Tải bản đầy đủ (.doc) (38 trang)

ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI TỪ NHẬT BẢN VÀO VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (289.09 KB, 38 trang )

MỤC LỤC
1
ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI TỪ NHẬT BẢN
VÀO VIỆT NAM, THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
Trong xu thế toàn cầu hoá và khu vực hoá hiện nay, sự giao lưu, luân
chuyển các dòng vốn diễn ra ngày càng mạnh mẽ, đóng vai trò ngày càng
quan trọng đối với đầu tư và phát triển đất nước. Kế hoạch phát triển kinh tế-
xã hội của Việt Nam thời kỳ 2006-2010 đó xác định mục tiêu tổng quát là đẩy
nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, nâng cao tính hiệu quả và bền vững của sự
phát triển, sớm đưa Việt Nam ra khỏi tình trạng kém phát triển, tạo nền tảng
đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và phát triển kinh tế tri thức nhằm
sớm đưa Việt Nam cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện
đại vào năm 2020; mục tiêu tăng trưởng kinh tế đạt 8-10%/năm.
Chính vì lý do đó mà thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài đó trở thành
một bộ phận trong chính sách mở cửa nhằm góp phần đẩy nhanh công nghiệp
hoá - hiện đại hoá, từng bước xây dựng đất nước thành một nước Công
nghiệp, đúng như chủ trương đó được đề ra tại Đại Hội Đại Biểu toàn quốc
lần thứ VIII. Đó là một chủ trương đúng đắn và cần thiết, phù hợp với xu thế
chung trên thế giới và thực tiễn phát triển của nước ta.
Là một trong những quốc gia phát triển nhất trên thế giới với tiền lực
tài chính hùng hậu, công nghệ hiện đại, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài của
các công ty Nhật Bản đóng vai trò quan trọng trong quá trình công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước, đặc biệt ở các quốc gia đang phát triển. Hơn nữa,
với nền tảng vững chắc là quan hệ hữu nghị hợp tác suốt hơn 30 năm trên tinh
thần “đối tác tin cậy, ổn định lâu dài”, trong nhiều năm qua, Nhật Bản là đối
tác kinh tế quan trọng hàng đầu của Việt Nam. Nguồn vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài của Nhật Bản luôn nằm trong nhóm 5 nước đứng đầu, các dự án
đầu tư của Nhật Bản được đánh giá là thành công nhất về phương diện vốn
đầu tư thực hiện và hiệu quả triển khai. Do đó, việc thu hút nguồn vốn này có
2
ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển bền vững của Việt Nam nhằm hướng


tới công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Bài viết được trình bày trong hai phần chính:
Thứ nhất là, trình bày về thực trạng FDI từ Nhật Bản vào Việt Nam.
Thứ hai là, trình bày về những cơ hội, thách thức, và giải pháp để thu
hút nguồn vốn FDI từ Nhật Bản vào Việt Nam.
__________*.*__________
CHƯƠNG 1: THỰC TRẠNG FDI TỪ NHẬT BẢN VÀO VIỆT NAM
1.1. Tình hình kim ngạch FDI
(Nguồn: Cục Đầu tư nước ngoài - Bộ kế hoạch và đầu tư)
Từ năm 1986, Việt Nam đã chính thức bước vào công cuộc đổi mới mở
cửa nền kinh tế, thực hiện chủ trương đa dạng hoá, đa phương hoá các mối
quan hệ kinh tế quốc tế, tận dụng nguồn vốn bên ngoài để phát triển đất nước.
Và đặc biệt khi Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam được ban hành vào ngày
29/12/1987 quá trình thu hút và sử dụng nguồn vốn FDI nói chung và vốn
FDI của Nhật Bản nói riêng tại Việt Nam đã có những bước chuyển biến tích
cực. Tình hình vốn FDI của Nhật vào Việt Nam từ những ngày đầu cho đến
3
nay có thể được chia ra làm 4 giai đoạn: giai đoạn thăm dò 1988-1993; giai
đoạn bùng nổ 1994-1997; giai đoạn suy thoái 1998-2002; giai đoạn phục hồi
và phát triển mạnh mẽ từ 2003 đến nay.
1.1.1. Giai đoạn thăm dò 1988-1993
Đây được coi là giai đoạn mở đầu khi các nhà đầu tư Nhật Bản mới chỉ
dè dặt bước vào thị trường Việt Nam. Trên thực tế, hơn 1 năm kể từ năm
1988, dòng vốn FDI từ Nhật Bản vào Việt Nam mới có khoảng gần 1 triệu
USD, mở đầu là dự án đầu tư của công ty Kansai Kyodo trong lĩnh vực chế
tạo thiết bị cảng ở Hải Phòng năm 1989, tiếp đến là dự án xuất khẩu may mặc
của công ty Hikosen Kara vào tháng 3 năm 1990. Theo Cục đầu tư nước
ngoài (Cục ĐTNN), tính chung cho cả 3 năm 1989-1990, tổng vốn đầu tư
đăng kí chỉ đạt gần 27 triệu USD với trung bình 6 dự án mỗi năm. Năm 1992
là năm chứng kiến dòng vốn FDI Nhật Bản vào Việt Nam mạnh mẽ nhất

