Tải bản đầy đủ (.pdf) (69 trang)

Hoạt động sinh kế chính của hộ gia đình tại một số làng nghề tái chế ở Bắc Ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.06 MB, 69 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC VIỆN XÃ HỘI HỌC
XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN




TRƯƠNG THÚY HẰNG






HOẠT ĐỘNG SINH KẾ CHÍNH CỦA
HỘ GIA ĐÌNH TẠI MỘT SỐ LÀNG NGHỀ
TÁI CHẾ Ở BẮC NINH



LUẬN VĂN THẠC SĨ XÃ HỘI HỌC
















HÀ NỘI - 2009






1

MỤC LỤC
1. Lý do chọn đề tài 3
2. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn 5
2.1. Ý nghĩa lý luận 5
2.2. Ý nghĩa thực tiễn 5
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 5
3.1. Mục đích nghiên cứu 5
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu 6
4. Đối tượng, khách thể và phạm vi nghiên cứu 6
4.1. Đối tượng nghiên cứu 6
4.2. Khách thể nghiên cứu 6
4.3. Phạm vi nghiên cứu 6
5. Phương pháp nghiên cứu 7
5.1. Phương pháp định tính 7
5.2.1. Tài liệu thứ cấp 7

5.2.2. Phỏng vấn sâu 7
5.2. Phương pháp định lượng 8
6. Giả thuyết nghiên cứu 8
7. Kết cấu của luận văn 8
PHẦN NỘI DUNG 9
Chương 1. Cơ sở lý luận và thực tiễn 9
1. Tổng quan về vấn đề nghiên cứu 9
2. Cơ sở Lý luận 12
3. Một số lý thuyết xã hội học được sử dụng trong nghiên cứu 15
3.1. Lý thuyết lựa chọn hợp lý 15
3.2. Lý thuyết xã hội hoá 16
3.3. Lý thuyết phát triển nông thôn bền vững 17
4. Các khái niệm làm việc 18
4.1. Sinh kế 18
4.2. Sinh kế hộ gia đình 19

2

4.3. Chiến lược sinh kế hộ gia đình 19
4.4. Làng nghề 20
4.5. Làng nghề tái chế 20
5. Vài nét về địa bàn nghiên cứu 20
5.1. Vài nét về tỉnh Bắc Ninh 20
5.2. Vài nét về 3 điểm nghiên cứu 21
Chương 2. Hoạt động sinh kế chính của hộ gia đình: thực trạng và những yếu tố tác động
22
1. Hoạt động sinh kế chính của hộ gia đình làng nghề tái chế 22
1.1 Tình hình phát triển sản xuất tại các Làng nghề tái chế 23
1.2. Hoạt động sinh kế chính và chiến lược phát triển 30
1.2.1. Chiến lược sinh kế hướng vào thị trường 30

1.2.2. Chiến lược sinh kế hướng vào phát triển kinh tế, tăng thu nhập 31
2. Những yếu tố tác động đến hoạt động sinh kế hộ gia đình 33
2.1. Lịch sử phát triển làng nghề 33
2.2. Lợi nhuận từ thu nhập của làng nghề; Nguồn vốn xã hội 37
2.3. Nguồn nguyên liệu tái chế 40
2.4. Công nghệ thấp, giá rẻ; Nguồn nhân lực tại chỗ, giá nhân công rẻ 41
2.5. Biến động kinh tế và thị trường tiêu thụ; Triển vọng phát triển thị trường của làng nghề
45
3. Ảnh hưởng của hoạt động sinh kế hộ gia đình làng nghề đến môi trường sống của
người dân nơi đây. 52
3.1. Tình hình môi trường 3 làng nghề tái chế ở Bắc Ninh 53
3.2. Ứng xử với môi trường ở làng nghề tái chế 58
3.3. Bảo tồn nghề truyền thống, văn hóa phi vật thể 60
KẾT LUẬN VÀ BÀN LUẬN 62
1. Kết luận 62
2. Bàn luận 63
DANH MỤC TÀI LIỆU TRÍCH DẪN 66
PHỤ LỤC 69



3

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Cùng với sự phát triển của nền văn minh nông nghiệp từ hàng ngàn năm
trước đây, nhiều nghề thủ công cũng đã ra đời tại các vùng nông thôn Việt Nam,
việc hình thành các làng nghề bắt đầu từ những nghề ban đầu được cư dân tranh
thủ làm lúc nông nhàn, những lúc không phải là mùa vụ chính.

