Tải bản đầy đủ (.pdf) (99 trang)

Quản trị rủi ro tại Tổng Công ty Bảo Việt Nhân thọ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (717.57 KB, 99 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ



TRẦN THỊ THANH THÚY




QUẢN TRỊ RỦI RO TẠI TỔNG CÔNG TY
BẢO VIỆT NHÂN THỌ








LUẬN VĂN THẠC SĨ TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG






Đà Lạt – Năm 2012




ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ



TRẦN THỊ THANH THÚY




QUẢN TRỊ RỦI RO TẠI TỔNG CÔNG TY
BẢO VIỆT NHÂN THỌ



Chuyên ngành: Tài chính và Ngân hàng
Mã số: 60 34 20



LUẬN VĂN THẠC SĨ TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG



NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN THỊ MINH TÂM



Đà Lạt – Năm 2012



MỤC LỤC
Danh mục các chữ viết tắt i

Danh mục bảng biểu ii

Danh mục sơ đồ iii

Phần mở đầu 1

Chương1: TỔNG QUẢN VỀ BẢO HIỂM NHÂN THỌ VÀ QUẢN TRỊ
RỦI RO TRONG KINH DOANH BẢO HIỂM NHÂN THỌ 5

1.1 Khái quát chung về bảo hiểm nhân thọ 5

1.1.1 Sự cần thiết khách quan của bảo hiểm nhân thọ 5

1.1.2 Khái niệm và đặc điểm của bảo hiểm nhân thọ 7

1.1.3 Các loại hình bảo hiểm nhân thọ cơ bản 14

1.2 Quản trị rủi ro trong doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ 16

1.2.1 Khái niệm về rủi ro 16

1.2.2 Quản trị rủi ro 17

1.2.3 Quản trị rủi ro con người thông qua bảo hiểm 20


1.2.4 Quản trị rủi ro đầu tư tài chính 29

Kết luận chương 1 33

Chương 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG QUẢN TRỊ RỦI RO TẠI
TỔNG CÔNG TY BẢO VIỆT NHÂN THỌ 35

2.1 Quá trình hình thành và phát triển của Bảo Việt Nhân Thọ 35

2.1.1 Các đơn vị thành viên trong Tập Đoàn Bảo Việt 38

2.1.2 Mô hình tổ chức của Tổng công ty Bảo Việt Nhân Thọ 39

2.1.3 Kết quả hoạt động kinh doanh và đầu tư của BVNT các năm
2009- 2011 43

2.2 Thực trạng quản trị rủi ro tại BVNT trong giai đoạn 2009-2011 46

2.2.1 Quản trị rủi ro trong hoạt động kinh doanh BHNT 46


2.2.2 Quản trị rủi ro trong hoạt động đầu tư 61

2.3 Đánh giá chung về hiệu quả hoạt động quản trị rủi ro tại BVNT 70

2.3.1 Kết quả đạt được 70

2.3.2 Tồn tại và bất cập cần giải quyết 71

Kết luận chương 2 73


Chương 3: BIỆN PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG QUẢN
TRỊ RỦI RO TẠI TỔNG CÔNG TY BẢO VIỆT NHÂN THỌ 74

3.1 Phương hướng và mục tiêu phát triển của BVNT trong
giai đoạn từ 2013 đến 2015 74

3.2 Các biện pháp nâng cao hiệu quả quản trị rủi ro 76

3.2.1 Phát triển và nâng cao nguồn nhân lực 76

3.2.2 Cải tiến phần mềm quản lý 77

3.2.3 Hoàn thiện công tác đánh giá rủi ro 77

3.2.4 Giải quyết quyền lợi khách hàng 79

3.2.5 Nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư tài chính 80

3.3 Kiến nghị 81

3.3.1 Đối với Nhà Nước, Chính Phủ 81

3.3.2 Đối với Hiệp hội bảo hiểm 85

3.3.3 Đối với Tập Đoàn _Bảo Việt 87

Kết luận chương 3 90

Kết Luận chung 91


Danh mục tài Liệu tham khảo 92


i
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

STT

CHỮ VIẾT TẮT

NGUYÊN NGHĨA
1

2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
BVNT

BHNT
Chi phí QLDN

DNBH
ĐGRR
GYCBH
HĐBH
HĐQLRR
NĐBH
QTRR
STBH
TSTBHRR
TTTBVV
Bảo Việt Nhân thọ là tên gọi tắt của Tổng Công ty
Bảo Việt Nhân thọ trực thuộc Tập Đoàn Bảo Việt
Bảo hiểm nhân thọ
Chi phí quản lý doanh nghiệp
Doanh nghiệp bảo hiểm
Đánh giá rủi ro
Giấy yêu cầu bảo hiểm
Hợp đồng bảo hiểm
Hội đồng quản lý rủi ro
Người được bảo hiểm
Quản trị rủi ro
Số tiền bảo hiểm
Tổng số tiền bảo hiểm rủi ro
Thương tật toàn bộ vĩnh viễn








ii
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
STT

BẢNG NỘI DUNG TRANG
1

2


3
4

5
6

7

8

9


2.1


2.2



2.3
2.4

2.5
2.6

2.7

2.8

2.9
Kết quả hoạt động kinh doanh của BVNT các năm
(2009- 2011).
Quy định về mức độ kiểm tra sức khỏe tối thiểu
theo tổng số tiền bảo hiểm rủi ro (TSTBHRR) và
tuổi của người yêu cầu bảo hiểm.
Bảng các nghề nghiệp đặc biệt.
Các chỉ tiêu ĐGRR thực hiện qua các năm (2009-
2011).
Bảng hạn mức STBHRR tái bảo hiểm.
Bảng tỷ lệ từ chối và chết bệnh năm 1và 2 của hợp
đồng .
Nguồn vốn kinh doanh của TCT BVNT giai đoạn
(2009-2011)
Kết quả kinh doanh của danh mục đầu tư của TCT
BVNT giai đoạn (2009-2011)
Biên khả năng thanh toán của TCT BVNT giai
đoạn (2009-2011).
44


48


50
51

55
58

63

66

69







iii
DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ
STT

SƠ ĐỒ NỘI DUNG TRANG

1

2


3
2.1

2.2

2.3
Cơ cấu tổ chức của Tập đoàn Tài chính
Bảo Việt
Mô hình tổ chức của Tổng Công ty Bảo Việt
Nhân thọ
Sơ đồ biểu diễn tăng trưởng doanh thu năm
2009-2011
37

