Tải bản đầy đủ (.pdf) (112 trang)

Nghiên cứu, đánh giá cảnh quan phục vụ phát triển bền vững nông - lâm nghiệp và du lịch huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.97 MB, 112 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN





TỐNG VÕ LỆ HÀ




NGHIÊN CỨU, ĐÁNH GIÁ CẢNH QUAN
PHỤC VỤ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG NÔNG – LÂM NGHIỆP VÀ
DU LỊCH HUYỆN SÓC SƠN, THÀNH PHỐ HÀ NỘI








LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC











Hà Nội - 2011
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN





TỐNG VÕ LỆ HÀ



NGHIÊN CỨU, ĐÁNH GIÁ CẢNH QUAN
PHỤC VỤ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG NÔNG – LÂM NGHIỆP VÀ
DU LỊCH HUYỆN SÓC SƠN, THÀNH PHỐ HÀ NỘI




Chuyên ngành: Sử dụng và bảo vệ hợp lý tài nguyên môi trường
Mã số: 60.85.15







LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: GS. TS. TRƯƠNG QUANG HẢI







Hà Nội - 2011

i
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
1. Tính cấp thiết 1
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu 2
3. Phạm vi nghiên cứu 2
4. Những kết quả đạt được của đề tài 3
5. Ý nghĩa của đề tài 3
6. Quan điểm và phương pháp nghiên cứu 4
7. Cấu trúc luận văn 9
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA NGHIÊN CỨU CẢNH QUAN
PHỤC VỤ PHÁT TRIỂN NÔNG – LÂM NGHIỆP VÀ DU LỊCH BỀN VỮNG HUYỆN
SÓC SƠN, THÀNH PHỐ HÀ NỘI 11
1.1. Tổng quan các công trình nghiên cứu có liên quan 11
1.1.1. Trên thế giới 11
1.1.2. Ở Việt Nam 12
1.1.3. Huyện Sóc Sơn 15
1.2. Lý luận chung về nghiên cứu cảnh quan 16

1.2.1. Khái niệm cảnh quan 16
1.2.2. Cấu trúc, chức năng cảnh quan 19
1.3. Nguyên tắc thành lập bản đồ cảnh quan và phương pháp đánh giá cảnh quan 24
1.3.1. Nguyên tắc thành lập bản đồ cảnh quan 24
1.3.2. Phương pháp đánh giá cảnh quan 25
1.4. Những vấn đề lý luận chung về phát triển nông - lâm nghiệp và du lịch bền vững 28
1.4.1. Phát triển nông - lâm nghiệp bền vững 28
1.4.2. Phát triển du lịch bền vững 30

ii
CHƯƠNG 2: CÁC NHÂN TỐ THÀNH TẠO CẢNH QUAN VÀ ĐẶC ĐIỂM CẢNH
QUAN Ở HUYỆN SÓC SƠN 35
2.1. Các nhân tố thành tạo cảnh quan 35
2.1.1. Vị trí địa lý 35
2.1.2. Địa chất và khoáng sản 35
2.1.3. Địa hình 36
2.1.4. Khí hậu 38
2.1.5. Thủy văn 39
2.1.6. Thổ nhưỡng 40
2.1.7. Sinh vật 42
2.1.8. Dân cư và hoạt động kinh tế 43
2.2. Đặc điểm cảnh quan huyện Sóc Sơn 48
2.2.1. Hệ thống phân loại cảnh quan huyện Sóc Sơn 48
2.2.2. Một số đặc điểm cấu trúc - chức năng của cảnh quan huyện Sóc Sơn 59
CHƯƠNG 3: ĐÁNH GIÁ CẢNH QUAN SÓC SƠN PHỤC VỤ MỤC ĐÍCH PHÁT
TRIỂN NÔNG - LÂM NGHIỆP VÀ DU LỊCH BỀN VỮNG 72
3.1. Cơ sở lý luận đánh giá cảnh quan cho mục đích phát triển nông - lâm nghiệp
và du lịch bền vững 72
3.2. Đánh giá cảnh quan Sóc Sơn phục vụ phát triển nông - lâm nghiệp bền vững 73
3.2.1. Đặc trưng sinh thái của các loại cây lựa chọn 73

3.2.2. Lựa chọn và phân cấp các chỉ tiêu 79
3.2.3. Đánh giá riêng các chỉ tiêu sinh thái 80
3.2.4. Đánh giá và phân hạng mức độ thuận lợi của các dạng cảnh quan
đối với cây nông – lâm nghiệp 81
3.3. Đánh giá cảnh quan cho phát triển du lịch 92
3.4. Định hướng giải pháp phát triển bền vững nông – lâm nghiệp và du lịch
khu vực huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội 96

iii
3.4.1. Định hướng giải pháp phát triển bền vững nông – lâm nghiệp 96
3.4.2. Định hướng, giải pháp phát triển bền vững du lịch 97
KẾT LUẬN 99
TÀI LIỆU THAM KHẢO 102


iv
DANH MỤC BẢNG
STT
Tên bảng
Trang
2.1
Đặc điểm dân số huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội
44
2.2
Giá trị, cơ cấu ngành nông - lâm nghiệp - thủy sản huyện Sóc
Sơn giai đoạn 2005-2009
45
2.3
Hệ thống phân loại cảnh quan của A.G. Ixatrenko
51

2.4
Hệ thống phân loại cảnh quan của N.A. Gvozdetsky
51
2.5
Hệ thống phân loại cảnh quan của Nhikolaev
52
2.6
Hệ thống phân loại các diện địa lí
53
2.7
Hệ thống phân loại các dạng địa lí
53
2.8
Hệ thống phân loại các cảnh địa lí
53
2.9
Hệ thống các chỉ tiêu phân loại cảnh quan áp dụng cho bản đồ
cảnh quan Việt Nam tỉ lệ 1 /1.000.000
54
2.10
Hệ thống phân loại cảnh quan huyện Sóc Sơn, Hà Nội
56
2.11
Chỉ tiêu phân chia phụ lớp cảnh quan khu vực
57
2.12
Thống kê diện tích lớp cảnh quan huyện Sóc Sơn
68
2.13
Thống kê diện tích phụ lớp cảnh quan huyện Sóc Sơn

69
3.1
Các yếu tố để phát triển trồng rừng thông nhựa
76
3.2
Tổng hợp nhu cầu sinh thái của các cây nông – lâm nghiệp
78
3.3
Tổng hợp phân cấp chỉ tiêu đánh giá thích nghi sinh thái đối
với nhóm cây nông nghiệp, lâm nghiệp huyện Sóc Sơn
80
3.4
Trọng số của các yếu tố đối với các loại cây
80
3.5
Bảng chuẩn đánh giá riêng các chỉ tiêu của dạng cảnh quan đối
với cây nông nghiệp, lâm nghiệp huyện Sóc Sơn
81
3.6
Kết quả đánh giá mức độ thuận lợi của 36 dạng cảnh quan đối
với cây nhãn huyện Sóc Sơn
83
3.7
Kết quả đánh giá mức độ thuận lợi của 34 dạng cảnh quan đối
với cây chè huyện Sóc Sơn
83
3.8
Kết quả đánh giá mức độ thuận lợi của 16 dạng cảnh quan đối
với cây thông nhựa huyện Sóc Sơn
84

