Tải bản đầy đủ (.pdf) (124 trang)

Hoạt động kiểm tra, thanh tra tại Cục Thuế tỉnh Lâm Đồng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1 MB, 124 trang )



ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ




NGUYỄN THỊ TUYẾT ÁNH







HOẠT ĐỘNG KIỂM TRA, THANH TRA
TẠI CỤC THUẾ TỈNH LÂM ĐỒNG







LUẬN VĂN THẠC SĨ TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG











Đà Lạt – 2012



ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ




NGUYỄN THỊ TUYẾT ÁNH





HOẠT ĐỘNG KIỂM TRA, THANH TRA
TẠI CỤC THUẾ TỈNH LÂM ĐỒNG

Chuyên ngành: Tài chính và Ngân hàng
Mã số: 60 34 20







LUẬN VĂN THẠC SĨ TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG





NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. VŨ THỊ DẬU




Đà Lạt – 2012

MỤC LỤC
Danh mục chữ viết tắt i
Danh mục bảng ii
Danh mục hình iii
MỞ ĐẦU 1
Chƣơng 1 CƠ SỞ KHOA HỌC VỀ CÔNG TÁC KIỂM TRA, THANH
TRA THUẾ 5
1.1 Thuế và quản lý thuế 5
1.1.1 Khái niệm đặc điểm và chức năng của 5
1.1.2 Quản lý thuế 10
1.2 Công tác kiểm tra, thanh tra thuế 14
1.2.1 Khái niệm và mục tiêu 14
1.2.2 Quy trình kiểm tra, thanh tra 19
1.2.3 Các nhân tố ảnh hưởng đến họat động kiểm tra, thanh tra thuế 22
1.2.4 Nội dung kiểm tra, thanh tra 24

1.2.5 Phương pháp kiểm tra, thanh tra thuế 26
1.3 Kinh nghiệm kiểm tra, thanh tra thuế trong quản lý thuế ở một số
nƣớc trên thế giới 31
1.3.1 Về mô hình tổ chức và nhiệm vụ, quyền hạn của kiểm tra, thanh tra
thuế 31
1.3.2 Công tác tuyển chọn và đào tạo cán bộ kiểm tra, thanh tra 31
1.3.3 Về công tác xây dựng kế hoạch thanh tra hàng năm 32
1.3.4 Về chiến lược xử lý rủi ro 33
1.3.5 Ứng dụng công nghệ thông tin trong kiểm tra, thanh tra thuế 33
Kết luận chƣơng 1 33
Chƣơng 2 THỰC TRẠNG CÔNG TÁC KIỂM TRA, THANH TRA
THUẾ TẠI CỤC THUẾ TỈNH LÂM ĐỒNG 34
2.1 Giới thiệu chung về Cục Thuế tỉnh Lâm Đồng 34
2.1.1 Lịch sử ra đời và phát triển 34

2.1.2 Các yếu tố nguồn lực 38
2.1.3 Đặc điểm bộ máy tổ chức, quản lý và bộ máy kiểm tra, thanh tra 40
2.2 Thực trạng công tác kiểm tra, thanh tra thuế tại Cục Thuế tỉnh Lâm
Đồng giai đoạn 2008-2011 41
2.2.1 Tình hình chung về công tác kiểm tra, thanh tra thuế 41
2.2.2 Nội dung và quy trình kiểm tra, thanh tra 44
2.2.3 Phương pháp trong công tác kiểm tra, thanh tra thuế 64
2.2.4 Kết luận xử lý qua kiểm tra, thanh tra thuế 69
2.3. Đánh giá công tác kiểm tra, thanh tra và Quản lý thuế tại Cục Thuế
tỉnh Lâm Đồng 71
2.3.1 Những kết quả đạt được 71
2.3.2 Những hạn chế và nguyên nhân 75
Kết luận chƣơng 2 82
Chƣơng 3 ĐỊNH HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP NHẰM TĂNG CƢỜNG
KIỂM TRA, THANH TRA THUẾ TẠI CỤC THUẾ TỈNH LÂM ĐỒNG 83

3.1 Định hƣớng tăng cƣờng kiểm tra, thanh tra thuế tại Cục Thuế tỉnh
Lâm Đồng 83
3.1.1 Định hướng chung của Cục Thuế 83
3.1.2 Định hướng về công tác kiểm tra, thanh tra thuế 86
3.2 Giải pháp nhằm tăng cƣờng kiểm tra, thanh tra thuế tại Cục Thuế
tỉnh Lâm Đồng 87
3.2.1 Giải pháp đối với Cục Thuế tỉnh Lâm Đồng 87
3.2.2 Đề xuất với cấp trên (ngành thuế, UBND tỉnh, ngành ngân hàng,
Nhà nước) 93
Kết luận chƣơng 3 112
KẾT LUẬN 113
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 114
PHỤ LỤC

i
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BTC Bộ Tài chính
BCTC Báo cáo tài chính
BVMT Bảo vệ nôi trường
CQT Cơ quan thuế
CCT Chi cục Thuế
CBCC Cán bộ công chức
DN Doanh nghiệp
ĐP Địa phương
GTGT Giá trị gia tăng
HĐND Hội đồng nhân dân
NNT Người nộp thuế
NSNN Ngân sách Nhà nước
NHNN Ngân hàng nhà nước

NHTM Ngân hàng thương mại
TW Trung ương
TNCN Thu nhập cá nhân
TIN Hệ thống đăng ký
TNCN Thu nhập cá nhân
TNDN Thu nhập doanh nghiệp
TSCĐ Tài sản cố định
UBND Ủy ban nhân dân
VPHC Vi phạm hành chính
SXKD Sản xuất kinh doanh



DANH MỤC CÁC BẢNG

ii

Số hiệu các
bảng
Tên bảng
Trang
2.1
Bảng tổng hợp thu NSNN năm 2011

38
2.2
Tổng hợp thu NSNN tỉnh Lâm Đồng 4 năm 2008-
2011

43

2.3
Kết quả kiểm tra, thanh tra thuế ngân hàng thương
mại trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng
56
2.4
Kết quả hoàn thuế trước kiểm tra sau thuế GTGT
qua từng năm 2008-2011
60
2.5
Tổng hợp kết quả thực hiện công tác kiểm tra,
thanh tra thuế 4 năm 2008-2011
70
2.6
Thống kê NNT theo lọai hình doanh nghiệp
73
2.7
Tốc độ tăng thu từ năm 2008 - 2011
74
2.8
Nguồn nhân lực cho công tác kiểm tra, thanh tra
thuế đến 31/12/2011