40

45









1
MỞ ĐẦU
1.TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI

Bảo hiểm Nhân thọ (BHNT) ra đời từ rất sớm và đã trở nên quen thuộc
đối với người dân của các nước phát triển trên thế giới. Tuy nhiên, ở Việt
Nam loại hình bảo hiểm này vẫn còn khá mới mẻ, tuy mới được triển khai ở
Việt Nam hơn mười lăm năm (1996) nhưng đã và đang phát triển nhanh
chóng với mức tăng trưởng cao, có sự tham gia của các doanh nghiệp bảo
hiểm nước ngoài trong thị trường (Dai - ichi Life, Manulife, Prudential Việt
Nam, AIA, Prevoir Việt Nam và ACE Life, ), đáp ứng không chỉ nhu cầu
bảo hiểm - tài chính của mỗi cá nhân, doanh nghiệp mà còn là một chế độ
phúc lợi cho người lao động, giải quyết nhu cầu việc làm cho hàng trăm ngàn
lao động, đóng góp nguồn thu lớn cho ngân sách Nhà nước, đẩy mạnh sự liên
kết của các doanh nghiệp kinh doanh tài chính khác (Ngân hàng, Bưu điện,
chứng khoán ), thúc đẩy sự phát triển chung của nền kinh tế quốc dân.
Bảo hiểm Nhân thọ gắn chặt với sự phát triển của xã hội công nghiệp,
hiện đại. Các doanh nghiệp BHNT, với tư cách là những trung gian tài chính-
là một phần của ngành dịch vụ tài chính trong nền kinh tế. Trung gian tài
chính, một tổ chức đóng vai trò thúc đẩy sự luân chuyển và vận hành tài chính
tiền tệ trong nền kinh tế thông qua quá trình thu hút vốn nhàn rỗi của công
chúng bằng phí bảo hiểm và cung cấp cho người cần vốn vay. Vốn là một
trong những nhu cầu quan trọng và không thể thiếu đối với sự phát triển của
xã hội công nghiệp, hiện đại.
Hiện nay, Bảo hiểm Nhân thọ ở Việt Nam đã và đang phát triển với tốc
độ tăng trưởng cao, quy mô thị trường ngày càng mở rộng, mạng lưới hoạt
động được triển khai hầu hết ở các tỉnh, thành trong cả nước. Tổng Công ty
Bảo hiểm Nhân thọ Việt Nam song song với việc có tốc độ phát triển nhanh,
2
có vị thế lớn (là Doanh nghiệp Nhà Nước chiếm vị thế thứ hai trên thị trường)
thì công tác quản trị rủi ro cũng cần được chú trọng, đó cũng chính là nền
tảng giúp cho doanh nghiệp phát triển bền vững. Trên cơ sở đó, việc nghiên
cứu để đưa ra những giải pháp nhằm hạn chế thấp nhất những rủi ro có thể
xảy ra giúp cho tình hình tài chính của doanh nghiệp phát triển lành mạnh

trong những năm tới. Do đó Tôi lựa chọn đề tài: “Quản trị rủi ro tại Tổng
Công Ty Bảo hiểm Nhân thọ Việt Nam” làm đề tài luận văn thạc sĩ chuyên
ngành Tài chính Ngân hàng.
2.TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
Qua sưu tầm, nghiên cứu, Tôi thấy hiện nay trên phạm vi cả nước cũng
đã có một số công trình nghiên cứu khoa học liên quan đến vấn đề Bảo hiểm
nhân thọ như :
- Đề tài Thị trường bảo hiểm và các giải pháp phát triển thị trường bảo
hiểm ở Việt Nam do PGS,TS Nguyễn Như Tiến làm chủ nhiệm đề tài.
- Đề tài Các giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của Bảo Việt Nhân
Thọ-PGS,TS Nguyễn Văn Định, đăng trên Tạp chí bảo hiểm (tháng 5/2005).
- Đề tài Giải pháp nhằm nâng cao khả năng tạo lập vốn và hiệu quả
công tác đầu tư tài chính tại các Công ty Bảo hiểm Nhân thọ ở Việt Nam- Ths
Nguyễn Thị Như Yến, Giáo viên hướng dẫn TS Nguyễn Tấn Hoàng.
- Đề tài Các giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn nhàn rỗi
tại Công ty bảo hiểm nhân thọ Bảo Việt – Ths Nguyễn Minh Nhựt, Trường
Đại học Kinh Tế TPHCM.
Các công trình nghiên cứu trên chủ yếu tập trung phân tích những cơ
hội và thách thức đối với thị trường bảo hiểm ở Việt Nam, phân tích khả năng
cạnh tranh và mở rộng thị trường, phân tích khả năng tạo lập vốn, hiệu quả sử
3
dụng vốn và đề ra một số giải pháp phát triển thị trường, giải pháp sử dụng
vốn hiệu quả tại Bảo Việt Nhân thọ cũng như tại các Công ty Bảo hiểm Nhân
thọ tại Việt Nam.
Nhưng chưa có một công trình khoa học nào nghiên cứu về quản trị rủi
ro trong hoạt động kinh doanh bảo hiểm nhân thọ. Vì vậy, việc nghiên cứu
nhằm phân tích những rủi ro và biện pháp quản trị rủi ro trong hoạt động kinh
doanh bảo hiểm nhân thọ cũng là một nhu cầu cần thiết hiện nay.
3.MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
* Mục đích: Nghiên cứu và đề xuất những giải pháp nhằm giúp doanh

