Tải bản đầy đủ (.doc) (37 trang)

Vận dụng khái niệm trọng yếu trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán của kiểm toán Báo cáo tài chính

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (504.23 KB, 37 trang )

MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 1
Phần I: Cơ sở lý luận về tính trọng yếu trong kiểm toán báo cáo tài
chính 3
1.1 Tổng quan về kiểm toán Báo cáo tài chính 3
1.2 Các khái niệm cơ bản về trọng yếu 5
1.2 Tiêu chuẩn để xác định trọng yếu7 7
1.2.1. Quy mô7 7
1.2.2 Bản chất……………………………………………….10 10
1.3 Vận dụng khái niệm trọng yếu trong kiểm toán 15
1.3.1 Cơ sở vận dụng15 15
1.3.2 Phương pháp xác lập mức trọng yếu 15
1.3.3 Quy trình đánh giá tính trọng yếu 17
1.3.4 Thí dụ 24
Phần II : Đánh giá chung về vận dụng khái niệm trọng yếu trong giai đoạn lập
kế hoạch kiểm toán của kiểm toán báo cáo tài chính tại Việt Nam 30
2.1 Ưu điểm 30
2.2 Hạn chế 31
2.3 Một số đề xuất nhằm hoàn thiện quy trình đánh giá tính trọng yếu tại
Việt Nam 33
KẾT LUẬN 35
Tài liệu tham khảo
LỜI MỞ ĐẦU

Kiểm toán và đặc biệt là kiểm toán tài chính xuất hiện và phát triển cùng với sự
phát triển của nền kinh tế kinh tế thị trường, hoạt động kiểm toán đã trở thành nhu
cầu tất yếu đối với hoạt động kinh doanh và nâng cao chất lượng quản lý của các
doanh nghiệp. Ở Việt nam, hoạt động kiểm toán xuất hiện trong điều kiện nền kinh
tế nước ta chuyển đổi sang nền kinh tế theo cơ chế thị trường. Trước xu thế hội
nhập hiện nay, các công ty kiểm toán độc lập ở Việt Nam không ngừng nâng cao
chất lượng dịch vụ của mình để có thể đáp ứng nhu cầu khách hàng và cạnh tranh


với các công ty kiểm toán nước ngoài.
Trong đó, quy trình đánh giá tính trọng yếu góp một phần quan trọng vào việc
nâng cao chất lượng của cuộc kiểm toỏn,đặc biệt là kiểm toán tài chính. Một quy
trình đánh giá trọng yếu hiệu quả sẽ giúp kiểm toán viên xây dựng được một kế
hoạch kiểm toán tốt nhằm đảm bảo cho quá trình thực hiện kiểm toán được hiệu
quả, có khả năng phát hiện được những sai phạm trọng yếu, trên cơ sở đó kiểm
toán viên sẽ đưa ra ý kiến thích hợp nhất đối với báo cáo tài chính.
Nhận thức được tầm quan trọng và ý nghĩa của quy trình này đối với toàn bộ
cuộc kiểm toán, qua quá trình nghiên cứu lý luận kết hợp với việc tìm hiểu các tài
liệu tham khảo, em đã hoàn thành đề tài “ Vận dụng khái niệm trọng yếu trong
giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán của kiểm toán Báo cáo tài chớnh” .

Nội dung của đề tài được chia thành hai phần như sau:
Phần I: Cơ sở lý luận về tính trọng yếu trong báo cáo tài chính
Phần II : Đánh giá chung về vận dụng khái niệm trọng yếu trong giai đoạn lập
kế hoạch kiểm toán của kiểm toán Báo cáo tài chính tại Việt Nam.
Em xin chân thành cảm ơn cô giáo Thạc sĩ Nguyễn Thị Mỹ đã hướng dẫn và
giúp đỡ em trong quá trình hoàn thành đề tài này.

Hà nội, ngày 05 tháng 11 năm 2008

Sinh viên

Trịnh Cẩm Ly
PHẦN I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TÍNH TRỌNG YẾU
TRONG KIỂM TOÁN BÁO CÁO TÀI
1.1Tổng quan về kiểm toán Báo cáo tài chính:
Để nghiên cứu khái niệm trọng yếu trong kiểm toán BCTC, trước hết chúng ta
phải có cái nhìn tổng quát về về kiểm toán BCTC và quy trình kiểm toán BCTC.
Có rất nhiều định nghĩa khác nhau về kiểm toán BCTC, nhưng định nghĩa được

chấp nhận rộng rãi nhất là:
“ Kiểm toán BCTC là hoạt động xác minh và bày tỏ ý kiến về các bảng khai
tài chính của các thực thể kinh do các KTV có trình độ nghiệp vụ tương xứng đảm
nhận bằng hệ thống phương pháp kiểm toán chứng từ và ngoài chứng từ, dựa trên
hệ thống pháp lý đang có hiệu lực.”
Trong nền kinh tế thị trường, kiểm toán BCTC cung cấp cho những người sử
dụng kết quả kiểm toán sự hiểu biết về những thông tin tài chính họ được cung cấp
có được lập trên cơ sở các nguyên tắc và chuẩn mực theo qui định hay không và
các thông tin đú cú trung thực và hợp lý hay không. Bên cạnh mục tiêu chính là
đưa ra ý kiến về báo cáo tài chính, các kiểm toán viên, thông qua quá trình kiểm
toán, còn có thể đưa ra những kiến nghị giúp doanh nghiệp hoàn thiện hệ thống
kiểm soát, nâng cao hiệu quả trong công tác quản lý tài chính nói riêng cũng như
hoạt động kinh doanh nói chung.
Để đảm bảo tính hiệu quả, tính kinh tế và tính hiệu lực của từng cuộc kiểm
toán cũng như để thu thập bằng chứng kiểm toán đầy đủ và có giá trị làm căn cứ
cho kết luận của KTV về tính trung thực và hợp lý của số liệu trên BCTC, một
cuộc kiểm toán thường được tiến hành theo quy trình gồm có 3 giai đoạn: lập kế
hoạch và thiết kế các chương trình kiểm toán, thực hiện kế hoạch kiểm toán, hoàn
thành cuộc kiểm toán và công bố báo cáo kiểm toán.
Trong đó lập kế hoạch kiểm toán là giai đoạn đầu tiên mà các KTV cần thực
hiện trong mỗi cuộc kiểm toán nhằm tạo ra các điều kiện pháp lý cũng như những
điều kiện cần thiết khác cho cuộc kiểm toán. Như vậy, lập kế hoạch kiểm toán có
vai trò rất quan trọng, chi phối tới chất lượng và hiệu quả chung của toàn bộ cuộc
kiểm toỏn.í nghĩa của giai đoạn này được được thể hiện qua một số điểm sau:
∗ Kế hoạch kiểm toán giúp KTV thu thập được các bằng chứng kiểm toán
đầy đủ và có giá trị làm cơ sở để đưa ra các ý kiếm xác đáng về các BCTC, từ đó
giỳp cỏc KTV hạn chế những sai sót, giảm thiểu trách nhiệm pháp lý, nâng cao
hiệu quả công việc và giữ vững được uy tín nghề nghiệp đối với khách hàng.
∗ Kế hoạch kiểm toán giỳp cỏc KTV phối hợp hiệu quả với nhau cũng như
phối hợp hiệu quả với các bộ phận liên quan như kiểm toán nội bộ, các chuyên gia