80













DANH MỤC HÌNH VẼ

iii
Số hiệu hình vẽ
Tên hình vẽ
Trang
2.1
Bộ máy Cục thuế tỉnh Lâm Đồng theo mô hình chức
năng
40
3.1
Cơ cấu nguồn nhân lực giai đoạn 2013-2020
90







1
MỞ ĐẦU

1/ Tính cấp thiết của đề tài
Thuế là một nguồn thu chủ yếu của ngân sách Nhà nước, là một công cụ quan

trọng để Nhà nước kiểm tra, kiểm soát tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của
mọi thành phần kinh tế, góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển kinh doanh đúng
hướng, điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Trong quá trình tác động điều chỉnh pháp luật
Nhà nước phải thường xuyên tiến hành các công tác thanh tra, kiểm tra giám sát
nhằm phát hiện những sai sót trong quá trình thực hiện pháp luật để kịp thời uốn
nắn, sữa chữa những sai xót đó. Công tác thanh tra, kiểm tra giám sát là một khâu
trong quá trình quản lý nhà nước và cũng chính là một khâu trong quá trình điều
chỉnh pháp luật của nhà nước.
Hoạt động kiểm tra, thanh tra thuế không những giúp cho hoạt động quản lý
thuế đạt được các mục tiêu đã đề ra mà còn giúp Nhà nước phát hiện những hạn chế
của chính sách, điều chỉnh kịp thời chính sách, chế độ về thuế, nâng cao ý thức chấp
hành pháp luật thuế của cộng đồng và góp phần phòng ngừa, ngăn chặn tình trạng
trốn thuế, chống thất thu thuế.
Ngành thuế của Việt Nam nói chung, Cục Thuế tỉnh Lâm Đồng nói riêng xác
định kiểm tra, thanh tra thuế là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của công tác
quản lý thu thuế. Công tác kiểm tra, thanh tra thuế của tỉnh Lâm Đồng đã được tiến
hành thường xuyên, đã góp phần quan trọng vào kết quả chung của ngành thuế. Qua
công tác kiểm tra, thanh tra thuế đã phát hiện kịp thời những hành vi vi phạm pháp
luật về thuế, kiến nghị sữa đổi bổ sung cơ chế chính sách về thuế góp phần tích
cực trong việc chống thất thu ngân sách nhà nước, nâng cao ý thức chấp hành pháp
luật của người nộp thuế.
Tuy nhiên, cách thức kiểm tra, thanh tra thuế phát hiện hành vi kê khai thiếu
thuế, gian lận về thuế của các thành viên trực tiếp kiểm tra, thanh tra tại trụ sở của
người nộp thuế vẫn còn nhiều bất cập. Mỗi hành vi trốn thuế đều có cách thức hạch
toán, che dấu khác nhau do vậy khi kiểm tra, thanh tra thuế cần phải có cách thức

2
kiểm tra, thanh tra phát hiện khác nhau. Mặc khác, để người được kiểm tra, thanh
tra thuế thấy rõ hành vi vi phạm của mình, cần phải sử dụng các tài liệu, sự vật, sự
kiện cụ thể, rõ ràng, chính xác bằng các lý lẽ chặt chẽ để chứng minh, thuyết phục

và xác định đúng hành vi vi phạm của người được kiểm tra, thanh tra thuế.
Trên ý nghĩa đó, tác giả chọn đề tài “Hoạt động kiểm tra, thanh tra tại Cục
Thuế tỉnh Lâm Đồng” làm luận văn thạc sỹ của mình.
2/ Tình hình nghiên cứu
Đã có một số công trình nghiên cứu về công tác quản lý thuế như:
Đề tài: “Tăng cường vai trò Nhà nước về việc phát triển nguồn nhân lực đáp
ứng yêu cầu hiện đại hoá ngành thuế ở Việt nam”, luận văn thạc sĩ Phạm Đức
Thắng (2006); Đề tài nêu lên thực trạng nguồn nhân lực ngành thuế Việt nam đồng
thời đề xuất một số giải pháp tăng cường vai trò Nhà nước với việc phát triển nguồn
nhân lực để đáp ứng yêu cầu hiện đại hoá ngành thuế.
Đề tài: “Kiểm soát thuế TNCN đối với tiền lương, tiền công tại các tổ chức
chi trả thu nhập do Cục Thuế Đà Nẵng thực hiện”, luân văn thạc sĩ Quản trị kinh
doanh của Bùi Công Phương (2011); Đề tài nghiên cứu quản lý thu thuế TNCN
nhằm chống thất thu NSNN.
Ngoài ra, nghiên cứu Quản lý thu thuế nói chung có đề tài: "Nâng cao hiệu
quả quản lý thu thuế ở Việt Nam trong quá trình đổi mới", Luận văn thạc sĩ Kinh tế
của Trịnh Hoàng Cơ, Hà Nội, 2004.
Các đề tài, bài viết có đề cập ở những khía cạnh khác nhau về quản lý thu
thuế, nhưng chưa có đề tài nào nghiên cứu độc lập, có hệ thống về công tác kiểm
tra, thanh tra thuế - một khâu trong công tác quản lý thuế, đặc biệt là nghiên cứu
công tác này ở Cục Thuế tỉnh Lâm Đồng.
3/ Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu

3
Mục đích nghiên cứu của đề tài là phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động
kiểm tra, thanh tra thuế (qua phân tích BCTC) tại trụ sở người nộp thuế, nhằm đề
xuất các giải pháp có tính khả thi nhằm chống thất thu thuế tại Cục Thuế tỉnh Lâm
Đồng.
* Nhiệm vụ nghiên cứu

Để đạt được mục đích nghiên cưú trên, nhiệm vụ nghiên cưú của đề tài là:
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản về công tác kiểm tra, thanh tra thuế
- Phân tích, đánh giá thực trạng hiệu quả công tác kiểm tra, thanh tra thuế tại
Cục Thuế tỉnh Lâm Đồng trong những năm qua.
- Đề ra các giải pháp và kiến nghị chủ yếu nhằm nâng cao công tác kiểm tra,
thanh tra thuế tại trụ sở người nộp thuế.
4/ Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là: Công tác kiểm tra, thanh tra thuế dưới
cách tiếp cận của khoa học Tài chính - Ngân hàng (phân tích các BCTC).
* Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi không gian: Công tác kiểm tra, thanh tra thuế tại Cục thuế tỉnh Lâm
Đồng.
- Phạm vi thời gian: giai đoạn năm 2008 đến năm 2011.
5/ Phƣơng pháp nghiên cứu
5.1 Phương pháp nghiên cứu chung
Tác giả sử dụng các phương pháp nghiên cứu kinh tế như: phương pháp
thống kê; phương pháp phân tích, so sánh; phương pháp phân tích, tổng hợp; kết
hợp với lý luận với thực tiễn để xác định và giải quyết nhiệm vụ của đề tài.
5.2 Phương pháp nghiên cứu cụ thể

4
- Kế thừa các công trình nghiên cứu đã công bố, cùng với việc vận dụng
những kiến thức được trang bị trong quá trình học tập, để hệ thống hóa
- Tập hợp, phân tích các báo cáo tài chính tại cơ quan thuế tỉnh Lâm Đồng, từ
đó đánh giá công tác kiểm tra, thanh tra thuế tại tỉnh Lâm Đồng.
- Trên cơ sở những đánh giá về hạn chế và nguyên nhân công tác kiểm tra,
thanh tra thuế tại tỉnh Lâm Đồng, với kinh nghiệm của bản thân công tác trong
ngành thuế, tác giả đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả kiểm tra, thanh
tra thuế tại địa phương.