nghiệp bảo hiểm nhân thọ quản trị rủi ro trong hoạt động kinh doanh.
* Nhiệm vụ:
- Đề tài tập trung nghiên cứu một số vấn đề lý luận về Bảo hiểm Nhân
thọ và quản trị rủi ro trong Bảo hiểm Nhân thọ.
- Thực trạng quản trị rủi ro tại Bảo Việt Nhân Thọ trong những năm
qua để tìm ra những vấn đề còn tồn tại.
- Từ đó đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao công tác quản trị rủi ro
tại Bảo Việt Nhân Thọ đến năm 2015.
4. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
- Đối tượng nghiên cứu: Tìm hiểu thực trạng quản trị rủi ro tại Bảo Việt
Nhân Thọ trong những năm qua.
- Phạm vi nghiên cứu: Hoạt động của Bảo Việt Nhân Thọ từ năm 2009
đến 2011.
5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đề tài sử dụng phương pháp thống kê – tập hợp và phân tích mô tả số
liệu : dùng công cụ thống kê tập hợp tài liệu. Đề tài còn vận dụng lý luận vào
4
thực tiễn, sử dụng phương pháp phân tích, so sánh, khái quát hoá, tổng hợp để
nghiên cứu.
6. DỰ KIẾN NHỮNG ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN VĂN
Đề tài này là tài liệu tham khảo cho các nhà hoạch định chiến lược phát
triển và quản trị rủi ro trong các doanh nghiệp kinh doanh Bảo hiểm Nhân thọ
nói chung và Tổng Công Ty Bảo Hiểm Nhân thọ Việt Nam nói riêng.
Đề tài đóng góp những lý luận cơ bản về quản trị rủi ro trong doanh
nghiệp bảo hiểm nhân thọ và thực tiễn về công tác quản trị rủi ro tại Tổng
Công ty Bảo Việt nhân thọ trong giai đoạn 2009-2011. Qua đó, đề xuất những
giải pháp nhằm khắc phục những hạn chế đang tồn tại giúp Doanh nghiệp
phát triển bền vững trong tương lai.
7. BỐ CỤC CỦA LUẬN VĂN (Nội dung chi tiết từng chương)
Nội dung của đề cương ngoài phẩn mở đầu, kết luận và mục tài

liệu tham khảo, đề cương gồm có 3 chương :
Chương 1 : Tổng quan về bảo hiểm nhân thọ và quản trị rủi ro trong
kinh doanh bảo hiểm nhân thọ
Chương 2 : Thực trạng hoạt động quản trị rủi ro tại Tổng Công Ty Bảo
Hiểm Nhân Thọ Việt Nam (gọi tắt là Bảo Việt Nhân Thọ)
Chương 3 : Biện pháp nâng cao hiệu quả hoạt động quản trị rủi ro tại
Tổng Công ty Bảo hiểm Nhân thọ Việt Nam.





5
Chương 1
TỔNG QUAN VỀ BẢO HIỂM NHÂN THỌ
VÀ RỦI RO TRONG KINH DOANH BẢO HIỂM NHÂN THỌ

1.1. Khái quát chung về bảo hiểm nhân thọ
1.1.1 Sự cần thiết khách quan của bảo hiểm nhân thọ
Ở mỗi quốc gia, trong mọi thời kỳ, con người luôn được coi là lực
lượng sản xuất chủ yếu, là nhân tố quyết định đến sự phát triển kinh tế xã hội.
Song trong lao động sản xuất cũng như trong cuộc sống sinh hoạt hàng ngày,
con người cũng không tránh khỏi những rủi ro như: Tai nạn, ốm đau, bệnh tật,
mất việc làm, già yếu v.v. và tác động đến nhiều mặt của đời sống xã hội. Vì
vậy, vấn đề mà bất kỳ xã hội nào cũng quan tâm là làm thế nào để khắc phục
được hậu quả của rủi ro nhằm đảm bảo cho cuộc sống con người. Thực tế, đã
có nhiều biện pháp được áp dụng như: Phòng tránh, cứu trợ, tiết kiệm
v.v…nhưng bảo hiểm luôn được đánh giá là một trong những biện pháp hữu
hiệu nhất.
Thực chất Bảo hiểm Xã hội, Bảo hiểm Y tế cũng là bảo hiểm con người

và đã xuất hiện từ lâu, song phạm vi đảm bảo cho các rủi ro vẫn còn hạn hẹp,
chưa đáp ứng được nhu cầu cần thiết cho dân cư trong xã hội. Trong khi đó,
con người vẫn còn quan tâm đến những vấn đề trong cuộc sống, chẳng hạn:
Việc mất hoặc giảm thu nhập của những người trụ cột trong gia đình
ảnh hưởng đến cuộc sống con cái và người thân. Có lẽ không một người trụ
cột trong gia đình nào lại muốn những người đang sống nhờ vào thu nhập của
họ phải chịu những khó khăn về tài chính hoặc bị khánh kiệt khi họ gặp phải
những rủi ro (tử vong, ốm đau…) nhất là khi con cái chưa đến tuổi trưởng
thành, nợ nần còn chồng chất. Vì vậy, đối với mỗi cá nhân và gia đình, việc
tiết kiệm chi tiêu hiện tại để chuẩn bị cho tương lai, cho việc giáo dục con cái,
6
chuẩn bị hành trang cho con cái vào đời là biện pháp hết sức thiết thực và có
ý nghĩa.
Bên cạnh đó, việc chăm lo cho tuổi già hoặc khi về hưu đang là vấn đề
được xã hội quan tâm và coi trọng. Một số người khi hết tuổi lao động có thu
nhập từ lương hưu, nhưng thực tế khó có thể đáp ứng đủ các nhu cầu chi tiêu
trong cuộc sống. Ngoài ra, phần lớn những người già không có lương hưu
phải sống nhờ vào con cái hay vẫn phải lao động vất vả để kiếm sống đang là
vấn đề xã hội bức xúc. Chẳng ai muốn sống một tuổi già đau yếu bệnh tật,
phụ thuộc hay là gánh nặng cho con cái. Đặc biệt, tuổi thọ càng cao thì nguồn
dự trữ tài chính lại dần dần bị cạn kiệt. Vấn đề là phải tạo ra một công cụ để
mọi người có thể đều đặn dành ra từ thu nhập và tiết kiệm chi tiêu hiện tại của
mình những khoản tiền nhỏ mà vẫn đủ đảm bảo cuộc sống khi về già.
Xã hội ngày càng phát triển, đời sống con người ngày càng được nâng
cao thì người ta càng có điều kiện để chăm lo cho bản thân và gia đình. Ngoài
Bảo hiểm Xã hội, Bảo hiểm Y tế, các dịch vụ Bảo hiểm Nhân thọ ra đời là hết
sức cần thiết nhằm đáp ứng mọi nhu cầu của các tầng lớp dân cư trong xã hội.
Bảo hiểm Nhân thọ, nằm trong bảo hiểm con người và là loại hình của
bảo hiểm thương mại, là hình thức bổ sung cho Bảo hiểm Xã hội và Bảo hiểm
Y tế, nhằm bảo đảm ổn định đời sống cho mọi thành viên trong xã hội trước

