Tải bản đầy đủ (.pdf) (116 trang)

Chính sách khuyến khích giảng viên trẻ tham gia nghiên cứu khoa học.PDF

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.33 MB, 116 trang )


1





DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT




CGCN Chuyển giao công nghệ
CV Chuyên viên
CVC Chuyên viên chính
CVCC Chuyên viên cao cấp
CNXH Chủ nghĩa xã hội
CT-HC KVI Chính trị - Hành chính khu vực I
GV Giảng viên
GVT Giảng viên trẻ
GVC Giảng viên chính
GVCC Giảng viên cao cấp
GD&ĐT Giáo dục và Đào tạo
HĐKH Hoạt động khoa học
KH&CN Khoa học và công nghệ
NCKH Nghiên cứu khoa học
NSNN Ngân sách Nhà nước
NC&TK Nghiên cứu và triển khai
QLKH Quản lý khoa học









2
MỤC LỤC

Trang
DANH MỤC CÁC BẢNG - BIỂU ĐỒ - SƠ ĐỒ
5
MỞ ĐẦU
7
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
16
1.1. Cơ sở lý luận
16
1.1.1. Một số khái niệm công cụ
16
1.1.1.1. Chính sách và Chính sách Khoa học & Công nghệ
16
1.1.1.2. Chính sách khuyến khích trong nghiên cứu khoa học
18
1.1.1.3. Giảng viên và giảng viên trẻ
20
1.1.2. Vai trò của hoạt động khoa học trong trường đại học và học viện
22
1.1.2.1. Quan điểm của Đảng và Nhà nước Việt Nam về hoạt động nghiên
cứu khoa học trong trường đại học và học viện

22
1.1.2.2. Nghiên cứu khoa học - giải pháp nâng cao năng lực và chất lượng
đào tạo của trường đại học và học viện
25
1.1.2.3. Vai trò của nghiên cứu khoa học đối với giảng viên trẻ
26
1.2. Cơ sở thực tiễn
27
1.2.1. Thực trạng hoạt động nghiên cứu khoa học của đội ngũ GVT trong
các trường đại học và học viện của Việt Nam
27
1.2.2. Các yếu tố ảnh hưởng tới hoạt động NCKH của giảng viên trẻ trong
trường đại học và học viện ở Việt Nam
34
1.2.2.1. Cơ chế, chính sách về nghiên cứu khoa học
34
1.2.2.2. Nguồn nhân lực nghiên cứu khoa học
34
1.2.2.3. Điều kiện, phương tiện phục vụ nghiên cứu khoa học
35
1.2.2.4. Yếu tố quản lý
36
Kết luận chƣơng 1
37
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CỦA ĐỘI
NGŨ GIẢNG VIÊN TRẺ TẠI HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ - HÀNH CHÍNH KHU VỰC I
38
2.1. Tổng quan về Học viện Chính trị - Hành chính khu vực I và hoạt động
nghiên cứu khoa học của Học viện Chính trị - Hành chính khu vực I
38

2.1.1. Tổng quan về Học viện Chính trị - Hành chính khu vực I
38
2.1.1.1. Quá trình hình thành và phát triển
38
2.1.1.2. Tổ chức bộ máy
39

3
2.1.1.3. Chức năng, nhiệm vụ
41
2.1.1.4. Nội dung, quy mô đào tạo
42
2.1.2. Hoạt động nghiên cứu khoa học của Học viện Chính trị - Hành chính
khu vực I
43
2.1.2.1. Những chủ trương và chương trình
43
2.1.2.2. Đánh giá thực trạng hoạt động nghiên cứu khoa học của Học viện
Chính trị - Hành chính khu vực I
45
2.2. Hoạt động nghiên cứu khoa học của giảng viên trẻ tại Học viện
Chính trị - Hành chính khu vực I giai đoạn 2003 - 2010
50
2.2.1. Thực trạng đội ngũ giảng viên trẻ tại Học viện Chính trị - Hành
chính khu vực I
50
2.2.2. Đánh giá hoạt động nghiên cứu khoa học của đội ngũ giảng viên trẻ
tại Học viện Chính trị - Hành chính khu vực I
52
2.2.2.1. Đánh giá hoạt động nghiên cứu khoa học của giảng viên trẻ dưới dạng

các đề tài nghiên cứu
52
2.2.2.2. Đánh giá hoạt động nghiên cứu khoa học của giảng viên trẻ dưới
dạng các nghiên cứu khác
57
2.2.3. Những yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động nghiên cứu khoa học của
giảng viên trẻ ở Học viện Chính trị - Hành chính khu vực I
58
Kết luận chƣơng 2
71
Chƣơng 3: MỘT SỐ ĐỀ XUẤT VỀ CHÍNH SÁCH KHUYẾN KHÍCH GIẢNG VIÊN
TRẺ THAM GIA NGHIÊN CỨU KHOA HỌCTẠI HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ -
HÀNH CHÍNH KHU VỰC I
74
3.1. Mục tiêu, phƣơng hƣớng hoạt động khoa học của Học viện Chính
trị - Hành chính khu vực I giai đoạn tới
74
3.1.1. Mục tiêu
74
3.1.2. Phương hướng
75
3.2. Quan điểm của Học viện Chính trị - Hành chính khu vực I về
khuyến khích giảng viên trẻ nghiên cứu khoa học
76
3.2.1. Quan điểm chỉ đạo của Học viện Chính trị - Hành chính khu vực I
76
3.2.2. Quan điểm của các nhà quản lý và các nhà khoa học có kinh nghiệm
78
3.3. Một số giải pháp về chính sách khuyến khích giảng viên trẻ nghiên
cứu khoa học tại Học viện Chính trị - Hành chính khu vực I

79

4
3.3.1. Nhóm giải pháp về nâng cao nhận thức và năng lực nghiên cứu
khoa học của giảng viên trẻ
79
3.3.1.1. Nâng cao nhận thức, ý thức trách nhiệm của giảng viên trẻ về
nghiên cứu khoa học
79
3.3.1.2. Nâng cao năng lực nghiên cứu khoa học của giảng viên trẻ
81
3.3.2. Nhóm giải pháp về cơ chế và quản lý hoạt động nghiên cứu khoa
học của giảng viên trẻ
85
3.3.2.1. Xây dựng cơ chế ưu tiên hỗ trợ giảng viên trẻ nghiên cứu khoa học
85
3.3.2.2. Xây dựng tiêu chí đánh giá về hoạt động nghiên cứu khoa học
89
3.3.2.3. Củng cố các phòng, ban chức năng quản lý nghiên cứu khoa học và
hoàn thiện cơ chế phối hợp của các đơn vị trong Học viện về nghiên cứu
khoa học
92
3.3.2.4. Cải tiến quy trình xây dựng kế hoạch nghiên cứu khoa học của Học viện
93
Kết luận chƣơng 3
95
KẾT LUẬN
96
KHUYẾN NGHỊ
98

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
100
PHỤ LỤC
109















5
DANH MỤC CÁC BẢNG - BIỂU ĐỒ - SƠ ĐỒ


BẢNG
Bảng 1.1: Số liệu thống kê giáo dục đại học (từ năm 2005 - 2010)

Bảng 1.2: Tình hình thực hiện nhiệm vụ NCKH cấp Nhà nước của các
trường đại học (2006 - 2009)

Bảng 1.3: Tình hình thực hiện nhiệm vụ NCKH cấp Bộ của các trường đại

học (2006 - 2009)