trong cả giai đoạn, với 10 dự án và tổng số vốn đăng kí lên tới gần 106 triệu
USD, nhưng con số này cũng giảm mạnh ngay trong năm sau đó, chỉ còn
bằng 75% năm trước.
Thời gian này, mặc dù Nhật Bản là một trong những quốc gia tiên
phong quan tâm đổ vốn vào Việt Nam nhưng FDI của Nhật Bản vào Việt
Nam khởi đầu thấp, biến động chậm và chưa chiếm được vai trò quan trọng
trong tổng vốn FDI vào Việt Nam. Thống kê của Cục ĐTNN cho thấy tổng
vốn FDI của Nhật Bản trong cả thời kì chỉ chiếm 3,1% tổng nguồn vốn này
vào Việt Nam.
Phần lớn giai đoạn này nằm trong thời kì lạnh nhạt quan hệ ngoại giao
giữa hai nước kéo dài từ năm 1979 đến năm 1991. Năm 1990, tuy Việt Nam
đã ban hành các ưu đãi đầu tư thông thoáng hơn qua sửa đổi Luật đầu tư nước
ngoài, nhưng tình hình cũng không mấy cải thiện. Năm 1992 đánh dấu một
mốc quan trọng trong quan hệ Việt Nam-Nhật Bản do việc giải quyết vấn đề
Campuchia và quá trình đổi mới của Việt Nam được gia tăng trên tất cả các
lĩnh vực, chấm dứt thời kì lạnh nhạt, mở đầu cho một giai đoạn mới trong
4
quan hệ bang giao giữa hai nước. Việt Nam tiếp tục áp dụng những ưu đãi
đầu tư hấp dẫn hơn để thu hút vốn FDI tuy nhiên, về cơ bản, khuôn khổ pháp
lý vẫn chưa được hoàn thiện nên chưa tạo được lòng tin cho các nhà đầu tư.
Nhìn chung, cũng như các dòng FDI vào Việt Nam khác, mức đầu tư
của Nhật Bản vào Việt Nam hàng năm trong giai đoạn này không ổn định và
chưa đáng kể. Điều này cũng dễ hiểu bởi khung pháp luật về FDI ở Việt Nam
mới được hình thành lại liên tục bị thay đổi nên các nhà đầu tư, đặc biệt là các
nhà đầu tư Nhật Bản với bản tính thận trọng, còn cân nhắc khi chọn Việt Nam
là nơi đầu tư so với các nước trong khu vực hay trên thế giới.
1.1.2. Giai đoạn bùng nổ 1994-1997
Đây là thời kì FDI của Nhật Bản vào Việt Nam nở rộ. Nhìn chung,
trong giai đoạn này, mức vốn FDI của Nhật Bản vào Việt Nam qua các năm
đều đạt con số lớn.

