Tải bản đầy đủ (.pdf) (94 trang)

hát triền nguồn nhân lực chất lượng cao ở Quận Hà Đông thành phố Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.68 MB, 94 trang )

MỤC LỤC
Trang
Danh mục các chữ viết tắt i
Danh mục các bảng ii
MỞ ĐẦU 1
1. Tính cấp thiết của đề tài 1
2. Tình hình nghiên cứu 2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 4
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 5
6. Đóng góp mới của luận văn 6
7. Bố cục của luận văn 6
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN PHÁT TRIỂN NGUỒN
NHÂN LỰC CHẤT LƯỢNG CAO ĐÁP ỨNG YÊU CẦU PHÁT TRIỂN
KINH TẾ - XÃ HỘI
1.1. Lý luận về nguồn nhân lực 7
1.1.1 Khái niệm và vai trò của nguồn nhân lực 7
1.1.1.1 Nguồn nhân lực (Human Resoures) 7
1.1.1.2 Vài nét về nguồn nhân lực chất lượng cao 17
1.1.1.3 Vai trò của nguồn nhân lực đối với phát triển kinh tế - xã hội 18
1.1.2. Phát triển nguồn nhân lực (PTNNL) 20
1.1.2.1 Quan niệm về PTNNL 20
1.1.2.2 Các yếu tố tác động đến phát triển NNL 20
1.2. Kinh nghiệm phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao cho phát
triển kinh tế xã hội của một số quận Thành phố Hà Nội 31
1.2.1. Kinh nghiệm của huyện Sóc Sơn 31
1.2.2. Kinh nghiệm của huyện Thường Tín 34
Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC CHẤT
LƯỢNG CAO Ở QUẬN HÀ ĐÔNG GIAI ĐOẠN 2000 – 2010
2.1. Khái quát chung về điều kiện tự nhiên, kinh tế văn hoá và xã hội
quận Hà Đông thành phố Hà Nội liên quan đến phát triển nguồn nhân


lực 37
2.1.1. Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên 37
2.1.2. Điều kiện kinh tế, văn hoá, giáo dục 39
2.2. Đánh giá về thực trạng nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực
chất lượng cao ở quận Hà Đông thành phố Hà Nội trong thời gian qua
43
2.2.1. Tình hình nhân lực và phát triển nhân lực ở quận Hà Đông 43
2.2.1.1 Quy mô lực lượng lao động 43
2.2.1.2 Về chất lượng nguồn nhân lực 45
2.2.1.3 Sự phân bổ nhân lực trên địa bàn quận Hà Đông thành phố Hà
Nội 50
2.2.1.4 Đóng góp vào sự phát triển kinh tế ở quận Hà Đông 53
2.2.2. Khái quát về thực trạng nguồn nhân lực và phát triển nguồn
nhân lực ở quận Hà Đông 55
Chương 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU PHÁT
TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC CHẤT LƯỢNG CAO CHO PHÁT TRIỂN
KINH TẾ - XÃ HỘI
Ở QUẬN HÀ ĐÔNGTHÀNH PHỐ HÀ NỘI ĐẾN NĂM 2020
3.1. Bối cảnh tác động đến phát triển kinh tế - xã hội ở thành phố Hà
Nội nói chung và quận Hà Đông nói riêng 60
3.1.1. Bối cảnh liên quan đến phát triển nguồn nhân lực 60
3.1.2. Phương hướng phát triển nhân lực chất lượng cao ở quận Hà Đông
63
3.1.2.1 Những căn cứ cho việc xác định phương hướng 63
3.1.2.2 Mục tiêu, phương hướng phát triển kinh tế - xã hội nói chung,
nguồn nhân lực nói riêng của quận Hà Đông 66
3.2. Giải pháp phát triển nhân lực chất lượng cao ở quận Hà Đông
thành phố Hà Nội đến năm 2020 68
3.2.1. Nhận thức về vai trò nguồn nhân lực chất lượng cao cho phát triển
kinh tế - xã hội 68

3.2.2. Quy hoạch phát triển NNL chất lượng cao trên cơ sở hoàn thiện
quy hoạch xây dựng phát triển kinh tế - xã hội quận Hà Đông69
3.2.3. Nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo và đào tạo nghề 73
3.2.4. Xuất khẩu lao động ở địa bàn nông thôn và giải quyết việc làm
cho người lao động 73
3.2.4.1 Đẩy mạnh xuất khẩu lao động nông thôn trong các làng nghề 73
3.2.4.2 Giải quyết việc làm cho lao động trong các làng nghề 75
3.2.5 Các chính sách thu hút sử dụng, đãi ngộ đối với nguồn nhân lực
chất lượng cao nhất là đội ngũ trí thức của quận Hà Đông 76
KẾT LUẬN 81
TÀI LIỆU THAM KHẢO 83

i


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT


TT
Tên viết
tắt
Nguyên nghĩa
1
ASEAN
Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á
(Association of Southeast Asia Nations)
2
CIEM
Viện nghiên cứu quản lý Trung ương
(Central Institute for Economic Management)

3
FDI
Đầu tư trực tiếp nước ngoài
(Foreign Direct Investment)
4
KT- XH
Kinh tế - xã hội
5
NNL
Nguồn nhân lực
6
WTO
Tổ chức thương mại thế giới
(World Trade Organization)
7
KHCN
Khoa học công nghệ
8
CMKT
Chuyên môn kỹ thuật
9
XHCN
Xã hội chủ nghĩa









ii

DANH MỤC CÁC BẢNG
TT
Tên bảng
Trang
Bảng 1.1
Chỉ số HDI của Việt Nam và một số nước
trong khu vực
22
Bảng 1.2
Một số chỉ tiêu về lao động củahuyện
Thường Tín
34
Bảng 2.1
Số người từ 15 tuổi trở lên của quận Hà Đông chia
theo giới tính và độ tuổi (theo thời điểm 1/6/2010)
44
Bảng 2.2
Số người từ 15 trở lên của quận Hà Đông chia
theo độ tuổi và trình độ văn hóa thời điểm
1/6/2010
45
Bảng 2.3
Số người từ 15 tuổi trở lên của quận Hà Đông thời
điểm 1/6/2010 chia theo độ tuổi và trình độ
chuyên môn
47
Bảng 2.4