bên ngoài Đồng thời qua sự phối hợp hiệu quả đó, KTV có thể tiến hành cuộc
kiểm toán theo đúng chương trình đã lập với các chi phí ở mức hợp lý, tăng cường
sức mạnh cạnh tranh cho công ty kiểm toán và giữa uy tín với khách hàng trong
mối quan hệ làm ăn lâu dài.
∗ Kế hoạch kiểm toán thích hợp là căn cứ để công ty kiểm toán tránh xảy ra
những bất đồng đối với khách hàng. Trên cơ sở kế hoạch kiểm toán đã lập, KTV
thống nhất với khách hàng về nội dung công việc sẽ thực hiện, thời gian tiến hành
kiểm toán cũng như là trách nhiệm của mỗi bờn Điều này tránh xảy ra những hiểu
lầm đáng tiếc giữa hai bên.
∗ Ngoài ra, căn cứ vào kế hoạch kiểm toán đã được lập, KTV có thể kiểm soát
và đánh giá chất lượng kiểm toán đã và đang thực hiện, góp phần nâng cao chất
lượng và hiệu quả của cuộc kiểm toán, từ đó càng thắt chặt hơn mối quan hệ giữa
công ty kiểm toán với khách hàng .
Trong điều kiện Việt Nam hiện nay, hoạt động kiểm toán BCTC còn rất mới
mẻ. Trong khi đó hành lang pháp lý cho hoạt động kiểm toán chưa đầy đủ, nội
dung, quy trình cũng như các phương pháp được vận dụng trong các cuộc kiểm
toán của Việt Nam mới ở giai đoạn ban đầu, nguồn tài liệu thiếu cả về số lượng,
tính đồng bộ và hạn chế về mặt chất lượng. Do vậy, kế hoạch kiểm toán cần được
coi trọng để đảm bảo chất lượng và hiệu quả của cuộc kiểm toán. Thực tiễn hoạt
động kiểm toán ở nước ta trong những năm vừa qua cho thấy kế hoạch kiểm toán
được lập đầy đủ và chu đáo là một trong những nhân tố hàng đầu đưa đến sự thành
công của cuộc kiểm toán.
Khi kiểm toán BCTC, KTV có trách nhiệm đảm bảo hợp lý rằng BCTC không
có những sai lệch trọng yếu. Vỡ võy, trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán, KTV
cần phải xác định mức trọng yếu có thể chấp nhận đối với các sai lệch phát hiện
được. Để hình dung vấn đề này, trước hết cần nghiên cứu khái niệm trọng yếu và
phương pháp vận dụng khái niệm này trong kiểm toán.

1.2 Các khái niệm cơ bản về trọng yếu
Theo từ điển Tiếng Việt, “ Trọng yếu là một tính từ để chỉ sự quan trọng, thiết

yếu. Một sự vật, địa danh đi kèm với trọng yếu đều mang ý nghĩa quan trọng”.
Trọng yếu là một thuật ngữ quan trọng trong kế toán, kiểm toán. Nguyên tắc
trọng yếu cần chú trọng đến những vấn đề mang tính cốt yếu, quyết định bản chất
và nội dung của sự vật, sự kiện kinh tế phát sinh. Chính vì vậy, khái niệm trọng
yếu được đề cập ở rất nhiều tài liệu trong nước cũng như quốc tế. Có thể trích dẫn
một số tài liệu sau:
Theo giáo trình Kiểm toán tài chính – NXB Đại học kinh tế quốc dân: là
khái niệm về tầm cỡ (hay độ lớn) và bản chất của các sai phạm (kể cả bỏ sót) của
các thông tin tài chính hoặc là đơn lẻ, hoặc là từng nhóm mà trong bối cảnh cụ thể
nếu dựa vào các thông tin này để xét đoán thì không thể chính xác hoặc là sẽ rút ra
những kết luận sai lầm.
Theo Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam VSA 200: : Là thuật ngữ dùng để thể
hiện tầm quan trọng của một thông tin (một số liệu kế toán) trong báo cáo tài
chính.
Thông tin được coi là trọng yếu có nghĩa là nếu thiếu thông tin đó hoặc thiếu
tính chính xác của thông tin đó sẽ ảnh hưởng đến các quyết định của người sử
dụng báo cáo tài chính. Mức trọng yếu tuỳ thuộc vào tầm quan trọng và tính chất
của thông tin hay của sai sót được đánh giá trong hoàn cảnh cụ thể. Mức trọng yếu
là một ngưỡng, một điểm chia cắt chứ không phải là nội dung của thông tin cần
phải có. Tính trọng yếu của thông tin phải xem xét cả trên phương diện định lượng
và định tính.
Theo chuẩn mực kiểm toán quốc tế ISA 320 về “ Tính trọng yếu trong kiểm
toỏn” : “ Thông tin là trọng yếu nếu việc bỏ sót hoặc sai sót của thông tin có thể
ảnh hưởng đến quyết định kinh tế của người sử dụng BCTC. Tính trọng yếu phụ
thuộc vào mức độ quan trọng của các khoản mục hay sai sót được đánh giá theo
bối cảnh cụ thể tạo ra việc bỏ sót hoặc sai sót đó. Vì thế, tính trọng yếu là một
ngưỡng hoặc một điểm định tính cơ bản mà một thông tin hữu ích cần phải cú”.
Theo Các văn bản chỉ đạo kiểm toán quốc tế số 25 ( IAG 25) “ Trọng yếu và
rủi ro trong kiểm toán: Trọng yếu là khái niệm chỉ tầm cỡ, bản chất của các sai
phạm ( kể cả bỏ sót ) thông tin tài chính hoặc đơn lẻ hoặc từng nhóm, mà trong bối