6/ Những đóng góp mới của luận văn
- Phân tích, đánh giá một cách khoa học, chỉ ra những thành công, những hạn
chế và nguyên nhân trong công tác kiểm tra, thanh tra thuế tại Cục Thuế tỉnh Lâm
Đồng trong thời gian từ năm 2008 – 2011.
- Đề xuất một số giải pháp và kiến nghị chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả
trong công tác kiểm tra, thanh tra thuế tại Cục Thuế tỉnh Lâm Đồng trong thời gian
tới, từ năm 2012 – 2015 và tầm nhìn tới năm 2020.
7/ Kết cấu của luận văn
Kết cấu của luận văn, ngoài lời mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ
lục, gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở khoa học về công tác kiểm tra, thanh tra thuế
Chương 2: Thực trạng công tác kiểm tra, thanh tra thuế tại Cục Thuế tỉnh
Lâm Đồng
Chương 3: Định hướng và giải pháp nhằm tăng cường kiểm tra, thanh tra
thuế tại Cục Thuế tỉnh Lâm Đồng




5
Chƣơng 1
CƠ SỞ KHOA HỌC VỀ CÔNG TÁC KIỂM TRA,
THANH TRA THUẾ
1.1 Thuế và quản lý thuế
1.1.1 Khái niệm, đặc điểm và chức năng của thuế
1.1.1.1 Khái niệm
Thuế là khoản nộp mang tính nghĩa vụ bắt buộc của các pháp nhân và thể
nhân đối với Nhà nước không mang tính đối giá hoàn trả trực tiếp. Thuế không phải
là một hiện tượng tự nhiên mà là một hiện tượng xã hội do chính con người định ra
và nó gắn liền với phạm trù Nhà nước và pháp luật.

Thuế là phạm trù có tính lịch sử và là một tất yếu khách quan, thuế ra đời
xuất phát từ nhu cầu đáp ứng chức năng của Nhà nước và sự tồn tại của thuế không
tách rời quyền lực Nhà nước. Thuế là công cụ phản ánh quan hệ phân phối lại của
cải vật chất dưới hình thức giá trị giữa Nhà nước với các chủ thể khác trong xã hội.
Hệ thống pháp luật thuế được coi là phù hợp không chỉ nhìn một cách phiến
diện vào số lượng các Luật thuế nhiều hay ít, vào mục tiêu đơn thuần là động viên
tài chính vào NSNN mà phải được phân tích một cách toàn diện, chặt chẽ với yêu
cầu phát triển kinh tế, với đời sống xã hội, không đối lập với quyền lợi và khả năng
đóng góp của nhân dân.
Viêt Nam trước cải cách chế độ thu NSNN, Luật thuế chỉ áp dụng đối với các
cơ sở sản xuất, kinh doanh thuộc thành phần kinh tế tập thể và cá thể. Ðể thực hiện
chế độ thu NSNN phù hợp với cơ chế thị trường, phát huy vai trò của các hình thức
thu NSNN, cuộc cải cách chế độ thu NSNN được thực hiện trên cơ sở Nghị quyết
Quốc hội khóa VIII kỳ họp thứ IV năm 1989. Kết quả của cuộc cải cách này đưa
đến việc áp dụng thống nhất chế độ thu thuế đối với tất cả các thành phần kinh tế,
không phân biệt hình thức sở hữu, hình thức kinh doanh. Từ đây thuế thực sự trở
thành nguồn thu chủ yếu của NSNN và thuế chiếm tỷ trọng cao trong cơ cấu nguồn
thu NSNN.

6
Ở hầu hết các nước trên thế giới, thuế thường được phân loại khác nhau theo
tính chất hoặc theo đối tượng đánh thuế, ngoài ra còn có một số cách phân loại
khác:
a, Căn cứ theo tính chất, thuế được chia thành 2 loại: thuế gián thu và thuế
trực thu nhằm xác định ai là người phải chịu thuế
Thuế gián thu là loại thuế không đánh trực tiếp vào thu nhập hay tài sản của
người nộp thuế mà đánh gián tiếp thông qua giá cả hàng hóa và dịch vụ. Đặc điểm
của thuế gián thu là người nộp thuế và người chịu thuế theo nghĩa kinh tế không
đồng nhất với nhau. Loại thuế này có sự chuyển gánh nặng thuế trong trường hợp
nhất định do sự chi phối của quan hệ cung cầu trên thị trường và tính chất thị

trường. Thuế gián thu mang tính chất thuế lũy thoái. Ở nước ta, thuế gián thu gồm
thuế doanh thu, thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất khẩu, thuế
nhập khẩu v.v
Thuế trực thu là loại thuế đánh trực tiếp vào thu thu nhập hay tài sản của
người nộp thuế. Người trực nộp thuế đồng thời là người chịu thuế theo ý nghĩa kinh
tế. Thuế trực thu làm cho khả năng và cơ hội chuyển giao gánh nặng thuế cho các
đối tượng khác trở nên khó khăn hơn. Thuế trực thu mang tính chất lũy tiến vì nó
tính đến khả năng thu nhập của người nộp thuế. tại Việt Nam, thuế trực thu gồm
thuế thu nhập của người có thu nhập cao, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế tài
nguyên, thuế nhà đất v.v
b, Căn cứ theo cơ sở đánh thuế bao gồm:
Thuế thu nhập bao gồm các sắc thuế có cơ sở đánh thuế là thu nhập kiếm
được hình thành từ nhiều nguồn: từ lao động dưới dạng tiền lương, tiền công; thu
nhập từ hoạt động sản xuất kinh doanh dưới dạng lợi nhuận, lợi tức cổ phần, lợi tức
cho vay… Thu nhập được biểu hiện dưới nhiều dạng nên thuế thu nhập cũng được
biểu hiện dưới nhiều dạng: thuế thu nhập cá nhân, thuế thu nhập công ty, thuế
chuyển lợi nhuận ra nước ngoài…