3.9
Kết quả đánh giá mức độ thuận lợi của 28 dạng cảnh quan đối
với cây keo tai tượng huyện Sóc Sơn
85
3.10
Kết quả đánh giá tổng hợp các loại cảnh quan cho phát triển
các loại cây trồng nông – lâm nghiệp huyện Sóc Sơn
87
3.11
Đánh giá riêng các chỉ tiêu của loại cảnh quan đối với ngành
du lịch của huyện Sóc Sơn
93



v

DANH MỤC HÌNH

STT
Tên hình
Trang
1
Các bước thực hiện luận văn
7
1.1
Sơ đồ quy trình đánh giá thích nghi sinh thái các cảnh quan
28
2.1
Bản đồ hành chính huyện Sóc Sơn

35
2.2
Bản đồ địa mạo huyện Sóc Sơn
37
2.3
Bản đồ thổ nhưỡng huyện Sóc Sơn
40
2.4
Bản đồ thảm thực vật huyện Sóc Sơn
42
2.5
Bản đồ cảnh quan huyện Sóc Sơn
68
3.1
Bản đồ thích nghi sinh thái cây nhãn huyện Sóc Sơn
89
3.2
Bản đồ thích nghi sinh thái cây chè huyện Sóc Sơn
89
3.3
Bản đồ thích nghi sinh thái cây thông nhựa huyện Sóc Sơn
90
3.4
Bản đồ thích nghi sinh thái cây keo tai tượng huyện Sóc Sơn
91
3.5
Bản đồ kiến nghị không gian phát triển nông - lâm nghiệp và du
lịch huyện Sóc Sơn
92





1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết
Ở nước ta, cùng với quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa, tài nguyên thiên
nhiên được sử dụng ngày càng đa dạng với quy mô ngày càng lớn. Một trong những
nguyên tắc để tránh làm suy thoái và cạn kiệt tài nguyên đó là việc khai thác, sử
dụng nguồn tài nguyên luôn phải đảm bảo dựa trên sự phù hợp với quy luật địa sinh
thái lãnh thổ, nếu không sẽ gây ảnh hưởng xấu tới xu thế phát triển kinh tế xã hội và
trực tiếp chi phối đến đời sống cộng đồng.
Để duy trì sự phát triển, việc sử dụng hợp lý và hiệu quả các nguồn tài nguyên
hiện là một trong những yếu tố hết sức cần thiết. Nhiều bài học kinh nghiệm được rút ra
từ các địa phương trong cả nước cho thấy nếu khai thác tài nguyên không hợp lý, không
chú ý tới các quy luật tự nhiên thì sẽ không những làm cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên
mà còn gây ảnh hưởng tới môi trường và có những hậu quả xấu cho chính bản thân con
người, đi ngược lại với mục tiêu phát triển bền vững. Vì vậy, việc nghiên cứu, phân tích,
đánh giá cảnh quan của một khu vực nhằm mục đích phát triển các ngành kinh tế là
nhiệm vụ quan trọng và có ý nghĩa to lớn.
Huyện Sóc Sơn nằm ở phía bắc thành phố Hà Nội, có diện tích 306,5 km
2

gồm 1 thị trấn (Sóc Sơn - huyện lị) và 25 xã. Huyện Sóc Sơn nổi tiếng với khu di
tích đền Sóc (đền Sóc Sơn, chùa Non Nước,…) có ý nghĩa văn hóa, lịch sử to lớn.
Trong những năm qua, Huyện đã đạt một số thành tựu như kinh tế tăng trưởng với
tốc độ cao và ổn định, cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo xu hướng tăng dần tỷ trọng
của ngành công nghiệp, dịch vụ, giảm tỷ trọng của ngành nông nghiệp, tỷ lệ hộ đói
nghèo giảm một cách đáng kể, góp phần ổn định an ninh chính trị, an toàn xã hội.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được, Sóc Sơn hiện nay vẫn là một huyện

nghèo của thủ đô Hà Nội. Những thế mạnh của Huyện như tài nguyên, vị trí, lao
động… chưa được khai thác, sử dụng một cách hiệu quả.
Xuất phát từ yêu cầu thực tiễn và mong muốn góp phần củng cố, bổ sung, nâng
cao kiến thức, vận dụng phương pháp nghiên cứu khoa học làm sáng tỏ lí luận qua thực
tế, tác giả đã lựa chọn đề tài “Nghiên cứu, đánh giá cảnh quan phục vụ phát triển
bền vững nông - lâm nghiệp và du lịch khu vực huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội”.


2
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục tiêu nghiên cứu
- Xây dựng được bản đồ cảnh quan và phân hạng thích nghi các đơn vị cảnh quan
cho mục đích phát triển hai loại hình sản xuất là nông nghiệp, lâm nghiệp và phát triển
du lịch.
- Đưa ra đề xuất, kiến nghị có cơ sở khoa học nhằm mục đích phát triển bền
vững ngành nông - lâm nghiệp và du lịch dựa trên những nghiên cứu về sự phân hóa
lãnh thổ và đánh giá cảnh quan huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt mục tiêu đề ra, nhiệm vụ chính của luận văn như sau:
- Tổng quan các công trình nghiên cứu, các hướng nghiên cứu về cảnh quan,
nghiên cứu các cơ sở lý luận và thực tiễn của vấn đề nghiên cứu.
- Thu thập, phân tích và hệ thống hóa các tài liệu, tư liệu hiện có về các hợp
phần tự nhiên của khu vực nghiên cứu.
- Xây dựng hệ thống phân loại cảnh quan, xây dựng bản đồ cảnh quan phục
vụ cho công tác nghiên cứu.
- Phân tích, đánh giá cảnh quan lãnh thổ nghiên cứu phục vụ mục đích phát
triển các ngành sản xuất đã lựa chọn.
- Đối sánh hiện trạng phát triển nông - lâm nghiệp, du lịch với các kết quả
đánh giá, trên cơ sở đó đưa ra một số kiến nghị nhằm định hướng tổ chức khai thác,
sử dụng hợp lý tài nguyên và bảo vệ môi trường phục vụ phát triển bền vững ngành

nông - lâm nghiệp, du lịch tại huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội.
3. Phạm vi nghiên cứu
3.1. Phạm vi không gian:
Được giới hạn trong lãnh thổ huyện Sóc Sơn (bao gồm 1 thị trấn và 25 xã),
thành phố Hà Nội.
3.2. Phạm vi khoa học
- Tập trung nghiên cứu, phân tích các đơn vị cảnh quan huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội.