cảnh cụ thể nếu dựa vào các thông tin này để xét đoán thì sẽ không chính xác hoặc
rút ra kết luận sai lầm”.
Từ rất nhiều định nghĩa trên ta thấy rằng dù ở thế giới hay Việt Nam, “ trọng
yếu” đều được quan niệm như một thuật ngữ dùng để thể hiện tầm quan trọng của
một thông tin hay một số liệu trên BCTC mà nếu thiếu nó hoặc thiếu chính xác cuả
thông tin đó sẽ ảnh hưởng đên nhận thức của người sử dụng BCTC, từ đó dẫn đến
sai lầm trong việc đánh giá thông tin và ra các quyết định quản lý. Sự tương đồng
giữa kiểm toán và quản lý này dẫn đến tính tất yếu phải lựa chọn nội dung kiểm
toán tối ưu, vừa đánh giá đúng bản chất của đối tượng kiểm toán, vừa đáp ứng kịp
thời nhu cầu của người quan tâm với chi phí kiểm toán thấp trên cơ sở thực hiện tốt
chức năng kiểm toán.
Bởi vậy, để giải quyết yêu cầu trên trong khái niệm “trọng yếu” đã bao hàm hai
mặt liên quan tới nhận thức của đối tượng: Quy mô hay tầm cỡ ( mặt lượng) và và
vị trí hay tính hệ trọng ( mặt chất ) của phần nội dung cơ bản. Khi đánh giá tính
trọng yếu, KTV cần xem xét cả hai mặt: mặt định lượng và mặt định tính.
1.2 Tiêu chuẩn để đánh giá tính trọng yếu
1.2.1 Quy mô
Xét trong mối quan hệ giữa mức độ ảnh hưởng của các khoản mục, nghiệp vụ
đến kết luận kiểm toán, quy mô của khoản mục và nghiệp vụ thường được chia
thành hai mức độ sau:
Một là: Một khoản mục,nghiệp vụ sai phạm với quy mô nhỏ không ảnh hưởng
đến việc ra quyết định của người sử dụng thông tin trên BCTC thì được coi là
không trọng yếu.
Hai là: Một khoản mục, nghiệp vụ sai phạm với quy mô lớn, ành hưởng đến việc
ra quyết định của người sử dụng thông tin trên BCTC thì được coi là trọng yếu.
Xét trên phương diện quy mô của khoản mục và nghiệp vụ, để đánh giá trọng
yếu, KTV cần phải liên hệ giữa yếu tố quy mô của từng khách hàng cụ thể. Ví dụ:
Một khoản mục có giá trị 5.000.000 VNĐ sẽ được đánh giá là không trọng yếu nếu
tổng tài sản là 10.000.000.000 VNĐ thì khoản mục đó sẽ được đánh giá là không
trọng yếu và ngược lại, nếu tổng tài sản là 50.000.000 VNĐ thì khoản mục đó sẽ

được đánh giá là trọng yếu.
Do vậy, khi xem xét đến yếu tố quy mô của khoản mục và nghiệp vụ, KTV cần
quan tâm đến khái niệm “ quy mô tuyệt đối” và quy mô tuyệt đối”.
∗ Quy mô tuyệt đối: là một con số cụ thể của sai phạm, thể hiện mức quan
trọng mà không cần cân nhắc thêm bất kỳ yếu tố nào khỏc.Tuy nhiờn trong thực tế
rất khó có thể ấn định một con số cụ thể về tầm cỡ cho những điểm cốt yếu của nội
dung kiểm toán, đặc biệt là khi có yếu tố tiềm ẩn. Một sai sót với quy mô nhất định
có thể là trọng yếu đối với một công ty nhỏ nhưng không trọng yếu đối với một
công ty lớn hơn. Vì vậy, việc xác định một mức giá trị cụ thể bằng tiền cho sự ước
lượng ban đầu về tính trọng yếu áp dụng cho các khách hàng kiểm toán là một điều
không thể làm được. Do đó, trọng yếu là một khái niệm tương đối hơn là tuyệt đối.