Cơ cấu số người từ 15 tuổi trở lên của quận Hà
Đông thời điểm 1/6/2010 chia theo nhóm tuổi và
trình độ chuyên môn
48
Bảng 2.5
Cơ cấu lao động theo trình độ chuyên môn kỹ
thuật của quận Hà Đông giai đoạn 2006 - 2010
49
Bảng 2.6
Cơ cấu lao động theo nhóm ngành kinh tế của
quận Hà Đông giai đoạn 2006 – 2010
50
Bảng 2.7
Cơ cấu lao động theo thành phần kinh tế của quận
Hà Đông giai đoạn 2006-2010
51
Bảng 2.8
Cơ cấu lao động khu vực thành thị và nông thôn
của quận Hà Đông giai đoạn 2006 – 2010
53
Bảng 2.9
Cơ cấu tổng sản phẩm trong nước (GDP) của Hà
Đông theo giá thực tế
54
Bảng 3.1
Số lượng cán bộ lãnh đạo quản lý trẻ cần bổ sung
theo từng năm của quận Hà Đông
79

1



1. 
Qua hơn 20 năm đổi mới nền kinh tế, chuyển từ nền kinh tế khép kín
sang kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cơ cấu kinh tế nước ta
đang chuyển dịch theo hướng hiện đại. Đặc biệt trong bối cảnh hiện nay khi
kinh tế tri thức đang từng bước phát triển ở nước ta thì cùng với nó là sự
phát triển của nguồn nhân lực chất lượng cao. Theo số liệu của cuộc điều tra
dân số năm 2009, nước ta là một trong số ít quốc gia trong khu vực có tỷ lệ
về cơ cấu độ tuổi của dân số và lao động khá lý tưởng (trên 50% số dân
trong độ tuổi lao động từ 15 – 60 tuổi, và 45% trong tổng số lao động có độ
tuổi dưới 54). Lực lượng lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật ở nước
ta đã tăng từ 7,6% (năm 1986) lên gần 30% (năm 2007). Người lao động
Việt Nam nhìn chung có những phẩm chất vượt trội như thông minh, cần
cù, chịu khó, khả năng nắm bắt các kỹ năng lao động, đặc biệt là kỹ năng sử
dụng các công nghệ hiện đại tương đối nhanh. Đây là lợi thế cạnh tranh
quan trọng của nguồn nhân lực nước ta trong quá trình toàn cầu hóa và phát
triển nền kinh tế tri thức.
Tuy nhiên so với yêu cầu của nền kinh tế tri thức thì chất lượng nguồn
nhân lực ở nước ta hiện nay còn nhiều bất cập và hạn chế. Hiện nay Việt
Nam mới chỉ đáp ứng được 35 – 40% nhu cầu nhân lực chất lượng cao của
doanh nghiệp. Thị trường nhân lực chất lượng cao của Việt Nam đang đứng
trước những hạn chế to lớn về số lượng, chất lượng và cơ cấu.
Quận Hà Đông là một trong những quận mới thành lập của Thủ đô theo
Nghị quyết số 19/NQ – CP ngày 8/5/2009 của Chính phủ. Với diện tích
4791,74 ha, 198.687 nhân khẩu, là một quận có nhiều tiềm năng phát triển.
Lực lượng lao động chiếm trên 50% dân số, song chất lượng và cơ cấu NNL
chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của quận. Để đáp ứng

2

yêu cầu phát triển kinh tế xã hội trong thời gian tới, một trong những mục
tiêu của quận là nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đặc biệt là nhân lực
chất lượng cao, nhất là giai đoạn sau sát nhập với Thủ đô thì yêu cầu về
nguồn nhân lực chất lượng cao là rất lớn. Vì thế việc tìm hiểu thực trạng
nguồn nhân lực chất lượng cao ở quận Hà Đông từ đó đưa ra một số giải
pháp phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu phát triển
kinh tế - xã hội ở quận Hà Đông là cần thiết, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn.
2. 
Nghiên cứu về nguồn nhân lực và nhân lực chất lượng cao luôn là đề tài
quan tâm của nhiều cơ quan, tổ chức và các nhà khoa học. Có thể nêu ra các
công trình nghiên cứu tiêu biểu về phát triển NNL chất lượng cao như sau:
(1) Cơ hội và thách thức đối với việc đào tạo, phát triển nguồn nhân lực
Việt Nam trong giai đoạn hội nhập kinh tế -Trương Thu Hà, tạp chí Khoa
học xã hội Việt Nam, số 4 năm 2005.
Tác giả đã phân tích những cơ hội và thách thức của giáo dục nước nhà
trong việc đào tạo và phát triển nguồn nhân lực Việt Nam trong giai đoạn
hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời đưa ra một số các giải pháp để có thể
tranh thủ được cơ hội, vượt qua thách thức trong việc đào tạo và phát triển
nguồn nhân lực trong giai đoạn sắp tới.
(2) Các giải pháp chủ yếu nhằm phát triển nguồn nhân lực khoa học công
nghệ phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa : Luận án Tiến sĩ kinh
tế của Phạm Văn Quý năm 2005. Tác giả đã phân tích tầm quan trọng của
nguồn nhân lực khoa học công nghệ phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước và từ đó đưa ra các giải pháp chủ yếu nhằm phát triển
nguồn nhân lực khoa học công nghệ ở nước ta hiện nay.
(3) Viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương: Trung tâm thông tin tư
liệu: Phát huy nhân tố con người để phát triển bền vững [63].

3
Các tác giả tìm hiểu nhận thức tổng quát về nhân tố con người, rút ra bài

học kinh nghiệm của một số nước như Thụy Điển, Nhật Bản, Trung Quốc,
Mỹ. Từ đó các tác giả phân tích thành tựu và hạn chế trong phát triển con
người trong công cuộc đổi mới ở Việt Nam hiện nay và đưa ra một số kiến
nghị nhằm thúc đẩy nhân tố con người ở Việt Nam.
(4) Đặng Bá Lãm, Trần Khánh Đức, Phát triển nhân lực công nghệ ưu tiên ở
nước ta trong thời kỳ công nghiệp hóa – hiện đại hóa, Nxb Giáo dục,
H.2002. Tác giả đã phân tích nhân lực công nghệ ưu tiên, tập trung vào
những ngành công nghệ ưu tiên cần thiết trong tiến trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước như công nghệ sinh học, công nghệ năng lượng…và
đưa ra giải pháp phát triển nhân lực công nghệ ưu tiên ở nước ta.
(5) Viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương: Trung tâm thông tin tư
liệu: Phát triển nguồn nhân lực khoa học công nghệ trong thời kỳ công
nghiệp hóa, hiện đại hóa [58].
Các tác giả đã nêu khái quát vai trò của nguồn nhân lực khoa học công
nghệ, thực trạng nguồn nhân lực khoa học công nghệ và giải pháp phát triển
nguồn nhân lực khoa học công nghệ ở Việt Nam.
Và nhiều công trình nghiên cứu khác.
Các công trình nghiên cứu nêu trên đã đề cập đến những vấn đề lý luận
về NNL, phát triển NNL, vai trò của NNL nhất là NNL chất lượng cao, các
giải pháp cần thiết để phát triển NNL chất lượng cao…
Như vậy các nghiên cứu về nguồn nhân lực, đặc biệt là nhân lực chất
lượng cao ở một quận nhiều tiềm năng phát triển trong tương lai như quận Hà
Đông thành phố Hà Nội còn rất ít. Chính vì vậy em đã chọn đề tài “
và đề
tài này không trùng lặp với các công trình khoa học đã công bố.
3. 