7
Thuế tiêu dùng là các loại thuế có cơ sở đánh thuế là phần thu nhập được
mang tiêu dùng trong thực tế, biểu hiện như thuế doanh thu, thuế giá trị gia tăng,
thuế tiêu thụ đặc biệt…
Thuế tài sản là các loại thuế có cơ sở đánh thuế là giá trị tài sản. Tài sản có
thể biểu hiện dưới dạng: tài sản tài chính như tiền mặt, tiền gửi, chứng khoán,
thương phiếu…; tài sản cố định hữu hình như nhà cửa, đất đai, máy múc, nhà
xưởng, xe cộ; tài sản vô hình như nhãn hiệu, thương hiệu. Thuế tài sản đánh trên giá
trị tài sản cố định gọi là thuế bất động sản.
1.1.1.2 Đặc điểm
a, Thuế là một phạm trù kinh tế khách quan và là một phạm trù lịch sử, nó
xuất hiện và tồn tại cùng với sự hình thành và tồn tại của Nhà nước, với sự phát

triển của kinh tế hàng hoá, tiền tệ
Trong lịch sử phát triển nhân loại, Nhà nước được xuất hiện trong xã hội có
giai cấp để duy trì trật tự và phát triển kinh tế xã hội. Mọi Nhà nước đều phải thực
hiện một số chức năng của mình về củng cố bộ máy, về an ninh quốc phòng, về trật
tự an toàn xã hội, về tổ chức quản lý, phát triển kinh tế Muốn thực hiện được chức
năng đó, Nhà nước cần phải có nguồn thu để chi tiêu. Vì vậy, Nhà nước phải động
viên sự đóng góp một phần thu nhập của xã hội do các tổ chức và các tầng lớp dân
cư tạo ra dưới hình thức thuế. Từ đó, thuế là một đòi hỏi tất yếu khách quan xuất
phát từ nhu cầu hoạt động của Nhà nước. Nói một cách khác, nếu không có thuế thì
Nhà nước không có điều kiện vật chất để tồn tại và phát triển.
Ban đầu thuế được động viên chủ yếu dưới dạng hiện vật, sau đó các quan hệ
về thuế dưới hình thức giá trị được hình thành và ngày càng phát triển có tính chất
hệ thống. Các thứ thuế khác nhau lần lượt ra đời với những tiến bộ của lịch sử.
b, Thuế và hệ thống thuế là sản phẩm chủ quan của mỗi Nhà nước
Nó có thể phù hợp hoặc không còn phù hợp hoàn toàn với sự biến động phức
tạp của tình hình kinh tế, xã hội, với đường lối chủ trương của Nhà nước trong một
giai đoạn nhất định.

8
Cũng có trường hợp thuế và hệ thống thuế phù hợp nhưng hình thức quản lý
thu nộp không thật phù hợp, chi phí cho quản lý thu quá lớn dẫn đến hiệu quả kém.
Hệ thống và chính sách thuế của từng giai đoạn còn phải phù hợp với tổ chức thực
hiện thì mới phát huy được hết hiệu quả, toàn diện của cả hệ thống thuế. Tổ chức
thực hiện bao gồm cả tổ chức bộ máy, đội ngũ cán bộ thuế, các biện pháp về quản
lý, thu nộp thuế.
1.1.1.3 Chức năng
Thuế là một phạm trù tài chính, nó biểu hiện những thuộc tính chung vốn có
của các quan hệ tài chính. Tuy nhiên thuế cũng có những đặc trưng, hình thức vận
động và các chức năng riêng bắt nguồn từ tổng thể các mối quan hệ tài chính. Căn
cứ vào nội dung cùng với quá trình ra đời, tồn tại và phát triển của thuế, thuế có các

chức năng sau:
a, Phân phối và phân phối lại
Đây là chức năng cơ bản, đặc thù của thuế. Ngay từ lúc ra đời, thuế là
phương tiện dùng để động viên nguồn tài chính vào NSNN (có ở tất cả các kiểu
Nhà nước). Về mặt lịch sử, chức năng huy động nguồn tài chính là chức năng đầu
tiên, phản ánh nguyên nhân nảy sinh ra thuế. Thông qua chức năng này, các quỹ
tiền tệ tập trung của Nhà nước được hình thành để đảm bảo cơ sở vật chất cho sự
hoạt động thường xuyên và tồn tại của Nhà nước. Bằng chính chức năng này, Nhà
nước tiến hành tham gia phân phối và phân phối lại tổng sản phẩm xã hội và thu
nhập quốc dân trong xã hội. Chức năng phân phối và phân phối lại thu nhập của
thuế là sự huy động một bộ phận thu nhập quốc dân dưới hình thức tiền tệ vào
NSNN. Phần lớn thuế đánh trên hàng hóa và thu nhập. Người có thu nhập cao và sử
dụng nhiều hàng hóa, dịch vụ là người nộp thuế nhiều hơn. Số tiền này sau đó lại
được Nhà nước chi nhằm thực hiện chính sách kinh tế - xã hội, tạo ra tính công
bằng tương đối cho xã hội. Trong một chừng mực nhất định, chức năng phân phối
và phân phối lại đã tạo điều kiện cho sự ra đời và phát huy tác dụng chức năng điều
tiết của thuế.

9
Chức năng phân phối và phân phối lại có vị trí ngày càng quan trọng. Ðiều
này được giải thích bởi sự phát triển, mở rộng các chức năng của Nhà nước và việc
thực hiện nhiều chính sách khác nhau, trong đó có việc can thiệp của Nhà nước vào
các quá trình kinh tế.
b, Điều tiết nền kinh tế
Chức năng điều tiết của thuế được nhận thức và sử dụng rộng rãi từ những
năm đầu của thế kỷ XX và gắn liền với vai trò điều chỉnh của Nhà nước đối với nền
kinh tế. Việc tăng cường vai trò kinh tế - xã hội của Nhà nước dẫn đến tốc độ chi
tiêu của Nhà nước ngày càng tăng lên và hậu qủa tất yếu là đòi hỏi Nhà nước phải
mở rộng quỹ tài chính Nhà nước, hình thành chủ yếu từ việc thu thuế. Nhu cầu về
nguồn tài chính càng lớn thì Nhà nước cần phải tăng cường các chức năng của thuế