Theo số liệu của Cục ĐTNN, ngay từ năm 1994, FDI của Nhật Bản vào
Việt Nam đã có dấu hiệu tăng trưởng mạnh với 35 dự án đầu tư và 347 triệu
USD tổng vốn đăng kí, tăng hơn 3 lần so với năm 1992, năm được coi là đỉnh
cao của FDI Nhật Bản trong giai đoạn trước. Năm 1995, FDI Nhật Bản vào
Việt Nam tiếp tục tăng vọt, đạt trên 1,2 tỉ USD vốn đăng kí, cao nhất kể từ
thời kì đầu cho tới hết 10 năm sau đó, với 65 dự án được cấp phép đầu tư.
Trong hai năm cuối của thời kì, FDI của Nhật Bản vào Việt Nam tuy có giảm
sút hơn nhưng vẫn đạt được những con số đáng nể. Năm 1996, tổng vốn đăng
kí đạt 788,9 triệu USD với 72 dự án được cấp phép, những con số tương ứng
năm 1997 là 606 triệu USD và 54 dự án được cấp phép.
Tính cả giai đoạn, Việt Nam đã thu hút được gần 3 tỉ USD vốn FDI
đăng kí của Nhật Bản và cấp phép cho 226 dự án. Chỉ trong vòng 4 năm của
thời kì bùng nổ, tổng vốn đăng kí đã tăng gấp 15 lần so với 5 năm của giai
đoạn trước và số dự án tăng gấp 5 lần.
5
Những con số đáng kể trên đã nâng tầm Nhật Bản dần trở thành một
trong những nhà đầu tư quan trọng hàng đầu vào Việt Nam. Năm 1995, Nhật
Bản là nhà đầu tư đứng thứ 3 ở Việt Nam, sau Đài Loan và Hồng Kông. Năm
1997, tuy giảm về con số tuyệt đối nhưng Nhật Bản vẫn đứng thứ 2 về số dự
án (sau Đài Loan với 64 dự án) và đứng thứ 2 về tổng vốn đầu tư (sau Hồng
Kông với 695 triệu USD). Thống kê của Cục ĐTNN cho thấy tỉ trọng vốn
FDI của Nhật Bản trong tổng nguồn vốn này vào Việt Nam lên tới 10,76%.
Những tổ chức xúc tiến thương mại và đầu tư của Chính phủ Nhật Bản như
Tổ chức xúc tiến thương mại Nhật Bản (Jetro), Văn phòng hợp tác quốc tế
Nhật Bản (Jica) lần lượt khai trương các văn phòng đại diện tại Việt Nam.
Phó tổng vụ trưởng Vụ chính sách thương mại, bộ kinh tế thương mại
Nhật Bản, ông Yoshihiko Sumi cho biết: “Thời gian này, người Nhật Bản coi
Việt Nam là một hiện tượng”. Sự bùng nổ này một phần là nhờ những chuyển
biến tích cực của tình hình quốc tế, trong đó đáng chú ý là Mỹ bỏ lệnh cấm
vận với Việt Nam (2/1994) và sự gia tăng của xu hướng đồng Yên lên giá

buộc các công ty Nhật Bản phải xúc tiến đi tìm một thị trường khác với chi
phí sản xuất rẻ hơn để đầu tư. Đó còn là nhờ những thành quả bước đầu trong
công cuộc chuyển mình của Việt Nam từ nền kinh tế tập trung bao cấp sang
nền kinh tế thị trường nhằm nỗ lực cải thiện hình ảnh của mình trong mắt các
nhà đầu tư. Đồng thời, sự kiện Việt Nam gia nhập ASEAN vào ngày
28/7/1995 sau khi bình thường hoá quan hệ với Mĩ đã làm dấy lên kì vọng của
các nhà đầu tư Nhật Bản vào một thị trường Việt Nam tiềm năng, một môi
trường đầu tư ngày càng hội nhập sâu rộng hơn vào nền kinh tế thế giới và
khu vực trong tương lai. Những giảm sút trong hai năm cuối của thời kì nằm
trong xu hướng chung của các dòng FDI vào Việt Nam trước phản ứng của
nhà đầu tư với Luật đầu tư nước ngoài sửa đổi lần thứ ba theo hướng giảm bớt
khá nhiều ưu đãi đầu tư. Tuy nhiên, Nhật Bản vẫn tỏ ra là một trong những
quốc gia hàng đầu quan tâm đến thị trường Việt Nam khi duy trì được vị thế
của mình so với các nhà đầu tư khác.
6
Sự bùng nổ FDI của Nhật Bản vào Việt Nam trong những năm này nằm
trong giai đoạn bùng nổ FDI nói chung vào Việt Nam từ năm 1994 đến năm
1998. Điều này cho thấy các nhà đầu tư Nhật Bản rất nhạy bén với xu hướng
của thời kì. Nhật Bản đã vươn lên trở thành một trong những đối tác kinh tế
quan trọng hàng đầu của Việt Nam.
1.1.3. Giai đoạn suy thoái 1998-2002
Trong giai đoạn này, FDI của Nhật Bản vào Việt Nam suy giảm rõ rệt
cả về tổng vốn đăng kí và số dự án đầu tư, lâm vào trạng thái trì trệ kéo dài.
FDI của Nhật Bản vào Việt Nam năm 1998 chỉ còn 19 dự án được cấp
phép với 177,5 triệu USD vốn đăng kí, chỉ còn bằng 1/4 so với năm 1997 và
tiếp tục giảm mạnh trong các năm tiếp theo. Năm 1999, dòng vốn này của
Nhật Bản vào Việt Nam trở về mức khởi điểm, chỉ đạt 42 triệu USD với 14
dự án, đẩy các nhà đầu tư Nhật Bản về vị trí thứ 9 trong số các nhà đầu tư vào
Việt Nam. Các con số trong những năm tiếp theo mặc dù có xu hướng tăng
hơn nhưng cũng ở mức thấp, đạt 140 triệu USD, 223 triệu USD, 163 triệu