những rủi ro tai nạn bất ngờ đối với thân thể, tính mạng, sự giảm sút hoặc mất
thu nhập và đáp ứng một số nhu cầu khác của người tham gia bảo hiểm. So
với Bảo hiểm Xã hội, Bảo hiểm Y tế, Bảo hiểm Nhân thọ có đối tượng tham
gia rộng hơn, quỹ bảo hiểm được hình thành chủ yếu từ phí bảo hiểm do
những người tham gia đóng góp, số tiền chi trả căn cứ vào sự thỏa thuận và
cam kết trong hợp đồng. Hình thức bảo hiểm là tự nguyện. Còn đối với Bảo
hiểm Xã hội, phí bảo hiểm được xác định căn cứ vào tiền lương của người lao
7
động do Nhà nước quy định. Ngoài ra, sự khác nhau còn được thể hiện ở cơ
sở pháp lý của sự cam kết, cơ quan tổ chức thực hiện v.v…
Tuy nhiên sự khác nhau giữa hai hệ thống bảo hiểm này không tạo ra
sự đối lập, mâu thuẫn, mà trái lại chúng bổ sung cho nhau. Các sản phẩm Bảo
hiểm Nhân thọ có thể thay thế Bảo hiểm Xã hội trong những trường hợp,
những khu vực của nền kinh tế, những nơi mà Bảo hiểm Xã hội chưa được
thực hiện hoặc có nhưng không đủ bù đắp thu nhập của người lao động bị
giảm sút. Mặc dù người lao động làm công ăn lương được hưởng trợ cấp Bảo
hiểm Xã hội, nhưng đôi khi có những rủi ro, những nhu cầu nằm ngoài phạm
vi Bảo hiểm Xã hội hoặc các khoản trợ cấp Bảo hiểm Xã hội không đáp ứng
được những nhu cầu khắc phục hậu quả rủi ro. Phần chênh lệch và thiếu hụt
về mặt tài chính sẽ được Bảo hiểm Nhân thọ bù đắp.
1.1.2 Khái niệm, đặc điểm và vai trò của bảo hiểm nhân thọ
1.1.2.1 Khái niệm
Xét về khía cạnh vật chất, cuộc sống của con người là vô giá và không
thể có một tổ chức nào có thể cung cấp một giá trị tương đương với một sinh
mạng con người, vì lý do đó bảo hiểm nhân thọ là một thoả thuận dựa trên
một số tiền cụ thể chứ không mang tính chất bồi thường như bảo hiểm tài sản
khác. Người ta có những khái niệm về bảo hiểm nhân thọ như sau:
Bảo hiểm Nhân thọ là sự cam kết giữa người bảo hiểm và người tham
gia bảo hiểm, mà trong đó người bảo hiểm sẽ trả cho người tham gia (hoặc
người thụ hưởng quyền lợi bảo hiểm) một số tiền nhất định khi có những sự

kiện đã định trước xảy ra (người được bảo hiểm bị chết hoặc sống đến một
thời điểm nhất định), còn người tham gia phải nộp phí bảo hiểm đầy đủ, đúng
hạn. Nói cách khác, BHNT là quá trình bảo hiểm cho các rủi ro có liên quan
đến sinh mạng, cuộc sống và tuổi thọ của con người.
8
Theo Luật Kinh doanh Bảo hiểm của Việt Nam thì: "Bảo hiểm Nhân
thọ là hình thức bảo hiểm cho trường hợp người được bảo hiểm sống hoặc
chết". Người được bảo hiểm và người tham gia BHNT rất rộng, có thể bao
gồm mọi người ở các lứa tuổi khác nhau.
Từ điển thuật ngữ kinh doanh bảo hiểm định nghĩa bảo hiểm nhân thọ
là sự bảo vệ trường hợp tử vong của một người bằng hình thức trả tiền cho
người thụ hưởng- thường là thành viên của gia đình, doanh nghiệp hoặc tổ
chức. Bằng cách đổi một loạt các khoản phí bảo hiểm hoặc thanh toán phí bảo
hiểm một lần khi người được bảo hiểm chết, số tiền bảo hiểm (và bất kỳ số
tiền bảo hiểm bổ sung nào được kèm theo đơn bảo hiểm) trừ đi khoản vay
chưa trả theo hợp đồng bảo hiểm và khoản lãi cho vay, sẽ được trả cho người
thụ hưởng. Những khoản trợ cấp trả khi còn sống cho người được bảo hiểm
dưới hình thức giá trị giải ước hoặc các khoản trợ cấp thu nhập.
Tài liệu của Viện quản lý bảo hiểm nhân thọ Hoa Kỳ (LOMA) cũng
nêu định nghĩa bảo hiểm nhân thọ như một loại hình bảo hiểm trả tiền khi
phát sinh cái chết của người được bảo hiểm. Trên phương diện pháp lý, bảo
hiểm nhân thọ là một thể loại bảo hiểm, trong đó để nhận được phí bảo hiểm
của người tham gia bảo hiểm thông qua một hợp đồng, nhà bảo hiểm cam kết
sẽ trả cho một hoặc nhiều người thụ hưởng bảo hiểm một số tiền nhất định
hoặc những khoản trợ cấp nhất định trong trường hợp người được bảo hiểm bị
tử vong hoặc người được bảo hiểm sống đến một thời điểm được chỉ rõ trong
hợp đồng. Trên phương diện kỹ thuật bảo hiểm nhân thọ là một nghiệp vụ bao
hàm những cam kết mà việc thực hiện những cam kết này phụ thuộc vào tuổi
thọ của con người.
Những khái niệm trên tuy được trình bày khác nhau, nhưng tựu chung