để tác động một cách có hiệu qủa đến nền kinh tế. Chính trong qúa trình đó chức
năng phân phối và phân phối lại và chức năng điều chỉnh của thuế đã được sử dụng
một cách hiện thực.
Ðiều đó có nghĩa là nội dung điều tiết theo một mục tiêu nào đó đã được dự
liệu trước vào trong quá trình huy động tập trung nguồn tài chính. Bằng cách sử
dụng nó để kích thích hoặc kìm hãm tốc độ tăng trưởng, tăng cường hoặc làm yếu
đi sự tích lũy tiết kiệm, mở rộng hoặc thu hẹp nhu cầu có khả năng thanh toán của
dân cư, đẩy nhanh hoặc làm chậm lại chu kỳ khủng hoảng kinh tế, Nhà nước đã
thực hiện điều tiết các hoạt động kinh tế - xã hội trong phạm vi quốc gia.
Thực hiện chức năng điều chỉnh của thuế thông qua việc quy định các hình
thức thu thuế khác nhau, xác định đúng đắn đối tượng chịu thuế và đối tượng nộp
thuế; xây dựng chính xác, hợp lý các mức thuế phải nộp có tính đến khả năng của
người nộp thuế. Trên cơ sở đó Nhà nước kích thích các hoạt động kinh tế đi vào quỹ
đạo chung của nền kinh tế, phù hợp với lợi ích của toàn xã hội. Trong điều kiện
chuyển sang cơ chế thị trường, vai trò kích thích kinh tế thông qua thuế ngay càng
được nâng cao. Nhà nước sử dụng thuế để tác động lên lợi ích kinh tế của các chủ
thể vì lợi ích của nền kinh tế quốc dân. Với công cụ thuế, sự can thiệp của Nhà

10
nước không mang tính chất mệnh lệnh, bắt buộc các chủ thể phải kinh doanh hay
không kinh doanh mà chủ yếu tạo ra sự lựa chọn đối với các chủ thể kinh doanh.
Giữa hai chức năng trên của thuế có mối quan hệ gắn bó mật thiết với nhau.
Chức năng phân phối và phân phối lại của thuế là nguyên nhân ảnh hưởng đến sự
vận động và phát triển của chức năng điểu tiết. Nhưng chức năng điều tiết của thuế
cũng có tác động ngược lại đến chức năng phân phối và phân phối lại thu nhập.
Nguồn tài chính mà Nhà nước tập trung được dưới dạng thuế là tiền đề của sự can
thiệp của Nhà nước trên diện rộng và theo chiều sâu tới qúa trình sản xuất kinh
doanh của các doanh nghiệp. Ngược lại, việc điều tiết, sắp xếp sản xuất của Nhà
nước nhằm vào việc thúc đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế lại tạo điều kiện để
tăng thu nhập của các tầng lớp nhân dân và đây chính là cơ sở quan trọng để mở

rộng phạm vi tác động của chức năng phân phối và phân phối lại.
Sự thống nhất nội tại của các chức năng hoàn toàn không loại trừ các mâu
thuẩn nội tại trong mỗi chức năng và giữa hai chức năng. Sự tăng cường chức năng
phân phối và phân phối lại làm cho nguồn thu của Nhà nước tăng lên. Ðiều đó có
nghĩa là mở rộng khả năng của Nhà nước trong việc thực hiện các chương trình
kinh tế xã hội. Mặc khác, việc tăng cường chức năng phân phối và phân phối lại
một cách qúa mức làm tăng gánh nặng thuế và hậu qủa là làm giảm động lực phát
triển kinh tế, trong nhiều trường hợp làm hạn chế vai trò của chức năng điều tiết. Ðó
là tính hai mặt của thuế, nó có khả năng làm ảnh hưởng đến nền kinh tế một cách
tích cực, nhưng cũng có thể ảnh hưởng một cách tiêu cực. Tính hai mặt của sự tác
động đó cần phải được xem xét nghiêm túc kỹ lưỡng trong tiến trình hoạch định,
xây dựng, ban hành các chính sách pháp luật về thuế của Nhà nước trong từng giai
đoạn phát triển kinh tế - xã hội nhất định.
1.1.2 Quản lý thuế
1.1.2.1 Khái niệm
Hoạt động quản lý Nhà nước đối với thuế là sự tác động có định hướng của
chủ thể quản lý (cơ quan thuế) tới các đối tượng quản lý (người nộp thuế) nhằm đạt
được mục tiêu động viên một phần thu nhập quốc dân vào NSNN. Do vậy:

11
Quản lý thuế là hoạt động tổ chức, điều hành và giám sát của cơ quan thuế
nhằm đảm bảo người nộp thuế chấp hành nghĩa vụ nộp thuế vào NSNN theo quy
định của pháp luật.
Quản lý thuế có vai trò bảo đảm cho chính sách thuế được thực thi nghiêm
chỉnh trong thực tiễn đời sống kinh tế xã hội. Chính sách thuế thường được thiết kế
nhằm thực hiện những chức năng của thuế như điều tiết kinh tế vĩ mô phục vụ mục
tiêu tăng trưởng của đất nước hay phân phối thu nhập nhằm bảo đảm sự công bằng
giữa các tầng lớp dân cư trong xã hội. Tuy nhiên, các mục tiêu này chỉ trở thành
hiện thực nếu quản lý thuế thực hiện điều hành, giám sát tốt để ai là người nộp thuế
thì phải nộp thuế và người nộp thuế phải nộp đúng, nộp đủ và nộp đúng hạn số thuế

phải nộp vào NSNN. Vì vậy, có thể khẳng định quản lý thuế có vai trò quyết định
cho sự thành công của từng chính sách thuế.
1.1.2.2 Mục tiêu của quản lý thuế
Mục tiêu quản lý thuế bao gồm:
Một là, nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý thuế; tạo điều kiện thuận
lợi cho người nộp thuế nộp đúng, đủ, kịp thời tiền thuế vào NSNN và cơ quan quản
lý thuế kiểm tra thu đúng, thu đủ tiền thuế.
Hai là, quy định rõ quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm của người nộp thuế, cơ quan
quản lý thuế và của các tổ chức, cá nhân có liên quan trong việc quản lý thuế.
Ba là, đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính thuế theo hướng đơn giản, rõ
ràng, minh bạch, dễ thực hiện, tăng cường vai trò kiểm tra giám sát của Nhà nước,
cộng đồng xã hội trong việc thực hiện quản lý thuế.
1.1.2.3 Nội dung quản lý thuế
Hiện nay, quản lý thuế phổ biến theo phương thức tự kê khai, tự nộp thuế.
Đây là cơ chế quản lý thuế trong đó người nộp thuế tự giác tuân thủ thực hiện các
nghĩa vụ thuế: người nộp thuế căn cứ vào các qui định tại các Luật thuế để xác định
nghĩa vụ thuế của mình, kê khai chính xác, nộp tờ khai thuế và nộp thuế đúng thời
hạn. Cơ quan thuế không can thiệp vào việc thực hiện nghĩa vụ thuế của người nộp
thuế nếu người nộp thuế tự giác tuân thủ nghĩa vụ. Cơ quan thuế có trách nhiệm