Bảng 1.4: Tình hình thực hiện nhiệm vụ NCKH cấp cơ sở của các trường đại
học (2006 - 2009)

Bảng 2.1: Cơ cấu nhân lực theo đơn vị chuyên môn của cán bộ, công chức,
viên chức Học viện (2010 - 2011)

Bảng 2.2: Tình hình thực hiện nhiệm vụ NCKH các cấp của đội ngũ cán bộ Học
viện là chủ nhiệm đề tài (2004 - 2010)

Bảng 2.3: Trình độ chuyên môn và trình độ lý luận chính trị của đội ngũ
GVT Học viện (2010 - 2011)

Bảng 2.4: Tình hình thực hiện nhiệm vụ NCKH các cấp của đội ngũ GVT Học viện
làm chủ nhiệm đề tài (2004 - 2010)

Bảng 2.5: Bảng thống kê tình hình thực hiện nhiệm vụ NCKH các cấp của đội
ngũ GVT Học viện (2004 - 2010)

Bảng 2.6: Số lượng đề tài GVT đã từng tham gia

Bảng 2.7: Đánh giá mức độ chất lượng loại hình NCKH của GVT

Bảng 2.8: Đánh giá mức độ chất lượng lĩnh vực NCKH của GVT

Bảng 2.9: Đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ NCKH của GVT

Bảng 2.10: Đánh giá mức độ thực hiện quản lý NCKH của GVT


Bảng 2.11: Đánh giá năng lực NCKH của GVT










6



BIỂU ĐỒ

Biểu đồ 2.1: Cơ cấu trình độ lý luận chính trị của độ ngũ cán bộ, công chức,
viên chức Học viện (2010 - 2011)

Biểu đồ 2.2: Cơ cấu Ngạch công chức của độ ngũ cán bộ, công chức, viên
chức Học viện (2010 - 2011)

Biểu đồ 2.3: Tình hình xếp loại đánh giá, nghiệm thu thực hiện nhiệm vụ
NCKH các cấp của đội ngũ cán bộ Học viện (2004 - 2010)

Biểu đồ 2.4: Cơ cấu chuyên ngành của đội ngũ GVT Học viện (2010 - 2011)

Biểu đồ 2.5: Tình hình xếp loại đánh giá, nghiệm thu thực hiện nhiệm vụ
NCKH các cấp của đội ngũ GVT (2004 - 2010)





SƠ ĐỒ

Sơ đồ 1.1: Chuỗi mắt xích nhu cầu - mong muốn - thỏa mãn

Sơ đồ 1.2: Động cơ thúc đẩy đến sự thỏa mãn















7
MỞ ĐẦU

1. Lý do nghiên cứu
Trong công cuộc đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc
tế của Việt Nam hiện nay, GD&ĐT và KH&CN đã ngày càng trở thành yếu tố trực

tiếp của lực lượng sản xuất hiện đại. Trong nhiều nghị quyết của Đảng, văn bản của
Nhà nước đều đề cập đến vai trò, sứ mệnh và mục tiêu của giáo dục - đào tạo và
khoa học công nghệ. Quan điểm chỉ đạo được Đảng nêu lên trong Nghị quyết số 04-
NQ/HNTW, Hội nghị Trung ương 4 (khóa VII): "Cùng với KH&CN, giáo dục và
đào tạo là quốc sách hàng đầu. Đó là một động lực thúc đẩy và là một điều kiện cơ
bản bảo đảm việc thực hiện những mục tiêu kinh tế - xã hội, xây dựng và bảo vệ đất
nước"[32]. Quan điểm này tiếp tục được các Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII,
IX, X, XI khẳng định: Giáo dục và đào tạo có sứ mệnh nâng cao dân trí, phát triển
nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, góp phần quan trọng phát triển đất nước, xây
dựng nền văn hóa và con người Việt Nam. Phát triển giáo dục và đào tạo cùng với
phát triển KH&CN là quốc sách hàng đầu; đầu tư cho giáo dục và đào tạo là đầu tư
cho phát triển. Trong Hiến pháp năm 1992 sửa đổi, bổ sung năm 2001 đã nêu rõ tại
Điều 37: “Phát triển KH&CN là quốc sách hàng đầu. KH&CN giữ vai trò then chốt
trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Nhà nước xây dựng và
thực hiện chính sách KH&CN quốc gia; xây dựng nền KH&CN tiên tiến; phát tiển
đồng bộ các ngành khoa học, nghiên cứu, tiếp thu các thành tựu KH&CN của thế
giới nhằm xây dựng luận cứ khoa học cho việc định ra đường lối, chính sách và
pháp luật, đổi mới công nghệ, phát triển lực lượng sản xuất và tốc độ phát triển của
nền kinh tế; góp phần đảm bảo quốc phòng, an ninh quốc gia”[45, tr. 27-28].
Giảng dạy và NCKH là hai chức năng cơ bản của các trường đại học và học
viện, trong đó hoạt động NCKH đó ng vai trò quyế t đị nh chất lượng đà o tạ o củ a nhà
trườ ng. NCKH góp phần tạo ra và nâng cao chất lượng đào tạo, phát triển nguồn
nhân lực chất lượng cao, giúp phát triển các ngành đào tạo mới, các lĩnh vực nghiên
cứu mới, là chiếc cầu nối gắn kết nhà trường với nền kinh tế - xã hội, làm cho mỗi
trường đại học trở thành một trung tâm khoa học, giáo dục, kinh tế và văn hoá lớn

8
của từng địa phương, từng vùng hoặc quốc gia. Bộ GD&ĐT đã có quy định chế độ
làm việc đối với giảng viên (ban hành theo Quyết định số 64/2008/QĐ-BGDĐT
ngày 28 tháng 11 năm 2008) chỉ rõ bên cạnh nhiệm vụ giảng dạy, GV còn phải thực

hiện nhiệm vụ NCKH và CGCN, tham gia quản lý hoạt động KH&CN; định mức
thời gian NCKH của GV là 500 giờ mỗi năm học, GV chính là 600 giờ, GV cao cấp
là 700 giờ (tương đương từ 35 đến 40% tổng thời gian làm việc mỗi năm của mỗi
chức danh GV) [9].
GVT được coi là đội ngũ kế cận, tương lai của một trường đại học, học viện,
đang trong độ tuổi tràn đầy nhiệt huyết, tinh thần nghề nghiệp. Hoạt động NCKH
góp phần quan trọng giúp đội ngũ GVT vững về kiến thức, có kinh nghiệm và biết tự
đổi mới, nâng cao trình độ khoa học và trình độ chuyên môn.
Theo đánh giá chung, hoạt động NCKH của đội ngũ GVT tại các trường đại
học và học viện hiện nay chưa đáp ứng được yêu cầu, chưa đảm nhận tốt được chức
năng hỗ trợ tích cực cho hiệu quả giảng dạy. Có nhiều nguyên nhân của tình trạng
trên, trong đó có nguyên nhân là đang thiếu những chính sách có tính chất tạo động
lực thúc đẩy họ say mê nghiên cứu. Để một GVT thành công trong NCKH đòi hỏi
phải có những điều kiện về nhận thức, năng lực nghiên cứu của bản thân GVT;
đồng thời rất cần có sự đảm bảo về cơ chế, chính sách trong NCKH thuận lợi, các
điều kiện, phương tiện phục vụ NCKH; sự hỗ trợ trong việc tạo quan hệ với đối tác
và hợp tác quốc tế trong NCKH Nghiên cứu xây dựng và áp dụng hiệu quả những
chính sách khuyến khích GVT tham gia NCKH là yêu cầu bức thiết hiện nay.
Bởi vậy, việc chọn nghiên cứu đề tài “Chính sách khuyến khích giảng viên
trẻ tham gia nghiên cứu khoa học" (Nghiên cứu trường hợp Học viện Chính trị -
Hành chính khu vực I) thực sự là một vấn đề mang tính khoa học, cần được nghiên
cứu một cách nghiêm túc.
2. Lịch sử nghiên cứu
Vấn đề vai trò của NCKH trong các trường đại học, học viện và đối với GV
đã được nhiều nghiên cứu đề cập tới:
Trong bài viết "NCKH - yêu cầu bắt buộc đối với đội ngũ GV trong các
trường đại học" trên Tạp chí KH&CN - Đại học Đà Nẵng, số 4(39)/2010 do hai tác

