Các phương pháp nghiên cứu thực tiễn
- Phương pháp quan sát, phương pháp điều tra, phương pháp tổng kết
kinh nghiệm giáo dục.
- Sử dụng toán thống kê trong nghiên cứu: phương pháp lấy ý kiến
chuyên gia, phương pháp điều tra xã hội học, phân tích, đối chiếu, so sánh và
tổng hợp
8. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, khuyến nghị, danh mục tài liệu tham
khảo và phụ lục, nội dung của luận văn được trình bày trong 3 chương
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về quản lý nhằm nâng cao chất
lượng dạy học các môn Khoa học Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh.
Chương 2: Thực trạng dạy học và quản lý dạy học các môn Khoa học

Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh tại Viện Đại học Mở Hà Nội.
Chương 3: Một số biện pháp quản lý nhằm nâng cao chất lượng dạy
học các môn Khoa học Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh tại Viện Đại học
Mở Hà Nội.










6





Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ NHẰM NÂNG
CAO CHẤT LƯỢNG DẠY HỌC CÁC MÔN KHOA HỌC MÁC – LÊNIN,
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
1.1. Sơ lược lịch sử vấn đề nghiên cứu
Chất lượng dạy học các môn khoa học Mác- Lênin, Tư tưởng Hồ Chí
Minh trong các trường đại học, cao đẳng trở thành vấn đề ngày càng thu
hút sự quan tâm của các cấp, ngành có liên quan, của nhiều nhà khoa học,
nhất là từ sau Đại hội toàn quốc lần thứ VI, khi Bộ đại học, trung học
chuyên nghiệp và dạy nghề (nay là Bộ Giáo dục và Đào tạo) có chủ trương
cụ thể chỉ đạo việc thực hiện đổi mới mục tiêu, chương trình, nội dung và

phương pháp đào tạo trong toàn ngành, trong các môn khoa học Mác-
Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh được đặc biệt chú ý. Dưới sự chỉ đạo trực
tiếp của Bộ chính trị, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã chủ động phối hợp với
Ban Khoa giáo Trung ương, Ban Tư tưởng văn hoá Trung ương tổ chức
hội nghị toàn quốc về dạy và học các môn khoa học Mác- Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh trong các trường đại học, cao đẳng (tháng 6/1998). Bộ Giáo
dục và Đào tạo cũng đã tổ chức theo dõi, chỉ đạo, kiểm tra, nắm tình hình
cụ thể ở các trường, kịp thời ra các văn bản chỉ đạo các trường trong toàn
ngành giữ vững kỷ cương dạy và học các môn học này. Mới đây nhất,
ngày 24/6/2002, Thủ tướng chính phủ đã có quyết định số 494/QĐ - TTg
phê duyệt đề án: “Một số biện pháp nâng cao chất lượng và hiệu quả giảng
dạy, học tập các môn khoa học Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong
các trường đại học, cao đẳng; môn chính trị trong các trường trung học
chuyên nghiệp, dạy nghề”.


7
Trong những năm gần đây, rất nhiều nhà khoa học đã thông qua các
tạp chí khoa học để lên tiếng luận bàn về thực trạng cũng như đóng góp
các ý kiến nhằm nâng cao chất lượng công tác giảng dạy, học tập các môn
học này. Trong số này đáng chú ý có các bài viết sau:
Tiến sĩ Lê Hữu Ái (Trường Đại học Kinh tế và Quản trị Đà Nẵng ) – Giải
pháp nâng cao chất lượng giảng dạy các môn khoa học Mác-Lênin ở các
trường đại học - Tạp chí Nghiên cứu lý luận số 1 năm 2000.
Tiến sĩ Nguyễn Văn Nam và cử nhân Lê Xuân Hoà (Phân viện Đà Nẵng)-
Trao đổi về phương pháp giảng dạy lý luận Mác-Lênin-Tạp chí giáo dục lý
luận số 10 năm 2000.
Tiến sĩ Nguyễn Tuấn Hùng (Đại học Đà Nẵng) –Góp phần đổi mới giảng
dạy các môn khoa học Mác-Lênin – Tạp chí giáo dục số 8,tháng 7 năm 2000.
Tác giả Vũ Thanh Bình (Vụ Công tác Chính trị – Bộ Giáo dục và Đào tạo )