USD tương ứng vào các năm 2000, năm 2001 và năm 2002. Các nhà đầu tư
Nhật Bản mất dần vị trí chủ đạo. Theo Cục ĐTNN, tổng FDI của Nhật Bản cả
giai đoạn chỉ còn chiếm 3,9% tổng dòng vốn này vào Việt Nam.
Một điểm đáng chú ý trong ba năm cuối thời kì là mặc dù tổng vốn
đăng kí ở mức thấp nhưng con số dự án đầu tư lại tăng khá nhanh. Số dự án
đầu tư năm 2000, năm 2001 tăng gấp đôi, gấp 4 lần so với năm 1999, lên 26
và 48 dự án. Đặc biệt, năm 2002, trong khi tổng vốn đăng kí chỉ còn 163 triệu
USD, bằng 73% so với năm 2001 thì số dự án lại tăng 22,9%, lên tới 59 dự
án. Điều này chứng tỏ qui mô dự án trong ba năm cuối thời kì đang thu hẹp
lại.
Đây là thời kì hậu khủng hoảng kinh tế - tài chính khu vực châu Á
1997, nền kinh tế Nhật Bản lâm vào tình trạng suy thoái với hàng loạt các
công ty lớn phá sản và các nhà đầu tư rơi vào tình trạng khó khăn về tài chính.
7
Thêm vào đó, sự giảm giá của đồng Yên, việc cải tổ, cơ cấu lại các doanh
nghiệp của Nhật Bản cũng như việc chính phủ Nhật tiến hành điều chỉnh hoạt
động đầu tư nước ngoài trong giai đoạn này làm cho dòng FDI của Nhật Bản
tới hầu hết các nước suy giảm nghiêm trọng, trong đó có cả Việt Nam.
Tuy nhiên, đây không phải là nguyên nhân chính làm hoạt động FDI
của Nhật Bản ở Việt Nam giảm sút mà còn do những nhận định của các nhà
đầu tư Nhật Bản về điều kiện nội tại của nền kinh tế Việt Nam và môi trường
đầu tư kém hấp dẫn so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Theo quan
điểm của nhiều chuyên gia kinh tế, cuộc khủng hoảng này tuy có tác động đến
Việt Nam nhưng cũng tạo ra thời cơ trong việc thu hút nguồn vốn quốc tế khi
các nước khác trong khu vực đang phải đối phó với những biến động kinh tế
nhưng luật đầu tư nước ngoài sửa đổi năm 1996 lại không tạo điều kiện để
khai thác được những lợi thế này. Do đó, Việt Nam không đón bắt được cơ
hội thu hút dòng vốn FDI từ Nhật Bản. Mặc dù trong những năm tiếp theo,
Việt Nam đã có cố gắng để cải thiện môi trường đầu tư, nhất là vấn đề cấp
phép và mở rộng các chế độ ưu đãi đầu tư thông thoáng hơn, thể hiện qua việc