9
giả Lê Hữu Ái và Lâm Bá Hòa đã khẳng định NCKH của đội ngũ GV là tiêu chí để

đánh giá chất lượng đại học; đồng thời phác họa thực trạng công tác NCKH của đội
ngũ GV trong các trường đại học ở Việt Nam hiện nay, phân tích nguyên nhân và đề
xuất các giải pháp để nhằm nâng cao được chất lượng đào tạo đại học. [2, tr 108 - 116]
PGS,TS.Nguyễn Bính với bài viết: "NCKH góp phần nâng cao trình độ GV
đại học" được đăng tải trên website nhận định NCKH là
nhiệm vụ của mỗi GV nhưng trên thực tế vẫn xảy ra tình trạng một số GV ngại đăng
ký làm đề tài NCKH; năng lực NCKH và CGCN của bộ phận lớn GV còn hạn chế;
GVT gặp nhiều khó khăn trong công tác NCKH với các lý do như tuổi đời, tuổi
nghề, kinh nghiệm giảng dạy, thu nhập, [3]
Ngày 18/2/2010, Bộ GD&ĐT đã tổ chức cuộc Hội thảo "Thực trạng và giải
pháp tạo động lực cho GV đại học tham gia NCKH và CGCN", và đề xuất 3 nhóm
giải pháp: đổi mới và hoàn thiện quy trình xây dựng kế hoạch KH&CN; đổi mới
công tác tài chính cho hoạt động KH&CN; khen thưởng và vinh danh các GV có
thành tích trong hoạt động KH&CN. [12]
Tác giả Vũ Thế Dũng, với bài viết: "Vài suy nghĩ về vai trò mới của GV đại
học. GV đại học - Anh là ai?" trên website đã đưa
ra định nghĩa về GV đại học và vai trò và chức năng của một GV đại học là nhà
giáo, là nhà khoa học và là nhà cung ứng dịch vụ cho cộng đồng.[27]
Tại Tọa đàm khoa học quốc tế: "Chính sách khoa học và giáo dục ở Việt
Nam trong thời kỳ mới", GS,TSKH. Trương Quang Học có bài tham luận: "Đẩy
mạnh hoạt động NCKH và sự tích hợp với hoạt động đào tạo góp phần nâng cao
chất lượng đào tạo trong các trường đại học", khẳng định việc kết hợp chặt chẽ
giữa đào tạo với NCKH và CGCN là xu hướng cơ bản trong chiến lược phát triển
giáo dục đại học của các nước trên thế giới. NCKH vừa là mục đích, vừa là phương
tiện để đào tạo, việc liên kết hai chức năng này là việc làm cấp thiết và có ý nghĩa
chiến lược đối với các trường đại học. [43]
Trong bài viết "Đẩy mạnh công tác NCKH và chuyển giao công nghệ trong
các trường đại học ở nước ta" (2003), Hoàng Văn Phong khẳng định "hoạt động
NCKH và CGCN còn yếu kém và bất cập như: trình độ nghiên cứu thấp, giá trị


10
nghiên cứu còn nhỏ, nội dung nghiên cứu nghèo nàn, hiệu quả công tác NCKH
chưa cao; KH&CN chưa thực sự đổi mới ". Tác giả chỉ ra các nguyên nhân yếu
kém cũng như đề xuất các giải pháp khắc phục những yếu kém trên. [81]
Tác giả Đỗ Tiến Sỹ với hai bài viết: "GVT - góc nhìn mở về công tác quản lý
và bồi dưỡng" [84] và "Cơ hội nào cho GVT NCKH?" [85] đã đưa ra các giải pháp
để tạo cơ hội cho GVT như: tạo hành lang pháp lý phát triển GVT, phát huy năng
lực NCKH; đổi mới công tác hướng dẫn, bồi dưỡng GVT; phát triển phong trào thi
đua NCKH; cải thiện chế độ tiền lương, khen thưởng, phân bổ kinh phí.
Nét chung của những GV có tham gia NCKH là đều bị quá tải về thời lượng
giảng dạy, bởi thu nhập không cao, đó là nhận định của tác giả Hoàng Anh Thắng
(2010) trong bài viết "Khi GV thờ ơ với việc NCKH". [90]
Luận văn thạc sỹ Quản lý KH&CN của học viên Nguyễn Hoài Thanh
(2004), với đề tài "Phát triển hoạt động NCKH tại các trường Đại học Dân lập ở
Việt Nam" khẳng định hoạt động NCKH có vai trò to lớn đối với các trường đại
học; Cùng với đó là các chính sách KH&CN, cở sở vật chất, trang thiết bị phục
vụ đào tạo và NCKH còn nghèo nàn, thiếu sự quản lý của các cơ quan chức
năng, có ảnh hưởng lớn đến hoạt động NCKH trong các trường đại học. Từ đó,
luận văn đưa ra một số kiến nghị nhằm phát triển hoạt động NCKH trong các
trường đại học dân lập. [89]
Giá trị của những nghiên cứu trên là đề cập tới nhiều khía cạnh của thực
trạng NCKH tại các trường đại học hiện nay, cung cấp cho luận văn những tư liệu
tương đối phong phú về thực tiễn nhận thức, năng lực, khó khăn của GVT trong
NCKH và phần nào đặt ra những yêu cầu về những chính sách khuyến khích nhằm
thúc đẩy hoạt động NCKH của GVT tại các trường đại học và học viện.
Nghiên cứu trực tiếp về các chính sách khuyến khích hoạt động NCKH trong
các trường đại học và học viện có các công trình tiêu biểu như:
Bộ GD&ĐT (2008), Kỷ yếu Hội thảo "Đổi mới hoạt động KH&CN trong
các trường đại học, cao đẳng giai đoạn 2008 - 2020" với các tham luận xoay quanh
vấn đề đổi mới hoạt động KH&CN với các giải pháp đồng nhất cho các trường đại

học, cao đẳng. [10]