với bài viết: Nâng cao chất lượng dạy- học các môn khoa học Mác-Lênin, Tư
tưởng Hồ Chí Minh, Chính trị trong các trường đại học, cao đẳng, trung học
chuyên nghiệp và dạy nghề. Bài đăng trên Tạp chí giáo dục số 62, tháng 7
năm 2003.
Các công trình nghiên cứu về quản lý giáo dục, quản lý đào tạo đã khái
quát những luận điểm cơ bản về quản lý hoạt động đào tạo trong các trường
cao đẳng, đại học làm cơ sở cho việc thực hiện công tác quản lý quá trình này
một cách có hiệu quả. Tuy nhiên, cho đến nay chưa có một công trình nào
nghiên cứu một cách có hệ thống và tương đối toàn diện về vấn đề quản lý
hoạt động dạy học các môn khoa học Mác-Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh
trong các trường cao đẳng và đại học.
1.2. Những khái niệm cơ bản
1.2.1. Quản lý
Trong lịch sử phát triển của xã hội loài người, trải qua nhiều giai đoạn,
con người đều cần phải hoạt động lao động để tồn tại và phát triển. Để công
việc có hiệu quả hơn, năng suất hơn đòi hỏi con người phải có sự phân công,


8
hợp tác trong lao động và phải có sự chỉ huy phối hợp, điều hành, kiểm tra,
chỉnh lý, giúp người đứng đầu nỗ lực các thành viên trong nhóm, trong cộng
đồng, trong tổ chức đạt được mục tiêu đề ra. Hoạt động lao động đặc biệt đó
được gọi là hoạt động quản lý.
Khi nghiên cứu về lý luận quản lý, các nhà nghiên cứu cũng như thực
hành quản lý, với những cách tiếp cận khác nhau đã đưa ra rất nhiều quan
niệm về quản lý: Chẳng hạn đối với lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin đã lý giải
một cách đầy đủ và phản ánh chính xác những nét đặc trưng cơ bản của hoạt
động quản lý. Theo lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, quản lý xã hội một
cách khoa học “là sự tác động có ý thức của chủ thể quản lý đối với toàn bộ
hay những hệ thống khác nhau của hệ thống xã hội, trên cơ sở vận dụng đúng

đắn những quy luật và xu hướng khách quan vốn có của nó nhằm đảm bảo
cho nó hoạt động và phát triển tối ưu theo mục đích đặt ra”. Còn đối với
W.Taylor, người đầu tiên nghiên cứu quá trình lao động trong từng bộ phận
của nó, nêu ra hệ thống tổ chức lao động nhằm khai thác tối đa thời gian lao
động, sử dụng hợp lý nhất công cụ lao động thì cho rằng: “Quản lý là nghệ
thuật biết rõ chính xác cái gì cần làm và làm cái đó thế nào bằng phương
pháp tốt nhất và rẻ nhất”.
Nhà lý luận quản lý kinh tế người Pháp A.Fayon, cho rằng “Quản lý là
đưa xí nghiệp tới đích, cố gắng sử dụng tốt các nguồn lực của nó”.
Nhà điều khiển học như Berg A.I lại cho rằng: “Quản lý là quá trình
chuyển một hệ động lực phức tạp từ trạng thái này sang trạng thái khác nhờ
tác động vào các phần tử biến thiên của nó ”.
Khi nói về vai trò quản lý trong xã hội, Kozlova O.V và Kuznetsov I.N
định nghĩa “Quản lý là sự tác động có mục đích đến những tập thể con người
để tổ chức và phối hợp hoạt động của họ trong quá trình sản xuất” [34,tr 39].
Trong tác phẩm “Những vấn đề cốt yếu của quản lý” của Harold Koonl
thì quản lý được hiểu “là một hoạt động thiết yếu, nó bảo đảm phối hợp
những nỗ lực cá nhân nhằm đạt được các mục đích của nhóm” [5,tr 33].


9
Với cách tiếp cận ấy, tác giả Nguyễn Ngọc Quang cho rằng: “Quản lý là
tác động có mục đích, có kế hoạch của chủ thể quản lý đến tập thể những
người lao động nói chung là khách thể quản lý nhằm thực hiện được những
mục tiêu dự kiến” [29,tr 24].
Theo giáo trình “Tâm lý học trong quản lý Nhà nước” (1993) của tác giả
Mai Hữu Khuê thì hoạt động quản lý là một dạng lao động đặc biệt của người
lãnh đạo mang tính tổng hợp các loại lao động trí óc, liên kết bộ máy quản lý
là một chỉnh thể thống nhất, điều hoà phối hợp các khâu các cấp quản lý hoạt
động nhịp nhàng đạt hiệu quả cao.