4
Mục đích nghiên cứu của luận văn là trên cơ sở hệ thống hóa lý luận về
nguồn nhân lực, nhân lực chất lượng cao, đánh giá thực trạng nguồn nhân

lực chất lượng cao ở quận Hà Đông thành phố Hà Nội những năm gần đây
và từ đó đưa ra các giải pháp nhằm phát triển nguồn nhân lực chất lượng
cao đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội quận đến năm 2020.
Nhiệm vụ nghiên cứu:
 Hệ thống hóa lý luận về nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất
lượng cao.
 Nghiên cứu kinh nghiệm của một số quận về phát triển nguồn nhân lực
chất lượng cao đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội.
 Đánh giá thực trạng nguồn nhân lực chất lượng cao ở quận Hà Đông
thời gian qua.
 Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực quận Hà Đông trong giai đoạn tới.
4. 
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là nguồn nhân lực chất lượng cao
phục vụ phát triển kinh tế - xã hội quận Hà Đông thành phố Hà Nội.
Phạm vi nghiên cứu: nghiên cứu nguồn nhân lực chất lượng cao ở quận
Hà Đông thành phố Hà Nội từ năm 2000 đến năm 2010.
5. 
Cơ sở phương pháp luận của luận văn là chủ nghĩa duy vật biện chứng
và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Trong quá trình nghiên cứu, tác giả luận văn
sử dụng các phương pháp cụ thể:
- Phương pháp phân tích tổng hợp: tức là phân tích cả về mặt định tính và
định lượng các vấn đề lý luận thực tiễn rồi tổng hợp, khái quát làm rõ bản
chất của vấn đề cần nghiên cứu

5
- Phương pháp thống kê so sánh: Luận văn sử dụng phương pháp này để
tính toán các số liệu, các chỉ tiêu, phản ánh các chỉ tiêu về kết quả phát triển
NNL, các số liệu điều tra khảo sát được phân tích, so sánh để làm rõ thực
trạng phát triển NNL, nhất là NNL chất lượng cao ở quận Hà Đông.

- Phương pháp thu thập và xử lý thông tin: chủ yếu là thu thập số liệu thứ
cấp: dựa vào các nguồn tư liệu, số liệu đã có liên quan đến đề tài như: số
liệu thống kê, các kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học đã công
bố, các báo cáo của UBND các cấp về phát triển kinh tế - xã hội…liên quan
đến đề tài. Trên cơ sở đó vận dụng phương pháp phân tích, đánh giá phù
hợp với nội dung và phạm vi nghiên cứu của luận văn.
- Phương pháp mô hình hóa: tức là thể hiện các kết quả nghiên cứu bằng
các bảng, biểu đồ, sơ đồ, đồ thị….
6. 
Trên cơ sở lý luận về nguồn nhân lực chất lượng cao luận văn phân tích
thực trạng nguồn nhân lực chất lượng cao quận Hà Đông thành phố Hà Nội
giai đoạn 10 năm qua, từ đó đề xuất một số giải pháp chủ yếu phát triển
nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội
quận Hà Đông trong thời gian tới.
6. B
Ngoài phần mở đầu, kết luận, nội dung luận văn gồm 3 chương, 6 tiết
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn phát triển nguồn nhân lực chất
lượng cao đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội.
Chương 2: Thực trạng phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao quận Hà
Đông Thành phố Hà Nội
Chương 3: Phương hướng và giải pháp chủ yếu phát triển nguồn nhân
lực chất lượng cao cho phát triển kinh tế - xã hội ở quận Hà Đông thành phố
Hà Nội đến năm 2020.

6

 

- 


1.1.1 Khái niệm và vai trò của nguồn nhân lực:
1.1.1.1 Nguồn nhân lực (Human Resoures)
Nguồn nhân lực (NNL) và phát triển NNL là vấn đề cốt yếu trong sự
phát triển của mỗi quốc gia, nhất là trong điều kiện của cuộc cách mạng khoa
học và công nghệ, trong xu thế toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế. Vì
thế, nhiều quốc gia đã xây dựng chiến lược phát triển NNL của mình. Cho đến
nay các khái niệm NNL đang được hiểu theo nhiều nghĩa rộng hẹp khác nhau.
Về ý nghĩa sinh học, NNL là nguồn lực sống, là thực thể thống nhất của
cái sinh vật và cái xã hội. C. Mác đã khẳng định: "Trong tính hiện thực của nó,
bản chất con người là tổng hòa các quan hệ xã hội". Về ý nghĩa kinh tế, nguồn
nhân lực là "tổng hợp các năng lực lao động trong mỗi con người của một quốc
gia, một vùng lãnh thổ, địa phương, đã được chuẩn bị ở mức độ nhất định và có
khả năng huy động vào quá trình phát triển kinh tế xã hội của đất nước hoặc
vùng địa phương cụ thể" [4].
Theo quan niệm của ILO thì lực lượng lao động là dân số trong độ tuổi
lao động thực tế có việc làm và những người thất nghiệp. Đây là khái niệm về
nguồn nhân lực theo nghĩa tương đối hẹp, coi nguồn nhân lực là nguồn lao
động hoặc là toàn bộ lực lượng lao động trong nền kinh tế quốc dân. Trong số
liệu thống kê, Tổng cục Thống kê Việt Nam qui định nguồn nhân lực xã hội là
những người trong độ tuổi lao động đang có việc làm và cả những người ngoài
độ tuổi lao động thực tế đang làm việc và những người thất nghiệp.

