Tải bản đầy đủ (.doc) (71 trang)

Xã hội hóa y tế tại bệnh viện tim hà nội, vấn đề và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (765.49 KB, 71 trang )

1
Hc vin chớnh tr khu vc 1
*****
V TH THC PHNG
LP CAO CP Lí LUN CHNH TR
QUN Y QUN THANH XUN
Xã HộI HóA Y Tế TạI
BệNH VIệN TIM Hà NộI hiện nay,
VấN Đề Và GIảI PHáP
Lu n v n t t nghi p
Ng i h ng d n : pgs, ts. Lê thị thuỷ
trởng khoa triết học
H NI, 2015
MC LC
M U 1
Chng 1
C S Lí LUN V THC IN CA VIC X HI
6
2
HÓA CÔNG TÁC Y TẾ
1.1 Tầm quan trọng của công tác chăm sóc sức khỏe nhân
dân
6
1.2. Xã hội hóa y tế và sự cần thiết của XHH y tế ở nước ta
hiện nay
17
Chương 2
THỰC TRẠNG CÔNG TÁC Y TẾ VÀ VẤN ĐỀ XÃ
HỘI HÓA Y TẾ TẠI BỆNH VIỆN TIM HÀ NỘI GIAI
ĐOẠN 2010-2014
32


2.1 Khái quát về bệnh viện Tim Hà Nội 32
2.2. Công tác XHH y tế tại Bệnh viện Tim Hà Nội 36
Chương 3
PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU
QUẢ CÔNG TÁC XHH Y TẾ TẠI BỆNH VIỆN TIM
HÀ NỘI TRONG THỜI GIAN TỚI
44
3.1 Quan điểm và phương hướng 44
3.2 Một số giải pháp chủ yếu 47
KẾT LUẬN 60
KIẾN NGHỊ 63
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 68
1. Tính cấp thiết của đề tài
Quan điểm chỉ đạo ngành y tế đổi mới để góp phần thực hiện nhiệm vụ
bảo vệ và chăm sóc sức khoẻ nhân dân trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa
xã hội của Đảng cộng sản Việt Nam đã nêu rõ: “ Con người là tài nguyên quí
báu nhất quyết định sự phát triển của đất nước. Trong đó sức khoẻ là vốn quí
nhất của mỗi con người và của toàn xã hội. Sức khoẻ cũng là niềm hạnh phúc
3
lớn nhất của mỗi cá nhân, mỗi gia đình. Việc đầu tư cho sức khoẻ của mỗi
con người là đầu tư cho sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước, nâng cao
chất lượng cuộc sống của mỗi cá nhân, mỗi gia đình”
1
.
Khi khỏe mạnh, con người ta có hàng nghìn điều mong ước. Nhưng khi
ốm đau, họ chỉ còn một điều mong ước duy nhất, đó là “sức khỏe”. Ngay từ
những ngày đầu lãnh đạo nhân dân ta làm cuộc cách mạng dân tộc dân chủ,
giành độc lập, tự do cho dân tộc, Đảng và Bác Hồ đã nhìn thấy rõ tầm quan
trọng của sức khỏe đối với mỗi người dân cũng như đối với cả một dân tộc.
Bác đã nói: “Mỗi người dân khỏe thì cả nước khỏe” và “Luyện tập thể dục,

bồi dưỡng sức khỏe là bổn phận của mỗi người dân yêu nước…”.
Tiếp thu lời dạy của Người, Đảng ta cũng luôn nhấn mạnh tầm quan
trọng của việc chăm sóc và bảo vệ sức khỏe của nhân dân. Điều này được thể
hiện qua các Nghị quyết của Đảng: “Sức khỏe là vốn quý nhất của mỗi con
người và của toàn xã hội, là nhân tố quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc. Vì vậy chúng ta phấn đấu để mọi người đều được quan tâm
chăm sóc sức khỏe”.
Bản chất nhân đạo và định hướng xã hội chủ nghĩa của hoạt động y
tế, đòi hỏi sự công bằng trong công tác chăm sóc sức khoẻ. Thực hiện công
bằng là đảm bảo cho mọi người dân đều được chăm sóc sức khoẻ, phù hợp
với khả năng kinh tế - xã hội
Hơn 20 năm qua thực hiện đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước,
nhân dân ta đã đạt được nhiều thành tựu to lớn trên mọi mặt kinh tế, chính trị,
xã hội, quốc phòng và an ninh. Trong thời kỳ đổi mới, ngành y tế cũng đã kịp
thời chuyển mình đi lên và cũng đã đạt được một số thành tựu có ý nghĩa rất
quan trọng. Nghị quyết Hội nghị lần thứ VI ban chấp hành Trung ương Đảng
khóa XI (Nghị quyết số 20-NQ/TW) về phát triển khoa học và công nghệ
1
Đảng cộng sản Việt Nam, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khoá VII, NXB CTQG, HN 1993
4
phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế đã tạo điều kiện
thuận lợi cho ngành y tế Việt Nam khởi sắc đi lên.
Là một bệnh viện (BV) chuyên khoa tim mạch của thành phố Hà Nội,
thủ đô của cả nước, với nhiệm vụ và chức năng chính là chăm sóc sức khỏe
tim mạch cho toàn thể nhân dân trong địa bàn Hà Nội, nhưng do là bệnh viện
chuyên khoa sâu nên bệnh viện Tim cũng có chức năng chăm sóc sức khỏe
tim mạch cho bệnh nhân đến từ mọi miền Tổ quốc. Mặc dù đứng trước nhiều
thách thức lớn của nền kinh tế thị trường, trước sức nặng tâm lý ỷ lại, dựa vào
sự bao cấp hoàn toàn của Nhà nước với người bệnh cũng như cán bộ nhân

viên y tế, nhưng ngành y tế nói chung và bệnh viện Tim Hà Nội nói riêng đã
năng động, sáng tạo bám sát Nghị quyết trung ương và của Đảng ủy cấp trên,
tìm cho mình một hướng đi mới để phát triển và hội nhập nhưng vẫn giữ được
bản chất nhân đạo, tính công bằng của nền y tế xã hội chủ nghĩa (XHCN).
Dưới sự lãnh đạo của Đảng ủy, Ban giám đốc bệnh viện đã phát động phong
trào nghiên cứu khoa học kỹ thuật, cải tiến, sáng tạo trong công việc, tìm tòi
những giải pháp hay để nâng cao hơn nữa chất lượng điều trị, đảm bảo phục
vụ tốt công tác chăm sóc và bảo vệ sức khỏe tim mạch cho người dân của thủ
đô Hà Nội cũng như trong cả nước, tiến tới toàn khu vực trong tình hình
không còn sự bao cấp hoàn toàn của nhà nước như trước đây. Nhu cầu chăm
sóc và bảo vệ sức khỏe của con người ngày càng tăng cả về số lượng và chất
lượng, trong điều kiện nền kinh tế thị trường đang phát triển mạnh tác động
vào đời sống từng cá nhân, gia đình và xã hội.
Chấp nhận nền kinh tế thị trường nhưng chúng ta không vì thế mà thả
nổi không có sự điều tiết của Nhà nước, nhất là trong việc cung cấp các dịch
vụ y tế. Đảng ta kiên định con đường tiến lên CNXH, coi trọng tính công
bằng, nhân đạo của CNXH nhưng phải thay đổi và hạn chế những nhược
5
điểm của nền y tế thời bao cấp, do đó con đường đi của nền y tế nước ta hiện
nay theo hướng thứ tư là hợp lý nhất. Nó vừa đáp ứng được nhu cầu chăm sóc
và bảo vệ sức khỏe nhân dân, vừa giữ được tính ưu việt của y tế XHCN, nhờ
có sự định hướng chỉ đạo của Đảng và Nhà nước. Nghị quyết Trung ương VI
ra đời với vấn đề xã hội hóa trong y tế đã đáp ứng được tình hình mới này.
Nhận thức được điều đó, Đảng ủy, Ban Giám đốc Bệnh viện đã quyết
tâm thực hiện Nghị quyết của Đảng, chủ trương chính sách của Nhà nước,
chọn cho mình một hướng đi mới trong thời kỳ đổi mới, đó là con đường xã
hội hóa y tế dưới sự định hướng của Nhà nước XHCN.
Với chỉ tiêu 150 giường bệnh và gần 300 cán bộ nhân viên, trước tác
động của kinh tế thị trường lại nằm giữa thủ đô Hà Nội là nơi có rất nhiều
bệnh viện Trung ương được trang bị kỹ thuật hiện đại, tập trung nhiều thầy