Như vậy, bất cứ hệ xã hội nào: Một xí nghiệp, một nhà máy, một trường
học, một Quốc gia, đều là hệ quản lý. Một hệ quản lý luôn tồn tại hai bộ phận
có quan hệ gắn bó khăng khít với nhau.
Bộ phận quản lý: giữ vai trò là chủ thể quản lý với chức năng điều khiển
hệ quản lý làm cho nó vận hành tới mục tiêu đã đặt ra.
Bộ phận bị quản lý: Giữ vai trò là khách thể quản lý, bao gồm những
người thừa hành trực tiếp sản xuất và bản thân quá trình sản xuất.
Có thể chỉ ra những nét đặc trưng cơ bản của công tác quản lý hệ thống
xã hội:
- Quản lý là một loại hình hoạt động đặc biệt, một quá trình tác động qua
lại giữa người và người.
- Quản lý vừa là một khoa học vừa là một nghệ thuật huy động và sử dụng
các nguồn lực.
- Quản lý nhằm tập hợp mọi người, mọi cấp tạo ra sự hợp tác giữa các
cá nhân và toàn xã hội trong việc tổ chức thực hiện kế hoạch và mục tiêu
đã đề ra.
Như vậy, chúng ta có thể hiểu: quản lý là một quá trình tác động có
định hướng của chủ thể quản lý nhằm sử dụng có hiệu quả các tiềm năng, các
cơ hội của tổ chức để đạt được mục tiêu đặt ra trong điều kiện biến động của


10
môi trường. Khái quát những phân tích trên chúng tôi xây dựng mô hình quản
lý như hình 1.1.


11









Hình 1.1: Mô hình quản lý
Quản lý là một dạng lao động đặc biệt, là kết quả của sự phân công lao
động xã hội, luôn gắn liền với quá trình lao động tập thể. Lao động quản lý
có sự phân chia thành một hệ thống các khâu hay dạng hoạt động xác định
nhờ đó mà chủ thể quản lý tác động vào khách thể quản lý. Các hoạt động
này thường được chuyên môn hoá và gọi là chức năng quản lý.
Vậy, chức năng quản lý có thể hiểu là một dạng hoạt động quản lý,
thông qua đó chủ thể quản lý tác động vào khách thể quản lý nhằm thực hiện
một mục tiêu nhất định.
Nền sản xuất xã hội luôn luôn vận động và phát triển, nên có các
chức năng quản lý cũng không ngừng biến đổi, cải tiến và hợp lý hoá.
Tập hợp các chức năng quản lý là nội dung của quản lý với tư cách là
một quá trình. Khi xác định các chức năng quản lý có nhiều ý kiến khác
nhau, tuy nhiên được thống nhất với 4 chức năng cơ bản:
* Lập kế hoạch: Xác định mục tiêu, biện pháp, cách làm cụ thể, xác định
điều kiện cần thiết để thực hiện mục tiêu.
* Chức năng tổ chức: Sắp xếp bố trí con người vào công việc, xác định
tính chất các mối quan hệ, xác định cách thức thực hiện.
* Chức năng chỉ đạo: Chức năng này có tính chất tác nghiệp, điều hành,
điều chỉnh hoạt động.
Chủ thể
quản lý

Đối tượng
quản lý




Mục tiêu
quản lý


12
* Chức năng kiểm tra: Thu thập những thông tin ngược từ đối tượng quản
lý để kịp thời đánh giá tổng kết, sửa chữa, điều chỉnh mục tiêu.
Tập hợp các chức năng quản lý là nội dung của quản lý với tư cách là một
quá trình. Đáng chú ý là mọi quá trình quản lý, người quản lý phải thực hiện
một dãy chức năng quản lý kế tiếp nhau một cách logic, bắt buộc, bắt đầu từ
việc xác định mục tiêu và nhiệm vụ quản lý cho tới khi kiểm kê các kết quả
đạt được và tổng kết quá trình quản lý. Kết quả đạt có thể tương ứng hoặc
chưa tương ứng với dự kiến (mục tiêu). Trên cơ sở phân tích các kết quả và
thông tin thu thập về đối tượng quản lý, người cán bộ quản lý lại nêu ra các
mục tiêu và nhiệm vụ quản lý mới. Các quá trình được tiếp diễn một cách
“tuần hoàn”. Quá trình chủ thể quản lý thực hiện tổ hợp các chức năng quản
lý kế tiếp nhau diễn ra theo một thời gian một cách logic có thể gọi là chu
trình quản lý. Tuy nhiên các chức năng kế tiếp nhau và độc lập với nhau chỉ
là tương đối bởi một số chức năng có thể diễn ra đồng thời, hoặc kết hợp với
việc thực hiện các chức năng khác nhau.
Ngoài ra còn có vai trò của thông tin trong quá trình quản lý. Thông tin
chiếm vị trí rất quan trọng, nó là phương tiện không thể thiếu được, có thể coi
thông tin là một chức năng đặc biệt và là chức năng trung tâm.
Căn cứ vào bốn chức năng được phân tích trên đây chúng tôi biểu diễn
mối quan hệ chặt chẽ giữa các chức năng quản lý và vai trò của thông tin
trong chu trình quản lý bằng sơ đồ như hình 1.2 dưới đây:









THÔNG TIN
KIỂM TRA
KẾ HOẠCH
CHỈ ĐẠO
TỔ CHỨC
Hình 1.2: Mối quan hệ các chức năng trong chu trình quản lý


13

1.2.2. Quản lý giáo dục
Khi nghiên cứu bất kỳ một loại hình quản lý nào cũng phải đặt nó trong
những hoàn cảnh xã hội cụ thể. Quản lý có hai chức năng đó là chức năng
chung và chức năng đặc thù. Chức năng chung có mặt ở tất cả các trường hợp
quản lý, còn chức năng đặc thù gắn chặt với loại hình quản lý cụ thể. Quản lý
giáo dục là một bộ phận của quản lý xã hội và là một loại hình quản lý đặc
biệt phong phú, không ngoài những quy luật chung đó. Với xã hội chủ nghĩa,
quản lý giáo dục cũng mang ý nghĩa đặc thù, ưu việt.
Có những cách nhìn nhận giáo dục ở những góc độ khác nhau nên tồn
tại những khái niệm giáo dục có nội hàm rộng hẹp khác nhau. Tuy nhiên,
việc nghiên cứu khái niệm quản lý giáo dục ở đây được đề cập trong phạm vi
quản lý một hệ thống giáo dục nói chung mà tế bào của hệ thống đó chính là
các cơ sở giáo dục đào tạo (trường học). Có thể hiểu một cách tổng quát:

Quản lý giáo dục là sự tác động có ý thức của chủ thể quản lý đến khách thể
quản lý nhằm đưa hoạt động giáo dục tới kết quả mong muốn.
Trong tác phẩm “Quản lý giáo dục quốc dân ở địa bàn huyện, quận”
P.V.Khuđôminxki đã viết: “Quản lý giáo dục là tác động có hệ thống, có kế
hoạch, có ý thức, có mục đích của các chủ thể quản lý ở các cấp khác nhau
đến tất cả các khâu của hệ thống (từ Bộ đến trường) nhằm mục đích đảm bảo
việc giáo dục cộng sản chủ nghĩa cho thế hệ trẻ, đảm bảo sự phát triển toàn
diện và hài hoà của họ trên cơ sở nhận thức và sử dụng các quy luật chung
vốn có của chủ nghĩa xã hội cũng như các quy luật khách quan của quá trình
dạy học và giáo dục, của sự phát triển thể chất và tâm lý của trẻ em”.[30, tr 50]
M.I.Kondakov cũng đã từng viết trong cuốn: “Cơ sở lý luận của khoa
học quản lý giáo dục”. Quản lý nhà trường (công việc nhà trường) là hệ
thống xã hội sư phạm chuyên biệt, hệ thống đòi hỏi những tác động có ý
thức, có khoa học và có hướng của chủ thể quản lý trên tất cả các mặt của đời