7
Theo các tác giả của cuốn "Nguồn lực và động lực phát triển trong nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam" do GS. TSKH Lê
Du Phong chủ biên thì "Nguồn lực con người được hiểu là tổng hoà trong thể
thống nhất hữu cơ giữa năng lực xã hội của con người (thể lực, trí lực, nhân
cách) và tính năng động của con người. Tính thống nhất đó được thể hiện ở quá
trình biến nguồn lực con người thành vốn con người” [29, tr.14].
Những quan điểm trên, dưới góc độ nào đấy thì nguồn nhân lực được

hiểu là lực lượng lao động xã hội, là những người lao động cụ thể và chỉ thuần
túy về mặt số lượng người lao động.
Theo quan điểm của kinh tế học phát triển, NNL là nguồn tài nguyên
nhân sự của quốc gia hoặc của một tổ chức, là vốn nhân lực. Ở tầm vĩ mô đó là
nguồn lực xã hội, ở tầm vi mô đó là một tập hợp của rất nhiều cá nhân, nhân
cách khác nhau với những nhu cầu và tâm lý khác nhau, là toàn bộ đội ngũ
nhân viên của tổ chức, vừa có tư cách là khách thể của hoạt động quản lý vừa
là chủ thể hoạt động và là động lực của tổ chức đó. Từ góc độ hạch toán kinh
tế, coi đó là vốn lao động (human capital), với phần đóng góp chi phí của
nguồn vốn lao động trong sản phẩm sản xuất ra. Từ góc độ của kinh tế phát
triển, người lao động trong một tổ chức được coi là nguồn nhân lực với những
khả năng thay đổi về số lượng và chất lượng của đội ngũ trong quá trình phát
triển của tổ chức, hay còn gọi là "vốn nhân lực, được hiểu là tiềm năng, khả
năng phát huy tiềm năng của người lao động, là cái mang lại nhiều lợi ích hơn
trong tương lai so với những lợi ích hiện tại" [10]
Theo định nghĩa của UNDP: "NNL là trình độ lành nghề, là kiến thức
và năng lực của toàn bộ cuộc sống con người hiện có thực tế hoặc đang là tiềm
năng để phát triển kinh tế - xã hội trong một cộng đồng". Như vậy, NNL là
tổng thể các tiềm năng lao động con người của một quốc gia đã được chuẩn bị
ở một mức độ nhất định, có khả năng huy động vào quá trình phát triển kinh tế-

8
xã hội của đất nước; "tiềm năng đó bao hàm tổng hòa các năng lực về thể lực,
trí lực, nhân cách con người của một quốc gia, đáp ứng với một cơ cấu nhất
định của lao động do nền kinh tế đòi hỏi. Thực chất đó là tiềm năng của con
người về số lượng, chất lượng và cơ cấu" [10, tr. 9]. Tiềm năng về thể lực con
người thể hiện qua tình trạng sức khỏe của cộng đồng, tỷ lệ sinh, mức độ dinh
dưỡng của xã hội. Cơ cấu dân số thể hiện qua tháp tuổi của dân số. Năng lực
thế chất của con người là nền tảng và cơ sở để các năng lực về trí tuệ và nhân
cách phát triển. Tiềm năng về trí lực là trình độ dân trí và trình độ chuyên môn

kỹ thuật hiện có, cũng như khả năng tiếp thu tri thức, khả năng phát triển tri
thức của nguồn nhân lực. Năng lực về nhân cách liên quan đến truyền thống
lịch sử và nền văn hóa của từng quốc gia. Nó được kết tinh trong mỗi con
người và cộng đồng, tạo nên bản lĩnh và tính cách đặc trưng của con người lao
động trong quốc gia đó.
Quan điểm trên đây nhìn nhận NNL một cách toàn diện, coi nguồn
nhân lực không chỉ trên giác độ số lượng (nguồn lực lao động) mà cả về chất
lượng (tiềm năng phát triển). Theo cách tiếp cận này, cho rằng nguồn nhân lực
là tất cả các kỹ năng và năng lực của con người liên quan tới sự phát triển của
mỗi cá nhân và của quốc gia. Các nguồn lực cơ bản của sự phát triển quốc gia
thường có là: nguồn lực tài chính, nguồn lực con người và nguồn lực vật chất;
trong đó nguồn nhân lực có vai trò quyết định. Là "lao động sống" (Các Mác),
nó làm cho các nguồn lực khác trở nên hữu dụng. Ngày nay thế giới đang bước
vào kỷ nguyên của nền văn minh thứ 5, trong đó trí tuệ và nền kinh tế trí thức
đang là cột trụ của sự phát triển. Các thành quả khoa học trở thành yếu tố sản
xuất và trở thành cấu phần của sản phẩm. Tỷ trọng hàm lượng chất xám trong
mỗi sản phẩm cao hay thấp thể hiện khả năng cạnh tranh của ngành nghề hay
quốc gia đó. Vì vậy, mặt chất lượng của nguồn nhân lực, yếu tố trình độ
chuyên môn, kỹ năng chuyên nghiệp, nhân cách, phẩm chất là những tiêu chí

9
quan trọng trong việc đánh giá thực trạng và khả năng phát triển nguồn nhân
lực của tổ chức hoặc của từng quốc gia.
Do đó, NNL tiếp cận dưới giác độ phổ quát của Kinh tế Chính trị được
hiểu là: Tổng hòa thể lực và trí lực tồn tại trong toàn bộ lực lượng lao động xã
hội của một quốc gia, trong đó kết tinh truyền thống và kinh nghiệm lao động
sáng tạo của một dân tộc trong lịch sử được vận dụng để sản xuất ra của cải
vật chất và tinh thần phục vụ cho nhu cầu hiện tại và tương lai của đất nước.
NNL được thể hiện trên 2 giác độ: số lượng và chất lượng.
Số lượng NNL là những con người trong độ tuổi lao động và có khả

năng lao động, nó biểu hiện thông qua các chỉ tiêu quy mô và tốc độ tăng NNL.
Các chỉ tiêu này có quan hệ với quy mô dân số và tỷ lệ tăng dân số.
Chất lượng NNL là trạng thái nhất định của NNL thể hiện mối quan hệ
giữa các yếu tố cấu thành bản chất bên trong của NNL. Chất lượng NNL không
chỉ là chỉ tiêu phản ánh trình độ phát triển kinh tế, mà còn là chỉ tiêu phản ảnh
trình độ phát triển về mọi mặt đời sống xã hội. Bởi lẽ, chất lượng NNL cao sẽ
tạo ra động lực mạnh mẽ hơn với tư cách không chỉ là nguồn lực của sự phát
triển mà còn thể hiện mức độ văn minh của một xã hội nhất định.
Chất lượng NNL thể hiện thông qua một hệ thống chỉ tiêu, trong đó các
chỉ tiêu chủ yếu: thể lực, trí lực, trình độ văn hóa, trình độ chuyên môn nghiệp
vụ, kỹ năng lao động, phẩm chất đạo đức, năng lực tiếp cận khoa học và công
nghệ…
(1). Năng lực về thể chất (thể lực) của nguồn nhân lực
Nói đến thể lực là nói đến tình trạng sức khỏe của NNL, sức khỏe là sự
phát triển hài hòa của con người về cả thể chất lẫn tinh thần. Đó là sức khỏe cơ
thể và sức khỏe tinh thần. Trong hiến chương của tổ chức y tế thế giới đã nêu:
"Sức khỏe là một trạng thái hoàn toàn thỏa mái về thể chất, tâm thần và xã hội,
chứ không phải là không có bệnh hay thương tật”. Quan niệm về chất lượng