Theo thời gian, nhiều nghề phụ ban đầu đã thể hiện vai trò to lớn của nó,
mang lại lợi ích thiết thực cho cư dân. Như việc làm ra các đồ dùng bằng mây,
tre, lụa phục vụ sinh hoạt hay đồ sắt, đồ đồng phục vụ sản xuất. Nghề phụ từ
chỗ chỉ phục vụ nhu cầu riêng đã trở thành hàng hóa để trao đổi, đã mang lại lợi
ích kinh tế to lớn cho người dân vốn trước đây chỉ trông chờ vào các vụ lúa. Từ
chỗ một vài nhà trong làng làm, đến nay nhiều gia đình khác cũng học làm theo,
nghề từ đó mà lan rộng ra phát triển trong cả làng, hay nhiều làng gần nhau. Các
làng nghề tái chế ở Bắc Ninh cũng xuất phát từ những đặc điểm như vậy.
Có thể nói làng nghề là mô hình chủ yếu của công nghiệp nông thôn. Sự
phát triển các ngành nghề sẽ tạo ra bước chuyển dịch đáng kể trong cơ cấu lao
động, cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn.
Bắc Ninh là một tỉnh thuộc vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, có nhiều làng
nghề thủ công truyền thống và phát triển. Bắc Ninh được ví là “vùng đất trăm
nghề”. Bằng việc triển khai nhiều chính sách ưu đãi, Bắc Ninh đã khôi phục và
phát triển được 62 làng nghề, góp phần giải quyết việc làm cho trên 72.000 lao
động thường xuyên và trên 10.000 lao động thời vụ.
Các làng nghề ở Bắc Ninh sản xuất & kinh doanh hàng trăm mặt hàng,
cung cấp cho nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu, doanh thu trung bình
trên 1.200 tỷ đồng/năm. Trong đó, chỉ tính riêng hai làng nghề Đa Hội, Trịnh Xá
ở xã Châu Khê (Từ Sơn) chuyên tái chế sắt thép phế thải với sản lượng hàng
năm trên 75.000 tấn, đạt giá trị sản xuất trên 500 tỷ đồng, thu hút trên 6.000 lao

4

động tại chỗ và hàng ngàn lao động từ các địa phương khác. Làng nghề sản xuất
giấy ở xã Phong Khê, huyện Yên Phong, có tới 150 dây chuyền sản xuất giấy,
mỗi năm đạt giá trị sản lượng trên 400 tỷ đồng.

(Làng nghề Bắc Ninh tạo việc
làm cho hơn 80.000 lao động. www.kinhtenongthon.com.vn)

Làng nghề có đóng góp to lớn cho sự phát triển kinh tế tại Bắc Ninh và
các địa phương. và đồng thời phát triển làng nghề cũng tạo ra không ít thách thức
cho sự phát triển bền vững, trong đó có vấn đề về môi trường. Quan điểm của
Nhà nước Việt Nam là: “Chiến lược bảo vệ môi trường là bộ phận không thể
tách rời của Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, là cơ sở quan trọng bảo đảm
phát triển bền vững đất nước. Phát triển kinh tế phải kết hợp chặt chẽ, hài hòa
với phát triển xã hội và bảo vệ môi trường. Đầu tư bảo vệ môi trường là đầu tư
cho phát triển bền vững”. (Chính phủ số256/2003/QĐ – TTg. Quyết định của thủ
tướng chính phủ về việc phê duyệt chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia đến
năm 2010 và định hướng đến năm 2020)
Hoạt động kinh tế của những làng nghề tái chế ở Bắc Ninh đang phát triển
như thế nào? Nghiên cứu này tôi muốn tìm hiểu xem người dân có những định
hướng gì trong việc phát triển kinh tế, phát triển làng nghề? Những chiến lược
sinh kế của họ đem lại những lợi ích gì cho gia đình, cho làng nghề? Cùng với
việc tạo thêm nguồn sinh kế, giúp phát triển kinh tế, nghề tái chế tại nơi đây đã
đem lại những tác động tiêu cực gì? Biện pháp nào để khắc phục những hạn chế
của nó?
Nghiên cứu “Hoạt động sinh kế chính của hộ gia đình tại một số làng
nghề tái chế ở Bắc Ninh” nhằm góp phần giải đáp được những câu hỏi trên.
Đồng thời việc nghiên cứu hoạt động sinh kế hộ gia đình làng nghề tái chế có thể
góp phần vào việc nghiên cứu phát triển làng nghề nông thôn Bắc Ninh nói riêng
và Việt Nam nói chung trong giai đoạn hiện nay.