ban hành Luật đầu tư nước ngoài sửa đổi, bổ sung tháng 7/2000 nhưng các
nhà đầu tư Nhật Bản vẫn chưa thực sự an tâm bởi các chính sách khi đó vẫn
còn bất cập, thiếu nhất quán. Năm 2002, một số vụ việc liên quan đến cấp hạn
ngạch nhập khẩu linh kiện ô tô, xe máy ở Việt Nam nảy sinh làm cho vốn FDI
của Nhật Bản vào Việt Nam chỉ mới hơi hướng hồi phục lại giảm mạnh.
Trong những năm cuối của giai đoạn này, sự suy giảm FDI từ Nhật Bản
chỉ xảy ra đối với Việt Nam. Trong những năm này, mặc dù FDI của Nhật
Bản vào các nước khác sau khi vượt qua năm 1999 đã tương đối hồi phục và
tăng nhanh thì dòng FDI của Nhật Bản vào Việt Nam tuy có tăng nhưng vẫn
chỉ dao động ở con số trên dưới 200 triệu USD. Năm 2002, đầu tư của Nhật
Bản vào các nước ASEAN duy trì ở mức cao, đặc biệt vào Trung Quốc thì nở
rộ, đạt 2,6 tỉ USD, gấp hơn 7 lần so với 360 triệu USD vào năm 1999.
8
Nhìn chung, những diễn biến về FDI của Nhật Bản trong thời kì này
cũng giống như xu hướng của dòng FDI nói chung vào Việt Nam, đều có biểu
hiện chững lại hay giảm sút. Điều này tiếp tục cho thấy sự nhạy bén của các
nhà đầu tư Nhật Bản trong nắm bắt tình hình để giữ an toàn cho nguồn vốn
của họ, đặc biệt là những quan tâm sâu sắc về môi trường đầu tư của nước chủ
nhà trong quá trình tìm hiểu và tiến hành đầu tư.
1.1.4. Giai đoạn phục hồi và phát triển mạnh mẽ từ năm 2003 đến nay:
Đây được coi là giai đoạn các nhà đầu tư Nhật Bản chú ý trở lại thị
trường Việt Nam. Dòng FDI của Nhật Bản vào Việt Nam từng bước hồi phục
và tăng trưởng mạnh mẽ, đạt được những con số đáng kể.
Năm 2003, tổng vốn FDI của Nhật Bản vào Việt Nam tăng gần gấp đôi
so với mức 163 triệu USD vào năm 2002, đạt 324 triệu USD. Đến năm 2004,
con số này đã tăng lên gấp hơn 2,5 lần so với năm 2003, đạt 890 triệu USD và
gần 4 lần so với năm 2002. Năm 2005, vốn đầu tư của Nhật Bản tiếp tục tăng
lên 960 triệu USD với 119 dự án mới. Trong năm này, Nhật Bản giành lại vị
trí thứ 3 trong số các nhà đầu tư vào Việt Nam, chỉ sau Hàn Quốc và Hồng
Kông. Cùng với sự sôi nổi của hoạt động FDI cả nước, dòng FDI của Nhật

Bản vào Việt Nam năm 2006 đạt kỉ lục: 1,5 tỉ USD vốn đăng kí với 160 dự án
được cấp phép, tăng 57% về vốn và 34,4% về số dự án so với năm 2005.
Vào năm 2009, có 43 quốc gia và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư tại
Việt Nam, Nhật Bản chỉ đứng thứ 9 với tổng vốn đăng ký là 372,7 triệu USD
chiếm 1,7% tổng số vốn đầu tư vào Việt Nam, nhưng tính đến hết năm 2010,
Nhật Bản có 1397 dự án đầu tư trực tiếp còn hiệu lực tại Việt Nam với tổng
vốn đầu tư đăng ký 20,8 tỷ USD, đứng thứ 3 trong 91 Quốc gia và vùng lãnh
thổ có hoạt động đầu tư tại Việt Nam.
Tính từ đầu năm 2011 đến hết tháng 3 năm 2011, đã có 22 quốc gia và
vùng lãnh thổ có dự án đầu tư tại Việt Nam. Singapore dẫn đầu với tổng vốn
đầu tư đăng ký cấp mới và tăng thêm là 1,08 tỷ USD, chiếm 46,74% tổng vốn
9
đầu tư vào Việt Nam; trong tháng 3/2011 Hồng Kông đã vươn lên đứng vị trí
thứ hai với tổng vốn đầu tư đăng ký cấp mới và tăng thêm là 331,54 triệu
USD, chiếm 13,98% tổng vốn đầu tư; BritishVirginIslands đứng thứ 3 với
tổng vốn đầu tư đăng ký cấp mới và tăng thêm là 277,37 triệu USD, chiếm
11,69% tổng vốn đầu tư; Tiếp theo là Hàn Quốc đứng ở vị trí thứ 4 với tổng
vốn đăng ký cấp mới và tăng thêm là 193,29 triệu USD, chiếm 8,15% tổng
vốn đầu tư vào Việt Nam. Nhật Bản đứng thứ 5 với tổng vốn đăng ký cấp mới
và tăng thêm là 131 triệu USD, chiếm 5,5% tổng vốn đầu tư vào Việt Nam.
Nguyên nhân của quá trình phục hồi nhanh chóng này trước hết phải kể
đến sự quan tâm của các nhà đầu tư Nhật Bản tới Việt Nam như một địa điểm
tiềm năng cho chiến lược “Trung Quốc +1”, chiến lược tìm một thị trường
đầu tư để phân tán rủi ro khỏi Trung Quốc. Sự quan tâm này đã thúc đẩy
những nỗ lực hợp tác của Chính phủ và các doanh nghiệp hai nước, thể hiện
cụ thể trong việc kí kết Hiệp định về tự do, xúc tiến và bảo hộ đầu tư vào
14/11/2003 cũng như việc thực thi Sáng kiến chung Việt Nam-Nhật Bản từ
năm 2003. Tiếp đến, việc thực hiện có hiệu quả Sáng kiến chung đã tăng đáng
kể tính “hấp dẫn” của môi trường đầu tư Việt Nam trong mắt các nhà đầu tư
Nhật Bản. Thêm vào đó, từ 1/7/2006, Luật đầu tư và Luật doanh nghiệp mới