Quy mô tương đối là tỷ lệ % giữa con số của sai phạm (của nội dung kiểm
toán) với một con số gốc. Số gốc thường khác nhau cho mỗi trường hợp khác nhau,
tuỳ thuộc vào chính sách của công ty kiểm toán về việc xác lập mức trọng yờỳ và
việc vận dụng chính sách trên vào từng tình huống cụ thể . Thông thường, với báo
cáo kết quả kinh doanh ( BCKQHĐKD), sồ gốc có thể là doanh thu thuần, lợi
nhuận sau thuế; với bảng cân đối kế toán( BCĐKT ),số gốc có thể là tổng tài sản,
tổng tài sản ngắn hạn,
Ngoài ra, khi xem xét quy mô của tính trọng yếu, KTV còn phải cân nhắc sự
ảnh hưởng luỹ kế của đối tượng xem xét vỡ cỏc gian lận và sai sót thường không
xảy ra đơn lẻ và biệt lập. Trên thực tế có nhiều sai phạm khi xem xét chúng một
cách biệt lập thỡ chỳng không đủ trọng yếu do quy mô nhỏ. Tuy nhiên nếu cộng
dồn tất cả các sai phạm đó lại, KTV có thể phát hiện thấy sự liên quan và tính hệ
thống của các sai phạm và khi đó đó là một sai phạm trọng yếu. Theo chuẩn mực
kiểm toán quốc tế ISA 320 về “ Tính trọng yếu trong kiểm toỏn”: “ Kiểm toán viên
cần xét tới khả năng có nhiều sai sót tương đối nhỏ nhưng tổng hợp lại có ảnh
hưởng trọng yếu đến báo cáo tài chính, như: một sai sót trong thủ tục hạch toán
cuối tháng có thể trở thành một sai sót trọng yếu, tiềm tàng nếu như sai sót đó cứ

tiếp tục tái diễn vào mỗi tháng.”
Như vậy việc xác định tính trọng yếu qua quy mô không phải là việc dễ dàng
do đó để xác định đúng nội dung kiểm toán trên phương diện này chúng ta cần
quán triệt các nguyên tắc sau:
Thứ nhất, cơ sở đánh giá tính trọng yếu phải được xác định. Tổng doanh
thu, thu nhập thuần trước thuế, tài sản ngắn hạn, tổng vốn dài hạn, nợ ngắn hạn,
thường được dùng làm cơ sở đánh giá tính trọng yếu và cũng tuỳ thuộc vào cả
khách thể kiểm toán thuộc loại hình doanh nghiệp nào, quy mô hoạt động như thế
nào, Vỡ mỗi ngành, mỗi lĩnh vực lại có những đặc điểm riờng nờn việc tìm hiểu
khách hàng là một công việc hết sức quan trọng trong giai đoạn chuẩn bị kiểm
toán.
Thứ hai, quy mô của khoản mục, nghiệp vụ không chỉ xét về quy mô bằng
con số tuyệt đối mà còn phải tương quan với các đối tượng kiểm toán khác. Về
định lượng đó là những tỷ lệ của các khoản mục, nghiệp vụ so với một cơ sở tính
toán như tổng tài sản, tổng doanh thu, lợi nhuận trước thuế, Và cũng tuỳ vào bản
chất mà khi tính toán ta nên cộng dồn hay tách riêng các khoản mục nghiệp vụ, sai
sót có liên quan.
Thứ ba, quy mô trọng yếu còn phụ thuộc vào đối tượng và mục tiêu của cuộc
kiểm toán là kiểm toán tài chính, kiểm toán nghiệp vụ với các chức năng xác minh,
tư vấn,
1.2.2 Bản chất
Bản chất của các sai phạm luôn được coi là tiêu chuẩn quan trọng để đánh giá
tính trọng yếu. KTV phải nhận thức rằng có những trường hợp tuy sai lệch có giá
trị thấp nhưng do bàn chất nên có thể vẫn gây ành hưởng đến quyết định của người
sử dụng báo cáo tài chính.
Những yếu tố về bản chất của sai phạm cần phải được xem xét là:
Thứ nhất, Các gian lận thường được xem là quan trọng hơn các sai sót với một
quy mô tiền tệ bởi các gian lận thường làm cho người ta nghĩ tới tính trung thực và
độ tin cậy của Ban giám đốc hay những người có liên quan.
Thứ hai, Sai phạm có tính chất dây chuyền và ảnh hưởng nghiêm trọng đến

BCTC. Đây là các sai phạm có tính chất hệ thống.Chẳng hạn, việc thanh toán một
khoản chi bất hợp pháp sẽ dẫn đến sự sai lệch về công nợ, lãi lỗ, tài sản và doanh
thu.
Thứ ba, mụt sự mô tả không đúng đắn, hay không xác đáng về chính sách tài
chính của đơn vị có thể làm người sử dụng hiểu sai về bản chất các thông tin của
đơn vị.Thớ dụ khi các đơn vị thay đổi cỏch tớnh khấu hao TSCĐ, hoặc phương
pháp tính giá hàng tồn kho nhưng lại không công bố về thay đổi đó và các ảnh
hưởng của chúng đến BCTC.
Liên quan tới mặt chất của đối tượng, các khoản mục nghiệp vụ thường được
phân loại theo các dạng sau:
∗ Các khoản mục, nghiệp vụ chứa có gian lận hoặc chứa đựng khả năng gian
lận:
Việc nhận định các nghiệp vụ có hoặc chứa khả năng gian lận là điều rất cần thiết
bởi lẽ nó giỳp cho công việc đánh giá tính trọng yếu của KTV trở nên dễ dàng hơn.
Song không phải lúc nào các nhận định của KTV về các khoản mục nghiệp vụ này
cũng chính xác. Thực tế kiểm toán đã chỉ ra một số các khoản mục nghiệp vụ sau
đây thường có khả năng chứa đựng gian lận cao:
- Các nghiệp vụ đấu thầu, giao thầu, giao dịch không hợp pháp vì có thể có
sự móc nối giữa cấc bên trong việc giap nhận thầu nhằm thu lợi cho cá
nhân.
- Các nghiệp vụ thanh lý tài sản: trong nhiều trường hợp, tài sản vẫn còn sử
dụng tốt nhưng vẫn được đem thanh lý do có sự thông đồng giữa người
thanh lý và người mua tài sản.
- Các nghiệp vụ về tiền mặt: do có đặc điểm là gọn nhẹ, dễ di chuyển và cất
trữ và các nghiệp vụ liên quan đến tiền mặt là thường xuyên nên dễ phát
sinh gian lận.
- Các nghiệp vụ về mua bán và thanh toán: doanh nghiệp và khách hàng
hoặc nhà cung cấp có thể móc nối với nhau để báo cáo sai về thực trạng
hoạt động của mình.
- Các nghiệp vụ bất thường: các nghiệp vụ này xảy ra không thường xuyên,