lại đều thể hiện những đặc trưng nổi bật của bảo hiểm nhân thọ, đó là: Bảo
9
hiểm nhân thọ là một nghiệp vụ bảo hiểm thương mại, hay nói cách khác là
loại hình kinh doanh thu lợi nhuận, có những đặc điểm dưới đây.
1.1.2.2 Đặc điểm
a. Bảo hiểm Nhân thọ vừa mang tính tiết kiệm, vừa mang tính bảo vệ
tài chính:
Đây là một trong những đặc điểm khác nhau cơ bản giữa BHNT với
bảo hiểm Phi nhân thọ. Thật vậy, mỗi người mua BHNT sẽ định kỳ nộp một
khoản tiền nhỏ (gọi là phí bảo hiểm) cho Công ty Bảo hiểm, ngược lại Công
ty Bảo hiểm có trách nhiệm trả một số tiền lớn (gọi là số tiền bảo hiểm) cho
người thụ hưởng quyền lợi bảo hiểm như đã thỏa thuận từ trước khi có các sự
kiện bảo hiểm xảy ra. Số tiền bảo hiểm (STBH) được trả khi người được bảo
hiểm đạt đến một độ tuổi nhất định và được ấn định trong hợp đồng. Hoặc số
tiền này được trả cho thân nhân và gia đình người được bảo hiểm khi người
được bảo hiểm không may bị chết sớm ngay cả khi họ mới tiết kiệm được một
khoản tiền rất nhỏ qua việc đóng phí bảo hiểm. Số tiền này giúp những người
còn sống trang trải những khoản chi phí cần thiết, như: Thuốc men, mai táng,
chi phí giáo dục con cái. v.v Chính vì vậy, BHNT vừa mang tính chất tiết
kiệm, vừa mang tính bảo vệ tài chính cho người được bảo hiểm. Tính chất tiết
kiệm thể hiện ngay ở từng cá nhân, từng gia đình một cách thường xuyên, có
kế hoạch và có kỷ luật. Nội dung tiết kiệm khi mua BHNT khác với các hình
thức tiết kiệm khác ở chỗ, người bảo hiểm đảm bảo trả cho người tham gia
bảo hiểm hay người thân của họ một số tiền rất lớn ngay cả khi họ mới tiết
kiệm được một khoản tiền nhỏ. Có nghĩa là, khi người được bảo hiểm không
may gặp rủi ro trong thời hạn bảo hiểm đã được ấn định, những người thân
của họ sẽ nhận được những khoản trợ cấp hay STBH từ Công ty Bảo hiểm.
Điều đó thể hiện rõ tính chất bảo vệ tài chính cho người được bảo hiểm trước
những rủi ro không mong đợi trong BHNT.
10

b. Bảo hiểm Nhân thọ đáp ứng được rất nhiều mục đích khác nhau cho
người tham gia bảo hiểm :
Trong khi các nghiệp vụ bảo hiểm Phi nhân thọ chỉ đáp ứng được một
mục đích là góp phần khắc phục hậu quả rủi ro, từ đó góp phần ổn định tài
chính cho người tham gia, thì BHNT ngoài mục đích đó còn đáp ứng nhiều
mục đích khác. Mỗi mục đích được thể hiện khá rõ trong từng loại hợp đồng.
Chẳng hạn, hợp đồng bảo hiểm (HĐBH) hưu trí sẽ đáp ứng nhu cầu của
người tham gia những khoản trợ cấp đều đặn hàng năm, từ đó góp phần ổn
định cuộc sống của họ khi già yếu. HĐBH tử vong sẽ giúp người được bảo
hiểm để lại cho gia đình một STBH khi họ bị tử vong. Số tiền này đáp ứng
được rất nhiều mục đích của người quá cố, như: Trang trải nợ nần, giáo dục
con cái, phụng dưỡng bố mẹ già v.v HĐBH nhân thọ đôi khi còn có vai trò
như một vật thế chấp để vay vốn hoặc BHNT tín dụng thường được bán cho
các đối tượng đi vay để họ mua xe hơi, đồ dùng gia đình hoặc dùng cho các
mục đích cá nhân khác v.v Chính vì đáp ứng được nhiều mục đích khác
nhau nên loại hình bảo hiểm này có thị trường ngày càng rộng và được rất
nhiều người quan tâm.
c. Thời hạn Bảo hiểm Nhân thọ thường rất dài, quan hệ giữa các bên
trong mỗi hợp đồng Bảo hiểm Nhân thọ lại rất đa dạng và phức tạp :
Thời hạn trong BHNT thường kéo dài từ 5 năm trở lên. Mỗi sản phẩm
BHNT cũng có nhiều loại hợp đồng khác nhau, chẳng hạn BHNT hỗn hợp có
các hợp đồng 10 năm, 20 năm. Mỗi hợp đồng lại có sự khác nhau về STBH,
phương thức đóng phí, độ tuổi của người tham gia Ngay cả trong một bản
hợp đồng, mối quan hệ giữa các bên cũng rất phức tạp. Khác với các bản
HĐBH Phi nhân thọ, trong mỗi HĐBH nhân thọ có thể có 4 người có liên
quan: Người bảo hiểm, người được bảo hiểm, người tham gia bảo hiểm và
người thụ hưởng quyền lợi bảo hiểm. Người bảo hiểm chính là các Công ty
BHNT, còn người được bảo hiểm là người mà tính mạng, tình trạng sức khỏe
11
và những sự kiện có liên quan đến tuổi thọ của họ được bảo hiểm hoặc là