được đưa vào thực hiện, đánh dấu bước tiến quan trọng trong lộ trình hội
nhập kinh tế nói chung và đầu tư nói riêng trên lĩnh vực lập pháp, xoá bỏ việc
phân biệt giữa đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài, tạo tâm lý bình đẳng
hơn cho các nhà đầu tư nước ngoài. Đồng thời, việc phân cấp cho chính
quyền tỉnh, thành phố thẩm định và cấp phép, quản lý nhà nước các doanh
nghiệp FDI đã hình thành phong trào thi đua cải thiện thủ tục và môi trường
đầu tư giữa các địa phương.
1.1.5. Xét trong cơ cấu dòng FDI của Nhật Bản vào châu Á
Rõ ràng, trong số các nước đầu tư vào Việt Nam, FDI của Nhật Bản là
nguồn ngoại lực dồi dào và quan trọng. Tuy nhiên, tầm quan trọng của dòng
vốn này trong mắt các nhà đầu tư Nhật Bản cũng như hiệu quả thu hút hay
10
mức độ hấp dẫn của môi trường đầu tư Việt Nam như thế nào thì không thể
chỉ căn cứ vào tỉ trọng trong cơ cấu FDI vào Việt Nam để khẳng định. Do đó,
để có thể đánh giá rõ hơn thực chất kim ngạch FDI Nhật Bản vào Việt Nam
cần phải xem xét trong mối quan hệ với dòng FDI ra của Nhật Bản.
(Nguồn: Thống kê của Jetro, 2007, />Xem xét cơ cấu dòng vốn FDI Nhật Bản vào châu Á, dòng vốn đầu tư
vào Việt Nam trong tất cả các giai đoạn đều chiếm tỉ trọng không lớn. Tỉ
trọng này trong giai đoạn thăm dò chỉ đạt 0,17%; thậm chí cả trong giai đoạn
bùng nổ 1994-1997 cũng chỉ lên tới 2,19%. Con số này trong thời kì suy thoái
giảm xuống chỉ còn 0,97% và trong giai đoạn hiện nay là 2,48%. Như vậy,
chưa có thời kì nào đầu tư của Nhật Bản vào Việt Nam đạt tới 3% trong tổng
dòng FDI ra của Nhật Bản. Những con số trên nếu so với mức tăng FDI của
Nhật Bản vào các quốc gia và vùng lãnh thổ khác thì còn rất khiêm tốn, đặc
biệt khi tính đến khả năng và tiềm lực vốn của các công ty Nhật Bản. Chẳng
hạn, FDI của Nhật Bản vào Trung Quốc từ năm 1994 luôn chiếm tỉ trọng trên
dưới 20% và từ 2003 đến nay là 53,47% trong tổng FDI Nhật Bản vào châu
Á. FDI Nhật Bản vào Việt Nam cũng thua xa dòng vốn này vào Thái Lan và
Inđônêxia, trên 15%; vào Malayxia, gần 10%; vào Singapo, gần 8%. Có thể
nói, Việt Nam vẫn chưa thu hút được nhiều tiềm năng của các nhà đầu tư