không dự tính trước nhưng nó lại ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả kinh
doanh của doanh nghiệp. Do đó, KTV cần phải xem xét mức độ nghiêm
trọng của các nghiệp vụ đó và ảnh hưởng của đến kết quả chung của
doanh nghiệp.
- Các nghiệp vụ cố ý bỏ ngoài sổ sách: đây là nghiệp vụ biểu hiện hành vi
gian lận.
- Các nghiệp vụ xảy ra vào cuối kỳ quyết toán hoặc thuộc loại nghiệp vụ
mới phát sinh: thông thường cuối kỳ quyết toán, để kết quả hoạt động
kinh doanh được như kế hoặch đã đề ra hoặc để điều chỉnh một số chênh
lệch thừa hoặc thiếu, kế toán thường đưa ra một số bỳt toỏn hạch toán. Do
đó, các nghiệp vụ xảy ra vào cuối kỳ kế toán thường trọng yếu. Đối với
các nghiệp vụ mới phát sinh thì KTV cần phải tự đặt câu hỏi tại sao những
nghiệp vụ đó từ trước tới giờ mới phát sinh? Liệu kế toán có xử lý đúng
chưa? và từ đó đi tìm bằng chứng chứng minh cho những nghi vấn của
mình.
- Các khoản mục, chứng từ có sữa chữa: do được sữa chữa nên làm sai lệch
các thông tin trên BCTC một cách có chủ ý và được coi là hành vi gian
lận.
- Các nghiệp vụ vi phạm nguyên tắc kế toán và pháp lý nói chung: các
nghiệp vụ này thường được xem là trọng yếu vỡ chỳng có ảnh hưởng đến
sự trung thực và độ tin cậy của các nhà lãnh đạo doanh nghiệp cũng như
các cá nhân có liên quan.
∗ Các khoản mục, nghiệp vụ có sai sót ( không cố ý) hệ trọng:
- Các nghiệp vụ này thường do trình độ, năng lực yếu kém và tính thiếu cẩn
trọng của kế toán viên.
- Các khoản mục nghiệp vụ có sai sót với quy mô lớn hoặc có chênh lệch
lớn với các kỳ trước hoặc giữa các nguồn thông tin có liên quan.
- Các nghiệp vụ vi phạm nguyên tắc kế toán nhưng không cố ý, tuy nhiên
có thể dẫn đến sai lầm nghiêm trọng, ảnh hưởng tới người sử dụng thông
tin.

- Các nghiệp vụ, khoản mục có sai sót lặp lại nhiều lần: việc các sai sót lặp
lại nhiều lần cho dù quy mô nhỏ thì vẫn gây một sự nghi ngờ về năng lực
của kế toán viên và vấn đề quản lý sổ sách không được chặt chẽ. Hơn nữa,
tổng hợp các sai sót nhỏ có thể là một sai sót lớn ảnh hưởng đến BCTC.
- Các khoản mục nghiệp vụ có ảnh hưởng nghiêm trọng đến kỳ sau.
- Các sai sót ảnh hưởng tới lợi nhuận.
- Các khoản mục, nghiệp vụ là đầu mối hoặc gây hiệu quả liên quan đến
nhiều khoản mục, nghiệp vụ khác.
Việc nhận định và đưa ra ý kiến kiểm toán phụ thuộc rất nhiều vào các
khoản mục, nghiệp vụ liên quan đến bản chất của đối tượng kiểm toán. Vì
vậy, khái niệm trọng yếu đã đặt ra yêu cầu xác định nội dung kiểm toán với
các nguyên tắc không bỏ qua các khoản mục, nghiệp vụ lớn và có tính hệ
trọng, phản ánh bản chất đối tượng. Vi phạm nguyên tắc này có nghĩa là
không nắm vững nội dung trọng yếu thì KTV đã tạo ra rủi ro cho cuộc kiểm
toán. Do đó, khi đánh giá tính trọng yếu của một nội dung hay một phát hiện
kiểm toán cụ thể, KTVphải xem xét trên cả hai mặt là quy mô và bản chất
của vấn đề, từ đó mới đưa ra quyết định hợp lý về tính trọng yếu, đảm bảo
mục tiêu và chất lượng của cuộc kiểm toán.

1.3 Vận dụng khái niệm trọng yếu trong kiểm toán
1.3.1 Cơ sở vận dụng:
Trong kiểm toán BCTC, do lấy mẫu cũng như do những hạn chế tiềm tàng
khác của cuộc kiểm toán nên KTV không thể phát hiện được mọi sai lệch trong
BCTC. Tuy nhiên KTV phải đảm bảo hợp lý rằng sai lệch nếu còn tồn tại trên
BCTC đã được kiểm toán sẽ không gây ảnh hưởng trọng yếu. Để đạt được điều
này thì trong giai đoạn chuẩn bị kiểm toán KTV phải xác lập mức trọng yếu đê ứơc
tính mức độ sai sót của BCTC có thể chấp nhận đựơc, nghĩa là số tiền sai lệch tối
đa cho phép, để căn cứ vào đó để xác định phạm vi của cuộc kiểm toán để từ đó
xác định bản chất, thời gian và phạm vi của các thủ tục kiểm toán thích hợp nhằm
phát hiện các sai lệch có thể ảnh hưởng trọng yếu đến BCTC