người giao tên tuổi của mình cho người khác đi ký HĐBH. Còn người tham
gia BHNT thực chất là những người trực tiếp đứng ra ký kết hợp đồng và nộp
phí bảo hiểm. Người tham gia bảo hiểm phải có đầy đủ năng lực pháp lý và
hành vi. Trong mỗi hợp đồng BHNT còn có người thụ hưởng quyền lợi bảo
hiểm. Thông thường người thụ hưởng quyền lợi bảo hiểm do người tham gia
và người được bảo hiểm cùng chỉ định. Người thụ hưởng quyền lợi bảo hiểm
là người sẽ nhận được mọi quyền lợi từ người bảo hiểm chi trả khi người
được bảo hiểm tử vong.
d. Phí bảo hiểm Nhân thọ chịu tác động tổng hợp của nhiều nhân tố, vì
vậy quá trình định phí khá phức tạp :
Theo tác giả Jean - Claude Harrari (Jean – Claude Harri – NXB
Withers By & Co, Ltd - 1984) : "Sản phẩm Bảo hiểm Nhân thọ không gì hơn
chính là kết quả của một tiến trình đầy đủ để đưa sản phẩm đến công chúng".
Trong tiến trình này, người bảo hiểm phải bỏ ra rất nhiều chi phí để tạo nên
sản phẩm, như: Chi phí khai thác, chi phí quản lý hợp đồng. v.v Nhưng
những chi phí đó mới chỉ là một phần để cấu tạo nên giá cả sản phẩm BHNT,
một phần chủ yếu khác lại phụ thuộc vào:
 Độ tuổi của người được bảo hiểm ;
 Tuổi thọ bình quân của con người;
 Số tiền bảo hiểm;
 Thời hạn tham gia;
 Phương thức thanh toán;
 Lãi suất đầu tư;
 Tỷ lệ lạm phát và thiểu phát của đồng tiền
Điều đó khác với việc định giá cả một chiếc ô tô. Chiếc ô tô là sản
phẩm của một dây chuyền sản xuất, để sản xuất ra nó, người ta phải chi ra rất
nhiều khoản chi, như: Chi phí nguyên, nhiên, vật liệu; chi phí lao động sống;
khấu hao tài sản cố định v.v Những khoản chi này là những chi phí thực tế
12
phát sinh và thực chất chúng là những khoản chi phí "đầu vào" được hạch

toán một cách chi tiết, đầy đủ và chính xác để phục vụ cho quá trình định giá.
Thế nhưng, khi định giá phí BHNT, một số yếu tố nêu trên phải giả định, như:
Tỷ lệ chết, tỷ lệ hủy bỏ hợp đồng, lãi suất đầu tư, tỷ lệ lạm phát v.v Vì thế,
quá trình định phí ở đây rất phức tạp, đòi hỏi phải nắm vững đặc trưng của
mỗi loại sản phẩm, phân tích dòng tiền tệ, phân tích được chiều hướng phát
triển của mỗi sản phẩm trên thị trường nói chung.
e. Bảo hiểm Nhân thọ ra đời và phát triển trong những điều kiện kinh tế
- xã hội nhất định :
Ở các nước có nền kinh tế phát triển, BHNT đã ra đời và phát triển
hàng trăm năm nay. Ngược lại có một số quốc gia trên thế giới hiện nay vẫn
chưa triển khai được BHNT, mặc dù người ta hiểu rất rõ vai trò và lợi ích của
nó. Để lý giải vấn đề này, hầu hết các nhà kinh tế đều cho rằng, cơ sở chủ yếu
để BHNT ra đời và phát triển là điều kiện kinh tế - xã hội phải phát triển.
Những điều kiện về kinh tế, như :
 Tốc độ tăng trưởng của tổng sản phẩm quốc nội (GDP);
 Tổng sản phẩm quốc nội tính bình quân 1 đầu người dân;
 Mức thu nhập của dân cư;
 Tỷ lệ lạm phát của đồng tiền;
 Tỷ giá hối đoái
Những điều kiện xã hội bao gồm:
 Điều kiện về dân số;
 Tuổi thọ bình quân của người dân;
 Trình độ học vấn;
 Tỷ lệ tử vong của trẻ sơ sinh.
Ngoài điều kiện kinh tế - xã hội, thì môi trường pháp lý cũng ảnh
hưởng không nhỏ đến sự ra đời và phát triển của BHNT. Thông thường ở các
nước, luật kinh doanh bảo hiểm, các văn bản, quy định có tính pháp quy phải
13
ra đời trước khi ngành bảo hiểm phát triển. Luật bảo hiểm và các văn bản có
liên quan sẽ đề cập cụ thể đến các vấn đề, như: Tài chính, đầu tư, hợp đồng,

thuế v.v Đây là những vấn đề mang tính chất sống còn cho hoạt động kinh
doanh BHNT. Chẳng hạn, ở một số nước phát triển như: Anh, Pháp, Đức
v.v Nhà nước thường tạo điều kiện thuận lợi cho các công ty BHNT bằng
các chính sách thuế ưu đãi. Mục đích là nhằm tạo ra cho các cá nhân cơ hội để
tiết kiệm, tự mình lập nên quỹ hưu trí, từ đó cho phép giảm bớt phần trợ cấp
từ Nhà nước. Mặt khác, còn đẩy mạnh được quá trình tập trung vốn trong nền
kinh tế. Cũng vì những mục đích trên, mà một số nước Châu Á như: Ấn Độ,
Hồng Kông, Singapore không đánh thuế doanh thu đối với các nghiệp vụ
BHNT. Sự ưu đãi này là đòn bẩy tích cực để ngành BHNT phát triển.
1.1.2.3 Vai trò của BHNT:
a. Đối với các cá nhân và gia đình :
Bảo hiểm Nhân thọ đã khắc phục được hậu quả rủi ro khi người được
bảo hiểm không may bị ốm đau, bệnh tật hoặc tử vong nhằm ổn định cuộc
sống gia đình và người thân. Đồng thời BHNT còn thỏa mãn được các nhu
cầu như: tiết kiệm, tích lũy khi người được bảo hiểm còn sống để hỗ trợ
những người sống phụ thuộc có điều kiện để học tập, mua sắm, khởi nghiệp
kinh doanh…Ngoài ra BHNT trợ cấp định kỳ còn giúp những người về hưu
hay những người cao tuổi giảm nhẹ gánh nặng phụ thuộc vào con cái, người
thân trong gia đình và phúc lợi xã hội.
b. Đối với nền kinh tế quốc dân :
Bảo hiểm Nhân thọ là một trong những kênh huy động vốn hữu hiệu để
đầu tư góp phần vào việc tăng trưởng và phát triển kinh tế. Với tính chất kết
hợp giữa bảo hiểm và tiết kiệm, các Công ty BHNT không chỉ thực hiện chức
năng bảo hiểm cho những rủi ro, mà họ còn huy động được lượng tiền nhàn
rỗi nằm ở các tầng lớp dân cư trong xã hội và các tổ chức để hình thành quỹ
bảo hiểm. Do thời hạn của các hợp đồng BHNT rất dài, nên nguồn quỹ bảo
14
hiểm ngày càng được tồn tích lại rất lớn. Khi chưa sử dụng đến để chi trả tiền
bảo hiểm thì quỹ BHNT là một trong những nguồn vốn đầu tư dài hạn cho
nền kinh tế. Bên cạnh vai trò cung cấp vốn để đầu tư, BHNT còn góp phần