thuốc có kinh nghiệm lâu năm, trách nhiệm của Đảng ủy, Ban Giám đốc và
cũng là của toàn thể cán bộ, công nhân viên bệnh viện là rất nặng nề. Nhưng
dưới sự lãnh đạo của Đảng ủy bệnh viện, bám sát quan điểm và đường lối của
Đảng đã được xác định thông qua các kỳ đại hội Đảng toàn quốc VI, VII, VIII
và các hội nghị của Ban chấp hành Trung ương, đặc biệt là Nghị quyết TW 4
khóa VII đã nói: “Nhà nước ta đã xác định các vấn đề chiến lược của sự
nghiệp chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân đến năm 2000 và 2020…”.
Ngay từ khi mới đưa bệnh viện vào hoạt động, năm 2004, Đảng ủy và Ban
Giám đốc bệnh viện đã chọn cho mình một hướng đi mới, đó là: “Phát triển
bệnh viện trong đó Nhà nước đóng vai trò chủ đạo, các tổ chức xã hội và tư
nhân là những lực lượng cùng tham gia, cùng chia sẻ trong công tác chăm
sóc và bảo vệ sức khỏe”. Sau mười năm, việc thực hiện xã hội hóa y tế theo
chủ trương của Đảng và nhu cầu cấp bách của xã hội về công tác chăm sóc và
bảo vệ sức khỏe trong nền kinh tế thị trường đã đem lại nhiều thành tựu trong
hoạt động của Viện Tim Hà Nội song cũng đang đặt ra nhiều thách thức
6
Vận dụng lí luận đã được tiếp thu trong quá trình học tập vào việc nhận
thức và giải quyết những vấn đề mà thực tiễn đổi mới đang đặt ra, chúng tôi
chọn đề tài:“Xã hội hóa y tế tại Bệnh viện Tim Hà Nội - Vấn đề và giải
pháp” làm luận văn tốt nghiệp chương trình cao cấp lý luận chính trị.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Làm rõ cơ sở lý luận, thực trạng xã hội hóa y tế tại bệnh viện Tim Hà
Nội, đưa ra giải pháp để thực hiện có hiệu quả công tác xã hội hóa y tế tại
bệnh viện Tim Hà nội.
Trên cơ sở đó khẳng định sự cần thiết của vấn đề xã hội hóa công tác y
tế dưới sự định hướng của Đảng cộng sản Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ cơ sở lý luận theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về
sức khỏe và chăm sóc sức khỏe.

- Phân tích, đánh giá thực trạng việc xã hội hóa y tế ở Viện Tim trong
giai đoạn hiện nay.
- Luận chứng cho việc đề xuất các giải pháp để thực hiện xã hội hóa y
tế tại bệnh viện Tim Hà nội từ năm 2010 đến nay, kiến nghị và đưa ra những
giải pháp thực hiện xã hội hóa trong giai đoạn tới.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Công tác xã hội hóa y tế tại bệnh viện Tim Hà Nội.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Những nhân tố, hoàn cảnh có tác động đến công tác xã hội hóa y tế tại
bệnh viện Tim Hà nội. Các số liệu và tài liệu tham khảo, khảo sát, thống kê,
phân tích chủ yếu từ năm 2004 đến nay
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu:
7
4.1. Cơ sở lý luận:
Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và
đường lối, chính sách của Đảng về y tế và công tác xã hội hóa y tế…
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Vận dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy
vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin; kết hợp các phương pháp thống kê,
tổng hợp, hồi cứu số liệu.
5. Ý nghĩa thực tiễn của luận văn
Luận văn góp phần phân tích được các vấn đề liên quan đến công tác
xã hội hóa y tế, từ đó đóng góp được các giải pháp để nâng cao chất lượng
công tác xã hội hóa y tế trong giai đoạn nền kinh tế thị trường phát triển theo
định hướng XHCN hiện nay.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, kiến nghị, danh mục tài liệu tham khảo,
nội dung được bố cục làm 3 chương, 7 tiết.
8

Chương I
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC
XÃ HỘI HÓA CÔNG TÁC Y TẾ
1.1. Tầm quan trọng của công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân
1.2.1. Các quan niệm về sức khỏe
Dưới góc độ triết học, sức khỏe là một thuộc tính của sự sống vì sống
là phương thức tồn tại của những thể protit thông qua quá trình trao đổi chất.
Mọi sinh vật sinh ra, tồn tại và phát triển đều cần có quá trình trao đổi chất,
quá trình đó chính là sức khỏe. Sức khỏe gắn liền với sống. Vì vậy sức khỏe
là một thuộc tính của sự sống loài người. Vấn đề đặt ra là sức khỏe tồn tại ở
trạng thái nào, mức độ nào, còn có tác động gì để có sức khỏe tốt nhất.
Sức khỏe còn được coi là một thực thể bao gồm nhiều yếu tố tồn tại
trong một trạng thái cân bằng động. Theo quan niệm của triết học cổ phương
Đông thì con người luôn hòa đồng với vũ trụ và chính vì thế sức khỏe của con
người là biểu hiện của sự cân bằng âm - dương. Còn theo phương Tây thì cơ
thể con người được cấu tạo bởi những tế bào và mô, cơ thể con người được
điều hòa bởi hệ thần kinh và hệ nội tiết để tạo ra sự cân bằng.
Nhìn chung cả triết học phương Đông và phương Tây đều quan niệm
sức khỏe là một trạng thái cân bằng và bệnh tật gây ra mất cân bằng trạng thái
đó. Sức khỏe và con người là mối quan hệ hữu cơ gắn bó. Con người vừa là
một thực thể tự nhiên, vừa là một thực thể xã hội. Sức khỏe không chỉ bao
gồm có thể chất mà còn cả tinh thần. Hồ Chủ Tịch đã từng nói: “Khí huyết
lưu thông, tinh thần đầy đủ, như vậy là sức khỏe”.
Dưới góc độ kinh tế chính trị học, sức khỏe được xem xét từ lao động
và sở hữu:
Trước hết, sức khỏe là một yếu tố quan trọng bậc nhất để tạo ra lao
động (ở đây sức khỏe bao gồm cả yếu tố thể chất và yếu tố tâm thần). Qua lao
động, con người sản xuất, tái sản xuất ra sản phẩm cần thiết để phục vụ cho
9
mình, trong đó có phục vụ cho việc nâng cao sức khỏe. Vì vậy mà sự tăng