1.3.2 Phương pháp xác lập mức trọng yếu:
Mức trọng yếu là số tiền sai lệch tối đa có thể chập nhận được của thông tin,
nghĩa là nếu sai lệch vượt khỏi số tiền đó sẽ làm người đọc hiểu sai về thông tin.
Mức trọng yếu cấn được xem xét ở mức độ tổng thể BCTC và mức độ từng khoản
mục như sau:
∗ Ở mức độ tổng thể của BCTC, kiểm toán viên phải ứơc tính toàn bộ sai sót
có thể chấp nhận được để đảm bảo BCTC không có sai lệch trọng yếu. Mục đích là
nhằm giảm rủi ro kiểm toán ở mức thấp chấp nhận được phù hợp với mục tiêu
kiểm toán. Mức trọng yếu tổng thể này thường được tính bằng một tỷ lệ % trên tài
sản, doanh thu họăc lợi nhuận. Lợi nhuận được nhiều KTV lựa chọn vì đó là chỉ
tiêu được đông đảo người người sử dụng BCTC quan tâm, nhất là cổ đông của các
công ty. Tuy nhiên, trong một số trường hợp tài sản hoặc doanh thu lại dễ áp dụng
hơn vì nhiều lý do, chẳng hạn công ty không có lợi nhuận hoặc người sử dụng
thông tin quan tâm nhiều đến khả năng thanh toán. Vì thế, một số KTV sử dụng
phối hợp giữa các chỉ tiêu trên để xác lập mức trọng yếu cho toàn bộ BCTC, thí dụ
mức trọng yếu được tính bằng một tỷ lệ phần trăm trên số lớn hơn giữa tài sản và
doanh thu.
Các phương pháp xác định mức trọng yếu tổng thể (Preliminary materiality –
PM )
+ PM một giá trị:
Phương pháp PM một giá trị lấy một tỷ lệ nhất định trên một chỉ số tài chính
để tính PM. Thông thường, trong chính sách của một hãng kiểm toán thường cung
cấp ba hoặc bốn quy tắc PM một giá trị và cho phép KTV chọn một quy tắc phù
hợp nhất dựa trên đánh giá của mình. Thí dụ
 PM căn cứ vào kết quả kinh doanh
• PM = 5% - 10% của Lợi nhuận trước thuế
Nếu lợi nhuận gần điểm hòa vốn
• PM = 0.5% - 1% của Doanh thu hay
1% - 2% của Lợi nhuận gộp
 PM căn cứ vào tình hình tài chính

• PM = hay <5% của Vốn chủ sở hữu
% của Tổng Tài sản
+ PM chuỗi giá trị: tương tự như phương pháp PM một giá trị nhưng
phương pháp chuỗi giá trị dùng một chỉ số tài chính nhưng sẽ có một chuỗi giá
trị để xác định mức trọng yếu dựa vào quy mô của từng công ty. Thí dụ:
• 2 – 5 % lãi gộp nếu lãi gộp < $ 20,000
• 1 – 2 % lái gộp, nếu lãi gộp từ $20,00 đến $ 1 triệu
• 0.5 – 1% lãi gộp, nếu lãi gộp từ $1 triệu đến $ 100 triệu
• 0.5 % lãi gộp, nếu lãi gộp lớn hơn $ 100 triệu.
+ PM bình quân: phương pháp này dùng một công thức bình quân số học
hoặc bình quân gia quyền để cho kết quản là số bình quân của 3- 4 chỉ số khác
nhau.
+ PM sử dụng công thức: các công ty kiểm toán thường xây dựng một công
thức riêng để xác định mức trọng yếu. Công thức được biết đến rộng rãi nhất là của
hãng KPMG 1998:

Mức trọng yếu = 1.84 x ( Số lớn hơn giữa doanh thu và tài sản )
2/3
∗ Đối với từng khoản mục, mức trọng yếu chính là sai lệch tối đa đựơc phép
của từng khoản mục, làm cơ sở để thiết lập các thủ tục kiểm toán cụ thể để phát
hiện sai phạm. Số tiền này đựơc tính dựa trên cơ sở mức trọng yếu tổng thể của
BCTC. Một số KTV xác lập mức trọng yếu ở khoản mục bằng cách phân bổ mức
trọng yếu tổng thể cho từng khoản mục. Cách làm này tuy tạo một hành lang pháp
lý an toàn khá cao nhưng bị phê phán vỡ cỏc sai lệch dự kiến không phải lúc nào
cũng đồng thời xảy ra ở tất cả các khoản mục và trong thực tế, các sai lệch có thể
bù trừ lẫn nhau khi tác động đến các chỉ tiêu như tổng tài sản, lợi nhuận, Vỡ vậy,
trong thực tế các KTV sử dụng nhiều kỹ thuật khác nhau để xác lập mức trọng yếu
ở khoản mục. Dù áp dụng phương pháp nào, KTV cũng phải luôn cân nhắc khi xác
lập mức trọng yếu cho khoản mục, họ thường dựa trên kinh nghiệm của mình về
đơn vị, cũng như đỏnh gớa về khả năng xảy ra sai sót và chi phí thực hiện kiểm tra

đối với khoản mục.

Các phương pháp xác định mức trọng yếu khoản mục (Tolerable erro – TE )
+ Phương pháp phân bổ từ dưới lên trên:
 Dự tính sai sót của từng khoản mục, tập hợp và xem xét ảnh hưởng
đến tổng thể
+ Phương pháp phân bổ từ trên xuống:
 Căn cứ tổng PM phân bổ TE
 Căn cứ (tổng PM x hệ số) phân bổ TE
 TE = % PM (25%, 50%, 75%)
1.3.3 Quy trình đánh giá tính trọng yếu
Theo phương pháp vận dụng đánh giá trọng yếu được đề cập trong
“ Auditing” của các tac giả W.Morley Lemon, Alvin A.Arens là một phương pháp
được công nhận phổ biến thì vận dụng đánh giá trọng yếu trong một cuộc kiểm
toán bao gồm 5 bước cơ bản sau:
Bước 1: Ước lượng ban đầu về mức trọng yếu
Bước 2: Phân bổ ước lượng ban đầu về mức trọng yếu cho các khoản mục trên báo
cáo tài chính
Bước 3: Ước tính tổng sai sót trong từng khoản mục
Bước 4: Ước tính sai sót kết hợp của BCTC
Bước 5: So sánh sai sót tổng hợp với các ước lượng ban đầu
Các bước trong quá trình vận dụng tính trọng yếu được thể hiện ở sở đồ sau
Bước 1 Ước lượng ban đầu về mức trọng yếu
Bước 2 Phân bổ ước lượng ban đầu về mức trọng
yếu cho các khoản mục trên BCTC
Bước 3 Ước tính tổng sai sót trong từng khoản mục