3
- Các ngành nghề sản xuất: tập trung vào các ngành nghề sản xuất là nông -
lâm nghiệp và du lịch.
- Xác định mức độ thích hợp của các đơn vị cảnh quan với mục đích phát triển bền
vững các ngành sản xuất đã lựa chọn tuân thủ chặt chẽ nguyên tắc khách quan, nguyên tắc
tổng hợp và nguyên tắc thích nghi tương đối. Trên cơ sở đó đề xuất các phương pháp sử
dụng hợp lý tài nguyên và bảo vệ môi trường trong không gian nghiên cứu.
4. Những kết quả đạt được của đề tài
+ Hệ thống và vận dụng cơ sở lý luận phân tích cấu trúc, chức năng cảnh quan
và cơ sở lý luận đánh giá cảnh quan cho việc nghiên cứu.
+ Phân tích khái quát điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội khu vực nghiên cứu.
+ Xây dựng được hệ thống phân loại cảnh quan, bản đồ cảnh quan và bản đồ đánh giá
cảnh quan cho phát triển nông - lâm nghiệp và du lịch, tỉ lệ 1/50.000 cho khu vực nghiên cứu.
+ Đưa ra được định hướng sử dụng không gian lãnh thổ cho mục đích phát
triển nông - lâm nghiệp khu vực nghiên cứu.
5. Ý nghĩa của đề tài
5.1. Ý nghĩa khoa học
- Hướng tiếp cận địa lí tự nhiên tổng hợp là sát thực trong việc đánh giá điều kiện
tự nhiên cho việc giải quyết vấn đề sử dụng hợp lí tài nguyên và bảo vệ môi trường.
- Đánh giá cảnh quan nhằm làm rõ tiềm năng tự nhiên, tài nguyên thiên
nhiên, cũng như sự phân hoá lãnh thổ đối với phát triển nông lâm nghiệp và du lịch
của vùng nghiên cứu.

5.2. Ý nghĩa thực tiễn
- Đưa ra định hướng phát triển nông - lâm nghiệp và du lịch phù hợp với
thực tế địa phương, ngay trên địa bàn nghiên cứu.
- Kết quả nghiên cứu đạt được sẽ góp phần giúp các nhà quản lí, hoạch định
chiến lược địa phương có thêm cơ sở khoa học cho việc đề ra định hướng phát triển,
quy hoạch và tổ chức lãnh thổ không gian sản xuất, phương hướng khai thác, sử
dụng hợp lí tài nguyên nhằm phát triển nông - lâm nghiệp và du lịch kết hợp với
bảo vệ môi trường, ổn định đời sống nhân dân.

4
6. Quan điểm và phương pháp nghiên cứu
6.1. Quan điểm nghiên cứu
6.1.1. Quan điểm hệ thống
Bec-tơ-lan-phi nhận xét: “Hệ thống là tổng thể các thành phần, nằm trong sự
tác động tương hỗ, mỗi đối tượng và hiện tượng địa lí đều có nhiều thành phần và
các bộ phận có mối quan hệ biện chứng tạo thành một chỉnh thể, tạo thành hệ
thống, mỗi hệ thống đều có thể phân chia thành các cấp thấp hơn, đồng thời mỗi hệ
thống có thể là một thành phần của hệ thống cấp cao hơn”.
Quan điểm hệ thống là một quan điểm khoa học chung, một trong những
quan điểm đặc trưng của Địa lý học và là quan điểm cơ bản quyết định phương
pháp tư duy, tiếp cận mọi vấn đề.
Cơ sở của quan điểm này là các yếu tố tự nhiên trên một lãnh thổ luôn có tác
động qua lại và liên hệ chặt chẽ với nhau tạo nên một hệ thống động lực mở, tự điều
chỉnh và có trạng thái cân bằng động.
Quan điểm này được vận dụng khi nghiên cứu, đánh giá cảnh quan huyện Sóc
Sơn, thành phố Hà Nội. Khu vực huyện Sóc Sơn được coi là một hệ thống tự nhiên,
tạo thành từ nhiều yếu tố tự nhiên (địa hình, khí hậu, thuỷ văn, thổ nhưỡng, sinh
vật…), bao gồm nhiều bộ phận nhỏ, chính là các đơn vị cảnh quan, đồng thời lại là bộ
phận của hệ thống lớn hơn: thành phố Hà Nội và đồng bằng sông Hồng. Ở đó có sự
tương tác giữa các hợp phần tự nhiên cũng như giữa hệ thống tự nhiên và hệ thống

kinh tế - xã hội. Bởi vậy, khi nghiên cứu cần phải đặt nó trong hệ thống và mối quan
hệ qua lại mật thiết giữa các yếu tố thành tạo cảnh quan, giữa các cảnh quan với nhau
và với các lãnh thổ xung quanh. Trong nghiên cứu, đánh giá cảnh quan huyện Sóc
Sơn, việc vận dụng quan điểm này có ý nghĩa quan trọng, vì mỗi một đơn vị cảnh
quan đều có cấu trúc, chức năng hoạt động riêng, đều là một bộ phận của đơn vị cấp
lớn hơn và nó lại bao gồm nhiều đơn vị cấp thấp hơn. Quan điểm hệ thống giúp
chúng ta có cái nhìn toàn diện, xác định được vị trí của đối tượng trong tổng thể, đánh
giá đầy đủ các thành phần và các mối quan hệ của lãnh thổ nghiên cứu.
6.1.2. Quan điểm tổng hợp

5
Đây là quan điểm đặc thù trong nghiên cứu địa lý, đặc biệt trong đánh giá
cảnh quan tự nhiên một khu vực.
Mỗi hệ thống tự nhiên là một tập hợp gồm nhiều thành phần, các thành phần
trong hệ thống và giữa các hệ thống khác nhau luôn có mối quan hệ, tác động qua
lại trong phạm vi lãnh thổ nhất định, trong từng giai đoạn lịch sử cụ thể theo những
quy luật phát triển riêng. Sự tác động của con người vào một hợp phần hay bộ phận
tự nhiên nào đó có thể kéo theo sự thay đổi của hàng loạt các yếu tố khác mà nhiều
khi hậu quả của nó không dừng lại ở phạm vi khu vực tác động đó xảy ra. Vận dụng
quan điểm tổng hợp trong việc đánh giá cảnh quan một lãnh thổ, cho thấy sự cần
thiết phải nghiên cứu một cách toàn diện, tổng hợp tất cả các yếu tố cũng như các
mối quan hệ tương tác giữa các hợp phần trong tổng thể đó, phân tích tổng hợp các
nhân tố tự nhiên, nhân tố kinh tế - xã hội ảnh hưởng đến sự hình thành và phân hoá
cảnh quan cũng như tác động tổng hợp của tất cả các nhân tố ảnh hưởng đến phát
triển kinh tế - xã hội, môi trường. Đây là cơ sở quan trọng cho việc đánh giá quy
hoạch lãnh thổ, sử dụng hợp lí tài nguyên và bảo vệ môi trường.
6.1.3. Quan điểm lãnh thổ
Mọi sự vật hiện tượng đều tồn tại và phát triển trong một không gian nhất
định. Các sự vật hiện tượng địa lý cũng không nằm ngoài quy luật tự nhiên này. Ở
đó có sự phân hóa và thống nhất nội tại nhưng đồng thời lại có mối quan hệ lãnh thổ

với các vùng xung quanh cả về đặc điểm địa lí tự nhiên và kinh tế -xã hội.
Trong nghiên cứu địa lý, bất kỳ một sự vật hiện tượng nào cũng đều phải gắn
với một không gian lãnh thổ nhất định. Mỗi cảnh quan đều được phát sinh, hình
thành, phát triển trên một vùng cụ thể. Trong nghiên cứu, phân tích không gian và mô
hình hoá không gian được nhấn mạnh, vì rằng sự phân hoá cảnh quan khu vực nghiên
cứu được thể hiện qua bản đồ cảnh quan. Trên cơ sở phân tích bản đồ, đưa ra ý kiến
đánh giá, kiến nghị việc khai thác sử dụng hợp lý đối với từng loại cảnh quan cho các
mục đích cụ thể của từng vùng và trên toàn lãnh thổ.
6.1.4. Quan điểm sinh thái và phát triển bền vững
Đây là quan điểm chỉ đạo trong nghiên cứu bảo vệ môi trường. Địa lý học đã
vận dụng quan điểm này vào việc nghiên cứu, đánh giá tổng hợp các nhân tố điều
kiện địa lí tự nhiên và kinh tế- xã hội.