trưởng và sự phát triển về sức khỏe là một quy luật tất yếu. Đây cũng chính là
cơ sở để Đảng ta đề ra mục tiêu chiến lược cho công tác chăm sóc và bảo vệ
sức khỏe nhân dân.
Lực lượng sản xuất là yếu tố hợp thành giữa tư liệu sản xuất và con
người lao động. Trong đó con người là yếu tố hàng đầu. Trong con người sức
khỏe lại là vốn quý nhất. Vì vậy sức khỏe là một thành tố rất quan trọng của
lực lượng sản xuất. Theo quan điểm của Triết học Mác - Lênin, sự phát triển
lực lượng sản xuất của xã hội là tiêu chuẩn quan trọng và là thước đo trình độ
chinh phục tự nhiên của con người, là cơ sở của sự tiến bộ của xã hội. Vì vậy
ngày nay khi đánh giá sự phát triển của một xã hội, người ta không chỉ dựa
vào sự tăng trưởng kinh tế mà còn đánh giá sự phát triển chỉ tiêu sức khỏe và
giáo dục VHDI.
Dưới góc độ kinh tế phát triển
Theo những khái niệm hiện đại của kinh tế phát triển, một ngành khoa
học nghiên cứu về sự phát triển của kinh tế thì nguồn lực phát triển gồm: lao
động, tài nguyên thiên nhiên, vốn, khoa học công nghệ; trong đó lao động là
nhân tố quyết định. Sức khỏe lại là yếu tố rất quan trọng của nguồn lực lao
động. Nếu chúng ta coi con người là nguồn lực phát triển thì sức khỏe cũng
chính là nguồn lực phát triển. Trong môn học kinh tế phát triển, người ta còn
đề cập tới khái niệm tài nguyên người mà thực chất đó là nguồn lực lao động.
Tất cả các các quan niệm trên đây đều khẳng định tầm quan trọng của
sức khỏe đối với mỗi con người và với sự phát triển kinh tế xã hội. Đó là cơ
sở để Đảng ta khẳng định “ con người vừa là động lực, vừa là mục tiêu của sự
phát triển”.
Dưới góc độ y tế, theo định nghĩa Tổ chức y tế thế giới (WHO): “Sức
khỏe là trạng thái thoải mái toàn diện về thể chất, tinh thần, xã hội và không
10
phải chỉ bao gồm có tình trạng không có bệnh hay thương tật”. Như vậy có
nghĩa là sức khỏe tồn tại dưới ba trạng thái: khỏe mạnh; không bệnh, không
tật và có bệnh, tật. Các trạng thái này luôn chuyển đổi do tác động của các

yếu tố quyết định sức khỏe. Các yếu tố này bao gồm yếu tố cá nhân (sinh học
và xã hội); môi trường nơi sống, làm việc, học tập; môi trường xã hội; bối
cảnh chung và môi trường tự nhiên. Có một sức khỏe tốt nhất là một trong
những quyền cơ bản con người dù thuộc bất kỳ chủng tộc, tôn giáo, chính
kiến chính trị hay điều kiện kinh tế - xã hội nào. Mỗi con người chúng ta ngày
càng nhận ra rằng sức khỏe được duy trì và cải thiện không chỉ qua những
thành tựu và ứng dụng của khoa học y tế, mà còn qua những cố gắng và
những lựa chọn cách sống thông thái của một cá nhân hay xã hội.
Định nghĩa của Tổ Chức Y tế Thế Giới (WHO, 1947) như trên là cơ sở
để chúng ta nhận thức, đánhsự nghiệp chăm sóc sức khỏe nhân dân trong
nhiều năm qua.
1.2.2. Về chăm sóc sức khỏe nhân dân
1.2.2.1. Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về chăm sóc sức khỏe
nhân dân
Chủ tịch Hồ Chí Minh, người sáng lập ra Đảng cộng sản Việt Nam lãnh
đạo đưa dân tộc ta tới độc lập tự do, một danh nhân văn hóa thế giới, là người
đề cập nhiều nhất và hệ thống nhất về vấn đề sức khỏe. Ngay từ năm 1941,
trong chương trình hành động của Việt Nam đã ghi: “Cần khuyến khích nền
thể dục quốc dân, làm cho giống nòi ngày càng thêm mạnh”.
Ngay sau khi Cách mạng tháng 8 thành công, Người đã ký sắc lệnh
38/SL thành lập Nha Thanh niên và Thể thao Trung ương (Ngày 27/03/1946).
Từ năm 1947-1967 Người đã có 25 bài viết và thư gửi ngành Y tế và Thương
binh xã hội, chỉ ra quan điểm cơ bản về điều trị thương, bệnh binh, đoàn kết
quân-dân y và công tác của ngành y tế.
11
Hồ Chí Minh cũng đã đưa ra một quan niệm hay khái niệm rất toàn
diện về sức khỏe. Người cho rằng sức khỏe là gồm có sự thoải mái cả về thể
xác và tâm hồn từ năm 1946. Người khẳng định vai trò của sức khỏe và công
tác chăm sóc sức khỏe trong kháng chiến và kiến quốc. Người viết: “Giữ gìn
dân chủ, xây dựng nước nhà, gây đời sống mới, việc gì cũng cần có sức khỏe

mới làm thành công” hay “Mỗi người dân yếu ớt tức là cả nước yếu ớt, mỗi
người dân mạnh khỏe tức là cả nước mạnh khỏe. Dân cường thì quốc thịnh”.
Về công tác chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân, Người nói: “Sức khỏe
của cán bộ, nhân dân được đảm bảo thì tinh thần càng hăng hái. Tinh thần và
sức khỏe đầy đủ thì kháng chiến càng gần thắng lợi, kiến quốc càng mau
thành công”. Với Bác, con người là vị trí trung tâm của mọi hoạt động và sức
khỏe là yếu tố quan trọng nhất của con người. Sức khỏe của mỗi con người
không chỉ là tài sản cá nhân của họ mà còn là tài sản chung của toàn xã hội.
Chính vì thế việc tạo nguồn sức khỏe không chỉ là trách nhiệm cá nhân mà
còn là trách nhiệm của cộng đồng, công việc chăm sóc và bảo vệ sức khỏe
nhân dân được Người coi là có tầm chiến lược quốc gia. Người phát động
phong trào xây dựng đời sống mới. Người nói: “Cán bộ y tế là những chiến sỹ
đánh giặc ốm bảo vệ sự kháng kiện của giống nòi”. Người luôn luôn gắn công
tác chăm sóc và bảo vệ sức khỏe với thi đua ái quốc. Không những đưa ra
khái niệm khoa học về sức khỏe, những lý luận về chăm sóc và bảo vệ sức
khỏe, Người còn đề ra những biện pháp cụ thể liên quan đến bảo vệ sức khỏe
nhân dân ở mọi lĩnh vực y tế. Người còn đề ra đường lối, biện pháp xây dựng
nền y học nước ta với phương châm “Khoa học - Dân tộc - Đại chúng”. Vấn
đề con người làm công tác chăm sóc sức khỏe được Người luôn quan tâm dạy
dỗ và nhắc nhở về phẩm chất đạo đức nghề nghiệp vì đây là một nghề đặc biệt
tạo ra sản phẩm đặc biệt là sức khỏe. Người nói: “Có thuốc hay, thức ăn ngon
còn cần phải có thái độ phục vụ tốt, coi người bệnh như ruột thịt”, “Lương y
12
như từ mẫu”,… Phải đoàn kết nội bộ và xây dựng, củng cố thường xuyên
khối đại đoàn kết đó. Mặc dù Hồ Chí Minh chưa nói đến vấn đề XHH y tế
nhưng trên thực tế, những tư tưởng của Người đã là tiền đề để chúng ta vạch
ra quan điểm này. Người coi trọng sự huy động của cộng đồng vào công tác
chăm sóc sức khỏe, đặc biệt là công tác chăm sóc thương binh. Người nói:
“Có tiền giúp tiền, có sức giúp sức. Đồng tâm hiệp lực, kháng chiến thành
công”. XHH y tế cũng được xây dựng trên nền tảng sự phối kết giữa các cơ sở