11
Hoàng Thị Nhị Hà (2009), luận án tiến sĩ Quản lý Giáo dục với đề tài "Quản
lý NCKH ở các trường đại học sư phạm" đã đưa ra các tiêu chí, công cụ đánh giá
công tác NCKH, quy trình quản lý NCKH của GV; xây dựng hệ thống tiêu chí,
chuẩn mực đánh giá chất lượng quản lý NCKH và năng lực thực hiện đề tài NCKH
của GV; đề xuất các giải pháp quản lý NCKH ở các trường đại học sư phạm. [41]
Các nhóm giải pháp về tài chính như: huy động nguồn vốn từ NSNN; huy
động nguồn vốn từ ngoài NSNN; huy động nguồn vốn từ quỹ tự có của đơn vị,
được tác giả Hồ Thị Hải Yến (2008) nêu ra trong luận án tiến sĩ: "Hoàn thiện cơ chế
tài chính đối với hoạt động KH&CN trong các trường đại học ở Việt Nam". [102]
5 tiêu chí (5T) về năng lực NCKH của cán bộ giảng dạy Đại học quốc gia Hà
Nội được hai tác giả Nguyễn Thị Kim Hoa, Đào Thanh Trường (2005) đề xuất trong
bài tham luận Tiêu chí về "Năng lực NCKH của cán bộ giảng dạy Đại học quốc gia
Hà Nội". Đó là: T1: Trình độ chuyên môn và năng lực tổ chức nghiên cứu; T2: Thời
gian; T3: Tiền; T4: Tình và T5: Tâm. [42]
Nguyễn Văn Quang (2008) với đề tài luận văn thạc sĩ Quản lý KH&CN:
"Xây dựng các tiêu chí đánh giá NCKH để thực hiện chức năng NCKH tại trường
Cao đẳng nghề Hải Dương", đã khẳng định sự cần thiết phải xây dựng các tiêu chí
đánh giá NCKH và đưa ra một hệ thống tiêu chí đánh giá NCKH tại trường cao
đẳng. [82] Cùng với quan điểm trên, tác giả Phan Đức Ngữ (2009), đề xuất một số
giải pháp đổi mới về cơ cấu, hình thức đầu tư và phương thức đánh giá trong
NCKH trong bài viết "Những vấn đề phải đối mặt trong NCKH". [79]
Một số giải pháp để kích thích, tạo động lực cho GV tham gia NCKH đã
được Lê Thị Tuyết Hạnh (2010) đưa ra trong bài viết trên Tạp chí Giáo dục "Một số
giải pháp cơ bản tạo động lực thúc đẩy GV đại học tham gia NCKH". [44, tr 6-8]
Và Trần Hồng Lưu (2010), với bài viết "Những giải pháp kích thích, tạo động lực
cho GV tích cực NCKH" trên Tạp chí Quản lý giáo dục, (số 250 kỳ 2) nêu ra . [76,
tr 6-8]

Tác giả Trịnh Ngọc Thạch (2004), "Biệ n phá p chính sá ch phá t triể n nhân lự c
nghiên cứ u khoa họ c trong cá c trườ ng đạ i họ c", trong Tọ a đà m khoa họ c quố c tế đã
phân tích vai trò của NCKH trong trường đại học trên một số khía cạnh và đề xuất

12
một số giải pháp về biện pháp chính sách phát triển nhân lực nghiên cứu trong
trường đại học như: quy hoạch xây dựng đội ngũ cán bộ khoa học; hạ thấp quy mô
đào tạo đại học, mở rộng quy mô đào tạo sau đại học; đổi mới cơ chế tổ chức và
chính sách liên kết giữa đào tạo sau đại học và NCKH. [88]
Nguyễn Đức Trí (2003), đề ra trong đề tài nghiên cứu cấp Bộ, mã số B2001-
52-04“Nghiên cứu các giải pháp đẩy mạnh hoạt động KH&CN của các trường
CĐ&THCN”, đã xác định những nguyên nhân tồn tại, khó khăn trong hoạt động
KH&CN, về nhận thức, nguồn lực tổ chức quản lý, cơ chế chính sách. [97]
Các nghiên cứu này phân tích sâu sắc hơn về các biện pháp, chính sách
nhằm thúc đẩy hoạt động NCKH tại các trường đại học và học viện theo các
nhóm về chính sách tài chính; chính sách quản lý; chính sách đào tạo, bồi
dưỡng nguồn nhân lực; chính sách về thông tin; chính sách về cơ sở vật chất -
kỹ thuật; các kết quả NCKH tại các trường đại học, học viện và những chính
sách thiết yếu để nâng cao hiệu quả NCKH cho đội ngũ GV cũng như đối với
đội ngũ GVT.
Tóm lại, tổng hợp các tài liệu trên cho thấy, vấn đề NCKH trong trường đại
học, cao đẳng đặc biệt là các chính sách khuyến khích hoạt động NCKH của GV
các trường đại học đã thu hút được sự quan tâm của các nhà nghiên cứu; đã có
nhiều cách lý giải và những giải pháp đề xuất nhằm thúc đẩy hoạt động NCKH tại
trường đại học, cao đẳng.
Tuy nhiên, tất cả các nghiên cứu trên đều chưa lấy vấn đề chính sách khuyến
khích GVT tham gia NCKH làm đề tài nghiên cứu trực tiếp.
3. Mục tiêu nghiên cứu
Đề xuất các nhóm giải pháp nhằm xây dựng và áp dụng các chính sách
khuyến khích GVT NCKH tại các trường đại học, học viện; từ đó nâng cao tinh

thần say mê nghiên cứu; chất lượng NCKH của GVT góp phần vào việc phục vụ
nhiệm vụ đào tạo của nhà trường.
Để thực hiện mục tiêu trên, đề tài cần thực hiện các nhiệm vụ sau:
- Tìm hiểu hệ thống lý thuyết về nghiên cứ u khoa họ c; vai trò củ a nghiên cứ u
khoa họ c trong trườ ng đại học, học viện và đối với GVT.

13
- Phân tích thực trạng hoạ t độ ng NCKH củ a GVT (qua khả o sá t và nghiên
cứ u trường hợp Học viện CT - HC KVI).
- Đưa ra đề xuất những chính sách để khuyến khích GVT tham gia NCKH.
4. Đối tƣợng và khách thể nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của luận văn là hoạt động NCKH củ a GVT tại Học
viện CT - HC KVI.
4.2. Khách thể nghiên cứu
- Luận văn nghiên cứu các chính sách đang được áp dụng đố i vớ i hoạt động
NCKH củ a GVT tạ i Họ c việ n CT - HC KVI.
5. Phạm vi nghiên cứu và mẫu khảo sát
5.1. Phạm vi nghiên cứu
- Luận văn nghiên cứu tại Học viện CT - HC KVI từ năm 2004 đến năm 2010.
5.2. Mẫu khảo sát
Khảo sát đối tượng GVT tại Học viện: Gửi 69 phiếu điều tra (bảng hỏi) đến
các GVT về việc đánh giá chất lượng NCKH của bản thân và công tác quản lý
NCKH của Học viện.
Khảo sát và phỏng vấn sâu 20 cán bộ quản lý NCKH, 10 nhà khoa học có
kinh nghiệm trong NCKH về nội dung NCKH, quản lý NCKH và việc đánh giá
hoạt động NCKH của các GVT tại Học viện.
6. Câu hỏi nghiên cứu
Tại sao đội ngũ GVT không say mê NCKH, cần có những chính sách gì để
khuyến khích họ tích cực NCKH hơn?