10
NNL mà đề tài phân tích là năng lực tinh thần và năng lực thể chất của NNL,
tức là nói tới sức mạnh và tính hiệu quả của những khả năng đó, trong đó năng
lực thể chất chiếm vị trí vô cùng quan trọng. Nếu con người có thể lực tốt thì
mới phát huy được lợi thế của sức mạnh trí tuệ trong phát triển kinh tế xã hội
và ngược lai. Sức khỏe là điều kiện tiên quyết để duy trì và phát triển trí tuệ, là
phương tiện để truyền tải tri thức vào hoạt động thực tiễn, để biến tri thức
thành sức mạnh vật chất phát triển KT - XH. Do đó, sức khỏe là yếu tố quan
trọng của NNL, nó trở thành một chỉ tiêu quan trọng để đánh giá chất lượng
NNL. Tình trạng sức khỏe được phản ánh bằng một hệ thống các chỉ tiêu cơ
bản về sức khỏe như: Chiều cao, cân nặng, tuổi thọ, các chỉ tiêu về tình hình

bệnh tật, các chỉ tiêu về cơ sở vật chất và các điều kiện về bảo vệ và chăm sóc
sức khỏe. Cho nên thể lực của NNL được hình thành, duy trì và phát triển bởi
chế độ nuôi dưỡng, chế độ chăm sóc sức khỏe…Vì thế, thể chất của NNL phụ
thuộc vào trình độ phát triển KT - XH, phân phối thu nhập, cũng như chính
sách xã hội trước mắt và lâu dài của mỗi quốc gia, nếu các vấn đề liên quan
đến sức khỏe, dinh dưỡng không được giải quyết tốt sẽ có ảnh hưởng tiêu cực
đến chất lượng nguồn nhân lực cả về thể lực lẫn trí tuệ.
Thể lực tốt thể hiện ở sự nhanh nhẹn, tháo vát, bền bĩ dẻo dai của sức
mạnh cơ bắp trong công việc. Thể lực là điều kiện quan trọng để phát triển trí
lực. Trình độ KT - XH càng phát triển càng đòi hỏi cao ở thể lực, bởi nếu
không có thể lực và tinh thần tốt khó có thể chịu được sức căng thẳng của công
việc, nhịp độ cuộc sống trong thế giới hiện đại, không thể tìm tòi, sáng tạo ra
những tri thức mới và vật hóa các tri thức đó thành sản phẩm có ích. Do đó cần
cải thiện, phát triển nòi giống, nâng cao thể lực tầm vóc và thể trạng nhằm phát
triển cân đối, hài hòa giữa thể lực và trí lực con người Việt Nam.
Đồng thời với việc nâng cao tầm vóc là không ngừng cải thiện thể trạng
đồng thời đảm bảo sự phát triển hài hòa giữa chiều cao và trọng lượng cơ thể,

11
tăng cường trạng thái sức khỏe chung, đặc biệt là sự phát triển hài hòa về tố chất
thể lực cần thiết (sức bền, sức mạnh, sức nhanh, mềm dẻo, khéo léo…) cho
người lao động, học tập, sáng tạo và các hoạt động khác của mỗi người.
(2) Năng lực tinh thần (trí lực) của nguồn nhân lực
Chất lượng NNL được phản ánh chủ yếu thông qua sức mạnh trí tuệ, đây
là yếu tố quan trọng nhất quyết định chất lượng của NNL, đặc biệt trong điều
kiện trí tuệ hóa lao động hiện nay. Trí lực của NNL biểu hiện ở năng lực sáng
tạo, khả năng thích nghi và kỹ năng lao động nghề nghiệp của người lao động
thông qua các chỉ số: trình độ văn hóa, dân trí, học vấn trung bình của một
người dân; số lao động đã qua đào tạo, trình độ và chất lượng đào tạo; mức độ
lành nghề (kỹ năng, kỹ xảo…) của lao động; trình độ tổ chức quản lý sản xuất

kinh doanh; năng suất, chất lượng hiệu quả của lao động…
- Trình độ học vấn: là chỉ tiêu đầu tiên biểu hiện trí lực của NNL, bởi lẽ
nó thể hiện sự hiểu biết của người lao động về những kiến thức phổ thông về tự
nhiên và xã hội, là khả năng về tri thức và kỹ năng để có thể tiếp thu những
kiến thức cơ bản, thực hiện những việc đơn giản để duy trì cuộc sống.
Trình độ học vấn được cung cấp thông qua hệ thống giáo dục chính quy,
không chính quy, qua quá trình học tập suốt đời của mỗi cá nhân. Trình độ học
vấn của NNL được đánh giá qua các chỉ tiêu sau:
Thứ nhất: Tỷ lệ người biết chữ trong tổng dân số từ 15 tuổi trở lên hoạt
động kinh tế.
Tỷ lệ người biết chữ trong tổng dân số từ 15 tuổi trở lên hoạt động kinh
tế là số % những người từ 15 tuổi trở lên hoạt động kinh tế có thể đọc, viết và
hiểu những câu đơn giản của tiếng mẹ đẻ hoặc tiếng nước ngoài so với tổng số
dân số 15 tuổi trở lên hoạt động kinh tế.

12
Chỉ tiêu này được sử dụng để đánh giá trình độ văn hóa ở mức tối thiểu
của nguồn nhân lực. Các thống kê lao động và việc làm trong nước sử dụng chỉ
tiêu này.
Thứ hai: Tỷ lệ dân số từ 15 tuổi trở lên hoạt động kinh tế có trình độ văn
hóa tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông
Tỷ lệ dân số từ 15 tuổi trở lên hoạt động kinh tế có trình độ văn hóa (tiểu
học, trung học cơ sở, trung học phổ thông) là số % dân số từ 15 tuổi trở lên
hoạt động kinh tế có trình độ văn hóa tốt nghiệp tiểu học (trung học cơ sở,
trung học phổ thông) so với dân số từ 15 tuổi trở lên hoạt động kinh tế.
Chỉ tiêu này đánh giá một cách đầy đủ trình độ văn hóa của nguồn nhân lực.
Thứ ba: Số năm đi học trung bình của dân số từ 15 tuổi trở lên hoạt động
kinh tế.
Số năm di học trung bình của dân số từ 15 tuổi trở lên hoạt động kinh tế
là số năm trung bình một người từ 15 tuổi trở lên hoạt động kinh tế dành cho

học tập.
Đây là một trong những chỉ tiêu được liên hiệp quốc sử dụng để đánh giá
chất lượng NNL của các quốc gia.
Thứ tư: Tỷ lệ dân số đi học chung các cấp: Tiểu học, trung học cơ sở,
trung học phổ thông.
Tỷ lệ dân số đi học chung các cấp: (Tiểu học, trung học cơ sở, trung học
phổ thông) là số % trẻ em đi học cấp tiểu học (trung học cơ sở, trung học phổ
thông) đủ độ tuổi của các em này có thuộc độ tuổi cấp tiểu học (trung học cơ
sở, trung học phổ thông) hay không trong tổng dân số ở độ tuổi cấp tiểu học từ
6-10 tuổi, cấp trung học cơ sở từ 11 - 14 tuổi; cấp trung học phổ thông từ 15-17
tuổi).
Chỉ tiêu này dùng để đánh giá trình độ phát triển giáo dục ảnh hưởng đến
chất lượng nguồn nhân lực của các quốc gia.