y tế nhà nước với các tổ chức, cá nhân ngoài ngành y tế.
1.2.2.2. Quan điểm của cán bộ y tế hiện nay
Sức khoẻ là vốn quý nhất của con người, là một trong những điều cơ
bản để con người sống hạnh phúc, là mục tiêu và là nhân tố quan trọng trong
việc phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội và bảo vệ Tổ quốc. Bảo vệ, chăm sóc
và nâng cao sức khoẻ nhân dân là hoạt động nhân đạo, trực tiếp bảo đảm
nguồn nhân lực cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, là một trong
những chính sách ưu tiên hàng đầu của Đảng và Nhà nước. Đầu tư cho lĩnh
vực này là đầu tư phát triển, thể hiện bản chất tốt đẹp của chế độ.
Trong hơn 10 năm qua, công tác bảo vệ và chăm sóc sức khoẻ nhân dân
ở nước ta tiếp tục đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Mạng lưới y tế, đặc
biệt là y tế cơ sở ngày càng được củng cố và phát triển; nhiều dịch bệnh nguy
hiểm được khống chế và đẩy lùi; các dịch vụ y tế ngày một đa dạng; nhiều
công nghệ mới được nghiên cứu và ứng dụng; việc cung ứng thuốc và trang
thiết bị y tế đã có nhiều cố gắng hơn trước. Bảo hiểm y tế được hình thành và
bước đầu phát huy tác dụng. Nhân dân ở hầu hết các vùng, miền đã được
chăm sóc sức khoẻ tốt hơn; phần lớn các chỉ tiêu tổng quát về sức khoẻ của
nước ta đều vượt các nước có cùng mức thu nhập bình quân đầu người.
Đạt được những thành tựu trên là nhờ có sự phấn đấu nỗ lực của đại đa
số cán bộ, nhân viên ngành y tế; sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy
13
đảng, chính quyền; sự tham gia tích cực và có hiệu quả của các ban, ngành,
Mặt trận tổ quốc, đoàn thể, tổ chức xã hội và đông đảo nhân dân.
Tuy nhiên, công tác bảo vệ và chăm sóc sức khoẻ ở nước ta vẫn còn
nhiều bất cập và yếu kém. Hệ thống y tế chậm đổi mới, chưa thích ứng với sự
phát triển của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và sự thay
đổi của cơ cấu bệnh tật; chất lượng dịch vụ y tế chưa đáp ứng nhu cầu ngày
càng đa dạng của nhân dân; điều kiện chăm sóc y tế cho người nghèo, vùng
sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số còn nhiều khó khăn; năng lực sản xuất và
cung ứng thuốc còn yếu, giá thuốc chữa bệnh còn cao so với thu nhập của

nhân dân. Tổ chức và hoạt động của y tế dự phòng còn nhiều bất cập. Một bộ
phận nhân dân chưa hình thành được ý thức và thói quen tự bảo vệ, chăm sóc
và nâng cao sức khoẻ. Vệ sinh môi trường, an toàn thực phẩm chưa được
kiểm soát chặt chẽ. Những việc làm vi phạm đạo đức nghề nghiệp của một số
cán bộ y tế chậm được khắc phục.
Nguyên nhân chính của những yếu kém trên là do quản lý nhà nước
trong lĩnh vực y tế còn nhiều bất cập, một số chính sách về y tế không còn
phù hợp nhưng chậm được sửa đổi hoặc bổ sung; việc quản lý hoạt động
khám, chữa bệnh và hành nghề y dược tư nhân chưa chặt chẽ; đầu tư của Nhà
nước cho y tế còn thấp, phân bổ và sử dụng nguồn lực chưa hợp lý, kém hiệu
quả. Ngành Y tế chưa có những giải pháp hữu hiệu để huy động các nguồn
lực từ cộng đồng và xã hội cho công tác bảo vệ và chăm sóc sức khỏe. Đội
ngũ cán bộ y tế còn thiếu và yếu, cơ cấu chưa hợp lý, chế độ đãi ngộ chưa
thỏa đáng. Một số cấp uỷ đảng và chính quyền chưa thực sự quan tâm lãnh
đạo, chỉ đạo công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân, nhiều
nơi còn trông chờ vào bao cấp của Nhà nước.
Cùng với những yếu kém trên, công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao
sức khỏe nhân dân ở nước ta đang đứng trước những thách thức to lớn:
14
- Nhiều vấn đề xã hội mới phát sinh như ô nhiễm môi trường, tệ nạn xã
hội đang ảnh hưởng xấu đến sức khỏe của nhân dân; chênh lệch về thu nhập
trong nhân dân đang đặt ra những thách thức lớn về bảo đảm công bằng trong
khám, chữa bệnh; mặt trái của kinh tế thị trường có nguy cơ làm phai mờ giá
trị đạo đức cao quí của người thầy thuốc.
- Quy mô dân số của nước ta những năm tới vẫn tiếp tục tăng, nhu cầu
chăm sóc sức khoẻ của nhân dân ngày càng cao và đa dạng, trong khi khả
năng đáp ứng của hệ thống y tế còn hạn chế.
- Chi phí cho chăm sóc sức khoẻ ngày càng lớn, trong khi về cơ bản
nước ta vẫn còn là một nước nghèo, đầu tư cho công tác chăm sóc sức khoẻ
còn thấp.

- Toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế vừa đem lại những cơ hội
thuận lợi, đồng thời cũng đặt nước ta trước những nguy cơ bị lây truyền các
bệnh dịch nguy hiểm và những thách thức trong lĩnh vực sản xuất thuốc và
ứng dụng công nghệ cao trong y tế. Cho đến giờ này, khi nói đến sức khỏe,
nhiều người kể cả cán bộ y tế nghĩ ngay đến việc khám, phát hiện, chẩn đoán
và điều trị bệnh, xa hơn, đó là dự phòng bệnh tật, nghiên cứu khoa học, còn
yếu tố tinh thần và xã hội của sức khỏe thì hình như chưa thực sự được quan
tâm đúng mức. Tất cả các trường đại học y trong toàn quốc, hầu như chỉ tập
trung vào lĩnh vực sức khỏe thể chất, chỉ chú tâm vào việc huấn luyện cho các
sinh viên y khoa việc truy tìm, xử lý bệnh tật bằng thuốc men, tham gia dự
phòng bệnh tật… do đó, các bác sĩ ra trường hầu như đi theo định hướng này.
Họ rất ít được học tâm lý (chỉ một số ít tiết học), thiếu sự huấn luyện nghiêm
túc về cách đối nhân xử thế với bệnh nhân, thân nhân, đồng sự, cấp trên, cấp
dưới trong môi trường bệnh viện cũng như ở cộng đồng. Họ cũng chỉ được
học “kinh tế chính trị” chứ không phải là “kinh tế y tế” và hiếm khi được học
về các quy trình vận hành, tổ chức, quản lý bệnh viện. Họ được học về dược
15
lý chứ không biết về giá thuốc và hầu như “mờ mịt” về luật chăm sóc và bảo
vệ sức khỏe nhân dân, luật dược, pháp lệnh hành nghề y dược tư nhân, luật
khám bệnh, chữa bệnh và đặc biệt sinh viên y khoa lâu rồi chưa được học
“nghĩa vụ y khoa”! Do chỉ tập trung vào sức khỏe thể chất và định hướng y tế
thiếu toàn diện như trên nên thực tế hiện nay, ngành y tế Việt Nam đang hứng
chịu nhiều hệ quả khó giải quyết. Đó là, nhiều bác sĩ khi ra trường họ chỉ biết
đến “bệnh” mà ít chú ý đến “người bệnh”, tập trung trí tuệ để xử lý tốt bệnh
tật mà quên đi những giá trị mang tính nhân văn đó là tâm lý và xã hội. Họ tự
cho mình là “mẹ”, có toàn quyền ra lệnh, quyết định, la rầy “con bệnh” của
mình mà quên rằng, thực sự họ chỉ là những “người bạn” của bệnh nhân. Họ
nhận lương bổng, thậm chí trang thiết bị, cả chiếc ghế ngồi của họ đều được
đóng góp bằng tiền thuế và các khoản khác của người dân, trong đó, có những
người bệnh đang ở trước mặt của họ. Khi kê đơn thuốc, họ không biết được

giá của ngày công lao động tay chân là bao nhiêu, không biết được giá của
một kilogram lúa gạo là bao nhiêu… nên khó khỏi “vung tay quá trán”. Các
bác sĩ chữa được cái “đau” mà không giải quyết được cái “khổ”, giải quyết
được “bệnh” mà không giải quyết được “hoạn”… chữa được cho cái “xác”
mà lờ đi cái “hồn” và các “mối quan hệ xã hội”, vốn dĩ không ít, là cội nguồn
của bệnh tật. Ví dụ, một bệnh nhân bị stress, đến bác sĩ đo huyết áp thấy cao,
được chẩn đoán bệnh tăng huyết áp, dặn dò ăn uống và được “đe nẹt” một số
biến chứng, kê đơn thuốc, ra về… nhiều bác sĩ cũng ít khi biết được bệnh
nhân ấy đang bị stress, vừa làm ăn thua lỗ, ly dị, đang chia của, con cái bỏ
học…nói chung là có nhiều yếu tố xã hội và tâm lý khác. Có thể nhiều bác sĩ
cho là bệnh quá tải, không có thời gian nhiều với bệnh nhân (cũng đúng),
nhưng cho dù có nhiều thời gian đi nữa thì thực sự rất ít bác sĩ quan tâm đến
những chuyện “ngoài bệnh tật” kể trên (trừ các bác sĩ có kinh nghiệm sống) vì
họ thiếu được rèn luyện những kỹ năng và phương pháp chuẩn mực để tiếp
16
cận các vấn đề tâm lý và xã hội. Chất lượng thầy thuốc là như vậy, còn các
vấn đề vĩ mô khác của sự nghiệp chăm sóc sức khỏe cũng bị “trục trặc” khi xa
rời định nghĩa sức khỏe! Đã có nhiều cuộc họp bàn, chú trọng nhiều đến tỷ lệ
“thầy thuốc/vạn dân”, “số giường bệnh/vạn dân”, hầu hết các quan chức y tế
đều kêu thiếu bác sĩ, thiếu giường bệnh, quá tải… tất cả mọi vấn đề chăm sóc
sức khỏe đều trút lên đầu của ngành y tế. Thực sự thì không bao giờ cho đủ số
lượng bác sĩ theo nhu cầu, chứ chưa kể chất lượng bác sĩ, lại còn phải hội
nhập với khu vực, quốc tế… vì chọn lọc, đào tạo một bác sĩ phải tốn nhiều
thời gian, tiền của chứ không như đào tạo một anh nông dân lái máy cày!
Nhưng trên hết có lẽ vì chúng ta chỉ chú tâm nhiều đến sức khỏe thể chất,
bệnh tật và thuốc men … mà quên đi hai yếu tố tinh thần và xã hội của sức
khỏe. Trở lại ví dụ trên, stress của bệnh nhân có thể được giảm nhẹ hoặc
“chữa khỏi” nhờ ông tổ trưởng tổ dân phố, hội phụ nữ, thầy tu, hay một ai đó
có uy tín trong họ hàng, bè bạn, trong gia đình hòa giải, tránh cuộc ly dị; con
cái bỏ học có thể nhờ giáo viên giúp đỡ… Stress được kiểm soát, huyết áp của

bệnh nhân cũng ổn theo, biến chứng có thể không xảy ra, thì đâu cần phải có
nhiều bác sĩ điều trị tăng huyết áp, đội ngũ điều trị, chăm sóc biến chứng của
tăng huyết áp như tai biến mạch não, nhồi máu cơ tim, suy thận mãn… Hình
như, lâu rồi chúng ta chưa quan tâm đúng mức hai yếu tố tâm lý và xã hội của
sức khỏe nên quên đi việc chăm sóc sức khỏe là trách nhiệm của mỗi người
dân (tự chăm lo cho mình), của toàn xã hội (trong chăm sóc sức khỏe toàn
diện) chứ không chỉ của riêng ngành y tế. Do thiếu cái nhìn toàn diện nên
chúng ta đã không huy động triệt để được tất cả các nguồn lực của xã hội để
phục vụ cho sự nghiệp chăm sóc sức khỏe của người dân. Chúng ta cũng đã
kêu gọi “xã hội hóa y tế”, nhưng không kêu gọi “xã hội hóa sức khỏe”, chúng
ta đã quen gọi “Bộ Y tế” mà thực sự phải là “Bộ Sức khỏe” (Ministry of
Health). Cũng từ nhận thức thiên lệch về sức khỏe thể chất nên việc đầu tư
17
các nguồn lực cho chăm sóc sức khỏe cũng thiếu hiệu quả. Nguồn tài chính
của nhà nước đầu tư cho y tế, đa số chỉ tập trung cho việc xây dựng các bệnh
viện, trung tâm chẩn đoán và điều trị, trang bị kỹ thuật càng chuyên sâu, cao
cấp ở các thành phố lớn, bệnh viện tuyến tỉnh, còn lại một ít cho bệnh viện
huyện, cũng nhằm để “chữa cháy” việc quá tải. Tuy nhiên, các địa chỉ trên chỉ
chăm lo sức khỏe cho khoảng 10% dân Việt Nam, còn lại khoảng 90% cần
được chăm sóc sức khỏe tại cộng đồng thông qua chăm sóc sức khỏe ban đầu
(cũng là cách giảm tải bệnh viện bền vững) thì đầu tư còn rất yếu kém. Qua
thực tế, các khoa quá tải ở các bệnh viện thường là khoa Nội Tim mạch, Nhi
khoa, Chấn thương, Ung thư, Thần kinh… Hơn phân nửa số bệnh nhân nội trú
ở Nội tim mạch là tăng huyết áp, gần 1/3 là bệnh mạch vành, có thể kiểm soát
tốt ở ngoại trú; đa số bệnh nhi đến phòng khám bệnh viện là các bệnh nhiểm
khuẩn, virus đường hô hấp, tiêu hóa… có thể chữa tại trạm y tế, chăm sóc tại
nhà; nếu tuyên truyền tốt về an toàn giao thông, sử dụng rượu bia thì không
có nhiều chấn thương do tai nạn giao thông; giảm thuốc lá, thay đổi thói quen
ăn uống sinh hoạt, thì ngừa nhiều bệnh ung thư, bệnh chuyển hóa, giảm các
bệnh nhập viện vì tai biến mạch não, tiểu đường… Nói tóm lại, để sự nghiệp