14
sống nhà trường để đảm bảo sự vận hành tối ưu của xã hội kinh tế và tổ chức
sư phạm của quá trình dạy học đang lớn lên”.[36, tr 94]
Theo giáo sư Nguyễn Ngọc Quang: “Quản lý giáo dục là hệ thống tác
động có mục đích, có kế hoạch hợp quy luật của chủ thể quản lý nhằm làm
cho hệ vận hành theo đường lối và nguyên lý giáo dục của Đảng thực hiện
được các tính chất của nhà trường xã hội chủ nghĩa Việt Nam, mà tiêu điểm
hội tụ là quá trình dạy học, giáo dục thế hệ trẻ đưa hệ giáo dục đến mục tiêu
dự kiến tiến lên trạng thái mới về chất”.[10,tr 12]
Như vậy, từ các nhà nghiên cứu ở trên, theo chúng tôi khi nói quản lý
giáo dục bao gồm những vấn đề sau: Quản lý giáo dục là một bộ phận của
quản lý xã hội và là một loại hình quản lý đặc biệt phong phú, quản lý giáo
dục là tác động có hệ thống, có kế hoạch, có ý thức, có mục đích của các chủ
thể quản lý ở các cấp khác nhau đến tất cả các khâu của hệ thống nhằm mục

đích đưa hoạt động giáo dục tới kết quả mong muốn.
1.2.3. Quản lý nhà trường
Nhà trường là tổ chức giáo dục được coi là đơn vị cơ sở với tư cách pháp
nhân, đặt dưới quyền một Hiệu trưởng nhằm đảm bảo giáo dục người học và
những hoạt động của họ và những thành viên khác. Luật Giáo dục quy định:
“Nhà trường trong hệ thống giáo dục Quốc dân được thành lập theo quy
hoạch, kế hoạch của Nhà nước, nhằm phát triển sự nghiệp giáo dục và được
tổ chức theo loại hình trường công lập, trường bán công, trường tư thục…”[6,tr 6]
Quản lý nhà trường là: “Thực hiện quản lý giáo dục trong tổ chức nhà
trường. Hoạt động quản lý nhà trường do chủ thể quản lý nhà trường thực hiện
bao gồm các hoạt động quản lý bên trong nhà trường như : Quản lý giáo viên,
quản lý học sinh, quản lý quá trình dạy học, giáo dục, quản lý cơ sở vật chất,
trang thiết bị trường học, quản lý tài chính trường học, quản lý lớp học như:
nhiệm vụ của giáo viên, quan hệ giữa nhà trường và cộng đồng xã hội”[7,tr 12]


15
“Hoạt động quản lý nhà trường chịu tác động của những chủ thể quản
lý bên trên nhà trường (các cơ quan quản lý giáo dục cấp trên) nhằm hướng
dẫn và tạo điều kiện cho nhà trường phát triển”.[7,tr 12]

1.2.4. Quản lý dạy học
* Hoạt động dạy học:
Tiếp cận theo quan điểm hoạt động – nhân cách, hoạt động dạy học
gồm hai hoạt động: hoạt động dạy của thầy và hoạt động học của trò.
- Hoạt động dạy: Hoạt động dạy với vai trò chủ đạo của thầy là sự tổ
chức, điều khiển tối ưu quá trình truyền thụ hệ thống tri thức, rèn luyện kỹ
năng, kỹ xảo cho hoạt động học tập của học sinh một cách có khoa học. Hoạt
động dạy do thầy làm chủ thể và tác động vào đối tượng là học sinh và hoạt
động nhận thức của học sinh. Hoạt động dạy gồm hai chức năng thống nhất

với nhau là truyền thụ và điều khiển.
- Hoạt động học: Hoạt động học với vai trò chủ động của trò là sự tự
điều khiển tối ưu quá trình tiếp thu (lĩnh hội) một cách tự giác, tích cực, độc
lập và sáng tạo hệ thống tri thức, rèn luyện kỹ năng, kỹ xảo mà hoạt động dạy
đã truyền thụ nhằm hình thành năng lực, thái độ, giá trị làm phát triển nhân
cách cho học sinh. Hoạt động học do học sinh làm chủ thể và tác động vào
đối tượng là nội dung kiến thức mới chứa đựng trong tài liệu học tập. Hoạt
động học gồm hai chức năng thống nhất với nhau là lĩnh hội và tự điều khiển.
Hai hoạt động này có mối quan hệ biện chứng với nhau, luôn gắn bó
mật thiết trong nhau. Trong thực tế, hai hoạt động dạy – học luôn tồn tại như
là một hoạt động chung thống nhất.
Quản lý dạy học là hệ thống các tác động có mục đích của chủ thể quản lý
quá trình dạy học, và quản lý đơn vị nhằm hoàn thành được các mục tiêu đào
tạo của đơn vị đã đặt ra.
Đối tượng của quản lý dạy học là quá trình dạy học. Quản lý dạy học là
một hệ thống bao gồm nhiều yếu tố cùng vận động trong các mối quan hệ qua