7. Giả thuyết nghiên cứu
Các chính sách khuyến khích phải bao hàm các nội dung tạo ra động lực để
thúc đẩy GVT tích cực NCKH, bao gồm các tác động về nhận thức, cơ chế, chính
sách quản lý khoa học, bộ máy quản lý khoa học, cơ sở vật chất phục vụ NCKH
8. Phƣơng pháp nghiên cứu:
Để thực hiện luận văn này tác giả ứng dụng các nhóm phương pháp nghiên
cứu sau đây:

14
- Lý thuyết hệ thống (xem xét toàn bộ hệ thống NCKH tại Học viện); Lý
thuyết phát triển.
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu: nghiên cứu, phân tích và tổng kết các tài
liệu liên quan đến đề tài nghiên cứu, gồm: (a) Cơ sở lý luận và thực tiễn đã đạt được
liên quan đến chủ đề nghiên cứu; (b) Kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học đã
công bố trên các ấn phẩm; (c) Chủ trương và chính sách liên quan đến nội dung
nghiên cứu bao gồm các văn bản pháp luật của Việt Nam; (d) Các tiêu chí khuyến
khích NCKH trong các trường đại học ở Việt Nam.
- Các phương pháp phi thực nghiệm, bao gồm:
Phương pháp phỏng vấn: Do điều kiện về thời gian, luận văn chỉ giới hạn
phỏng vấn các đối tượng là những người quản lý NCKH, các nhà khoa học có kinh
nghiệm trong NCKH và GVT là những người có tâm huyết, tìm được tiếng nói
chung trong NCKH vì mục tiêu phát triển nhiệm vụ đào tạo và NCKH tại Học viện.
Điều tra bằng phiếu (bảng hỏi): Phát bảng hỏi đến các nhà khoa học có kinh
nghiệm, các cán bộ quản lý, các GVT tại Học viện.
- Các phương pháp xử lý thông tin:
Đối với các thông tin định lượng: xử lý toán học các tập hợp số liệu
thu thập bằng phương pháp thống kê để xác định những nội dung chính các đề
tài NCKH tại Học viện, đồng thời đưa ra các chính sách khuyến khích NCKH
được đề xuất. Tác giả dùng chương trình SPSS (Statistic Package for Social
Study) để thống kê và xử lý số liệu điều tra.

Các thông tin định tính: xử lý logic, tức là đưa ra những ý kiến phân tích về
bản chất của các chính sách khuyến khích, đồng thời thể hiện những liên hệ logic
của các nội dung nghiên cứu, các đánh giá của từng nội dung cụ thể.
9. Luận cứ
9.1. Luận cứ lý thuyết
- Để thúc đẩy hiệu quả NCKH của đội ngũ GVT tại Học viện, trước hết cần
phải có các chính sách khuyến khích họ trong hoạt động NCKH.
- Các chính sách khuyến khích trong NCKH đối với GVT bao gồm: Hoàn
thiện cơ chế, chính sách quản lý khoa học công nghệ; hoàn thiện tổ chức, bộ máy

15
quản lý hoạt động khoa học công nghệ; cải tiến quy trình xây dựng kế hoạch, tiêu
chí đánh giá và quản lý hoạt động NCKH của GVT; đảm bảo các điều kiện cho hoạt
động NCKH của GVT; tăng cường công tác thi đua, khen thưởng đối với GVT
trong NCKH; nâng cao năng lực NCKH của đội ngũ GVT; bản thân đội ngũ GVT
phải xác định rõ trách nhiệm NCKH.
9.2. Luận cứ thực tế:
- Xuất phát từ nhu cầu NCKH, giải quyết những vấn đề bấp cập đang được
đặt ra trong hoạt động NCKH tại Học viện; đặc biệt là Học viện chưa có các quy
định về chính sách khuyến khích cụ thể đối với hoạt động NCKH của GVT.
- Từ mục tiêu nghiên cứu của từng nội dung đề tài nghiên cứu, luận văn đề
xuất xây dựng các giải pháp khuyến khích GVT NCKH và áp dụng các giải pháp
khuyến khích đó vào công tác quản lý hoạt động NCKH để tạo môi trường thuận lợi
cho GVT NCKH trong Học viện.
10. Kết cấu đề tài
Mở đầu, kết luận, khuyến nghị, phụ lục và tài liệu tham khảo, luận văn gồm
ba phần chính:
Phần I. Mở đầu: Luận văn trình bày lý do chọn đề tài, lịch sử nghiên cứu, ý
nghĩa lý luận và thực tiễn, mục tiêu, phạm vi, câu hỏi và giả thuyết nghiên cứu cũng
như các phương pháp nghiên cứu được áp dụng và giới thiệu cấu trúc của luận văn.

Phần II. Nội dung chính gồm 3 chương:
Chương 1. Cơ sở lý luận và thực tiễn của đề tài
Chương 2. Thực trạng hoạt động NCKH của GVT tại Học viện CT - HC KVI
Chương 3. Một số đề xuất về chính sách khuyến khích GVT tham gia NCKH
tại Học viện CT - HC KVI
Phần III. Kết luận và Khuyến nghị: Luận văn trình bày một số kết luận nghiên cứu,
các kiến nghị đối với các cơ quan quản lý khoa học cấp trên và tại Học viện CT - HC KVI.





16
Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI

1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Một số khái niệm công cụ
1.1.1.1. Chính sách và Chính sách KH&CN
Chính sách
Trên bình diện lý luận và thực tiễn có khá nhiều quan niệm và cách hiểu về
chính sách.
Theo Từ điển Tiếng Việt thì “Chính sách là sách lược, kế hoạch cụ thể nhằm
đạt được một mục tiêu nhất định dựa vào đường lối chính trị chung và tình hình
thực tế mà đề ra”[87, tr. 180].
Trong Understanding Public Pulicy, Thomas R. Dye (1984) đưa ra một định
nghĩa về chính sách công: ''Chính sách công là điều mà một chính phủ chọn để làm
hoặc không làm''. Bên cạnh đó, có rất nhiều khái niệm về chính sách được đưa ra
như theo B. Guy Peters (1990) thì ''Chính sách công là toàn bộ hoạt động của Nhà
nước có ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến cuộc sống của công dân''. [38, tr

16] Còn William Jenkin (1978) đưa ra định nghĩa chính sách công: Chính sách công
là tập hợp các quyết định có liên quan lẫn nhau của một nhà chính trị hay một nhóm
các nhà chính trị gắn liền với việc lựa chọn các mục tiêu và các giải pháp để đạt
được các mục tiêu đó. Theo James E. Anderson (2003), mục đích của chính sách là
để giải quyết những vấn đề thực tiễn trong quá trình chủ thể hoạt động thực hiện
mục tiêu: ''Chính sách là quá trình hành động có mục tiêu, mà một hoặc một số chủ
thể theo đuổi, để giải quyết những vấn đề mà họ quan tâm'' .[38, tr 16]
Khi nói đến một chính sách là nói đến những yếu tố sau đây:
- Chính sách là tập hợp những biện pháp mà chủ thể quyền lực hoặc chủ thể
quản lý đưa ra, được thể chế hoá thành những quy định có giá trị pháp lý, nhằm
thực hiện chiến lược phát triển của hệ thống theo mục đích mà chủ thể quyền lực
mong đợi.
Comment [PC1]: Phần này có thể xem xét để
lọc bỏ
Comment [PC2]: Xem xét lọc bỏ hoặc gộp
chung với phần nói về chính sách công

17
- Chính sách bao giờ cũng tạo ra một sự phân biệt đối xử của chủ thể quyền
lực hoặc chủ thể quản lý đối với các nhóm xã hội khác nhau. Trong sự phân biệt
đối xử đó, chủ thể quyền lực có sự ưu đãi đối với một (hoặc một số) nhóm xã hội
nào đó.
- Các biện pháp ưu đãi phải có tác dụng kích thích động cơ hoạt động của
nhóm được ưu đãi, là nhóm có vai trò then chốt trong việc thực hiện các mục tiêu
phát triển hệ thống, nhằm thực hiện mục tiêu phát triển của hệ thống theo chiến lược
mà nhóm chủ thể quyền lực hoặc chủ thể quản lý đưa ra.
- Và như vậy, chính sách luôn tạo ra một bất bình đẳng xã hội, rất có thể,
đồng thời khắc phục một bất bình đẳng xã hội đang tồn tại, rất có thể khoét sâu thêm
những bất bình đẳng vốn có, nhưng cuối cùng phải nhằm mục đích tối thượng, là thoả
mãn những nhu cầu cơ bản của mục tiêu phát triển xã hội.