chăm sóc sức khỏe nhân dân thực sự có hiệu quả, bước đầu tiên, cơ bản, quan
trọng nhất là phải khẳng định lại một triết lý chăm sóc sức khỏe toàn diện trên
cả ba mặt: thể chất, tinh thần và xã hội như định nghĩa sức khỏe của Tổ chức
Y tế thế giới. Các nhà hoạch định chính sách vĩ mô và vi mô sẽ dựa trên định
nghĩa này triển khai các bước đi tiếp theo sao cho toàn diện, không thiên lệch.
Từ việc xác định triết lý này, sẽ có cơ sở tập trung các dạng nguồn lực: nhân
lực, vật lực, tài lực, thiên nhiên, xã hội và văn hóa nhằm vào mục đích chăm
sóc sức khỏe cho chính mình và xã hội. Nhà nước sẽ giảm bớt gánh nặng
trong việc lo cho sức khỏe người dân, góp phần đảm bảo “an sinh xã hội”. Hồ
Chí Minh cũng đã từng dạy: “Dễ trăm lần không dân cũng chịu, khó vạn lần
18
dân liệu cũng xong”. Muốn “dân liệu” hiệu quả phải chỉ ra vai trò người dân
một cách rõ ràng, tạo điều kiện để mọi tầng lớp nhân dân tham gia tích cực.
Trong việc chăm sóc sức khỏe (theo định nghĩa sức khỏe của Tổ chức Y tế
thế giới), đa số người dân hoàn toàn có thể làm tốt việc chăm lo sức khỏe tinh
thần và xã hội, bên cạnh thầy thuốc, họ có quyền và có khả năng tự chăm sóc
mình và gia đình, cộng đồng trong một chừng mực nhất định nhưng lại hiệu
quả rất lớn.
Vì vậy, Điều 47, Điều 61 và Điều 83 của Hiến pháp nước Cộng hoà xã
hội chủ nghĩa Việt Nam đã ghi rõ:
1- Công dân có quyền được bảo vệ sức khoẻ, nghỉ ngơi, giải trí, rèn
luyện thân thể; được bảo đảm vệ sinh trong lao động, vệ sinh dinh dưỡng, vệ
sinh môi trường sống và được phục vụ về chuyên môn y tế.
- Bảo vệ sức khoẻ là sự nghiệp của toàn dân. Tất cả công dân có nghĩa
vụ thực hiện nghiêm chỉnh những quy định của pháp luật về bảo vệ sức khoẻ
nhân dân để giữ gìn sức khoẻ cho mình và cho mọi người.
- Nhà nước chăm lo bảo vệ và tăng cường sức khoẻ nhân dân; đưa công
tác bảo vệ sức khoẻ nhân dân vào kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và ngân
sách Nhà nước; quyết định những chế độ chính sách, biện pháp để bảo vệ và
tăng cường sức khoẻ nhân dân.

- Bộ y tế có trách nhiệm quản lý, hoàn thiện, nâng cao chất lượng và
phát triển hệ thống phòng bệnh, chống dịch, khám bệnh, chữa bệnh, sản xuất,
lưu thông thuốc và thiết bị y tế, kiểm tra việc thực hiện các quy định về
chuyên môn nghiệp vụ y, dược.
- Hội đồng nhân dân các cấp dành tỷ lệ ngân sách thích đáng cho công
tác bảo vệ sức khoẻ nhân dân ở địa phương; thường xuyên giám sát, kiểm tra
việc tuân theo pháp luật về bảo vệ sức khoẻ nhân dân của Uỷ ban nhân dân
cùng cấp, của các cơ quan, các tổ chức xã hội, cơ sở sản xuất, kinh doanh của
19
Nhà nước, tập thể, tư nhân và mọi công dân trong địa phương. Uỷ ban nhân
dân các cấp có trách nhiệm thực hiện các biện pháp để bảo đảm vệ sinh ăn, ở,
sinh hoạt, vệ sinh công cộng cho nhân dân trong địa phương; lãnh đạo các cơ
quan y tế trực thuộc, chỉ đạo sự phối hợp giữa các ngành, các tổ chức xã hội
trong địa phương để thực hiện những quy định của pháp luật về bảo vệ sức
khoẻ nhân dân.
1.2. Quan niệm “Xã hội hóa” (XHH) y tế và sự cần thiết của XHH y
tế ở nước ta hiện nay
1.2.1. Quan niệm về xã hội hóa
Theo nghĩa chung, khái niệm "xã hội hóa" nói lên sự chuyển hóa từ
tính chất cá nhân thành tính chất xã hội.
Xã hội hóa một hoạt động nào đó là sự tham gia của nhiều thành phần
xã hội cùng tham gia hoạt động đó nhằm tạo ra một cách nhìn toàn diện, có
hiệu quả nhất cho hoạt động đó, làm cho hoạt động đó mang tính xã hội.
Xã hội hoá là xây dựng cộng đồng trách nhiệm của các tầng lớp nhân
dân đối với việc tạo lập và cải thiện môi trường kinh tế, xã hội lành mạnh và
thuận lợi cho các hoạt động giáo dục, y tế, văn hoá. Ở mỗi địa phương, đây là
cộng đồng trách nhiệm của Đảng bộ, Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân,
các cơ quan nhà nước, các đoàn thể quần chúng, các tổ chức kinh tế, các
doanh nghiệp đóng tại địa phương và của từng người dân.
Xã hội hoá là mở rộng các nguồn đầu tư, khai thác các tiềm năng về