16
lại mật thiết với nhau. Như vậy “đối tượng của quản lý dạy học là trong nhà
trường, là sự hoạt động của người dạy và người học và các tổ chức sư phạm
trong nhà trường trong việc thực hiện các kế hoạch và chương trình đào tạo
nhằm đạt được mục tiêu đào tạo đã quy định”.
Mục tiêu của quản lý dạy học là đảm bảo thực hiện đầy đủ các mục tiêu,
kế hoạch dạy học và nội dung chương trình dạy học theo đúng tiến độ thời
gian quy định, bảo đảm cho quá trình đạt chất lượng cao.
1.2.5. Chất lượng
Cho đến ngày nay thì vấn đề chất lượng càng được coi trọng và trở thành
mối quan tâm hàng đầu của các nhà sản xuất và cung cấp dịch vụ nếu họ
muốn tồn tại và phát triển. Đảm bảo chất lượng là vấn đề sống còn của mỗi

doanh nghiệp. Chất lượng được duy trì ổn định mới có thể tạo lòng tin trong
khách hàng, và doanh nghiệp mới có thể tiêu thụ sản phẩm của mình.
Mặc dù ai cũng nhận thức được chất lượng là vấn đề có tầm quan trọng
lớn, và người ta thường xuyên sử dụng thuật ngữ “chất lượng” khi cần phải
đưa ra lời nhận xét, đánh giá về một loại sản phẩm nào đó, nhưng bản thân
chất lượng là một khái niệm động nhiều chiều, mỗi người lại hiểu chất lượng
theo cách riêng của mình, cho nên đến nay vẫn chưa có một định nghĩa hoàn
chỉnh, chưa có cách xác định thống nhất về chất lượng. Và thực ra, khó có thể
đưa một dịnh nghĩa hoàn chỉnh, một quan niệm chính xác về chất lượng.
Dưới đây chúng tôi xin giới thiệu một vài cách tiếp cận khác nhau về khái
niệm chất lượng:
Theo khái niệm truyền thống về chất lượng “một sản phẩm có chất lượng
là sản phẩm được làm ra một cách hoàn thiện, bằng các vật liệu quý hiếm và
đắt tiền” [18,tr 6]. Thuật ngữ “chất lượng” theo cách nghĩ này mang ý nghĩa
tuyệt đối. Và nếu lấy những sản phẩm có chất lượng tuyệt đối này làm khuôn
mẫu thì sẽ rất khó đánh giá, khó xếp hạng cho sản phẩm khác, bởi sản phẩm
có chất lượng tuyệt đối cũng đồng nghĩa là sản phẩm đó đạt được những
chuẩn mực rất cao không thể vượt qua. Quan niệm này cũng như phân định


17
rõ hai màu đen trắng, nếu không đạt chất lượng tuyệt đối cũng có nghĩa là
không có chất lượng. Trên thực tế, chúng ta sẽ sử dụng chất lượng với nhiều
tầng bậc nhiều lớp.
Quan niệm chất lượng theo nghĩa tương đối “sản phẩm hoặc dịch vụ
được coi là có chất lượng khi chúng đạt những chuẩn mực nhất định được
quy định trước. Chất lượng không được coi là cái đích mà nó được coi là
phương tiện, theo đó sản phẩm hoặc dịch vụ được đánh giá” [25, tr 33]
Theo quan niệm này, chất lượng được phân thành các thang bậc từ
thấp đến cao với một hệ những chuẩn mực đã được quy định. Sản phẩm nào

đã thoả mãn được càng nhiều những chuẩn mực ấy thì sản phẩm đó càng
được xếp ở nấc thang cao hơn của chất lượng, và theo đó, giá trị của sản
phẩm cũng cao tương ứng.
Quan niệm “chất lượng là sự đáp ứng nhu cầu của khách hàng” [25, tr
34] thực chất là việc nhìn nhận vấn đề chất lượng từ góc độ của người sử
dụng sản phẩm hoặc dịch vụ. Quan niệm này căn cứ vào yêu cầu, mong
muốn của người sử dụng đối với sản phẩm hoặc dịch vụ để đánh giá chất
lượng, vì vậy mà nó mang tính động, biến thiên theo thời gian và yêu cầu
thực tiễn của người sử dụng trong thời điểm cụ thể, theo tổng mục đích sử
dụng nhất định. Cho nên người quyết định sản phẩm hoặc dịch vụ có chất
lượng hoặc không đạt chất lượng ở mức nào chính là khách hàng, tại thời
điểm sản xuất ra sản phẩm hoặc dịch vụ, có thể theo người sản xuất thì sản
phẩm đã đáp ứng đầy đủ những tiêu chuẩn để đánh giá là sản phẩm có chất
lượng, nhưng thực tế sản phẩm không phù hợp với yêu cầu của người sử
dụng thì vẫn bị coi là sản phẩm không có chất lượng. Có nghĩa là cách đánh
giá, xác định chất lượng sản phẩm này chịu tác động nhiều của nhân tố chủ
quan.
“Chất lượng là sự phù hợp với mục đích” [18,tr 7] là quan niệm được
nhiều người tán đồng hơn cả. Theo đó, “chất lượng được đánh giá bởi mức
độ mà sản phẩm hoặc dịch vụ đáp ứng được mục đích đã tuyên bố của nó”