Bước 4 Ước tính sai sót kết hợp của BCTC


Bước 5 So sánh sai sót tổng hợp với các ước lượng
ban đầu

Sơ đồ 1.1 Quy trình đánh giá trọng yếu
( Nguồn: “ Kiểm toỏn” Alvin A.Arens, sách dịch)
Bước 1: Ước lượng ban đầu về mức trọng yếu
Đây là bước công việc nhằm trợ giúp KTV trong việc lập kế hoạch kiểm
toán, đặc biệt là trong kế hoạch thu thập bằng chứng kiểm toán thích hợp. Do KTV
không thể thực hiện kiểm toán 100% trên toàn bộ tổng thể nên việc ước lượng giúp
KTV có thể đưa ra các ý kiến chính xác dựa trên các khía cạnh trọng yếu.
Mức ước lượng ban đầu về tính trọng yếu là lượng tối đa mà KTV cho rằng ở mức
đú cỏc BCTC có thể bị sai lệch nhưng vẫn chưa ảnh hưởng đến các quyết định của
người sử dụng thông tin tài chính. Nói cách khác, đó là những sai sót có thể chấp
nhận được đối với toàn bộ BCTC.
Người ta thường sử dụng bảng tính sau để tính ước lượng trọng yếu ban đầu:

Cơ sở tính
Ước lượng ban đầu về tính trọng yếu
Tối thiểu Tối đa
Tỷ lệ % Số tiền Tỷ lệ % Số tiền
Thu nhập từ hoạt động
trước thuế
5 10
Tài sản lưu động 5 10
Tổng tài sản
3 6
Nợ ngắn hạn
5 10
Bảng 1.1 Bảng tính mức ươcs lượng ban đầu về trọng yếu.
( Nguồn: “ Kiểm toỏn” Alvin A.Arens, sách dịch)

Việc ước lượng ban đầu về tính trọng yếu là một làm mang tính chất xét đoán
nghề nghiệp của KTV. Do đó ước lượng ban đầu về tính trọng yếu là không cố
định mà có thể thay đổi trong suốt cuộc kiểm toán nếu KTV thấy rằng mức ước
lượng ban đầu là quá cao hoặc quá thấp hoặc một trong các nhân tố dùng để xác
định mức ước lượng ban đầu về tính trọng yếu bị thay đổi.
Khi xây dựng mức ứơc lượng ban đầu về tính trọng yếu, KTV cần lưu ý những yếu
tố ảnh hưởng sau:
Thứ nhất, tính trọng yếu là một khái niệm tương đối hơn là một đối tượng
tuyệt đối bởi lẽ việc ước lượng này phụ thuộc nhiều vào xét đoán mang tính nghề
nghiệp của KTV. Tính trọng yếu cũng gắn với quy mô của từng khách hàng. Với
cùng một mức quy mô, ở công ty này có thể là trọng yêu nhưng ở một công ty khác
chỉ là một con số nhỏ.
Thứ hai, yếu tố định lượng của tính trọng yếu: Quy mô sai sót là một yếu tố
quan trọng để xem xét liệu có yếu tố sai sót có trọng yếu hay không. Tuy nhiên do
trọng yếu có tính chất tương đối nên việc có được các cơ sở để quyết định xem một
quy mô của một sai phạm nào là trọng yếu hay không là một điều cần thiết. Thu
nhập thuần trước thuế, tài sản ngắn hạn, tổng vốn dài hạn, nợ ngắn hạn, thường
được dùng làm cơ sở đánh giá tính trọng yếu, trong đó thu nhập trước thuế là cơ sỏ
quan trọng nhất vỡ nó được xem như một khoản mục thông tin then chốt đối với
người sử dụng.
Thứ ba, yếu tố định tính của trọng yếu: Trong thực tế để đánh giá một sai sót
là trọng yếu hay không, KTV phải xem xét đánh giá về mặt giá trị và bản chất của
sai sót đó. Một gian lận luôn được coi là một trọng yếu bất kể quy mô của nó là
bao nhiêu.


Bước 2: Phân bổ ước lượng ban đầu về trọng yếu cho các khoản mục:
Sau khi KTV đó cú ước lượng ban đầu về trọng yếu cho toàn bộ BCTC, KTV
cần phân bổ mức ước lượng này cho từng khoản mục trên BCTC. Đó chớnh là sai
số có thể chấp nhận được đối với từng khoản mục( Tolerable Error).

Mục đích của việc phân bổ này là để giúp KTV xác định được số lượng bằng
chứng kiểm toán thích hợp phải thu thập đối với từng khoản mục ở chi phí thấp
nhất có thể mà vẫn đảm bảo tổng hợp các sai sót trên BCTC không vượt quá mức
ước lượng ban đầu về tính trọng yếu. Thông thường các KTV phân bổ mức ước
lượng cho các tài khoản trên bảng CĐTK thay vì các tài khoản trên BCKQKD.
Nguyên nhân là do nguyên tắc ghi sổ kép khiến những sai sót trên BCKQKD thì
hầu như cũng có ảnh hưởng tương tự như trên BCKQKD và do hầu hết các thủ tục
kiểm toán tập trung vào các tài khoản trên bảng CĐTK.
Việc phân bổ ước lượng được thực hiện theo cả hai chiều hướng mà mà các sai
phạm có thể xảy ra: đó là tình trạng khai khống( số liệu trên sổ sách lớn hơn thực
tế) và khai thiếu( số liệu trên sổ sách nhỏ hơn thực tế).
Có thể minh hoạ bứơc phân bổ này như sau:
Tài khoản Sai số có thể chấp nhận
Sai số thừa Sai số thiếu
Tiền
Các khoản phải thu
Hàng tồn kho
Chi phí trả trứơc