nhân lực, vật lực và tài lực trong xã hội. Một mặt, nguồn lực đầu tư của Nhà
nước tăng lên để phát triển các lĩnh vực xã hội và thực hiện các mục tiêu xã
hội, đồng thời đẩy mạnh biện pháp rất cơ bản nhằm huy động mọi nguồn lực,
trí tuệ của các thành phần kinh tế, của các tổ chức xã hội, của mọi người.
Từ đó, chúng tôi cho rằng, xã hội hóa là quá trình chuyển giao để khu
vực dân sự (ngoài nhà nước) "gánh đỡ" những công việc trước đây do Nhà
20
nước làm hoặc "quán tính" của tư duy cũ vẫn cho rằng đúng ra Nhà nước
phải làm.
Xã hội hóa thực chất bao quát phạm vi rất rộng lớn, cả kinh tế, sự
nghiệp, hành chính. Xét về lịch sử, xã hội hóa xuất hiện như một kết quả của
đổi mới. Chỉ khi thực hiện đường lối đổi mới, chuyển sang thời kỳ đổi mới,
xã hội hóa mới xuất hiện.
1.2.2. Quan niệm về XHH y tế
Xã hội hóa y tế là biến công tác chăm sóc và bảo vệ sức khỏe trước đây
là nhiệm vụ của riêng ngành y tế thì nay trở thành nhiệm vụ chung của toàn
xã hội. Hoạt động y tế mang tính xã hội của nhiều người, nhiều tổ chức xã hội
cùng tham gia.
Xã hội hoá các hoạt động y tế là vận động và tổ chức sự tham gia rộng
rãi của nhân dân, của toàn xã hội vào sự phát triển sự nghiệp y tế, nhằm từng
bước nâng cao mức hưởng thụ về y tế và sự phát triển về thể chất và tinh thần
của nhân dân.
• Quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về XHH y tế
XHH y tế chính là XHH công tác chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân
dân. Do điều kiện tất yếu của sự phát triển nền kinh tế thị trường ở nước ta,
ngành y tế cũng phải chuyển mình đi lên, thay đổi cho phù hợp, có như thế
mới tồn tại, phát triển và làm tròn trách nhiệm của mình trước Đảng và nhân
dân. Xã hội hoá và đa dạng hoá các hình thức hoạt động y tế có mối quan hệ
chặt chẽ với nhau. Bên cạnh việc củng cố các tổ chức của Nhà nước, cần phát
triển rộng rãi các hình thức hoạt động do các tập thể hoặc các cá nhân tiến

hành trong khuôn khổ chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Đa
dạng hoá chính là mở rộng các cơ hội cho các tầng lớp nhân dân tham gia chủ
động và bình đẳng vào các hoạt động trên. Xã hội hoá là mở rộng các nguồn
đầu tư, khai thác các tiềm năng về nhân lực, vật lực và tài lực trong xã hội.
21
Phát huy và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực của nhân dân, tạo điều kiện
cho các hoạt động y tế phát triển nhanh hơn, có chất lượng cao hơn là chính
sách lâu dài, là phương châm thực hiện chính sách xã hội của Đảng và Nhà
nước, không phải là biện pháp tạm thời, chỉ có ý nghĩa tình thế trước mắt do
Nhà nước thiếu kinh phí cho các hoạt động này. Khi nhân dân ta có mức thu
nhập cao, ngân sách nhà nước dồi dào vẫn phải thực hiện xã hội hoá y tế, bởi
vì y tế, hay chăm sóc và bảo vệ sức khỏe là sự nghiệp lâu dài của nhân dân, sẽ
phát triển không ngừng với nguồn lực to lớn của toàn dân. Xã hội hoá không
có nghĩa là giảm nhẹ trách nhiệm của Nhà nước, giảm bớt phần ngân sách nhà
nước; trái lại, Nhà nước thường xuyên tìm thêm các nguồn thu để tăng tỷ lệ
ngân sách chi cho các hoạt động này, đồng thời quản lý tốt để nâng cao hiệu
quả sử dụng các nguồn kinh phí đó. Thực hiện xã hội hoá y tế cũng là giải
pháp quan trọng để thực hiện chính sách công bằng xã hội trong chiến lược
phát triển kinh tế, xã hội của Đảng và Nhà nước. Công bằng xã hội không chỉ
biểu hiện về mặt hưởng thụ, tức là người dân được xã hội và nhà nước chăm
lo, mà còn biểu hiện cả về mặt người dân đóng góp, cống hiến cho xã hội theo
khả năng thực tế của từng người, từng địa phương. Thực hiện công bằng trong
chính sách xã hội phải vận dụng các nguyên tắc điều chỉnh và ưu tiên; nhất
thiết phải ưu tiên đối với người có công, phải trợ giúp người nghèo, vùng
nghèo; người có công, có cống hiến nhiều hơn, được xã hội và Nhà nước
chăm lo nhiều hơn. Công bằng xã hội trong việc huy động các nguồn lực của
nhân dân vào các hoạt động văn hoá, xã hội không phải là huy động bình
quân, mà là vận dụng cách huy động và mức huy động tuỳ theo các lớp người
có điều kiện thực tế khác nhau, có mức thu nhập khác nhau. Những người
thuộc diện chính sách xã hội của Đảng và Nhà nước được miễn, giảm phần

đóng góp. Công bằng xã hội còn được thực hiện thông qua việc phát huy
truyền thống "lá lành đùm lá rách", người giàu giúp người nghèo, vùng giàu
22
giúp vùng nghèo. Phát triển nhiều loại quỹ do nhân dân đóng góp tự nguyện
làm việc nghĩa, như quỹ khuyến học, quỹ từ thiện Nhà nước ban hành quy
chế thành lập và quản lý các quỹ này theo hướng phát huy khả năng tự quản
và giám sát của những người đóng góp, thực hiện chế độ công khai hoá thu,
chi. Vấn đề đặt ra ở đây là nếu thực hiện XHH y tế có làm mất đi sự công
bằng, bình đẳng, mất đi tính nhân đạo XHCN không? Muốn vậy cần phải
phân tích cụ thể cụm từ công bằng và bình đẳng. Trước tiên, công bằng không
phải là sự cân bằng. Công bằng có nghĩa là sự đối xử, đáp ứng theo nhu cầu
của mỗi người hay mỗi nhóm người; còn bình đẳng thể hiện là sự cân bằng
đáp ứng như nhau giữa các cá nhân hay nhóm người dù họ có nhu cầu khác
nhau. Thực hiện xã hội hóa trong các lĩnh vực giáo dục, y tế, văn hoá với
quan niệm đúng đắn về công bằng xã hội chính là thực hiện định hướng xã
hội chủ nghĩa theo đường lối của Đảng. Cũng như vậy, nhu cầu khám chữa
bệnh gắn với chuyên môn nghề nghiệp y tế, còn sức mua khám chữa bệnh gắn
với thị trường cung cầu. Tuy cả người giàu và người nghèo đều có nhu cầu
khám chữa bệnh như nhau nhưng khả năng chi trả của họ hoàn toàn khác
nhau. Vì vậy nói đến công bằng là phải nói đến sự thỏa mãn nhu cầu chăm
sóc sức khỏe của mọi người. Ở nước ta 80% dân số là nông dân, trong đó
20% là nghèo khổ. Họ sẽ không có khả năng chi trả cho các dịch vụ y tế song
vẫn có nhu cầu khám chữa bệnh, có nhu cầu được chăm sóc sức khỏe. Vậy
trách nhiệm của ngành y tế là làm thế nào để thỏa mãn được nhu cầu chăm
sóc sức khỏe tối thiểu của nhân dân. Công bằng trong chăm sóc sức khỏe
phải gắn với nhu cầu chứ không gắn với khả năng chi trả. XHH y tế là một
chủ trương nhằm thu hút các nguồn lực xã hội để giảm bớt gánh nặng ngân
sách nhà nước, góp phần tăng nguồn vốn đầu tư kỹ thuật, nâng cao chất lượng
khám chữa bệnh (KCB). Tuy nhiên, bên cạnh những thành quả đáng ghi nhận,
việc thiếu minh bạch trong tài sản công, tư và tự chủ tài chính tại các bệnh