6
Ngày nay, việc đánh giá điều kiện tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên cho mọi
hoạt động phát triển kinh tế đều phải tuân thủ theo nguyên tắc phát triển bền vững. Sử
dụng hợp lý tài nguyên không phải chỉ khai thác, tận dụng triệt để các nguồn tài
nguyên trên lãnh thổ phục vụ phát triển kinh tế mà còn phải đảm bảo sự cân bằng về
sinh thái và bền vững về môi trường. Nếu tác động con người dưới mức cho phép thì
đó là động lực tạo cơ sở cho sự phát triển của hệ địa sinh thái theo chiều hướng ổn
định trong trạng thái cân bằng và phát triển của toàn hệ thống. Nhưng nếu tác động
quá mức cho phép sẽ làm cho hệ địa sinh thái bị đảo lộn và phát triển theo chiều
hướng xấu, gây mất cân bằng sinh thái và gây ra nhiều hậu quả. Sự suy giảm diện tích
rừng gây xói mòn đất, hạ thấp mực nước ngầm, làm biến đổi khí hậu; biện pháp canh
tác không đúng kĩ thuật làm đất đai bị bạc màu, diện tích đất hoang hoá gia tăng
Cân bằng sinh thái và phát triển bền vững là mục tiêu của việc khai thác sử
dụng hợp lí nguồn tài nguyên và bảo vệ môi trường sinh thái. Vận dụng quan điểm
này cho phép xác định mức độ ảnh hưởng, là yếu tố cơ bản để đánh giá, phát hiện,
đề xuất các giải pháp cho việc sử dụng tài nguyên và bảo vệ môi trường.
Quan điểm này chi phối định hướng đánh giá và kiến nghị sử dụng các loại

cảnh quan trong khu vực nghiên cứu của đề tài. Phát triển bền vững được coi là tiêu
chí ưu tiên hàng đầu trong hoạt động đánh giá cảnh quan cho các mục đích cụ thể.
6.2. Phương pháp nghiên cứu
+ Các bước nghiên cứu thực hiện luận văn: Từ những cơ sở lí luận và thực
tiễn trên, để hoàn thành luận văn, tác giả thực hiện theo các bước sau:









7
































Hình 1: Các bước thực hiện luận văn
+ Phương pháp thu thập, tổng hợp/phân tích tài liệu
Quá trình thực hiện đề tài, các tài liệu, số liệu liên quan đến khu vực nghiên
cứu được thu thập có chọn lọc, bao gồm các thông tin về tự nhiên (đặc điểm tự
nhiên và tài nguyên thiên nhiên), thông tin kinh tế xã hội (tình hình phát triển, tốc
độ chuyển dịch kinh tế, cơ cấu và mức sống của người dân trong huyện). Phân tích
xử lí phục vụ yêu cầu đặt ra theo mục đích của đề tài sau đó đánh giá tổng hợp, rút
ra nhận xét thực trạng và tiềm năng phát triển các ngành kinh tế của lãnh thổ nghiên
cứu.
4. Đề xuất hướng sử dụng
Xây dựng bản đồ, phân tích
đặc điểm cảnh quan
1. Công tác chuẩn bị


- Tổng quan tài liệu
- Xác định đối tượng, mục đích, nhiệm vụ, nội dung,
quan điểm và phương pháp nghiên cứu.
- Xây dựng kế hoạch thực hiện
2. Điều tra, đánh giá tổng hợp
- Phân loại cảnh quan
Các nhân tố thành tạo
cảnh quan
Các nhân tố tự nhiên
- Địa chất, địa hình,
- Khí hậu, thuỷ văn
- Thổ nhưỡng, sinh vật


Các nhân tố KT - XH
- Dân cư, lao động
- Các hoạt động kinh tế

3. Đánh giá cảnh quan cho phát triển
nông - lâm nghiệp và DL

8
+ Phương pháp khảo sát thực địa
Đây là phương pháp truyền thống, rất quan trọng với tất cả các ngành nghiên cứu
thiên nhiên, nhất là đối với địa lí tự nhiên tổng hợp. Trong quá trình thực hiện đề tài, tác
giả đến khảo sát theo tuyến và theo điểm, tìm hiểu, chụp ảnh những đối tượng và địa
điểm cần thiết. Quá trình khảo sát chủ yếu nghiên cứu các đặc điểm địa lí tự nhiên, sự
phân hoá không gian lãnh thổ. Kết hợp với các phương pháp khác, so sánh đối chiếu với
kết quả nghiên cứu trong phòng để nắm vững đặc trưng cơ bản của lãnh thổ nghiên cứu.
+ Phương pháp phỏng vấn và tham gia của người dân

Ngoài các thông tin thu thập từ những tài liệu, báo cáo của địa phương thì
những thông tin có được từ thực tế có ý nghĩa và vai trò quan trọng. Thông quan
phương pháp phỏng vấn và tham gia của người dân, các nhà quản lý, nhà khoa học
và những người nghiên cứu có thể nắm bắt thông tin, hiện trạng đời sống và kinh
nghiệm thực tiễn của người dân trong quá trình sản xuất. Để từ đó các nhà nghiên
cứu đưa ra được những kiến nghị, giải pháp khoa học hỗ trợ phát triển kinh tế phù
hợp và nhà quản lý có những quyết sách sát thực tiễn.
Vì vậy, để đạt mục đích nghiên cứu, đề tài đã tổ chức những cuộc trao đổi,
phỏng vấn những người đang sinh sống và làm việc tại địa phương. Phương pháp
này được thực hiện thông qua các buổi tiếp xúc, trao đổi với người dân để tìm hiểu
hiện trạng đời sống, sản xuất của địa phương trong thời gian gần đây và xu hướng
sản xuất trong thời gian tới. Cách điều tra này có thể đơn giản là những câu hỏi,
những buổi nói chuyện, phức tạp hơn là việc xây dựng các phiếu điều tra chi tiết.
Đề tài sử dụng cách đơn giản để thu thập thông tin từ người dân địa phương, qua
phỏng vấn sâu để nắm được thực trạng các ngành kinh tế và hiệu quả sản xuất ở Sóc
Sơn.
+ Phương pháp Bản đồ và Hệ thông tin địa lý (GIS)
Đây là phương pháp nghiên cứu đặc thù trong nghiên cứu địa lí. Phương
pháp này được sử dụng trong suốt quá trình nghiên cứu, bắt đầu từ việc thu thập số
liệu, xây dựng các bản đồ chuyên đề và các bản đồ tổng hợp. Thể hiện sự phân bố
không gian của các đối tượng, đặc trưng các số liệu trên các bản đồ, biểu đồ thống
kê, hệ thống các bảng biểu. Phương pháp chồng xếp bản đồ được sử dụng khi đã có
các bản đồ phân loại các thành phần tự nhiên (như địa mạo, thổ nhưỡng, kiểu thảm