13
Thứ năm: Tỷ lệ đi học đúng độ tuổi cấp tiểu học, trung học cơ sở, trung
học phổ thông.
Tỷ lệ đi học đúng độ tuổi cấp tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ
thông là số % trẻ em trong độ tuổi cấp tiểu học từ 6-10 tuổi; cấp trung học cơ
sở từ 11-14 tuổi, cấp trung học phổ thông từ 15-17 tuổi đi học cấp tiểu học,
trung học cơ sở, trung học phổ thông trong tổng số em trong độ tuổi cấp tiểu
học, trung học cơ sở, trung học phổ thông
Chỉ tiêu này dùng để đánh giá hiệu quả của hệ thống giáo dục, từ đó ảnh
hưởng đến chất lượng nguồn nhân lực.
Trình độ dân trí của dân cư phản ánh trình độ học vấn của LLLĐ, là một chỉ
tiêu rất quan trọng để đánh giá chất lượng NNL, bởi lẽ trình độ học vấn cao tạo
ra những điều kiện và khả năng tiếp thu và vận dụng những tiến bộ khoa học
kỹ thuật vào thực tiễn góp phần thúc đẩy sự phát triển KT - XH.
- Trình độ chuyên môn kỹ thuật:
Chất lượng của NNL không chỉ thể hiện ở trình độ học vấn, quan trọng

hơn là trình độ chuyên môn kỹ thuật, thông qua số lượng và chất lượng của lao
động đã qua đào tạo.Trình độ chuyên môn kỹ thuật là kiến thức và kỹ năng cần
thiết để đảm đương các chức vụ trong quản lý, kinh doanh và các hoạt động
nghề nghiệp. Lao động có chuyên môn kỹ thuật bao gồm những công nhân từ
bậc 3 trở lên (có bằng hoặc không có bằng) cho tới những người có trình độ
trên đại học. Họ được đào tạo ở các Trường kỹ thuật, được trang bị kỹ năng
thực hành về công việc nào đó và được thể hiện thông qua các chỉ tiêu so sánh
như sau:
Thứ nhất: Tỷ lệ lao động đã qua đào tạo so với lực lượng lao động đang
làm việc là % số lao động đã qua đào tạo (từ sơ cấp, công nhân kỹ thuật đến
sau đại học) so với lực lượng lao động đang làm việc. Chỉ tiêu này dùng để
đánh giá khái quát trình độ chuyên môn kỹ thuật của nguồn nhân lực.

14
Thứ hai: trình độ chuyên môn kỹ thuật được thể hiện thông qua tỷ lệ lao
động được đào tạo theo cấp bậc so với tổng số lao động đang làm việc của cả
nước, từng vùng, từng ngành. Chỉ tiêu này đánh giá một cách cụ thể nhất về
trình độ CMKT của NNL.
Cơ cấu các loại lao động đã qua đào tạo theo trình độ CMKT và cấp bậc
đào tạo, thể hiện ở cơ cấu số lao động có trình độ đại học, cao đẳng/ số lao
động có trình độ trung học chuyên nghiệp/ số công nhân kỹ thuật.
Trình độ CMKT của NNL còn được thể hiện ở khía cạnh khai thác và sử
dụng lực lượng này qua tỷ lệ lao động được đào tạo có việc làm và bị thất
nghiệp so với tổng số lao động được đào tạo. Các thông số đó cho thấy hiệu
quả của việc khai thác và sử dụng NNL đã qua đào tạo.
Ngoài ra, trí lực của nguồn nhân lực còn biểu hiện ở kỹ năng, kỹ xảo
nghề nghiệp của người lao động, chúng phụ thuộc trước hết vào khả năng của
mỗi người, sự say mê nghề nghiệp, ý thức rèn luyện kỹ năng. Mặt này thể hiện
qua thông số năng lực hoạt động chuyên môn của người lao động.
- Năng lực sáng tạo:

Tiếp tục phát triển và nâng cao trí lực và năng lực hoạt động thể hiện
bằng trình độ học vấn, trình độ CMKT, tầm hiểu biết, phổ kiến thức, kỹ năng
quản lý, tính năng động, năng lực thích nghi và sáng tạo của NNL.Trong thời
đại ngày nay, việc trang bị những kiến thức học vấn phổ thông và kỹ năng nghề
nghiệp là chưa đủ, cần phải tạo lập cho mối con người Việt Nam có tư duy
năng động, sáng tạo, dám mạo hiểm, sẵn sàng thích ứng và thích ứng cao trong
một thế giới đầy biến động và cạnh tranh khốc liệt nhất là trong bối cảnh hội
nhập quốc tế và khu vực. Cho nên trí lực còn được biểu hiện ở óc sáng tạo, tính
linh hoạt, nhanh nhẹn, sắc bén trong phát hiện thông tin mới và khả năng thích
ứng nhanh để học tập, áp dụng, làm chủ các phương tiện khoa học, kỹ thuật và
công nghệ hiện đại cũng như năng lực hoạch định các giải pháp kinh tế và thực

15
hiện phát triển kinh tế. Đây là chỉ tiêu quan trọng để đánh giá năng lực trí tuệ
trong quá trình CNH, HĐH rút ngắn, tiếp cận kinh tế tri thức hiện nay.
(3) Kinh nghiệm sống, năng lực hiểu biết thực tiễn, phẩm chất đạo đức, thái
độ và phong cách làm việc của người lao động
Tiến hành CNH, HĐH trong bối cảnh phát triển nền kinh tế thị trường,
nhiều nhà nghiên cứu lý luận nước ta cho rằng, khi nói tới NNL thì ngoài thể
lực và trí lực của con người cũng cần phải nói tới kinh nghiệm sống, năng lực
hiểu biết thực tiễn và nắm bắt nhu cầu thị trường của họ. Bởi vì, ngoài thể lực
và trí lực, cái làm nên nguồn lực con người là kinh nghiệm sống, đặc biệt là
những kinh nghiệm nếm trải trực tiếp của con người.
Đồng thời, khi xem xét chất lượng NNL, không thể không nói đến đạo
đức, nhân cách, thái độ và phong cách làm việc của con người. Đây là những
phẩm chất đạo đức, tinh thần có vai trò hết sức quan trọng, ảnh hưởng đến chất
lượng của con người, nó thúc đẩy tính tích cực và làm gia tăng hiệu quả hoạt
động của con người. Do vậy, phát triển NNL trong bối cảnh phát triển kinh tế
thị trường, đòi hỏi người lao động phải có hàng loạt phẩm chất cần thiết như:
có ý thức tổ chức kỷ luật; tự giác trong lao động, có tinh thần trách nhiệm trong