Nhật Bản.
11
Tuy nhiên, vào năm 2006, tình hình có dấu hiệu thay đổi. Trong khi
đầu tư vào các nước trong khu vực đang có xu hướng giảm nhẹ hay chững lại
thì đầu tư vào Việt Nam lại tiếp tục tăng 56% so với năm 2005, đạt kỉ lục 1,5
tỉ USD. Chẳng hạn, đầu tư của Nhật Bản vào Trung Quốc, thị trường trong
một thời gian dài vẫn chiếm tỉ trọng lớn trong dòng ra FDI của Nhật Bản,
giảm từ 6,5 tỉ USD năm 2005 xuống 6,1 tỉ USD năm 2006, và đầu tư vào Thái
Lan giảm từ 2,1 tỉ USD xuống 1,9 tỉ USD trong cùng thời gian đó. Điều này
là tín hiệu cho thấy các nhà đầu tư Nhật Bản đang rất quan tâm đến Việt Nam,
muốn dần dịch chuyển dòng vốn sang thị trường này. Đây là cơ hội cho Việt
Nam để có thể thu hút dòng vốn tiềm năng này trong tương lai.
1.2. Cơ cấu FDI
Cũng như các dòng vốn FDI từ các quốc gia khác, Cơ cấu dòng vốn
FDI của Nhật Bản vào Việt Nam có một số đặc trưng riêng, thể hiện ở cả ba
phương diện: cơ cấu theo ngành, cơ cấu theo địa phương và cơ cấu theo hình
thức đầu tư. Đặc điểm cơ cấu FDI của Nhật Bản ảnh hưởng lớn đến sự phát
triển chung của nền kinh tế Việt Nam, gây ra những tác động nhất định đối
với cơ cấu kinh tế nước ta.
1.2.1. Cơ cấu đầu tư theo ngành
Nền kinh tế Nhật Bản có đặc thù là một nền kinh tế hướng ngoại với cơ
cấu công nghiệp hoàn chỉnh. Vì vậy, FDI của Nhật có mặt trong tất cả các
ngành, lĩnh vực của nền kinh tế nước ta từ công nghiệp, nông, lâm, ngư
nghiệp, xây dựng và dịch vụ. Nhưng tập trung chủ yếu vẫn là trong lĩnh vực
công nghiệp. Công nghiệp nặng chiếm tỷ trọng lớn nhất trong các ngành, tiếp
ngay sau đó là công nghiệp nhẹ.
Thời gian đầu, Nhật Bản quan tâm nhiều đến các dự án khai thác tài
nguyên thiên nhiên và các dự án phát triển dịch vụ. Nhật Bản là một nước
nghèo về tài nguyên thiên nhiên, đây là lý do khách quan thúc đẩy các công ty
Nhật Bản thực hiện chiến lược phát triển hướng ngoại trên cơ sở nhập nguyên

12
liệu. Trong những thập kỷ 70 - 80; Nhật Bản đối mặt với tình trạng ô nhiễm
môi trường do hậu quả của quá trình công nghiệp hoá. Vì vậy, chiến lược đầu
tư của Nhật Bản vào Châu Á từ cuối thập niên 80 đến nay vẫn là nhằm vào
khai thác nguyên liệu từ bên ngoài. Ngoài ra, cũng từ thực trạng cơ sở hạ tầng
kinh tế - xã hội ở Việt Nam giai đoạn này, đó là các ngành thuộc cơ sở hạ
tầng, các ngành công nghiệp yếu kém, có nhu cầu thu hút FDI. Điều này góp
phần lý giải tại sao cơ cấu đầu tư theo ngành của Nhật Bản trong giai đoạn
đầu khi đầu tư vào Việt Nam.
Bảng 1: Tỷ lệ đầu tư của Nhật Bản vào Việt Nam trong tổng số vốn đầu tư
(Tính hết năm 1994)
Đơn vị: triệu USD
Số dự án Tổng số vốn đầu tư Tỷ lệ của
Nhật trong
Tổng dự án Nhật Bản Phần chung Từng ngành
Công nghiệp 492 40 3.838,2 Công nghiệp 492
Dầu khí 25 4 1.284,9 Dầu khí 25
Ngư nghiệp 20 - 60,4 Ngư nghiệp 20
GTVT-Bưu
điện
21 - 636,8
GTVT-Bưu
điện
21
Khác sạn du
lịch
104 5 1.954,1
Khác sạn du
lịch
104

Dịch vụ 127 12 729,6 Dịch vụ 127
Tài chính-
Ngân hàng
15 - 176,6
Tài chính-
Ngân hàng
15
Các ngành
khác
51 - -
Các ngành
khác
51
Tổng số 930 66 9066,4 Tổng số 930
Ở giai đoạn sau, FDI đã có sự cải thiện theo hướng đa dạng hoá các
lĩnh vực đầu tư. FDI đã được phân bố vào các lĩnh vực: công nghiệp nặng,
công nghiệp nhẹ, giao thông vận tải, bưu điện, xây dựng, công nghiệp chế
biến, nông nghiệp, tài chính - ngân hàng, dầu khí, bảo hiểm và các ngành
khác. Sự đa dạng hoá này là một bước tiến lớn trong hoạt động đầu tư trực
tiếp của Nhật Bản tại Việt Nam, phù hợp với lợi ích của phía Nhật Bản và nhu
cầu của Việt Nam trong quá trình công nghiệp hoá.
13
Bảng 2: Đầu tư trực tiếp của Nhật Bản tại Việt Nam phân theo ngành
(Tính đến hết 20/12/2002)
Đơn vị tính: triệu USD
Ngành Số dự án Vốn đăng ký
(triệu $)
Vốn thực hiện Vốn thực
hiện/vốn đăng