9
thực vật, kiểu khí hậu, thuỷ văn). Những bản đồ thành phần được đưa về cùng tỉ lệ
rồi chồng xếp lên nhau, tiến hành phân tích liên hợp các thành phần để xác định
ranh giới của các đơn vị cảnh quan.
+ Phương pháp phân tích liên hiệp các yếu tố thành tạo cảnh quan
Việc phân tích, nghiên cứu, đánh giá cảnh quan phục vụ phát triển nông –

lâm nghiệp và du lịch của huyện Sóc Sơn đòi hỏi phải đặt trong mối quan hệ với các
khu vực lân cận và trong cả nước. Nắm được thuận lợi, hạn chế của khu vực trong
việc kết nối với các vùng khác sẽ là cơ sở để đưa ra những kiến nghị, đề xuất phát
huy được thế mạnh của Huyện. Trong phạm vi của đề tài, huyện Sóc Sơn được xem
xét đánh giá trong mối liên hệ với thủ đô Hà Nội và các tỉnh phía Bắc Việt Nam.
Các hợp phần thành tạo cảnh quan của một khu vực bao gồm địa hình và các quá
trình địa mạo, khí hậu, thổ nhưỡng, sinh vật… vì vậy để đánh giá cảnh quan đòi hỏi phải
phân tích và nhận biết cụ thể cấu trúc của từng hợp phần. Phương pháp này được thực hiện
sau khi đã xử lý các thông tin thu thập về điều kiện tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên của
huyện Sóc Sơn để từ đó xác định ranh giới và vạch ra các dạng cảnh quan hiện có trong
khu vực nghiên cứu. Trên cơ sở so sánh vai trò của các hợp phần tự nhiên, nhận biết hợp
phần trội để gộp các dạng cảnh quan có diện tích nhỏ với dạng cảnh quan liền kề.
+ Phương pháp lát cắt cảnh quan
Mục đích của phương pháp là nghiên cứu cấu trúc đứng và cấu trúc ngang
của cảnh quan dựa trên các lát cắt qua những cảnh quan điển hình trong lãnh thổ
huyện Sóc Sơn trong giai đoạn chuẩn bị, sơ thám và khảo sát chi tiết. Trong giai
đoạn chuẩn bị, trên cơ sở các tài liệu đã có và bản đồ địa hình, vạch ra tuyến lộ trình
để phục vụ cho công tác khảo sát thực địa nhằm xác định quy luật phân hóa cấu trúc
ngang và ranh giới giữa các dạng cảnh quan. Lát cắt cảnh quan thể hiện đặc điểm,
sự phân bố và mối liên hệ giữa các yếu tố thành tạo cảnh quan.
7. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn được
trình bày trong 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của nghiên cứu cảnh quan phục vụ phát
triển nông – lâm nghiệp và du lịch bền vững huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội.

10
Chương 2: Các nhân tố thành tạo cảnh quan và đặc điểm cảnh quan của
huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội.
Chương 3: Đánh giá cảnh quan phục vụ phát triển bền vững ngành nông -

lâm nghiệp và du lịch huyện Sóc Sơn.

11
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA NGHIÊN CỨU CẢNH QUAN
PHỤC VỤ PHÁT TRIỂN NÔNG – LÂM NGHIỆP VÀ DU LỊCH BỀN VỮNG
HUYỆN SÓC SƠN, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
1.1. Tổng quan các công trình nghiên cứu có liên quan
1.1.1. Trên thế giới
Đối với lĩnh vực nghiên cứu cảnh quan và phân tích, đánh giá cảnh quan để
phục vụ cho mục đích phát triển kinh tế – xã hội thì từ trước đến nay đã có rất nhiều
công trình của các tác giả thuộc nhiều trường phái khác nhau. Trước hết phải nói
đến là những công trình của các nhà cảnh quan học Nga và một số nước thuộc Liên
Xô trước đây. Năm 1913, L.S. Berg đã đưa khái niệm cảnh quan vào trong khoa học
địa lí và ông cho rằng chính cảnh quan là đối tượng nghiên cứu của khoa học địa lí.
Đến năm 1931, L.S. Berg công bố tác phẩm “Các đới cảnh quan địa lí Liên Xô”
(tập 1) – công trình nổi tiếng là cơ sở để hoàn thiện lí luận cảnh quan. Năm 1963,
Annhenxkaia và những tác giả khác đã trình bày rõ về cách phân chia các đơn vị
cảnh quan trong tuyển tập “Cảnh quan học”. F.N. Milkov vào năm 1967 đã đề cập
đến các tổng thể thiên nhiên trên Trái Đất với tên gọi là các “tổng thể cộng sinh” mà
sau đó D.L. Armand gọi là “địa hệ” trong công trình “Khoa học về cảnh quan”
(1975). “Khoa học về cảnh quan” là một loạt tiểu luận về các đề tài lí thuyết và
phương pháp được sắp xếp theo một trình tự lôgic rõ ràng.
Một nhà cảnh quan tiêu biểu khác của Nga là A.G. Isachenko với nhiều công
trình có giá trị. Năm 1961, ông đã hoàn thành công trình “Bản đồ cảnh quan Liên
Xô, tỉ lệ 1/4.000.000 và vấn đề phương pháp nghiên cứu cảnh quan”. Năm 1969,
ông cho ra đời tác phẩm “Cơ sở cảnh quan học và phân vùng địa lí tự nhiên”, trong
đó ông đã trình bày những cơ sở lí thuyết và các nguyên tắc cơ bản trong phân vùng
địa lí tự nhiên. 5 năm sau (1974), ông cùng với A.A. Shliapnikov công bố công
trình “Về những nội dung của bản đồ cảnh quan địa lí”. Năm 1976, ông tiếp tục

xuất bản cuốn “Cảnh quan học ứng dụng” – công trình thể hiện tầm nhìn và khả
năng nắm bắt thực tiễn rất nhạy bén của ông khi đưa quan điểm ứng dụng vào cảnh
quan học. Những năm sau, một loạt các công trình về cảnh quan ứng dụng cũng
được hoàn thành như : “Nghiên cứu đánh giá cảnh quan cho các sơ đồ quy hoạch