- Toàn bộ những biện pháp đó phải đạt đến một kết quả là tạo ra một đòn ứng
phó với một tình huống của cuộc chơi, có khi là rất bất lợi cho chủ thể quyền lực
hoặc chủ thể quản lý.
Trong các bài giảng về khoa học quản lý và phân tích chính sách, tác giả Vũ
Cao Đàm đã đưa ra định nghĩa:
''Chính sách là một tập hợp biện pháp được thể chế hoá, mà một chủ thể
quyền lực, hoặc chủ thể quản lý đưa ra, trong đó tạo sự ưu đãi một nhóm xã hội,
kích thích vào động cơ hoạt động của nhóm này, định hướng hoạt động của họ
nhằm thực hiện một mục tiêu ưu tiên nào đó trong chiến lược phát triển của một hệ
thống xã hội'' [38, tr. 25].
''Hệ thống xã hội'' ở đây được hiểu theo một ý nghĩa khái quát. Đó có thể
là một quốc gia, một khu vực hành chính, một doanh nghiệp, một nhà trường,
v.v
Tôi lấy quan điểm đó làm cơ sở lý luận cho luận văn này.
Chính sách KH&CN
Xuất phát từ quan điểm về chính sách, các nhà nghiên cứu, hoạch định chính
sách, quản lý đã đưa ra một số quan điểm về chính sách KH&CN.

18
Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam: "Chính sách KH&CN là chính sách, đường
lối nghiên cứu KH&CN, kế thừa có chọn lọc các thành tựu KH&CN của thế giới để
một mặt đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia, mặt khác chỉ ra
phương hướng, nhiệm vụ và biện pháp tăng cường tiềm lực KH&CN của quốc gia
nhằm chuẩn bị tiền đề cho việc chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế quốc dân phù hợp với
yêu cầu phát triển của thời đại" [86, tr. 477].
Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hợp quốc (UNESCO) đưa
ra khái niệm: Chính sách KH&CN là tập hợp các biện pháp lập pháp và hành pháp
được thực thi nhằm nâng cao, tổ chức và sử dụng tiềm lực KH&CN quốc gia với
mục tiêu phát triển quốc gia và nâng cao vị thế quốc gia trên thế giới.
Theo quan điểm của tác giả: chính sách KH&CN là một tập hợp biện pháp

được thể chế hoá mà các chủ thể quản lý đưa ra, trong đó tạo sự ưu đãi, kích thích,
định hướng hoạt động KH&CN nhằm thực hiện một mục tiêu ưu tiên nào đó trong
chiến lược phát triển KH&CN .
1.1.1.2. Chính sách khuyến khích trong NCKH
Khoa học
Có nhiều cách tiếp cận về khái niệm khoa học khác nhau, nhưng khoa học
thường được phân tích với những đặc điểm cơ bản như: khoa học là một hệ thống
tri thức; khoa học là một hoạt động xã hội; khoa học là một hình thái ý thức xã hội;
khoa học là một thiết chế xã hội
Theo tác giả luận văn, khoa học là tập hợp những tri thức đã được nghiên
cứu, tích lũy, hệ thống hóa về quy luật tự nhiên, xã hội và tư duy; là tập hợp các
phương pháp, phương tiện và lực lượng được ứng dụng vào các quy trình nghiên
cứu nhằm đạt được những kết quả thực tiễn.
Nghiên cứu khoa học
Theo các quan điểm về NCKH, có thể đưa ra một số đặc điểm của NCKH như sau:
- NCKH là một dạng hoạt động đặc biệt, là hoạt động nhận thức thế giới có
tổ chức, có khoa học do các nhà khoa học thực hiện.
- Đối tượng của NCKH là một sự kiện, hiện tượng thế giới khách quan mà
loài người chưa đủ kiến thức để giải thích.

19
- Mục đích của NCKH là phát hiện ra bản chất và các quy luật vận động của
thế giới vận dụng vào việc cải tạo thế giới, phục vụ cho cuộc sống của con người.
- Sản phẩm của NCKH là hệ thống tri thức mới, hệ thống chân lý khách
quan, đã được kiểm nghiệm bằng các phương pháp khác nhau.
- NCKH là hoạt động được tiến hành bằng một hệ thống các giải pháp,
phương pháp, thủ thuật, với nhiều phương tiện kỹ thuật hỗ trợ.
Luận văn quan niệm NCKH là một dạng hoạt động đặc biệt, có tổ chức, có
mục tiêu của các nhà khoa học được tiến hành bằng một hệ thống các phương pháp,
phương tiện kỹ thuật hiện đại nhằm phát hiện ra bản chất, quy luật thế giới, sáng tạo

ra hệ thống tri thức mới, hệ thống chân lý khách quan được ứng dụng vào cải tạo
thế giới, phục vụ đời sống kinh tế - xã hội của con người.
Chính sách khuyến khích
Theo Đại Từ điển Tiếng Việt, khuyến kích: "(1) Khích lệ tinh thần cho phấn
khởi, tin tưởng mà cố gắng hơn; (2) Tạo điều kiện tốt để phát triển công việc gì"
[101, tr. 928].
Khái niệm chính sách khuyến khích còn có thể tiếp cận dưới dạng khái niệm
về động cơ, động lực thúc đẩy.
Động cơ thúc đẩy là thuật ngữ chung áp dụng cho toàn bộ nhóm các xu
hướng, ước mơ, nhu cầu, nguyện vọng và những thôi thúc tương tự.
Các động lực là những yếu tố thúc đẩy con người thực hiện công việc. Các
động lực cũng là những phương tiện mà nhờ chúng các nhu cầu mâu thuẫn nhau có
thể được điều hòa hoặc một nhu cầu được đề cao hơn để sao cho chúng sẽ được ưu
tiên hơn các nhu cầu khác.
Chuỗi mắt xích nhu cầu - mong muốn - thỏa mãn được mô tả như sau:







Những
nhu cầu

Những
mong muốn
Những
trạng thái
căng thẳng


Những
hành động

Sự
thỏa mãn
Sơ đồ 1.1: Chuỗi mắt xích nhu cầu - mong muốn - thỏa mãn

20
Động cơ thúc đẩy và sự thỏa mãn là khác nhau. Động cơ thúc đẩy để đi tới
một kết quả, còn sự thỏa mãn là một kết quả đã đạt được sự thực hiện (được thể
hiện qua sơ đồ).










Động cơ thúc đẩy không phải là một khái niệm đơn giản, nó gắn liền với
những xu hướng, nguyện vọng, nhu cầu, mong ước và những lực lượng khác. Các
nhà quản lý thúc đẩy bằng cách tạo ra môi trường để khuyến khích cấp dưới đóng
góp cho tổ chức.
Tác giả luận văn cho rằng chính sách khuyến khích trong NCKH là tập hợp
những biện pháp mà chủ thể quản lý đưa ra đã được thể chế hóa thành những quy
định có giá trị pháp lý để kích thích, tạo động cơ, động lực thúc đẩy hoạt động
NCKH.