12
tuyên truyền, hỗ trợ, hướng dẫn để người nộp thuế hiểu rõ và tự giác thực hiện
nghĩa vụ thuế, đồng thời giám sát chặt chẽ việc tuân thủ nghĩa vụ thuế của người
nộp thuế và thông qua công tác kiểm tra, thanh tra thuế để phát hiện, xử lý kịp thời,
đúng đắn những hành vị gian lận, trốn thuế của người nộp thuế.
Mục đích của việc thực hiện cơ chế tự kê khai - tự nộp thuế là nhằm nâng cao
năng lực, hiệu quả và hiện đại hóa công tác quản lý thuế để cơ quan thuế có đủ năng
lực thực hiện tốt các luật thuế, đảm bảo thu đúng, thu đủ, thu kịp thời các khoản
thuế vào NSNN, dựa trên cơ sở cơ quan thuế thực hiện được tốt việc tuyên truyền,
hướng dẫn cho đối tượng nộp thuế hiểu rõ và tự giác thực hiện tốt nghĩa vụ thuế,

đồng thời giám sát, kiểm tra chặt chẽ việc tuân thủ nghĩa vụ thuế của đối tượng nộp
thuế để phát hiện, xử lý kịp thời, đúng đắn những hành vi gian lận, trốn thuế của
người nộp thuế.
Để thực hiện được tốt cơ chế tự khai - tự nộp thuế đòi hỏi phải có đầy đủ và
đồng bộ nhiều yếu tố như: trình độ và sự nhận thức của người dân về nghĩa vụ thuế,
chính sách thuế, tổ chức quản lý thuế, nghiệp vụ quản lý thuế, trình độ của cán bộ
và các thẩm quyền cần thiết của cơ quan thuế trong quản lý thuế
Người dân phải có được hiểu biết cơ bản về nghĩa vụ thuế, đối tượng nộp
thuế có ý thức tuân thủ nghĩa vụ thuế, cộng đồng xã hội lên án những hành vi gian
lận trốn thuế.
Chính sách thuế phải rõ ràng, dễ hiểu và dễ thực hiện như: thuế GTGT chỉ có
1 mức thuế suất, ít miễn giảm trong thuế TNDN , các qui định về kê khai, nộp thuế
thuận lợi, phù hợp với điều kiện kinh doanh của đối tượng nộp thuế.
Cơ quan thuế có đủ thẩm quyền về điều tra, khởi tố, cưỡng chế thuế để xử
phạt nghiêm, kịp thời những trường hợp gian lận, trốn thuế, chây ỳ, nợ thuế, thu hồi
đủ tiền thuế cho NSNN và đảm bảo sự công bằng trong quản lý thuế.
Bộ máy quản lý thuế ở cơ quan thuế các cấp phải tổ chức tập trung theo các
chức năng: tuyên truyền, hướng dẫn đối tượng nộp thuế; theo dõi, xử lý việc kê khai
thuế; đôn đốc thu nợ và cưỡng chế thuế; kiểm tra, thanh tra thuế để nhằm chuyên
môn hoá, nâng cao năng lực quản lý thuế ở từng chức năng.

13
Hệ thống xử phạt nghiêm khắc. CQT có đủ thẩm quyền về điều tra, đủ điều
kiện về cưỡng chế thuế để phát hiện và xử lý nghiêm, kịp thời những trường hợp
gian lận, trốn thuế, chây ỳ nợ thuế, thu hồi đủ tiền thuế cho NSNN và đảm bảo sự
công bằng trong quản lý thuế
Hệ thống giải quyết khiếu nại hoạt động hiệu quả. Người nộp thuế cần phải
tin rằng các chương trình kiểm tra, thanh tra thuế hiệu quả đang tồn tại.
Quản lý thuế phải dựa trên kỹ thuật quản lý hiện đại - kỹ thuật quản lý rủi ro,
trên cơ sở đó nâng cao hiệu quả quản lý thông qua việc tập trung phân bổ nguồn lực

quản lý đối với các người nộp thuế không tuân thủ nghĩa vụ thuế gây rủi ro cao, có
ảnh hưởng lớn đến nguồn thu NSNN.
Để thực hiện được quản lý thuế theo kỹ thuật quản lý rủi ro, cơ quan thuế cần
phải có:
Thứ nhất, thông tin đầy đủ và liên tục về đối tượng nộp thuế trong một
khoảng thời gian nhất định (ít nhất là 3 năm), gồm: thông tin về tình hình sản xuất,
kinh doanh (vị trí, qui mô, cơ cấu tổ chức của công ty hoặc tập đoàn trên phạm vi cả
nước hoặc trên toàn cầu, tình hình tài chính), về tình hình tuân thủ nghĩa vụ thuế
Trên cơ sở các thông tin đó cơ quan thuế phân tích, phân loại đối tượng nộp thuế để
xác định biện pháp quản lý phù hợp với từng đối tượng: đối tượng nào cần tập trung
tuyên truyền, hỗ trợ, hỗ trợ với hình thức nào là phù hợp; đối tượng nào cần tập
trung kiểm tra, thanh tra nội dung gì, cách thức nào; đối tượng nào cần tăng cường
thu nợ, kế hoạch, biện pháp nào
Thứ hai, các thông tin này phải đầy đủ, kịp thời và tin cậy, từ các nguồn: tờ
khai thuế, báo cáo tài chính của doanh nghiệp, thông tin từ các bên có liên quan (cơ
quan quản lý đầu tư, ngân hàng, hải quan, hiệp hội ngành nghề kinh doanh ) trong
và ngoài nước
Thứ ba, các thông tin này phải được chuẩn hoá, thống nhất trong toàn ngành,
được quản lý tập trung ở trung ương và cơ quan thuế ở các cấp của địa phương đều
có thể cùng khai thác, sử dụng để vừa đáp ứng được yêu cầu lập kế hoạch, giám sát,

14
chỉ đạo của cấp trung ương đối với hoạt động quản lý thuế của toàn ngành, cũng
như hoạt động quản lý trực tiếp đối tượng nộp thuế của cơ quan thuế địa phương.
Do đó, cần phải ứng dụng công nghệ thông tin trong việc tập hợp, khai thác,
sử dụng thông tin về đối tượng nộp thuế và ở tất cả các hoạt động quản lý thuế của
cơ quan thuế. Mặt khác, cán bộ thuế phải được đào tạo, có đủ kiến thức, năng lực để
thực hiện kỹ năng quản lý thuế chuyên sâu (tính chuyên nghiệp cao) theo từng chức
năng quản lý.
1.2 Công tác kiểm tra, thanh tra thuế