23
viện công… đang làm ảnh hưởng đến ý nghĩa và hiệu quả của chủ trương này.
Hiện nay, chúng ta đang có những biểu hiện mất công bằng trong công tác
chăm sóc sức khỏe nhưng nguyên nhân không phải do XHH y tế mà đó chính
là mặt trái của cơ chế thị trường, của sự phân hóa giàu nghèo. Mất công bằng
trong chăm sóc sức khỏe biểu hiện chủ yếu trên khả năng tiếp cận với các
dịch vụ y tế, thể hiện ở khả năng chi trả trong quá trình khám chữa bệnh.
Ngân sách nhà nước cấp cho ngành y tế chưa phù hợp, trên thực tế chưa dựa
trên nhu cầu về chăm sóc sức khỏe. Như vậy một nhiệm vụ cấp bách để đảm
bảo sự công bằng trong chăm sóc sức khỏe là mọi người nghèo đều phải được
chăm sóc sức khỏe chu đáo dù không có tiền, phải có những chính sách đãi
ngộ thích đáng với người có công, cống hiến nhiều cho xã hội. Việc xác định
đường hướng chủ yếu của việc tăng nguồn lực cho chăm sóc sức khỏe và đảm
bảo sự quản lý của Nhà nước là hai yếu tố hết sức quan trọng để đảm bảo sự
công bằng trong chăm sóc sức khỏe. Thực hiện xã hội hóa trong lĩnh vực y tế
với quan niệm đúng đắn về công bằng xã hội chính là thực hiện định hướng
xã hội chủ nghĩa theo đường lối của Đảng.
1.2.3. Sự cần thiết của XHH y tế ở nước ta hiện nay
Trước đây, trong thời kỳ bao cấp, nước ta đã có một nền y tế khá phát
triển, một mạng lưới y tế rộng khắp tới tận thôn xóm, mọi người dân đều
được chăm sóc sức khỏe không mất tiền. Nhưng sau năm 1986 và nhất là sau
năm 1989, với sự tác động mạnh mẽ của nền kinh tế thị trường đã làm cho
nền y tế nói chung gặp nhiều khó khăn hơn. Theo số liệu điều tra hộ gia đình
của đơn vị chăm sóc sức khỏe ban đầu - Bộ y tế trong những năm 1995-2010,
sự cách biệt giàu nghèo có xu hướng gia tăng, mức chênh lệch giữa nhóm thu
nhập cao với nhóm thu nhập thấp tăng tới hơn 7 lần. Sự cách biệt thể hiện rõ
nét trên các nhu cầu sử dụng dịch vụ y tế: Các cơ sở y tế đều có các khu dịch
vụ, điều trị tự nguyện với các mức giá khá chênh lệch so với giá dành cho bảo
24
hiểm y tế. Trong thời kỳ bao cấp, Nhà nước đảm bảo hầu như toàn bộ chi phí

từ đào tạo cán bộ đến khám chữa bệnh miễn phí, cung ứng thuốc men, trang
thiết bị, cơ sở vật chất, v.v… Cơ chế đó ngày nay đã thấy bộc lộ nhiều điểm
không phù hợp, đó là sự trì trệ, thiếu hiệu quả, người dân bị ép buộc phải
khám bệnh theo những tuyến đã được đăng ký cho dù nơi đó có trình độ
chuyên môn và chất lượng điều trị thấp, họ không được tự ý chọn nơi chữa
bệnh và chăm sóc sức khỏe cho mình. Khi đất nước ta chuyển sang xóa bỏ cơ
chế kinh tế tập trung quan liêu bao cấp thì những ảnh hưởng của cơ chế thị
trường trong đời sống đối với sự công bằng trong trong yêu cầu chăm sóc và
bảo vệ sức khỏe của ngành y tế trở nên lỗi thời không còn phù hợp nữa.
Trong cơ chế thị trường, công tác y tế phải được thực hiện theo nhu cầu người
bệnh nhưng nền kinh tế của chúng ta là nền kinh tế thị trường theo định
hướng XHCN dưới sự lãnh đạo của Đảng nên ngành y tế phải có những lựa
chọn cho phù hợp, đáp ứng được nhu cầu khám chữa bệnh của nhân dân, của
mọi tầng lớp trong xã hội nhưng không đi chệch đường lối, quan điểm của
Đảng và Nhà nước về chiến lược chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân.
Trước tình hình đó, ngành y tế của nước ta phải đứng trước những lựa chọn
cấp bách sau:
Một là, hướng nền y tế về phía thị trường (tư nhân).
Hai là, hướng nền y tế vào vị trí trung gian, Nhà nước và tư nhân cùng
đóng vai trò như nhau.
Ba là, hướng nền y tế quay trở lại thời kỳ bao cấp như trước đây.
Bốn là, hướng nền y tế về phía mà ở đó Nhà nước đóng vai trò chủ đạo, tư
nhân và các tổ chức xã hội trong và ngoài nước là những lực lượng tham gia.
Với việc khẳng định sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam chúng ta
kiên định trên con đường tiến lên CNXH, lấy chủ nghĩa Mác – Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng và kim chỉ nam cho mọi hành động thì
ngành y tế không thể lựa chọn hai hướng đi thứ nhất và thứ hai. Với hướng đi
25
thứ ba, hiện nay không còn phù hợp với cả điều kiện chính trị xã hội và nhu
cầu của con người.

Từ khái niệm về XHH và XHH y tế, chúng ta thấy tầm quan trọng
trong công tác chăm sóc và bảo vệ sức khỏe của một dân tộc là vấn đề sống
còn của dân tộc đó, là vấn đề hưng thịnh của một quốc gia. Hồ Chí Minh đã
từng nói: “Một người dân khỏe mạnh là cả dân tộc khỏe mạnh”. Và có đảm
bảo công tác chăm sóc và bảo vệ sức khỏe tốt, người dân được chăm sóc sức
khỏe chu đáo, đầy đủ mới có thể cải tạo giống nòi, nâng cao chỉ số thông
minh, nâng cao hiệu quả và năng lực lao động của mỗi người và cũng chính là
của đất nước.
Trước đây, nền y tế của chúng ta được Nhà nước bao cấp hoàn toàn từ
đào tạo cán bộ cho đến các cơ sở vật chất khám chữa bệnh, trang thiết bị,
thuốc men. Các cơ sở khám chữa bệnh hình thành một mạng lưới y tế rộng
khắp trong cả nước từ trung ương tới các làng xã, thôn bản, nhưng do kinh tế
nghèo nàn cho nên trang thiết bị, cơ sở vật chất, thuốc men để trang bị cho
các cơ sở đó cũng nghèo nàn, thiếu thốn.
Cán bộ y tế chỉ trông chờ vào sự giúp đỡ của Nhà nước, có đến đâu
dùng đến đó. Ngay đến trình độ của nhân viên y tế cũng chỉ bó hẹp trong
những kiến thức thu nhận được từ nhà trường. Không được tiếp xúc với khoa
học, kỹ thuật mới, tiên tiến trên thế giới dẫn đến tình trạng chuyên môn ngày
một mòn dần.
Người bệnh bị bó buộc vào các tuyến cũng như các cơ sở khám chữa
bệnh đã được đăng ký từ trước. Họ không có quyền yêu cầu được chăm sóc
sức khỏe tốt hơn theo nguyện vọng mặc dù những cơ sở họ phải đăng ký
khám chữa bệnh có chất lượng chuyên môn thấp. Cơ sở vật chất nghèo nàn,
thiếu thốn nhưng trong thời điểm đó, cả dân tộc đang dồn sức cho cuộc kháng
chiến giành độc lập, tự do và mọi người dân đều hiểu nghĩa vụ và quyền lợi
của mình nên họ chấp nhận cơ chế đó, hình thức đó.

×