1.1.1.3. Giảng viên và Giảng viên trẻ
Giảng viên
Theo Chương IV, Luật Giáo dục (có sửa đổi, bổ sung năm 2009), Nhà giáo
là người làm nhiệm vụ giảng dạy, giáo dục trong nhà trường, cơ sở giáo dục khác
(Khoản 1, Điều 70) [72]. Nhà giáo giảng dạy ở cơ sở giáo dục mầm non; giáo dục
phổ thông; giáo dục nghề nghiệp trình độ sơ cấp nghề, trung cấp nghề, trung cấp
chuyên nghiệp gọi là giáo viên. Nhà giáo giảng dạy ở cơ sở giáo dục đại học, trường
cao đẳng nghề gọi là GV (Khoản 3, Điều 70). [72].

Động cơ thức đẩy

Các kết quả

Sự thỏa mãn
Sơ đồ 1.2: Động cơ thúc đẩy dẫn đến sự thỏa mãn

21
Hiện nay ở các trường đại học lớn trên các quốc gia phát triển, GV đại học
được định nghĩa trong ba chức năng chính: "(1) Nhà giáo, (2) Nhà khoa học, (3)
Nhà cung ứng dịch vụ cộng đồng"[27].
Giảng viên - nhà giáo: đây là vị trí truyền thống, nhưng quan trọng và tiên
quyết đối với một GV. Có kiến thức chuyên ngành mà mình giảng dạy và phải là
một người "Thầy" giỏi. Theo các nhà giáo dục thế giới thì một GV toàn diện là
người được trang bị 4 nhóm kiến thức: Kiến thức chuyên ngành; Kiến thức về
chương trình đào tạo; Kiến thức và kỹ năng về dạy và học và Kiến thức về môi
trường giáo dục, hệ thống giáo dục, mục tiêu giáo dục, giá trị giáo dục,
Giảng viên - nhà khoa học: ở vị trí này, GV thực hiện vai trò là nhà khoa
học với chức năng giải thích và dự báo các vấn đề tự nhiên và xã hội mà loài
người và khoa học chưa có lời giải. NCKH, cách ứng dụng các kết quả NCKH về
thực tiễn đời sống và công bố các kết quả nghiên cứu cho cộng đồng (cộng đồng

khoa học, xã hội nói chung, trong nước và quốc tế) là ba chức năng chính của
một nhà khoa học.
Giảng viên - Nhà cung ứng dịch vụ cho xã hội: nó có vị trí mà xã hội đánh
giá cao và kỳ vọng ở các GV. Ở vị trí này, GV cung ứng các dịch vụ của mình cho
nhà trường, cho sinh viên, cho các tổ chức xã hội - đoàn thể, cho cộng đồng và cho
xã hội nói chung.
Luận văn quan niệm rằng: "Giảng viên là nhà giáo giảng dạy ở các cơ sở
giáo dục đại học, học viện và trường cao đẳng nghề, thực hiện hai chức năng chính
là giảng dạy và NCKH".
Giảng viên trẻ
Bàn về quan niệm "trẻ" cũng có rất nhiều ý kiến khác nhau. Nếu xét theo
khía cạnh GVT là những người đang ở độ tuổi thanh niên thì tại Điều 1 Luật Thanh
niên được Quốc hội khóa XI ban hành Luật số 53/2005/QH11 ngày 29/11/2005:
"Thanh niên là công dân Việt Nam từ đủ 16 tuổi đến 30 tuổi"[75, tr.7]. Còn một số
quan niệm khác lại chia "thanh niên" thành ba tiểu nhóm ở các độ tuổi 14 - 17, 18 -
21, 22 - 25 (ở đây giới hạn cho tuổi "vị thành niên và thanh niên" được tính từ 14 -
25) [19]. Trong khi đó một số nhà nghiên cứu khác lại chia "thanh niên" thành các

22
tiểu nhóm theo các độ tuổi từ 15 - 19, 20 - 24, 25 - 29 [83]. Tác giả Đặng Cảnh
Khanh chia "dân số thanh niên" thành hai nhóm lớn theo các độ tuổi, 15 - 24, 25 -
34 (ở đây giới hạn độ tuổi thanh niên được tính từ 15 - 34) [70, tr.79]. Nhưng nếu
nghiên cứu khái niệm GVT theo góc độ tuổi nghề và tuổi đời thì PGS, TS Nguyễn
Bính đã xem xét cả khía cạnh tuổi nghề, tuổi đời, kinh nghiệm giảng dạy và NCKH
một cách tương đối, có thể cho rằng dưới 5 năm là con số thích hợp hơn cả để coi
một GV là GVT. [3]
Theo quan điểm của luận văn: "GVT là nhà giáo giảng dạy ở các cơ sở giáo
dục đại học, học viện và trường cao đẳng nghề, thực hiện hai chức năng chính là
giảng dạy và NCKH, có độ tuổi dưới 35".
1.1.2. Vai trò của hoạt động khoa học trong trường đại học và học viện

1.1.2.1. Quan điểm của Đảng và Nhà nước Việt Nam về hoạt động NCKH
trong trường đại học và học viện
Nhận thức rõ tầm quan trọng của công tác NCKH trong các trường đại học,
học viện, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương, chính sách nhằm đẩy mạnh
NCKH trong trường đại học và học viện.
Nghị quyết 37/TW ngày 20/4/1981 của Bộ Chính trị về Chính sách KH&KT
khẳng định: ''Mỗi trường đại học phải là một cơ sở giảng dạy, đồng thời là một cơ
sở NCKH. Phát triển rộng rãi công tác NCKH và kỹ thuật trong các trường đại học
nhằm phát huy thế mạnh của đông đảo đội ngũ cán bộ khoa học và tính đồng bộ, đa
dạng trong cơ cấu ngành chuyên môn Hoạt động NCKH của các trường đại học
phải nhằm giải quyết các vấn đề KH&KT bức thiết nhất của nền kinh tế quốc dân,
trước hết là những nhiệm vụ của các chương trình tiến bộ KH&KT và chương trình
NCKH trọng điểm của nhà nước, đồng thời coi trọng việc nghiên cứu phát triển lý
luận của các ngành khoa học, phát triển khoa học giáo dục đại học, cải tiến nội
dung, chương trình đào tạo" [30].
Năm 1991, Bộ Chính trị ra Nghị quyết 26/TW ngày 30/3/1991 tiếp tục khẳng
định: ''Các trường đại học vừa là cơ sở đào tạo, vừa là cơ sở nghiên cứu và ứng
dụng KH&CN chuyển một số nhiệm vụ nghiên cứu lý thuyết về các trường đại học