1.2.1 Khái niệm và mục tiêu
1.2.1.1 Khái niệm
* Kiểm tra thuế
Theo Từ điển tiếng Việt thì “kiểm tra là xem xét tình hình thực tế để đánh
giá, nhận xét”. Xét về chủ thể thì phạm vi chủ thể tiến hành kiểm tra đa dạng hơn
thanh tra rất nhiều. Chủ thể tiến hành kiểm tra có thể là Nhà nước hoặc cũng có thể
là một chủ thể phi nhà nước, chẳng hạn như hoạt động kiểm tra của một tổ chức
chính trị, tổ chức chính trị - xã hội (Đảng, Công đoàn, Đoàn thanh niên, Hội
phụ nữ ).Trên một bình diện rộng hơn nữa, kiểm tra có thể là sự xem xét thực tế
để đánh giá, nhận xét của bất kỳ một cá nhân nào trong xã hội trong bất cứ hoạt
động nào. Theo nghĩa hẹp kiểm tra là hoạt động của chủ thể nhằm tiến hành xem
xét, xác minh việc gì đó của đối tượng bị quản lý xem có phù hợp hay không phù
hợp trạng thái đã quy định trước. Chủ thể kiểm tra có thể áp dụng một chế tài pháp
lý nhất định như áp dụng xử phạt VPHC hoặc buộc phải thực hiện một số biện
pháp ngăn chặn hành chính. Khái niệm kiểm tra nằm trong khái niệm thanh tra “tổ
chức thanh tra là công cụ đắc lực của Đảng, của chính quyền trong việc kiểm tra sự
chấp hành đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật, kế hoạch của Nhà nước”,
Pháp lệnh thanh tra năm 1990 cũng quy định: “Thanh tra Bộ, Ủy ban Nhà nước
hướng dẫn, kiểm tra thủ trưởng các cơ quan, đơn vị thuộc quyền quản lý ”. [23,
tr.504].
Từ sự phân tích trên, có t hể đưa r a khái niệm: kiểm tra thuế là hoạt

15
động xem xét tình hình thực tế của đối tượng được kiểm tra để đánh giá, nhận xét
và xử lý của cơ quan thuế đối với việc thực hiện pháp luật thuế của người nộp thuế
và công tác quản lý, hành thu, kiểm tra của cán bộ thuế.
* Thanh tra thuế
Thanh tra (tiếng Anh là Inspect) xuất phát từ nguồn gốc La tinh (Inspectare)
có nghĩa là “nhìn vào bên trong”, chỉ một sự kiểm tra, xem xét từ bên ngoài đối với
hoạt động của một số đối tượng nhất định. Theo Từ điển pháp luật Anh-Việt,

thanh tra “là sự kiểm soát, kiểm kê đối với đối tượng bị thanh tra”. Từ điển Luật
học (tiếng Đức) giải thích thanh tra “là sự tác động của chủ thể đến đối tượng đã và
đang thực hiện thẩm quyền được giao nhằm đạt được mục đích nhất định-sự tác
động có tính trực thuộc”. Theo Từ điển tiếng Việt “thanh tra là kiểm soát, xem xét
tại chỗ việc làm của địa phương, cơ quan, xí nghiệp”. Với nghĩa này, Thanh tra bao
hàm nghĩa kiểm soát nhằm: “xem xét và phát hiện ngăn chặn những gì trái với quy
định”. Thanh tra thường đi kèm với một chủ thể nhất định: người làm nhiệm vụ
thanh tra”, “đoàn thanh tra của Bộ” và “đặt trong phạm vi quyền hạn của chủ thể
nhất định. Như vậy thanh tra là một chức năng thiết yếu của quản lý nhà nước,
là hoạt động kiểm tra, xem xét việc làm của các cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá
nhân; thường được thực hiện bởi một cơ quan chuyên trách theo một trình tự,
thủ tục do pháp luật quy định, nhằm kết luận đúng, sai, đánh giá ưu, khuyết
điểm, phát huy nhân tố tích cực, phòng ngừa, xử lý các vi phạm, góp phần hoàn
thiện cơ chế quản lý, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của
Nhà nước, các quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và cá nhân”. [23,
tr.882].
Từ phân tích trên, có thể đưa ra khái niệm: thanh tra thuế là một chức năng
thiết yếu trong quản lý thuế, kiểm tra, xem xét việc tuân thủ pháp luật thuế của
người nộp thuế được cơ quan thuế thực hiện theo trình tự thủ tục do pháp luật quy
định nhằm kết luận đúng, sai, đánh giá ưu, khuyết điểm, phát huy nhân tố tích cực,
phòng ngừa, xử lý các vi phạm pháp luật về thuế, góp phần hoàn thiện cơ chế
quản lý thuế, chính sách thuế, pháp luật thuế, tăng cường pháp chế xã hội chủ

16
nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, các quyền, lợi ích hợp pháp của người
nộp
thuế.

Thanh tra, kiểm tra là chức năng chung của quản lý nhà nước, là hoạt
động mang tính chức năng của quản lý nhà nước, là hoạt động mang tính phản hồi

(rà soát, nhiều khi là phản ứng lại) đối với chu trình quản lý nhằm phân tích, đánh
giá, theo dõi mục tiêu, nhiệm vụ quản lý đề ra.
Hoạt động thanh tra, kiểm tra thuế có sự đồng nhất là về bản chất và đều có
mục đích, yêu cầu chung là xem xét, đánh giá việc tuân thủ, chấp hành chính sách,
pháp luật thuế (là đối tượng của kiểm tra, thanh tra) từ đó rút ra kết luận đúng,
sai để có biện pháp phát huy hoặc chấn chỉnh.
Tuy nhiên hoạt động thanh tra và kiểm tra thuế có sự khác biệt:
Về nội dung: Nội dung kiểm tra thuế thường dễ dàng nhận thấy, ngược lại
nội dung thanh tra thuế thường đa dạng, phức tạp hơn (phân biệt này có tính tương
đối).
Về trình độ nghiệp vụ: hoạt động thanh tra thuế đòi hỏi thanh tra viên thuế
phải có nghiệp vụ giỏi, am hiểu rộng về kinh tế xã hội, có khả năng chuyên sâu vào
một lĩnh vực. Hoạt động kiểm tra thuế ít phức tạp và chủ thể lại gồm đối tượng
rộng, có tính quần chúng, phổ biến nên trình độ công chức kiểm tra thuế không
nhất thiết phải đòi hỏi có nghiệp vụ cao.
Phạm vi hoạt động: phạm vi hoạt động kiểm tra thuế thường theo bề
rộng, mang tính thường xuyên với nhiều hình thức phong phú. Phạm vi hoạt động
của thanh tra thuế thường có sự chọn lọc, đôi khi thông qua kiểm tra thuế thấy
dấu hiệu phức tạp cần chọn ra những vấn đề để thanh tra.
Thời gian tiến hành: hoạt động thanh tra thuế thường phải tiến hành trong
thời gian dài hơn.
Thanh tra thuế mang tính pháp lý cao hơn, thể hiện quyền lực của Nhà nước
mạnh hơn được quy định trong các văn bản pháp lý, việc thanh tra phải tiến hành
theo thẩm định, trình tự, thủ tục chặt chẽ theo pháp luật (Luật thanh tra).