18
[18, tr 7], hoặc “chất lượng là sự phù hợp với những tuyên bố sứ mệnh và kết
quả đạt được của mục tiêu trong phạm vi và các chuẩn mực được chấp nhận
công khai” [25,tr 45]. Có nghĩa là để xác định được chất lượng của một sản
phẩm hoặc dịch vụ thì điều quan trọng đầu tiên là phải xác định được bộ tiêu
chí mà sản phẩm hoặc dịch vụ này cần phải đáp ứng. Bộ tiêu chí này không
mang tính hằng số mà số lượng các tiêu chí, mức độ yêu cầu đối với từng tiêu
chí sẽ thay đổi theo thời gian, theo điều kiện lịch sử cụ thể, theo đặc thù của

từng cơ sở sản xuất hoặc cung cấp dịch vụ. Để xây dựng có hiệu quả bộ tiêu
chí này thì cần chú trọng đến việc nghiên cứu nhu cầu thị hiếu, của những đối
tượng người sử dụng khác nhau, gọi chung là khách hàng, sao cho những
mục đích của nhà sản xuất trùng khớp với những nhu cầu, kì vọng của khách
hàng. Có như vậy, sản phẩm làm ra mới chiếm lĩnh được thị trường, mới đem
lại lợi nhuận cho nhà sản xuất.
Trên cơ sở những phân tích nói trên, chúng tôi cũng tán đồng quan niệm
coi “chất lượng là sự phù hợp với mục đích”[18,tr 7] và lấy đó làm cơ sở để
thực hiện luận văn.
1.2.6. Chất lượng dạy học và các yếu tố tác động đến chất lượng dạy học
1.2.6.1. Chất lượng dạy học
Chất lượng luôn là vấn đề có ý nghĩa quyết định đối với bất kỳ tổ chức
nào, hoạt động trong bất kỳ lĩnh vực nào. Đối với một trường học cũng vậy,
sản phẩm của nhà trường chính là những con người được đào tạo. Nhà trường
có tạo dựng và giữ vững được uy tín của mình hay không, trường có đáp ứng
được nhu cầu của xã hội hay không…, tất cả đều phụ thuộc vào chất lượng
giảng dạy của người dạy, chất lượng học tập của người học - gọi chung là
chất lượng đào tạo của nhà trường.
Đối với bậc đại học, mục đích chung của giáo dục đại học là cung cấp
nguồn nhân lực được đào tạo nhằm thúc đẩy sự phát triẻn kinh tế- xã hội của
đất nước. Chính vì vậy, “chất lượng đào tạo liên quan chặt chẽ với yêu cầu
kinh tế xã hội của đất nước. Sản phẩm đào tạo được xem là có chất lượng cao


19
khi nó đáp ứng tốt mục tiêu đào tạo mà yêu cầu của kinh tế - xã hội đặt
ra ”[4,tr 1].
1.2.6.2. Các yếu tố tác động đến chất lượng dạy học
Chất lượng đào tạo là cái đích cuối cùng và cũng là cái đích cao nhất của
mọi hoạt động diễn ra trong một nhà trường. Có nghĩa là mọi hoạt động của