5

2. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
2.1. Ý nghĩa lý luận
Luận văn góp phần bổ sung cho những nghiên cứu xã hội học kinh tế về
sinh kế làng nghề ở Việt Nam hiện nay. Thông qua nghiên cứu này tại một số
làng nghề ở Bắc Ninh, luận văn cũng cung cấp thêm những thông tin cho nghiên

cứu về sinh kế hộ gia đình làng nghề. Ngoài ra, việc vận dụng các lý thuyết trong
luận văn cũng góp phần tìm hiểu khả năng áp dụng các lý thuyết xã hội học vào
thực tiễn Việt Nam.
2.2. Ý nghĩa thực tiễn
Trong khi các nghiên cứu riêng về sinh kế hộ gia đình làng nghề còn chưa
thu hút nhiều sự quan tâm của giới nghiên cứu trong nước thì việc đề cập đến
vấn đề này trong luận văn có giá trị thực tiễn nhất định. Nó cung cấp một cơ sở
thực nghiệm cho việc nghiên cứu sinh kế hộ gia đình làng nghề ở Việt Nam. Đặc
biệt khi đi sâu vào tìm hiểu họat động sinh kế hộ gia đình làng nghề tại một tỉnh
cho phép chúng ta có một hình dung về hoạt động sinh kế ở một số làng nghề với
những đặc thù riêng, khác với những làng nghề khác trên cả nước. Trong chừng
mực nhất định, những thông tin từ luận văn góp phần vào việc đánh giá chương
trình “Mỗi làng một nghề” của Bộ NN&PTNT, cũng như góp phần xây dựng các
kế hoạch hành động cho việc thực hiện Nghị định tam nông của chính phủ.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu này tập trung vào những mục đích sau:
- Nghiên cứu hoạt động sinh kế chính, những chiến lược sinh kế của các
hộ gia đình tại ba làng nghề tái chế của tỉnh Bắc Ninh (Đa Hội thuộc xã Châu
Khê; Mẫn Xá thuộc xã Văn Môn, và Dương Ổ thuộc xã Phong Khê).
- Nghiên cứu các yếu tố (nguồn lực con người, nguồn tài nguyên, nguồn
vốn tài chính, vốn văn hóa, xã hội, thể chế.v.v.) tác động đến hoạt động sinh kế

6

chính, sự lựa chọn chiến lược sinh kế của các hộ gia đình làng nghề tái chế ở Bắc
Ninh.
- Nghiên cứu những ảnh hưởng của hoạt động sinh kế hộ gia đình đến môi
trường sống và bảo tồn văn hóa phi vật thể của người dân làng nghề tái chế ở
Bắc Ninh.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Đề tài nhằm thực hiện những nhiệm vụ dưới dây:
1) Làm rõ thực trạng các hoạt động sinh kế của các hộ gia đình ở 3 làng
nghề tái chế.
2) Chỉ ra những hoạt động sinh kế chính và các yếu tố tác động đến các
hoạt động sinh kế chính.
3) Phân tích chiến lược sinh kế của các hộ gia đình ở 3 làng nghề tái chế.
4) Phân tích sự ảnh hưởng của các hoạt động sinh kế chính tới môi trường
tự nhiên ở đây và việc bảo tồn nghề truyền thống như một giá trị văn
hóa phi vật thể.
4. Đối tượng, khách thể và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Hoạt động sinh kế của hộ gia đình tại một số làng nghề tái chế ở Bắc Ninh
4.2. Khách thể nghiên cứu
Vợ hoặc chồng (người quyết định về kinh tế hộ) độ tuổi từ 20-60 tại 3 làng
nghề: Mẫn Xá (xã Văn Môn), Đa Hội (xã Châu Khê), Dương Ổ (xã Phong Khê)
thuộc tỉnh Bắc Ninh.
4.3. Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu được thực hiện tại 3 làng nghề tái chế: Mẫn Xá (xã Văn Môn,
huyện Yên Phong), Đa Hội (xã Châu Khê, huyện Từ Sơn), Dương Ổ (xã Phong
Khê, TP Bắc Ninh) thuộc tỉnh Bắc Ninh.

7

5. Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu này được phân tích dựa trên nguồn số liệu định lượng & định
tính có sẵn trong cuộc khảo sát: Nghiên cứu về làng nghề tái chế của Viện
Nghiên cứu các nền kinh tế đang phát triển JETRO của Nhật, năm 2007-2008.