17
Kiểm tra, thanh tra thuế là một trong bốn chức năng cơ bản của quản lý thuế
theo mô hình chức năng. Bên cạnh việc tôn trọng kết quả tự tính, tự khai tự nộp
thuế của người nộp thuế, cơ quan thuế thực hiện các biện pháp giám sát hiệu quả
vừa đảm bảo khuyến khích sự tuân thủ tự nguyện, vừa đảm bảo phát hiện ngăn

ngừa các trường hợp vi phạm pháp luật thuế. Kiểm tra, thanh tra thuế là một biện
pháp hữu hiệu nhằm phát hiện ngăn ngừa vi phạm, giúp người nộp thuế nhận thấy
luôn có một hệ thống giám sát hiệu quả tồn tại và kịp thời phát hiện các hành vi vi
phạm của họ.
Kiểm tra, thanh tra thuế là hoạt động giám sát của cơ quan thuế đối với các
hoạt động, giao dịch liên quan đến phát sinh nghĩa vụ thuế và tình hình thực hiện
thủ tục hành chính thuế,chấp hành nghĩa vụ nộp thuế của người nộp thuế, nhằm bảo
đảm pháp luật thuế được thực thi nghiêm chỉnh trong đời sống kinh tế – xã hội.
Hiện nay, để thực hiện cơ chế tự khai tự nộp thuế đạt hiệu quả thì chức năng
thanh, kiểm tra là một mắc xích vô cùng quan trọng trong việc phòng ngừa, phát
hiện, ngăn chặn hành vi trốn thuế, gian lận về thuế.
Kiểm tra, thanh tra thuế là một đòi hỏi bức thiết, là yêu cầu khách quan xuất
phát từ những lý do cơ bản sau:
Thứ nhất, thuế là công cụ quản lý vĩ mô của Nhà nước trong việc kiểm soát,
quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh của mọi thành phần kinh tế, kiểm soát thu
nhập của mọi tầng lớp dân cư trong xã hội, đảm bảo nguồn thu chủ yếu cho NSNN.
Quá trình thực thi các luật thuế có nghiêm minh hay không sẽ ảnh hưởng quyết
định đến hiệu quả sử dụng công cụ thuế. Bởi vậy, tăng cường công tác kiểm tra,
thanh tra thuế nhằm đảm bảo phát huy tối đa chức năng, vai trò của thuế đối với
nền kinh tế -
xã hội.

Thứ hai, luật thuế nói chung và pháp lệnh thuế nói riêng là sự thể hiện ý chí
và nguyện vọng của nhân dân. Tuy nhiên, hệ thống pháp luật thuế ở nước ta
còn đang trong quá trình cải cách, chưa thật hoàn chỉnh, do vậy cần thiết phải
tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra thuế nhằm phát hiện những bất hợp lý,
những sai sót trong hệ thống chính sách thuế để sửa đổi, bổ sung kịp thời, phù

18
hợp với thực tiễn, làm cho pháp luật luôn là công cụ có hiệu lực trong lãnh đạo,

quản lý nhà nước.
Thứ ba, trốn lậu thuế là một tồn tại không thể tránh khỏi trong bất kỳ một
nền kinh tế nào. Ở nước ta, vấn đề này càng trở nên búc xúc, nhất là trong điều
kiện thực hiện quản lý thuế theo cơ chế tự khai tự nộp hiện nay, đề cao tính tự giác
của người nộp thuế qua việc tự tính, tự khai, tự nộp. Vì vậy, cần phải tăng cường
công tác kiểm tra, thanh tra thuế để ngăn chặn kịp thời các hành vi khai man, trốn
lậu thuế, đảm bảo tính bình đẳng giữa những người nộp thuế. Mặt khác, trong thực
tiễn một số công chức thuế do hạn chế về trình độ chuyên môn hoặc do thái hóa,
biến chất mà có những biểu hiện vi phạm pháp luật, gây thất thu ngân sách hoặc
gây thiệt hại cho người nộp thuế. Kiểm tra, thanh tra là nhằm phát hiện, ngăn chặn,
phòng ngừa những sai phạm đó, để đảm bảo các luật thuế được thực thi một cách
nghiêm minh.
1.2.1.2 Mục tiêu
Hoạt động kiểm tra, thanh tra thuế nhằm giúp các đối tượng nộp thuế và cơ
quan thuế thực hiện nghiêm chỉnh các văn bản pháp luật về công tác quản lý thu
ngân sách đảm bảo thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị của ngành.
Thông qua công tác kiểm tra, thanh tra thuế nhằm đánh giá việc chấp hành
các luật thuế của các đối tượng nộp thuế và người thu thuế nhằm phát huy nhân tố
tích cực, đấu tranh ngăn ngừa và xử lý những mặt tiêu cực.
Căn cứ vào những kiến nghị của kết quả kiểm tra, thanh tra, cơ quan thuế các
cấp có thể đề ra các giải pháp cụ thể để thực hiện, đưa Luật thuế vào cuộc sống thực
tế, đảm bảo sự công bằng trong việc thực hiện luật thuế, đồng thời cải cách được
các quy trình quản lý thu thuế ngày càng hợp lý hơn.
Thông qua công tác kiểm tra, thanh tra thuế nhằm hướng dẫn, giúp đỡ đối
tượng nộp thuế nắm được nghĩa vụ và quyền hạn của đơn vị khi thực hiện luật thuế;
đồng thời nâng cao trách nhiệm của công chức ngành thuế khi thi hành công vụ.
Thông qua công tác thanh tra nội bộ nhằm kịp thời ngăn chặn, phòng ngừa
những hành vị tiêu cực, tham nhũng phát sinh, để xây dựng cơ quan thuế trong sạch

×