12
vùng” (E.M. Rakovskaia, I.R. Dorphman – 1980) ; “Phương pháp đánh giá cảnh
quan sinh thái nhằm mục đích phát triển tối ưu lãnh thổ” (M. Ruzichka, M. Miklas
– 1980).
Nghiên cứu về mối quan hệ giữa cảnh quan học với các ngành khoa học khác
cũng có nhiều đại diện xuất sắc. Trước hết phải kể đến B.B. Polưnov – người sáng
lập môn địa hoá học cảnh quan vào những năm 40 của thế kỉ XX tại Liên Xô, mà
sau đó, công trình cùng tên “Địa hoá học cảnh quan” cũng đã được công bố bởi
A.I. Perelman. Trong cuốn sách này, A.I. Perelman đã thể hiện một phương pháp
nghiên cứu mới – nghiên cứu cảnh quan trên quan điểm địa hoá. Sau đó, tiếp tục có
thêm một hướng nghiên cứu cảnh quan khác trên quan điểm địa vật lí được biết đến
qua công trình “Địa vật lí cảnh quan” do tập thể các nhà khoa học thuộc Viện Hàn
lâm Khoa học Liên Xô công bố với I.P. Geraximov làm chủ biên.
Tiếp sau các tác giả của Nga và Liên Xô là một số tác giả theo trường phái
cảnh quan của Anh, Mĩ, Pháp hay Đức với một số khác biệt trong hướng nghiên
cứu. Trong đó, đáng chú ý có hướng nghiên cứu địa sinh thái cảnh quan. Đây là sự
kết hợp giữa lí thuyết địa sinh thái với cảnh quan học mà vào năm 1973, Gunter
Haase và Raft Schmidt – hai nhà cảnh quan học của Đức đã sử dụng để nghiên cứu
cảnh quan và thành lập bản đồ nông nghiệp ở Cộng hoà dân chủ Đức (cũ). Tuy vậy,
hướng nghiên cứu này xuất hiện trước tiên ở Pháp với đại diện tiêu biểu là G.
Bertran qua công trình “Phong cảnh địa lí tự nhiên toàn cầu” (1968). Theo Bertran,
địa lí học tiến triển theo hướng sinh quần học, còn phong cảnh là một bộ phận sinh
thái có thể nhận thấy được của cảnh quan. Chính vì thế mà ở Pháp, thuật ngữ
“phong cảnh” được sử dụng thay cho thuật ngữ “cảnh quan”.
1.1.2. Ở Việt Nam

Quá trình nghiên cứu về cảnh quan của nước ta tuy mới chỉ diễn ra trong hơn
nửa thập kỉ gần đây nhưng cũng đã có các tác giả để lại nhiều công trình giá trị.
Năm 1963, Nguyễn Đức Chính và Vũ Tự Lập đã công bố tác phẩm “Địa lí tự nhiên
Việt Nam”, trong đó trình bày rõ về các nguyên tắc cơ bản của phân vùng cảnh
quan và áp dụng cho lãnh thổ Việt Nam. Cũng trong năm đó, đã có nhiều bài báo
nghiên cứu về vấn đề phân vùng địa lí tự nhiên, ví dụ như : “Cơ sở lí luận của phân
vùng địa lí tự nhiên” (Nguyễn Đức Chính, V.G. Zavrie) ; “Về vấn đề xác định nội

13
dung các danh từ dùng để chỉ các đơn vị phân vị cơ bản trong phân vùng địa lí tự
nhiên tổng hợp tỉ lệ khác nhau” (V.G. Zavrie, Nguyễn Đức Chính, Vũ Tự Lập) ;
“Phương pháp luận và phương pháp phân vùng địa lí tổng hợp tỉ lệ trung bình” (V.G.
Zavrie, Nguyễn Đức Chính, Nguyễn Văn Nhưng). Đến năm 1976, Vũ Tự Lập với sự
giúp đỡ của E.M. Murzaev và V.G. Zavriev đã hoàn thành công trình “Cảnh quan địa
lí miền Bắc Việt Nam” – được xem là một công trình tổng hợp hết sức công phu có giá
trị học thuật lớn lao đối với khoa học địa lí Việt Nam hiện đại.
Ngoài ra, công tác phân vùng còn được tiến hành bởi Tổ phân vùng địa lí tự
nhiên thuộc Uỷ ban Khoa học và kĩ thuật Nhà nước, thể hiện qua tác phẩm “Phân
vùng địa lí tự nhiên lãnh thổ Việt Nam” (1970). Năm 1991, Trương Quang Hải đã
tiến hành phân loại và phân vùng cảnh quan miền Nam Việt Nam. Đến năm 1998,
Nguyễn Văn Nhưng và Nguyễn Văn Vinh đã công bố cuốn “Phân vùng địa lí tự
nhiên đất liền, đảo – biển Việt Nam và lân cận”. Mặc dù có khá nhiều quan điểm
phân vùng khác nhau nhưng các tài liệu này đã cung cấp cơ sở lí luận và thực tiễn
cho việc nghiên cứu địa lí tự nhiên tổng hợp của các thế hệ sau được tiến hành
thuận lợi hơn.
Đối với hướng nghiên cứu địa hoá và sinh thái cảnh quan thì ở Việt Nam, tuy
ra đời muộn hơn các nước phương Tây nhưng cũng đã đạt được những thành tựu
đáng kể, tiêu biểu là Nguyễn Văn Vinh. Năm 1983, ông có bài viết “Những yếu tố
chính cấu thành cảnh quan địa hoá Việt Nam”. Tiếp đó, trong Hội thảo về sinh thái
cảnh quan (Hà Nội, 1992), ông cùng với Nguyễn Thành Long cũng đánh dấu sự mở

đầu của hướng nghiên cứu sinh thái trong cảnh quan học tại Việt Nam bằng bài viết
“Tiếp cận sinh thái trong nghiên cứu cảnh quan”. Năm 1994, ông và Huỳnh Nhung
hoàn thành bài viết “Quan niệm về cảnh quan, hệ sinh thái, sự phát triển của cảnh
quan học và sinh thái học cảnh quan” – cho thấy rõ hơn mối quan hệ giữa hai
ngành cảnh quan học và sinh thái học. Cũng trong năm này, ông và Nguyễn Văn
Nhưng có bài báo cáo về “Chu trình vật chất, trao đổi năng lượng trong một số cảnh
quan Việt Nam” – cho thấy quan điểm sinh thái đã được vận dụng linh hoạt hơn trong
nghiên cứu cảnh quan Việt Nam.
Ngoài các hướng nghiên cứu truyền thống, Việt Nam cũng tiếp cận rất nhanh các
hướng nghiên cứu cảnh quan có ứng dụng thành tựu của công nghệ thông tin. Có thể kể
đến là Nguyễn Thành Long với công trình “Nghiên cứu cảnh quan Tây Nguyên trên cơ sở

14
ảnh vệ tinh Landsat” (1987) ; Phạm Hoàng Hải và nhiều người khác với công trình “Xây
dựng bản đồ cảnh quan sinh thái tỉnh Thanh Hoá tỉ lệ 1 : 200.000 trên cơ sở sử dụng các
tư liệu viễn thám” (1990) ; Nguyễn Văn Vinh và Nguyễn Cẩm Vân với “Thành lập bản đồ
cảnh quan đồng bằng Nam Bộ tỉ lệ 1 : 250.000 bằng tư liệu viễn thám” (1992).
Một trong những hướng nghiên cứu được tiến hành rất mạnh trong thời gian
gần đây là hướng nghiên cứu, đánh giá cảnh quan phục vụ cho mục đích phát triển
bền vững lãnh thổ, mà tiêu biểu là các công trình của Phạm Hoàng Hải. Năm 1988,
ông hoàn thành công trình “Vấn đề lí luận và phương pháp đánh giá tổng hợp tự
nhiên cho mục đích sử dụng lãnh thổ – ví dụ vùng Đông Nam Bộ”. Kế đến vào năm
1990, trong Chương trình 48B, ông cùng Nguyễn Trọng Tiến và nhiều người khác
đã tiến hành “Đánh giá tổng hợp điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên dải
ven biển Việt Nam cho phát triển sản xuất nông - lâm”. Năm 1993, ông cùng
Nguyễn Thượng Hùng đã thực hiện đề tài “Đánh giá tổng hợp cho mục đích sử
dụng và khai thác hợp lí tài nguyên Tây Nguyên”. Vào năm 1997, Nhà xuất bản
Giáo dục đã công bố tác phẩm “Cơ sở cảnh quan học của việc sử dụng hợp lí tài
nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường lãnh thổ Việt Nam” của ông cùng với Nguyễn
Thượng Hùng và Nguyễn Ngọc Khánh – công trình được đánh giá cao bởi những