23
với hình thức thích hợp để tận dụng khả năng đội ngũ cán bộ giảng dạy và cơ sở vật
chất - kỹ thuật của những trường có điều kiện.'' [31].
Trong Điều 59 của Luật Giáo dục (2005) quy định trường đại học có nhiệm
vụ NCKH; ứng dụng, phát triển và CGCN; tham gia giải quyết những vấn đề về
kinh tế - xã hội của địa phương và đất nước; Thực hiện dịch vụ khoa học, sản xuất
kinh doanh theo quy định của pháp luật [72].
Chiến lược phát triển Giáo dục 2001 - 2010 cũng nêu rõ: Xây dựng các viện,
trung tâm, bộ môn NCKH, công nghệ mạnh ở các trường đại học; đưa một số viện
NCKH, trước hết và các viện NCKH cơ bản vào các trường đại học; chủ động tìm
ra các hình thức, cơ chế kết hợp hữu cơ giữa đào tạo, nghiên cứu và ứng dụng thực

tiễn gắn kết đào tạo với nghiên cứu làm cho đào tạo và nghiên cứu thích ứng với
cơ chế thị trường, trực tiếp góp phần làm tăng sức cạnh tranh của hàng hóa Việt
Nam [5].
Chiến lược phát triển KH&CN 2001 - 2010 chỉ rõ: Phát triển nguồn nhân lực
khoa học có chất lượng cao, có cơ cấu trình độ chuyên môn phù hợp với các hướng
KH&CN ưu tiên; hình thành một số tổ chức NC&TK và một số trường đại học đạt
trình độ trung bình, tiên tiến trong khu vực ở một số lĩnh vực công nghệ trọng điểm,
một số ngành công nghệ có thế mạnh ở Việt Nam; tăng cường chức năng nghiên
cứu trong các trường đại học: quy định nhiệm vụ nghiên cứu đối với cán bộ giảng
dạy đại học; tăng cường đầu tư cho hoạt động nghiên cứu trong các trường đại học;
thực hiện liên kết giữa các tổ chức NC&TK với các trường đại học: quy định nhiệm
vụ giảng dạy đối với các cán bộ nghiên cứu thuộc các tổ chức NC&TK; xây dựng
quy chế dùng chung phòng thí nghiệm và thiết bị phục vụ nghiên cứu và giảng dạy;
thành lập các loại hình tổ chức liên kết giữa đào tạo và nghiên cứu như học viện và
các hình thức hợp tác khác; nghiên cứu chuyển một số viện nghiên cứu cơ bản
thuộc hai Trung tâm khoa học quốc gia về các trường đại học [99, tr. 52 - 69].
Ngày 15/6/2005, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ra Quyết định số 19/2005/QĐ-
BGD&ĐT quy định về hoạt động KH&CN trong các trường đại học, cao đẳng trực
thuộc Bộ có quy định tại Điều 28 đối với nhiệm vụ NCKH của GV như sau:

24
"NCKH là nhiệm vụ bắt buộc của GV. GV có trách nhiệm dành ít nhất là
30% định mức thời gian làm việc cho hoạt động NCKH. Giáo sư, phó giáo sư, tiến
sĩ phải đi đầu trong công tác NCKH, có trách nhiệm định hướng nghiên cứu, tổ
chức tập hợp GV, nghiên cứu sinh cùng tham gia NCKH để xây dựng các tập thể
khoa học.
Hoạt động NCKH của GV được thực hiện thông qua việc chủ trì hoặc
tham gia thực hiện chương trình, đề tài NCKH - phát triển công nghệ, dự án sản
xuất thử nghiệm các cấp; thực hiện các hợp đồng KH&CN; nghiên cứu để phục
vụ viết giáo trình, sách tham khảo, sách chuyên khảo và công bố các kết quả

nghiên cứu trên tạp chí khoa học, báo cáo tại các hội thảo khoa học, hướng dẫn
sinh viên NCKH
Giảng viên, cán bộ khoa học và cán bộ quản lý của trường đại học được
quyền ký hợp đồng KH&CN với các tổ chức, cơ quan, cá nhân trong và ngoài
trường theo quy định của Bộ Luật Lao động và các quy định khác của pháp luật;
tham gia các hội nghị, hội thảo trong và ngoài nước theo quy định" [6].
Cũng theo Quyết định số 64/2008/QÐ-BGDÐT ngày 28/11/2008 của Bộ
Giáo dục và Ðào tạo "về chế độ làm việc đối với GV" ở Chương 2, Điều 5 có quy
định nhiệm vụ NCKH và CGCN của GV như sau:
Chủ trì hoặc tham gia tổ chức, chỉ đạo, thực hiện các chương trình, đề án, dự
án, đề tài NCKH, hội nghị, hội thảo khoa học và phát triển công nghệ; NCKH và
công nghệ để phục vụ xây dựng chương trình đào tạo, bồi dưỡng, biên soạn giáo
trình, sách chuyên khảo, tài liệu tham khảo, đổi mới phương pháp giảng dạy và
kiểm tra, đánh giá môn học; công bố kết quả nghiên cứu trên các tạp chí khoa học
trong và ngoài nước theo quy định của pháp luật; hướng dẫn người học NCKH;
thực hiện các hợp đồng NCKH, chuyển giao kỹ thuật và công nghệ phục vụ phát
triển kinh tế, xã hội; tổ chức và tham gia các hoạt động hợp tác quốc tế, các cuộc thi
sáng tạo và các hoạt động về NCKH và công nghệ; thâm nhập thực tiễn, phổ biến
kiến thức khoa học phục vụ đời sống.
Trong Điều 6 của Quyết định cũng xác định rõ nhiệm vụ của GV tham gia
quản lý hoạt động KH&CN bao gồm:

25
Tham gia xây dựng, triển khai và giám sát việc thực hiện kế hoạch giảng
dạy, học tập, NCKH và công nghệ. Đánh giá kết quả học tập, NCKH và chất
lượng chính trị tư tưởng của người học; tham gia quá trình đánh giá và kiểm định
chất lượng chương trình đào tạo; cải tiến và đề xuất những biện pháp nâng cao
chất lượng đào tạo, bồi dưỡng của cơ sở giáo dục đại học. Tham gia các công tác
quản lý KH&CN, công tác quản lý đào tạo khác khi được cấp có thẩm quyền
giao [9].

Tại Chương 3 của Quyết định này quy định về định mức thời gian làm
việc và giờ chuẩn giảng dạy của GV đối với hoạt động NCKH như: GV là 500
giờ, phó giáo sư và GV chính 600 giờ, giáo sư và GV cao cấp 700 giờ mỗi năm
học.
1.1.2.2. NCKH - giải pháp nâng cao năng lực và chất lượng đào tạo của
trường đại học và học viện
NCKH là một trong hai trụ cột bảo đảm cho sự phát triển bền vững của
trường đại học và học viện. Vai trò của NCKH có ý nghĩa rất quan trọng: 1)
Nâng cao vị thế của trường đại học và học viện. Chỉ có thông qua NCKH với
những kết quả khoa học có giá trị thì uy tín của trường đại học và học viện mới
được đảm bảo, trên cơ sở đó mới thu hút được GV và học viên giỏi, có tài năng;
2) NCKH là nhân tố quyết định nâng cao chất lượng đào tạo. Trong giảng dạy
mà không có NCKH thì sẽ không đáp ứng được yêu cầu đào tạo; 3) NCKH sẽ
làm tăng thêm nguồn lực tài chính và cơ sở vật chất cho nhà trường, giảm bớt
sức ép về quy mô đào tạo, giảm giờ lên lớp, từ đó giúp GV dành nhiều thời gian
cho NCKH; 4) NCKH là nhân tố quan trọng đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế về
giáo dục đại học.
NCKH được coi là một nhiệm vụ đặc trưng của các trường đại học và học
viện, nó song hành cùng với nhiệm vụ đào tạo, là yếu tố quyết định chất lượng và
uy tín đào tạo của các trường. Hoạt động NCKH giúp cho các trường có một nền
kiến thức cơ bản rộng, tạo điều kiện cho các trường tiến hành các hoạt động đào tạo
thường xuyên, đào tạo lại hoặc đào tạo nâng cao, đây là điều kiện vô cùng thiết yếu

×