Công nghiệp nặng 117 1.846,8 954 51
Công nghiệp nhẹ 59 341,1 231,8 68
Xây dựng 18 423,6 295 70
Công nghiệp thực phẩm 18 122,9 74,8 60,8
Công nghiệp dầu khí 4 131 434 -
Nông, lâm nghiệp 17 53,5 30,9 57,8
Thuỷ sản 5 20 14,5 72,5
Khách sạn, du lịch 8 142,9 84 58,8
Xây dựng hạ tầng KCX 3 53,2 14 26,3
Tài chính - Ngân hàng 4 56 49,2 87,9
Xây dựng văn phòng, căn hộ 13 173 133 76,9
Dịch vụ 20 29 4,5 15,5
Tổng số 310 3.941,9 2.664 67,6
Nguồn: Vụ Quản lý dự án - Bộ KH & ĐT
Nếu tính chung cả toàn bộ lĩnh vực công nghiệp thì FDI đã chiếm tới
65% số dự án, 61% tổng số vốn cho tới thời điểm cuối năm 2000. Có thể nói
những lĩnh vực mà Nhật Bản đầu tư vào hầu hết thuộc những ngành, lĩnh vực
mũi nhọn mà nước ta còn yếu và đang chú trọng phát triển, đòi hỏi kỹ thuật
cao như sản xuất ô tô, xe máy, sản xuất Robot, điện tử, vật liệu xây dựng...
Sau công nghiệp, một số lĩnh vực được các nhà đầu tư Nhật ưu tiên đầu
tư theo thứ tự: dịch vụ với 6,5% tổng số dự án, 0,7% tổng vốn đăng ký; giao
14
thông vận tải, bưu điện chiếm 5,4% số dự án, 7,3% vốn đăng ký; xây dựng
chiếm 5,8% trong tổng dự án, 10,7% tổng vốn đầu tư đăng ký. Như vậy, mặc
dù số dự án đầu tư trong lĩnh vực dịch vụ đứng vị trí thứ hai sau công nghiệp
về số dự án nhưng lượng vốn đăng ký lại không đáng kể chiếm 0,7% tổng vốn
FDI. Ngược lại, ngành giao thông vận tải, bưu điện và xây dựng xếp vị trí sau
dịch vụ về số dự án nhưng lại có vốn đăng ký chiếm tới 7,3% và 10,7% tổng
vốn đăng ký.
Lĩnh vực nông, lâm nghiệp đến nay chiếm khoảng 5,5% số dự án và

1,4% tổng số vốn đầu tư. Nhìn chung số dự án trong lĩnh vực này tăng chậm,
nguyên nhân chính là việc đầu tư vào lĩnh vực này gặp nhiều khó khăn về
cung cấp nguyên liệu, tiêu thụ sản phẩm, về giải quyết đất đai, chịu ảnh
hưởng của thời tiết khí hậu...
Rõ ràng là những biến động trong quy mô và tốc độ thực hiện của dự
án FDI tiến triển theo chiều hướng tích cực. Thực tế cho thấy, đối với ngành
công nghiệp nặng, tính đến thời điểm tháng 12 năm 2001 tỷ lệ vốn thực
hiện/vốn đăng ký đạt khoảng 51%; công nghiệp nhẹ 68%; công nghiệp thực
phẩm 60,8%; xây dựng 70% văn phòng, xây dựng văn phòng và căn hộ cho
thuê là 70%; riêng ngành dầu khí, khi triển khai thực hiện dự án, phía Nhật
Bản đã tăng vốn đầu tư đưa trị giá thực hiện lên đến 434 triệu USD gấp 9,2
lần so với vốn đăng ký ban đầu.
Nhìn chung tiến độ thực hiện đầu tư là khá nhanh so với các đối tác
nước ngoài khác. Điều đó thể hiện tiến độ thực hiện dự án của các nhà đầu tư
Nhật Bản đạt hiệu quả cao hơn cả. Tỷ lệ vốn thực hiện trung bình đạt 67,6%
tổng số vốn đăng ký.
Tính đến hết tháng 1 năm 2011, Vốn đầu tư của Nhật Bản tập trung chủ
yếu trong lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo với 870 dự án có tổng vốn
đầu tư là 18 tỷ USD; lĩnh vực thông tin và truyền thông có 159 dự án với tổng
vốn đầu tư là 1 tỷ USD, còn lại là các dự án thuộc lĩnh vực khác.
15

×