miêu tả chi tiết các quy luật và đặc điểm đặc trưng các cảnh quan nhiệt đới gió mùa
Việt Nam trên cơ sở một hệ thống phân loại tương đối thống nhất cho toàn lãnh thổ
và theo các miền, các vùng cảnh quan riêng biệt ; đồng thời công trình cũng đã đề cập
một cách khá đầy đủ, sâu sắc những biến đổi của tự nhiên nói chung và cảnh quan nói
riêng dưới tác động của con người, từ đó đưa ra các giải pháp, các hướng tiếp cận
khoa học tin cậy nhằm sử dụng hợp lí tài nguyên, bảo vệ môi trường.
Ngoài ra còn có thể kể đến một số công trình khác được thực hiện ở các
vùng, miền của đất nước và đã có những đóng góp nhất định vào sự phát triển
chung của khoa học cảnh quan, ví dụ như: Đoàn Ngọc Nam với “Các thể tổng hợp
địa lí tự nhiên trong cấu trúc cảnh quan ngoại thành thành phố Hồ Chí Minh và
hướng cải tạo chúng, phục vụ phát triển nông nghiệp” (1991); Nguyễn Thế Thôn
với “Tổng luận phân tích nghiên cứu và đánh giá cảnh quan cho việc quy hoạch và
phát triển kinh tế” (1993) và “Tổng luận phân tích những vấn đề cảnh quan sinh
thái ứng dụng trong quy hoạch và quản lí môi trường” (1995); Trần Văn Thành với
“Phân vùng địa sinh thái đất ngập nước Đồng Tháp Mười” (1993); Hà Văn Hành

15
với "Nghiên cứu và đánh giá tài nguyên phục vụ cho công tác phát triển kinh tế, xã
hội bền vững ở huyện vùng cao a Lưới", Luận án Tiến sĩ (2001); Phạm Thế Vĩnh
với “Nghiên cứu cảnh quan sinh thái dải ven đồng bằng sông Hồng phục vụ cho
việc sử dụng hợp lý lãnh thổ”, Luận án Tiến sỹ Địa lý (2004); Trương Quang Hải
với “Nghiên cứu và xác lập cơ sở khoa học cho việc sử dụng hợp lý tài nguyên
thiên nhiên và phát triển bền vững vùng núi đá vôi Ninh Bình”, đề tài trọng điểm
cấp ĐHQG Hà Nội (2008),
Đó là chưa nói đến một loạt các bản đồ cảnh quan và đánh giá cảnh quan đã
được các nhà cảnh quan học và các nhà địa lí tổng hợp xây dựng nên trong hơn 30
năm qua, giúp cho lĩnh vực nghiên cứu cảnh quan của nước ta ngày càng có những
bước phát triển mạnh mẽ và vững chắc.
1.1.3. Huyện Sóc Sơn
Hầu hết các đề tài nghiên cứu được tiến hành ở huyện Sóc Sơn là các đề tài

đánh giá từng thành phần và các đề tài kỹ thuật, chỉ đề cập đến các vấn đề trong nghiên
cứu điều tra cơ bản và khai thác tài nguyên thiên nhiên. Một số đề tài tiêu biểu như sau:
- “Đánh giá tiềm năng khoáng sản đất sét đồi trong vùng Sóc Sơn để sản
xuất gạch nung”, KS. Trịnh Thị Hòa. Đề tài thuộc Dự án điều tra cơ bản môi trường
theo Thông tư liên bộ số 155/TTLB. Đề tài đã đánh giá, dự báo tiềm năng đất sét
đồi vùng Sóc Sơn phục vụ lâu dài cho công nghiệp vật liệu xây dựng của thành phố
Hà Nội, là tiền đề tiếp theo cho các dự án đầu tư khai thác cung cấp nguyên liệu và
sản xuất vật liệu xây dựng của thành phố Hà Nội. Đề tài đã nêu sơ lược tình hình
địa chất và khoáng sản sét vùng Sóc Sơn, Hà Nội.
- “Nghiên cứu áp dụng các điều kiện sinh thái nông nghiệp để bố trí lại và
chuyển đổi cơ cấu mùa vụ, cây trồng trên nền canh tác lúa ở hai vùng có khó khăn
về đất đai và thời tiết”, KS. Ngô Sỹ Giai. Đề tài đã thu thập, phân tích đặc điểm các
điều kiện sinh thái ở vùng Sóc Sơn, đưa ra những kiến nghị, đề xuất sử dụng hiệu
quả, khai thác tài nguyên khí hậu, đất đai.
- “Ứng dụng viễn thám và hệ thống thông tin địa lý trong đánh giá biến động
đất nông lâm nghiệp huyện Sóc Sơn - thành phố Hà Nội”, luận văn thạc sỹ nông
nghiệp, tác giả Đặng Trọng Hải, trường ĐHNNI, 2006.

16
- Nghiên cứu phát triển hệ thống trang trại trên đất bạc màu huyện Sóc Sơn
( 1995 – 1997).
- “Nghiên cứu giải pháp và đề xuất mô hình ứng dụng khoa học công nghệ
để dịch chuyển cơ cấu kinh tế nông nghiệp huyện Sóc Sơn - thành phố Hà Nội”. Đề
tài đã nghiên cứu, khảo sát đề ra xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhằm phát
huy thế mạnh của huyện, cải thiện đời sống người dân.
- Báo cáo tổng kết đề tài cấp nhà nước, Phân tích, đánh giá điều kiện tự
nhiên , địa lý môi trường góp phần định hướng phát triển không gian của Thủ đô
Hà Nội trong đầu thế kỷ 21, Chương trình KX.09.01, 2007. Báo cáo đánh giá các
yếu tố, quá trình biến đổi, đặc điểm cơ bản về điều kiện tự nhiên, môi trường của
Thăng Long - Hà Nội, phân tích tiềm năng, thế mạnh, hạn chế đối với quá trình xây

dựng và bảo vệ Thủ đô, đồng thời đề xuất phương hướng, giải pháp sử dụng hợp lý
và hiệu quả các tiềm năng, lợi thế hiện có. Hướng nghiên cứu của đề tài dựa trên
quan điểm của địa lý tổng hợp, huyện Sóc Sơn thuộc phạm vi nghiên cứu tuy nhiên
không gian nghiên cứu rộng nên mức độ chi tiết đối với khu vực này chưa cao.
- Tập Atlas Thăng Long - Hà Nội, Nhà xuất bản Hà Nội, 2010 do Trương
Quang Hải là tổng chủ biên gồm các bản đồ tự nhiên và kinh tế xã hội của Hà Nội,
trong đó có lãnh thổ huyện Sóc Sơn nhưng chủ yếu ở tỷ lệ trung bình 1/150.000.
Tóm lại, có thể thấy các đề tài nghiên cứu thuộc từng lĩnh vực riêng biệt cho
các mục tiêu ứng dụng cụ thể, chưa thể hiện được các quan điểm nghiên cứu của địa
lí tổng hợp, trong khi một số đề tài nghiên cứu theo hướng địa lý tổng hợp được
thực hiện trên phạm vi không gian rộng do đó, hướng nghiên cứu cảnh quan để
phục vụ mục đích phát triển kinh tế – xã hội cụ thể trên địa bàn huyện Sóc Sơn là
khá mới mẻ.
1.2. Lý luận chung về nghiên cứu cảnh quan
1.2.1. Khái niệm cảnh quan
“Cảnh quan” là thuật ngữ bắt nguồn từ ngôn ngữ Đức – “landschaft”, với
nghĩa là nước, miền, địa phương, khu vực, đã bắt đầu được sử dụng trong các sách
vở địa lí từ năm 1805. Tuy nhiên, đến cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX thì nền móng