công việc, tác phong làm việc nhanh nhẹn, chính xác, có lương tâm nghề
nghiệp…tất cả những phẩm chất đó nằm trong phạm trù đạo đức của con
người, tức là đào tạo con người “vừa hồng, vừa chuyên”. Trong thực tế ở nước
ta lực lượng lao động còn hạn chế về ý thức, tác phong công nghiệp, thể lực và
trình độ chuyên môn, nghiệp vụ; năng lực hành nghề chưa đáp ứng tốt nhu cầu
nhân lực của người sử dụng lao động, nên còn một tỷ lệ đáng kể lao động
không tìm kiếm được việc làm thích hợp hoặc làm không đúng với trình độ và
nghề được đào tạo. So với các nước trong khu vực, thứ bậc xếp hạng về chất
lượng NNL của nước ta còn thấp (VN chỉ đạt 3,79/10 so với Trung Quốc là
5,73/10 và Thái Lan là 4,04/10).

16
NNL còn được xem xét cả về cơ cấu, đó là: cơ cấu về giới tính (nam,
nữ), cơ cấu về độ tuổi, cơ cấu trình độ đào tạo, cơ cấu lao động nông thôn và
thành thị, cơ cấu theo nhóm ngành kinh tế: nông – lâm thủy sản, công nghiệp,
dịch vụ…tức là NNL đòi hỏi phải có một cơ cấu hợp lý.

NNL chất lượng cao là một bộ phận quan trọng trong hệ thống NNL của
quốc gia.
NNL chất lượng cao được hiểu bao gồm:
- NNL có trình độ đại học, cao đẳng, tức là những người lao động được
đào tạo (chính quy hay không tập trung có đươc học vị cử nhân các chuyên
ngành, ngành đào tạo).
- Đội ngũ lãnh đạo quản lý giỏi, đội ngũ chuyên gia, quản trị doanh
nghiệp giỏi.
- NNL khoa học và công nghệ. Đó là những người làm việc trong các cơ
quan, các viện nghiên cứu khoa học, người làm công tác khoa học – kỹ thuật
trong các cơ quan, doanh nghiệp, các lĩnh vực công, nông nghiệp, dịch
vụ…các cán bộ khoa học – công nghệ…
- Đội ngũ lao động lành nghề và trình độ cao. Đó là những người được

trang bị kỹ năng kỹ nghệ thành thạo và có kiến thức chuyên môn, có khả
năng đảm nhận được những công việc phức tạp.
Ở nước ta hiện nay, phát triển NNL, nâng cao chất lượng NNL, nhất là
NNL chất lượng cao là đột phá chiến lược nhằm thúc đẩy công nghiệp hóa,
hiện đại hóa theo định hướng XHCN, là yếu tố quyết định quá trình cơ cấu lại
nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế và là lợi thế cạnh tranh dài
hạn, đảm bảo kinh tế - xã hội phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững.
- 

17
NNL cấu thành bộ phận quan trọng của các nguồn lực của quốc gia như
nguồn lực vật chất (từ con người), nguồn lực tài chính, nguồn tài nguyên thiên
nhiên, nguồn lực trí tuệ (chất xám). Những nguồn lực này có thể huy động tối
ưu để phát triển kinh tế - xã hội. Trong đó NNL có thể nói là “vô tận” và đóng
vai trò quyết định trong việc phát huy các nguồn lực khác.
Chúng ta đều biết trong những thời kỳ mà nền kinh tế tự nhiên còn phổ
biến, thì sự phát triển của các nền kinh tế quốc gia trên thế giới chủ yếu dựa
vào nguồn tài nguyên thiên nhiên và lao động thủ công, do đó nước nào giàu
tài nguyên hoặc có nhiều lao động, thì nước đó có lợi thế trong phát triển kinh
tế - xã hội và ngược lại. Trong thời đại bùng nổ của cách mạng KH - CN, tình
hình đã thay đổi: nước giàu tài nguyên thiên nhiên và nguồn lao động dồi dào
chưa hẳn đã có lợi thế trong phát triển hơn các nước nghèo tài nguyên hoặc
khan hiếm lao động giản đơn. Trên thực tế, chẳng hạn, Singapore, với dân số
chỉ có trên 3 triệu người, tài nguyên không có gì đặc biệt, đã nổi lên như một
nền kinh tế có mức độ cạnh tranh cao nhất thế giới (qua nhiều cuộc bình chọn
trong những năm gần đây). Để có được kết quả như vậy, trong một hướng đi
của họ là đào tạo một nguồn nhân lực tốt. Ngay từ cuối năm 1998, Uỷ ban cạnh
tranh của họ (CSC) đã công bố chiến lược phát triển nguồn nhân lực trong một
thập kỷ với mục tiêu là “trí thức hóa” lực lượng lao động. Nhật Bản, Hồng
Kông, Singapo, Hàn Quốc…là những nước nghèo về tài nguyên, nhưng họ lại

là những nước đạt tốc độ phát triển kinh tế cao liên tục trong nhiều thập kỷ, nên
chỉ trong một thời gian ngắn đã biến đất nước họ trở thành các quốc gia có nền
kinh tế phát triển. Yếu tố đóng vai trò quyết định cho sự thành công trong phát
triển kinh tế của các quốc gia đó chính là nguồn nhân lực có chất lượng cao. Ở
các nước phát triển cao người ta đã tính toán được rằng trong giá trị của những
sản phẩm cao cấp thì hàm luợng chất xám chiếm 70%, năng lượng 10%,
nguyên liệu 10%, thao tác vật chất chỉ chiếm 5,6%. Trong thời đại ngày nay,