Bảng 1.2 Bảng phân bổ mức trọng yếu ban đầu cho các khoản mục
( Nguồn: “ Kiểm toỏn” Alvin A.Arens, sách dịch)
Cơ sở để tiến hành phân bổ ước lượng ban đầu về tính trọng yếu cho các khoản
mục trên BCTC là:
Thứ nhất, là bản chất của các khoản mục, đánh giá về rủi ro tiềm tàng và rủi ro
kiểm soát của các khoản mục. Nếu các khoản mục này được đánh giá là rủi ro tiềm
tàng và rủi ro kiểm soát cao thì mức trọng yếu được phân bổ cho các khoản mục đó
sẽ thấp và ngược lại.
Thứ hai, kinh nghiệm của các KTV về các sai phạm của các khoản mục. Nếu
KTV dự đoán rằng cú ớt sai phạm trong một khoản mục dựa trên những lần kiểm
toán trước và một số nhân tố khác mức trọng yếu được phân bổ cho khoản mục này

sẽ cao và ngược lại.
Thứ ba, chi phí kiểm toán đối với từng khoản mục. Các khoản mục mà việc thu
thập bằng chứng đòi hỏi chi phí lớn về mặt thời gian và tiền bạc thì mức phân bổ là
thấp hơn so với các khoản mục khác.
Tuy nhiên, trong thực tế quá trình phân bổ ước lượng ban đầu cho các khoản mục
gặp nhiều khó khăn sau:
Thứ nhất, do việc phân bổ được thực hiện theo chiều hướng thừa và thiếu, thế
nhưng việc dự đoán sai phạm có khả năng theo chiều hướng nào lại là một khó
khăn lớn.
Thứ hai, số lượng sai phạm trong các sai phạm trong các bộ phận, khoản mục
không đồng đều. Các khoản mục có mức độ sai phạm tiềm ẩn khác nhau nên mức
độ phân bổ ước lượng ban đầu về tính trọng yếu là khác nhau.
Thứ ba, do giới hạn về chi phí kiểm toán nên KTV thường phân bổ mức trọng
yếu cao hơn mức mong đợi cho mỗi khoản mục.
Tất cả các khó khăn này thường được giải quyết dựa trên xét đoán nghề nghiệp của
các KTV và do vậy mang nặng tính chủ quan của KTV. Vì thế, công việc này
thường do các KTV có trình độ chuyên môn cao, nhiều kinh nghiệm thực hiện.
Bước 3: Ước tính tổng sai sót trong từng khoản mục:
Trong quá trình thực hiện kiểm toán, bằng các thủ tục kiểm toán được áp dụng,
KTV phát hiện các sai phạm. Các sai phạm này được chia thành hai loại:
Thứ nhất, sai phạm đó cú bằng chứng chắc chắn và được đánh giá là trọng yếu
( xét về mặt định lượng và định tính ). Đối với sai phạm này, KTV sẽ đề nghị
khách hàng điều chỉnh. Nếu khách hàng chấp nhận điều chỉnh, KTV sẽ không tổng
hợp sai phạm này nữa. Ngược lại, nếu khách hàng từ chối không điều chỉnh, KTV
sẽ xem xét để đưa ra ý kiến thích hợp cho BCTC như “ý kiến chấp nhận từng
phần” hoặc “ ý kiến bác bỏ hoàn toàn”.
Thứ hai, sai phạm có bằng chứng chắc chắn với quy mô nhỏ, được đánh giá là
không trọng yếu, có thể bỏ qua. Với các sai sót này, KTV chưa đề nghị khách hàng
điều chỉnh ngay nhưng KTV sẽ tổng hợp lại , kết hợp xem xét ảnh hưởng của các
sai sót nhỏ được bỏ qua từ kỳ trước đến khoản mục đó trong kỳ để ước tính tổng

sai sót đối với từng khoản mục.
Sau khi phát hiện các sai phạm, KTV sẽ ước tính tổng các sai sót đối với từng
khoản mục để so sánh với các sai sót có thể bỏ qua đã được phân bổ cho các khoản
mục đó ở bước 2 nhằm quyết định khả năng chấp nhận thông tin trên khoản mục
đó hoặc phải tiếp tục tiến hành thêm thủ tục kiểm toán thích hợp.

Bước 4: Ước tính tổng số sai sót có thể chấp nhận được.
Trên cơ sở sai sót dự kiến của từng khoản mục và bộ phận, KTV tổng hợp sai sót
dự kiến của tất cả các khoản mục trên BCTC. Con số này được so sánh với ước
lượng ban đầu về tính trọng yếu hoặc ước lượng ban đầu đã điều chỉnh lại.
Bước 5: So sánh ước tính sai số tổng hợp với sai số ước lượng ban đầu
KTV tiến hành so sánh ước tính sai sót kết hợp với ước tính ban đầu về trọng yếu
hoặc ước lượng ban đầu đã điều chỉnh lại trong quá trình kiểm toán. Việc so sánh
này cho phép đánh giá toàn bộ các sai sót trong các khoản mục có vượt quá giới
hạn về mức trọng yếu chung của toàn bộ BCTC hay không. Trong quá trình so
sánh này, KTV cần kết hợp việc so sánh sai sót dự kiến của từng khoản mục ( ở
bước 3 ) với mức sai số được phân bổ cho từng khoản mục đó
( kết quả của bước 2 ). Kết quả của việc so sánh này sẽ quyết định trực tiếp đến
loại ý kiến của KTV về BCTC.
1.3.4 Thí dụ
Thí dụ về một chính sách của một công ty kiểm toán để xác lập mức trọng yếu
và sự vận dụng các chính sách trên khi kiểm toán BCTC của một công ty kiểm
toán
Chính sách về việc xác lập mức trọng yếu:
Công ty kiểm toán B & A
CS 03/BGĐ – KT

×