nhà trường đều góp phần vào quá trình hình thành, duy trì, đảm bảo và nâng
cao chất lượng đào tạo, tuy vai trò và sự đóng góp của mỗi nhân tố trong hệ
này có khác nhau. Cụ thể là 8 lĩnh vực với 26 tiêu chí được tập hợp lại để
đánh giá chất lượng và điều kiện đảm bảo chất lượng của một trường đại học.
Lĩnh vực 1: Tổ chức và quản lý của trường
Tổ chức và quản lý xét đến cùng là việc lập kế hoạch, tổ chức phân bổ, chỉ
đạo việc sử dụng nhân lực, tài lực, vật lực và nguồn lực khác của nhà trường,
kiểm tra và có những tác động phù hợp để điều chỉnh sao cho các nguồn lực
phát huy tối đa hiệu quả sử dụng nhằm đạt được mục tiêu đã đề ra. Cùng có
những nguồn lực như nhau, điều kiện hoạt động như nhau… nhưng sự phát
triển của mỗi trường ra sao lại phụ thuộc vào việc trường đó được tổ chức và
quản lý như thế nào. Đây là lĩnh vực quan trọng hàng đầu bởi những hoạt
động này có thể nhân lên hoặc làm tiêu hao đi nguồn lực cho sự phát triển,
cho duy trì và đảm bảo chất lượng các hoạt động của nhà trường. lĩnh vực
này gồm các tiêu chí cơ bản sau:
Tiêu chí 1: “Việc xác định sứ mạng, nhiệm vụ chiến lược và mục tiêu
của một trường đại học là kim chỉ nam chi phối mọi hoạt động có kế
hoạch, có chất lượng của trường đó. Xác định sứ mạng rõ ràng, đề ra
nhiệm vụ chiến lược với các mục tiêu cụ thể là bằng chứng quan trọng về
đảm bảo chất lượng”[18,tr 44]. Đây chính là cái đích để mọi hoạt động
trong nhà trường nhằm vào đó mà tiến tới. Và như đã nói ở trên, sản phẩm
đào tạo của nhà trường có đạt được chất lượng hay không trước hết phụ
thuộc vào việc trường có thực hiện đúng sứ mạng đã tuyên bố của mình
hay không, có xác định đúng mục tiêu có đào tạo theo sứ mạng và những


20
yêu cầu cụ thể của kinh tế – xã hội đất nước đặt ra hay không. Nói tóm lại,
đây là khâu định hướng đầu tiên cho mọi hoạt động của một nhà trường,
phác thảo nên con đường để nhà trường đi tới đích.

Tiêu chí 2: “Công tác lập kế hoạch, phân bổ nguồn lực và đánh giá các
hoạt động là một tiêu chí thể hiện việc quản lý và tổ chức chặt chẽ của trường
để đảm bảo từng bước thực hiện được các mục tiêu do trường đề ra. Kế
hoạch càng chi tiết, cụ thể và khả thi thì càng đảm bảo việc thực hiện thành
công các chương trình hành động nhằm nâng cao chất lượng đào tạo và
nghiên cứu khoa học của trường ”[18,tr 45].
Tiêu chí 3: “Cơ cấu tổ chức và quản lý hiệu quả là tiền đề để đảm bảo
các hoạt động của trường thực hiện kế hoạch và mục tiêu chất lượng đề
ra”[18,tr 45].
Tiêu chí 4: “Tổ chức và hoạt động của hệ thống đảm bảo chất lượng đào
tạo là một tiêu chí nhằm thúc đẩy các hoạt động đảm bảo chất lượng của
trường theo đúng quy trình và đạt hiệu quả”[18,tr 45].
Lĩnh vực 2: Đội ngũ cán bộ
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc ”,[27,
tr 41], “Công việc thành công hay thất bại do cán bộ tốt hay kém”. Điều này
cũng thể hiện khả năng của đội ngũ cán bộ giảng dạy là điều kiện tiên quyết
đảm bảo chất lượng đào tạo. Không những phải giỏi về chuyên môn nghiệp
vụ, nhà giáo – kĩ sư tâm hồn – cũng cần phải được chuẩn hoá cả về tinh thần,
thái độ, nhân cách, phẩm giá, sao cho người thầy đứng trên bục giảng thực sự
là khuôn mẫu cho sinh viên lấy đó mà noi theo. Phải có đội ngũ nhà giáo giỏi
mới có thể có những người trò giỏi. Chất lượng đội ngũ cán bộ được xác định
dựa trên những tiêu chí sau đây:
Tiêu chí 5: Tỷ lệ sinh viên trên cán bộ giảng dạy là tiêu chí đảm bảo hiệu
quả và hiệu suất đào tạo. Tỷ lệ cao sẽ giảm chất lượng, tỷ lệ thấp sẽ giảm
hiệu suất đào tạo.

×