18
những quan niệm về vai trò, vị trí của nguồn nhân lực trong phát triển liên tục
thay đổi. Nếu như trước đây, người ta nhìn nhận vai trò của nguồn nhân lực chỉ
đơn thuần là phương tiện, là một nguồn lực cho phát triển giống như mọi
nguồn lực vật chất khác, thì ngày nay, sự nhận thức trên hoàn toàn khác. Con
người, nguồn nhân lực không chỉ là động lực chủ yếu mà còn là mục tiêu của
sự phát triển, với phương châm phát triển vì con người. Trí tuệ con người ngày
càng được đề cao, vì nó là nguồn lực to lớn và mạnh mẽ nhất cho tiến bộ và
phát triển xã hội. NNL, đặc biệt là NNL chất lượng cao, nếu biết khai thác và
bồi dưỡng hợp lý thì càng phát triển và có khả năng tái sinh nhanh. Chính vì lẽ
đó, NNL đã trở thành đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học và nhiều
lĩnh vực kinh tế khác nhau, và từ đó người ta cũng tìm ra các phương cách khác
nhau để có thể nâng cao chất lượng nguồn nhân lực phục vụ cho phát triển kinh
tế - xã hội.
Có quan điểm cho rằng: Thông thường những nguồn lực làm cơ sở cho
chiến lược phát triển của một nước có thể là nguồn lực tự nhiên như tài nguyên
thiên nhiên, vị trí địa lý, có thể là cơ sở vật chất kỹ thuật đã được tạo ra trong các
giai đoạn trước đó, có thể là nguồn lực ngoài như vốn, công nghệ, kinh nghiệm
quản lý, thị trường… cũng có thể là nguồn nhân lực. Lịch sử cho thấy, NNL là
nguồn lực lâu bền nhất trong sự phát triển của mọi quốc gia từ trước đến nay,
cho dù có những nguồn lực khác mà không có những con người tương xứng, đủ
khả năng khai thác những nguồn lực đó, đủ trình độ nắm bắt và làm chủ kỹ thuật

công nghệ hiện đại và nếu không có một môi trường kinh tế, chính trị, xã hội
thuận lợi cho con người hoạt động, thì khó có thể đạt được sự phát triển như
mong muốn.
Lịch sử phát triển kinh tế thế giới cho thấy, để đạt được tốc độ tăng trưởng
cao và ổn định phải phát triển, nâng cao chất lượng NNL, nhất là NNL chất lượng
cao. Chất lượng NNL được nâng lên (học vấn, kỹ năng nghề nghiệp, chuyên môn,

19
sức khỏe) là tiền đề thành công của các nước, vùng lãnh thổ công nghiệp mới ở
Châu Á như Hồng Kông, Hàn Quốc, Singapore, Đài Loan…
1.1.2 P
1.1.2.1 Quan niệm về phát triển nguồn nhân lực
Khái niệm “phát triển nguồn nhân lực” ngày càng phát triển cùng với sự
phát triển của nhân loại.
* Từ cách tiếp cận con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực phát triển
kinh tế - xã hội, các nhà nghiên cứu triết học, kinh tế, xã hội học…đưa ra khái
niệm phát triển con người.
Phát triển con người là sự mở rộng phạm vi hoạt động của con người
(sản xuất và ngoài sản xuất, các hoạt động phi kinh tế), là sự gia tăng năng lực
thể chất và tinh thần trí tuệ của con người, sức khỏe, kiến thức, kỹ năng, kinh
nghiệm làm việc, năng lực tiếp cận khoa học và công nghệ…
Phát triển con người được đánh giá bằng chỉ số phát triển con người
(HDI – Human Development Index). HDI là một chỉ tiêu tổng hợp bao gồm 3
tiêu chí cụ thể: (1) Mức độ phát triển kinh tế, được đo bằng GDP/người/năm
(tính theo sức mua tưng đương PPP), (2) Chỉ tiêu về phát triển giáo dục, (3)
Chỉ tiêu về y tế (tính bằng tuổi thọ bình quân của người dân).
*Từ cách tiếp cận nguồn vốn – vốn nhân lực, người ta đề cập đến phát triển NNL.
- Vốn nhân lực được hiểu là tiềm năng và khả năng phát huy tiềm năng về sức
khỏe, kiến thức của cá nhân và là cái mang lại lợi ích lớn hơn, nhiều hơn trong
tương lai (Bardhan and Udry – 1999). Khái niệm “vốn” được hiểu là giá trị

mang lại lợi ích (kinh tế - xã hội) để chỉ ra tầm quan trọng của việc đầu tư vào
phát triển con người thông qua giáo dục – đào tạo, y tế chăm sóc sức
khỏe…nhằm tạo ra con người lao động có tri thức, kỹ năng nghề nghiệp
chuyên môn, có sức khỏe để đáp ứng những đòi hỏi ngày càng cao của công
việc. Giá trị vốn ở đây chính là giá trị sức lao động như kinh tế chính trị Mác –

20
Lênin đã chỉ rõ. Giá trị này cao hay thấp phụ thuộc vào trình độ và khả năng
nghề nghiệp của mỗi người. Để trở thành vốn nhân lực con người phải được
giáo dục, đào tạo để có những kiến thức chuyên môn ngày càng cao, có sức
khỏe tốt. Từ đây có thể thấy rằng không có đầu tư nào mang lại nguồn lợi lớn
như đầu tư vào NNL, đặc biệt là đầu tư cho giáo dục.
- Phát triển NNL được hiểu là các hoạt động đầu tư nhằm tạo ra NNL với trình
độ và chất lượng ngày càng cao và cơ cấu hợp lý đáp ứng nhu cầu phát triển
kinh tế - xã hội, đồng thời vẫn đảm bảo sự phát triển của mỗi cá nhân, nâng cao
sức khỏe, trí tuệ, đạo đức, năng lực chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp để tăng
năng suất lao động, tăng thu nhập, nâng cao đời sống.
Phát triển NNL là quá trình gia tăng về kiến thức kỹ năng và năng lực
của lực lượng lao động trong xã hội. Dưới góc độ kinh tế, quá trình này được
mô tả như sự tích lũy vốn con người và sự đầu tư vốn đó một cách hiệu quả
vào sự phát triển của nền kinh tế.
Phát triển nguồn nhân lực là một "quá trình làm biến đổi về số lượng,
chất lượng và cơ cấu nguồn nhân lực ngày càng đáp ứng tốt hơn yêu cầu của
nền kinh tế- xã hội" [10, tr. 13], đó là tổng thể các hình thức, phương pháp,
chính sách và biện pháp nhằm hoàn thiện và nâng cao chất lượng cho nguồn
nhân lực (trí tuệ, thể chất và phẩm chất tâm lý - xã hội) nhằm đáp ứng đòi hỏi
về nguồn nhân lực cho sự phát triển kinh tế xã hội trong từng giai đoạn phát
triển. Với quan niệm con người là động lực và đồng thời là mục tiêu của sự phát
triển thì phát triển nguồn nhân lực không chỉ có mục đích làm gia tăng về thu
nhập của cải vật chất mà là mở rộng và nâng cao khả năng lựa chọn của con người

đối với môi trường xung quanh; tạo cho họ có cơ hội tiếp cận với điều kiện và môi
trường sống tốt hơn, đồng thời qua đó tăng cường năng lực và tiềm năng của con
người phù hợp hơn với yêu cầu khách quan của sự phát triển kinh tế - xã hội. Quá

×