thực hành tiết kiệm, chống lạm phát và tạo thêm công ăn việc làm cho người
lao động. Ngoài những người làm công ăn lương trong các công ty BHNT,
đội ngũ đại lý, môi giới BHNT cũng ngày càng đông và thực sự đã góp phần
giảm tỷ lệ lao động bị thất nghiệp ở rất nhiều nước trên thế giới. Theo số liệu
thống kê năm 2003, ở Mỹ đã có tới 1,97 triệu lao động, ở Pháp là 0,62 triệu
lao động làm việc cho các Công ty BHNT, ở Việt Nam, tính đến thời điểm
ngày 31/12/2011 đã có hơn 202.900 người làm đại lý cho các Công ty BHNT
(nguồn từ Website thuvienbaohiem.com –Số liệu thống kê thị trường bảo
hiểm nhân thọ năm 2011).
c. Đối với các tổ chức kinh tế - xã hội :
Bảo hiểm Nhân thọ còn thỏa mãn được những nhu cầu cần thiết của họ
trong điều kiện nền kinh tế thị trường. Những nhu cầu của các tổ chức kinh tế
- xã hội là: Tạo ra sự tự chủ về mặt tài chính, khi những người giữ các cương
vị quan trọng của họ bị tử vong. Một doanh nghiệp có thể mua BHNT cho
những người này với số tiền bảo hiểm tương đương với chi phí mà họ phải bỏ
ra để đào tạo hoặc thuê mướn. Không chỉ có thế các doanh nghiệp, các tổ
chức xã hội với biện pháp này họ còn giữ chân và khuyến khích người lao
động, đặc biệt là những người chủ chốt làm việc hết mình, gắn bó với doanh
nghiệp. Bởi lẽ thông qua các hợp đồng BHNT theo nhóm, doanh nghiệp có
thể tạo ra sự đảm bảo cho người lao động và những người sống phụ thuộc một
cuộc sống ổn định khi gặp phải rủi ro. Cung cấp các khoản tiền hưu trí khi hết
tuổi lao động hoặc các khoản phúc lợi bổ sung ngoài Bảo hiểm Xã hội.
1.1.3 Các loại hình bảo hiểm nhân thọ cơ bản:
Tuỳ vào những mục đích và nhu cầu khác nhau, Bảo hiểm Nhân thọ
đáp ứng được rất nhiều mục đích khác nhau của từng đối tượng khách hàng.
15
Nhưng nhìn chung, Bảo hiểm Nhân thọ có 3 loại hình cơ bản và các sản phẩm
bổ trợ như sau:
1.1.3.1 Bảo hiểm trong trường hợp tử vong (bảo hiểm tử kỳ)
Bảo hiểm tử kỳ hay còn được gọi là bảo hiểm sinh mạng có thời hạn: là

loại hình bảo hiểm được ký kết để thanh toán quyền lợi bảo hiểm trong trường
hợp người được bảo hiểm tử vong trong thời hạn bảo hiểm, quyền lợi thanh
toán được trả cho người thụ hưởng quyền lợi bảo hiểm được chỉ định trong
hợp đồng hoặc người thừa kế hợp pháp.
1.1.3.2 Bảo hiểm trong trường hợp còn sống (bảo hiểm sinh kỳ )
Đặc điểm chính của loại hình bảo hiểm này là người bảo hiểm sẽ cam
kết thanh toán cho người được bảo hiểm một khoản tiền nhất định theo định
kỳ hoặc sống đến hết thời hạn hợp đồng bảo hiểm cam kết. Trong suốt quá
trình thực hiện hợp đồng, những rủi ro bất ngờ xảy ra sẽ không được thanh
toán bất cứ quyền lợi bảo hiểm nào.
1.1.3.3 Bảo hiểm nhân thọ hỗn hợp
Thực chất của loại hình bảo hiểm này là bảo hiểm cả trong trường hợp
người được bảo hiểm bị tử vong hay còn sống. Yếu tố tiết kiệm và rủi ro đan
xen nhau vì thế nó được áp dụng rộng rãi ở hầu hết các nước trên thế giới.
Trên thực tế Bảo hiểm Nhân thọ hỗn hợp là loại hình bảo hiểm phổ biến,
chiếm phần lớn trong các loại hình Bảo hiểm Nhân thọ trên thị trường, vì kết
hợp được giữa yếu tố tiết kiệm và yếu tố bảo vệ nên tạo được sự khác biệt và
có lợi thế cạnh tranh so với các loại hình tài chính, tín dụng khác.
1.1.3.4 Các sản phẩm bổ trợ
Khi triển khai các loại hình BHNT, nhà bảo hiểm còn nghiên cứu, đưa
ra các sản phẩm bảo hiểm bổ trợ cho hợp đồng chính nhằm đáp ứng nhu cầu
16
đa dạng của người tham gia bảo hiểm. Các sản phẩm bổ trợ sau đây thường
hay được vận dụng như bảo hiểm thương tật, nằm viện, chi phí phẫu thuật,
bảo hiểm cho người phụ thuộc, bảo hiểm tử vong hay thương tật toàn bộ vĩnh
viễn, bảo hiểm từ bỏ thu phí, bảo hiểm chi phí nằm viện đặc điểm của các
sản phẩm bổ trợ này là khi hợp đồng chính hết hiệu lực thì các điều khoản của
sản phẩm bổ trợ cũng sẽ không còn hiệu lực nữa.
Mặc dù khi áp dụng các sản phẩm bổ trợ này thì mức phí đóng sẽ cao
hơn, nhưng Hợp đồng bảo hiểm nhân thọ đã đáp ứng được nhu cầu đa dạng