17
của cảnh quan học mới được xây dựng trong các công trình nghiên cứu về bề mặt
Trái Đất của các nhà địa lí kinh điển Nga, Đức, Anh, Mĩ, Pháp.
Trong quá trình phát triển của cảnh quan học, đã có rất nhiều tác giả đưa ra
các quan điểm, học thuyết khác nhau về cảnh quan, thể hiện qua hàng loạt các định
nghĩa về cảnh quan với nội dung và cách diễn đạt không giống nhau. Có thể gộp các
định nghĩa ấy vào ba nhóm quan niệm cơ bản như sau :
* Quan niệm coi cảnh quan là một khái niệm chung đồng nghĩa với tổng thể
thiên nhiên ở các cấp phân vị khác nhau.
Người đầu tiên hiểu khái niệm cảnh quan theo nghĩa này là S.S. Neustruev.
Ông cho rằng, “Cảnh quan là tổng thể gồm có những vật thể và những hiện tượng

tự nhiên phụ thuộc lẫn nhau, liên quan với nhau và thể hiện dưới dạng thể tổng hợp
địa lí ở các cấp phân vị khác nhau, có lịch sử hình thành khác nhau và có quá trình
phát triển không ngừng”. Ủng hộ quan điểm này có D.L. Armand, Y.K. Eftromov,
V.I. Prokaev, E.N. Lukasov,…
D.L. Armand quan niệm cảnh quan là khái niệm chung để gọi các tổng thể tự
nhiên lớn, nhỏ như cảnh quan Trái Đất, cảnh quan lục địa, cảnh quan đồng cỏ,…
Thuật ngữ cảnh quan không những có thể dùng cho bất kì đơn vị phân loại nào như
cảnh quan bán đảo, cảnh quan các khiên cổ,…, mà còn dùng theo ý nghĩa chung
giống như khái niệm đất đai, khí hậu,…
* Quan niệm coi cảnh quan là một đơn vị cá thể trong hệ phân vị tổng thể tự
nhiên, trong đó cảnh quan là đơn vị chủ yếu được xem xét về những biến đổi do tác
động của con người.
Theo cách hiểu này thì cảnh quan là một trong những đơn vị thấp nhất trong
hệ thống phân vùng tổng hợp. Tiêu biểu theo xu hướng này là A.A. Grygoryev, S.V.
Kalesnik, N.A. Soltsev, A.G. Isachenko, Vũ Tự Lập,…
S.V. Kalesnik quan niệm “Cảnh quan địa lí là một bộ phận nhỏ của bề mặt
định tính khác hẳn với các bộ phận khác được bao bọc bởi những ranh giới tự nhiên
và một sự tập hợp có quy luật và thống nhất trong bản thân nó, được biểu hiện một
cách điển hình trên một không gian rộng lớn và có quan hệ không tách rời về mọi

18
mặt với lớp vỏ địa lí”. Qua đó Kalesnik cho thấy bất kì một cảnh quan nào cũng phải
được coi như là kết quả của sự phát triển và phân dị của lớp vỏ cảnh quan.
N.A. Soltsev dựa trên kinh nghiệm nghiên cứu thực địa nhiều năm đã đưa ra
định nghĩa : “Cảnh quan địa lí là một tổng thể lãnh thổ tự nhiên đồng nhất về mặt
phát sinh, có một nền địa chất đồng nhất, có một kiểu địa hình, có một khí hậu đồng
nhất, và bao gồm một tập hợp dạng địa lí chủ yếu và thứ yếu liên kết với nhau về
mặt động lực và lặp lại một cách có quy luật trong không gian, tập hợp này chỉ
thuộc riêng cho cảnh địa lí đó”. Định nghĩa này tương đối rõ ràng, cụ thể, xác định
được cấu trúc cảnh quan. Tuy nhiên định nghĩa này chưa thể hiện được mối tương

quan giữa các hợp phần thuỷ văn, thổ nhưỡng, sinh vật ; chưa nói đến quan hệ giữa
cấp cảnh với cấp lớn hơn.
Theo A.G. Isachenko, “Cảnh quan địa lí là một bộ phận được tách ra trong
quá trình phát sinh của một miền, một đới địa lí, và nói chung là của bất kì đơn vị
lãnh thổ lớn hơn, có đặc điểm đồng nhất cả về mặt địa đới và phi địa đới và có một
cấu trúc viền, một cấu tạo hình thái riêng”. Gần đây, Isachenko nhấn mạnh cảnh
quan là bậc trung tâm trong dãy các hệ địa lí. Nó là khâu kết thúc trong sự phân dị
khu vực, đồng thời là đối tượng khởi đầu để phân tích các quy luật địa lí tự nhiên
địa phương gắn liền với các hoạt động của các nhân tố địa lí trong cảnh quan. Cảnh
quan có tính đồng nhất về các mặt địa đới và phi địa đới biểu hiện trước hết ở sự
thống nhất về nền móng, kiểu địa hình và khí hậu, quy định cả sơ đồ thống nhất về cấu
trúc bên trong của nó. Mặt khác, cảnh quan là một tổng thể phức tạp của các hệ địa lí
địa phương (cảnh khu, cảnh diện) gắn kết với nhau một cách có quy luật, được hình
thành trong phạm vi của cảnh.
Vũ Tự Lập trên cơ sở tiếp cận khoa học cảnh quan Liên Xô (cũ) có chọn lọc đã
định nghĩa : “Cảnh quan địa lí là một địa tổng thể được phân bố ra trong phạm vi một
đới ngang ở đồng bằng và một đai cao ở miền núi, có một cấu trúc thẳng đứng đồng
nhất về nền địa chất, về kiểu địa hình, kiểu khí hậu, kiểu thuỷ văn, về đại tổ hợp thổ
nhưỡng và đại tổ hợp thực vật, và bao gồm một tập hợp có quy luật của những dạng
địa lí và những đơn vị cấu tạo nhỏ khác theo một cấu trúc ngang đồng nhất”. Định
nghĩa này nói lên quá trình phát sinh các đơn vị lớn hơn, chủ yếu là cấp đới địa lí và đai
cao địa lí, tính đồng nhất trong cấu trúc đứng và tính phân dị trong cấu trúc ngang.

×