của người tham gia bảo hiểm.
1.2 Quản trị rủi ro trong công ty bảo hiểm nhân thọ
1.2.1 Khái niệm về rủi ro
Rủi ro là sự bất trắc xảy ra trong tương lai. Rủi ro vừa mang tính tích
cực vừa mang tính tiêu cực. Rủi ro có thể mang tới những mất mát, tổn thất,
nguy hiểm cho con người nhưng cũng có thể mang đến những cơ hội. Cả
doanh nghiệp và cá nhân đều đối mặt với 2 loại rủi ro là rủi ro thuần túy và
rủi ro đầu cơ.
1.2.1.1 Rủi ro thuần túy
Rủi ro thuần túy chỉ liên quan đến khả năng tổn thất hoặc không tổn
thất mà không liên quan đến khả năng thu lời, cho dù rủi ro đó có xảy ra hay
không. Một ví dụ của rủi ro thuần túy là khả năng bạn có thể bị tàn tật. Nếu
bạn không thể làm việc được, bạn sẽ bị thiệt hại về tài chính. Nói cách khác,
nếu bạn không bị tàn tật thì bạn sẽ không gặp rủi ro về tài chính. Khả năng
thiệt hại về tài chính mà không có khả năng thu lời gọi là rủi ro thuần túy và
là loại rủi ro duy nhất được bảo hiểm. Mục đích của bảo hiểm là bồi thường
mất mát về tài chính mà không tạo cơ hội cho việc thu lời.
1.2.1.2 Rủi ro đầu cơ
17
Rủi ro đầu cơ là những rủi ro dẫn đến 3 kết quả có khả năng xảy ra:
Tổn thất, thu lời hoặc không thay đổi. Ví dụ, bạn đầu cơ vào cổ phiếu nhằm
thu lợi khi giá trị cổ phiếu tăng. Đồng thời, bạn cũng có thể chịu tổn thất nếu
giá cổ phiếu giảm. Hoặc khả năng cuối cùng là bạn có thể không thu lợi hay
chịu tổn thất nếu giá trị của cổ phiếu không thay đổi.
1.2.2 Quản trị rủi ro
Tất cả chúng ta đều phải đối mặt với rủi ro. Chúng ta gặp rủi ro khi đi
lại hàng ngày, khi tham gia hoạt động giải trí và ngay cả khi chúng ta thở.
Một số rủi ro thì rất lớn, một số khác thì không. Quản trị rủi ro là quá trình
bao gồm các hoạt động nhằm làm hạn chế, loại bỏ các rủi ro, hoặc khắc phục
các hậu quả mà rủi ro đã gây ra đối với hoạt động kinh doanh từ đó tạo điều

kiện cho việc sử dụng tối ưu các nguồn lực của doanh nghiệp, giảm đến mức
thấp nhất các thiệt hại về người và của cải. Mục tiêu của quản trị rủi ro không
phải để triệt tiêu rủi ro. Nếu quản trị rủi ro tốt khi điều tồi tệ xảy ra, quản trị
rủi ro đã được dự báo và giảm thiểu các ảnh hưởng tiêu cực của chúng. Quản
trị rủi ro không đơn thuần vì mục đích phòng ngừa, càng không thể triệt tiêu
rủi ro mà là chủ động kiểm soát rủi ro có hiệu quả. Để loại trừ hoặc giảm
thiểu mức độ rủi ro, người ta có thể sử dụng các phương thức xử lý rủi ro sau:
1.2.2.1 Né tránh rủi ro
Phương pháp quản trị rủi ro đơn giản và dễ dàng nhất là né tránh rủi ro.
Chúng ta có thể tránh rủi ro tai nạn máy bay bằng cách không đi máy bay
hoặc chúng ta có thể tránh rủi ro tổn thất tài chính trên thị trường cổ phiếu
bằng cách giữ tiền trong tủ. Tuy nhiên, đôi khi né tránh rủi ro lại không hiệu
quả và thiết thực.
1.2.2.2 Kiểm soát rủi ro
18
Chúng ta có thể cố gắng kiểm soát rủi ro bằng cách thực hiện các biện
pháp để ngăn ngừa hoặc giảm bớt tổn thất. Ví dụ, để có thể giảm khả năng
xảy ra hỏa hoạn bằng cách cấm hút thuốc hoặc không đặt các vật liệu dễ cháy
trong cửa hàng. Ngoài ra, người ta cũng có thể trang bị bình chữa cháy tự
động để giảm mức độ thiệt hại khi xảy ra cháy. Bằng cách này hoặc cách
khác, người ta có thể giảm khả năng xảy ra tổn thất và giảm mức độ nghiêm
trọng của rủi ro tiềm ẩn.
1.2.2.3 Chấp nhận rủi ro
Phương pháp thứ ba trong quản trị rủi ro là chấp nhận hoặc giữ lại rủi
ro. Nói một cách đơn giản, chấp nhận rủi ro là nhận trách nhiệm về tài chính
của những rủi ro đó. Đôi khi, có những trường hợp rủi ro là không đáng kể
như việc mất một chiếc áo mưa thì rủi ro tài chính đó không đủ lớn để chúng
ta phải bận tâm vì chúng ta sẵn sàng chấp nhận bỏ tiền mua một cái ô mới. Cá
nhân và doanh nghiệp đôi khi quyết định chấp nhận tất cả thiệt hại của một
rủi ro tài chính nào đó thay vì mua bảo hiểm cho rủi ro đó. Trong trường hợp

này, cá nhân và doanh nghiệp đó đã dùng phương pháp tự bảo hiểm. Tự bảo
hiểm là một kỹ thuật quản lý rủi ro theo đó cá nhân và doanh nghiệp chấp
nhận thiệt hại tài chính khi xảy ra rủi ro. Ví dụ, nhiều chủ doanh nghiệp trích
một phần lương của toàn công ty để trả chi phí y tế cho nhân viên của mình bị
đau ốm. Hoặc một cách khác, các cá nhân và doanh nghiệp thường sử dụng là
chỉ chấp nhận một phần rủi ro. Ví dụ, một chủ doanh nghiệp có thể tự bảo
hiểm một phần chi phí y tế bằng cách thanh toán các chi phí y tế cho nhân
viên của mình đến một số tiền xác định và mua bảo hiểm cho phần chi phí
vượt quá số tiền nói trên. Nhiều chủ doanh nghiệp hiện nay sử dụng phương
pháp tự bảo hiểm chương trình bảo hiểm sức khỏe của nhân viên.
1.2.2.4 Chuyển giao rủi ro
Chuyển giao rủi ro là phương pháp thứ 4 trong quản trị rủi ro. Khi bạn
chuyển giao rủi ro cho bên khác tức là bạn đang chuyển trách nhiệm tài chính

×