5.1. Phương pháp định tính

Đây là phương pháp chính được sử dụng trong luận văn. Số liệu định tính
trong luận văn bao gồm: tài liệu thứ cấp và những phỏng vấn sâu người dân.
5.2.1. Tài liệu thứ cấp
Việc nghiên cứu tài liệu thứ cấp nhằm đưa ra một cái nhìn tổng quan về
tình hình nghiên cứu về làng nghề ở Việt Nam. Quá trình tổng quan tài liệu cho
phép mô tả thực tế tình hình sinh kế của các hộ gia đình và sự phát triển của các
làng nghề trong các bối cảnh vắn hóa – xã hội khác nhau, vào thời điểm khác
nhau. Từ đó cung cấp cho người đọc một hình dung tổng thể về tình hình nghiên
cứu vấn đề này ở Việt Nam, cũng như về thực tế hoạt động sinh kế chính của các
hộ gia đình làng nghề hiện nay.
Các tài liệu thứ cấp bao gồm: Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội của tỉnh
Bắc Ninh, của xã Châu Khê, của xã Văn Môn, của xã Phong Khê tỉnh Bắc Ninh;
Các tài liệu, bài báo viết về làng nghề, và các vấn đề liên quan đến sinh kế làng
nghề; Các ấn phẩm, sách xuất bản viết về làng nghề, hoặc có nội dung liên quan
đến sinh kế làng nghề, sự phát triển của làng nghề.
5.2.2. Phỏng vấn sâu
Tổng số cuộc phỏng vấn sâu được sử dụng trong nghiên cứu là: 17 cuộc
phỏng vấn sâu ở 3 làng nghề tái chế (Đa Hội, Mẫn Xá và Dương Ổ) năm 2007 và
10 cuộc phỏng vấn sâu ở 2 làng (Đa Hội và Mẫn Xá) tiến hành năm 2008. Ngoài
ra tác giả còn thực hiện thêm 3 cuộc phỏng vấn sâu năm 2009 tại 3 làng nghề về
một số nội dung cụ thể với người dân nhằm thu thập thêm thông tin phục vụ cho
luận văn.

8

5.2. Phương pháp định lượng
Bộ số liệu định lượng bao gồm: tổng số bảng hỏi được sử dụng trong
nghiên cứu là: 200 bảng hỏi cho 3 làng chia làm 2 đợt khảo sát.
6. Giả thuyết nghiên cứu
- Giả thuyết 1: Ba làng nghề tái chế (Dương Ổ, Đa Hội, Mẫn Xá) hiện nay

đều lựa chọn sản xuất các mặt hàng trên cơ sở phát triển nghề truyền thống và có
nhu cầu thị trường cao như sản xuất giấy các loại, đúc nhôm và sản xuất các mặt
hàng về sắt làm hoạt động sinh kế chính.
- Giả thuyết 2: Hoạt động sinh kế chính của các làng nghề dựa trên việc
tận dụng nguồn nguyên liệu tái sinh, nguồn nhân lực tại chỗ, giá nhân công rẻ,
công nghệ thấp phù hợp. Đồng thời hoạt động sinh kế chính của các làng nghề ở
Bắc Ninh còn dựa trên những chiến lược phát triển sinh kế để phát huy tối đa các
nguồn lực và cơ hội sẵn có như: nghề truyền thống, sự phát triển thị trường,
những cơ hội mở cửa làm ăn, vị trí cận đô, cơ sở hạ tầng giao thông.v.v
- Giả thuyết 3: Hoạt động sinh kế của các làng nghề tái chế đem lại lợi ích
lớn cho người dân trong sự phát triển kinh tế. Bên cạnh đó người dân cũng chấp
nhận phải trả giá về môi trường.
7. Kết cấu của luận văn
Luận văn được chia làm 3 phần: Phần mở đầu; Phần nội dung chính và
Phần kết luận. Phần nội dung được chia làm 2 chương. Chương 1: Trình bày
tổng quan vấn đề nghiên cứu, các lý thuyết của luận văn, các khái niệm và giới
thiệu về địa bàn nghiên cứu. Chương 2: đi sâu phân tích những kết quả nghiên
cứu thu được từ cuộc khảo sát nhằm làm rõ những giả thuyết đã đặt ra ở phần 1.
Phần phụ lục kèm bao gồm bảng hỏi của cuộc khảo sát định lượng mà tôi sử
dụng dữ liệu để phân tích, gợi ý phỏng vấn sâu và một số hình ảnh tại 3 làng
nghề tái chế.



9

PHẦN NỘI DUNG

Chương 1. Cơ sở lý luận và thực tiễn
1. Tổng quan về vấn đề nghiên cứu

Hiện nay, Việt Nam có hơn 2000 làng nghề, xuất khẩu đến 136 quốc gia
và vùng lãnh thổ, kim ngạch xuất khẩu tăng trưởng trên 20% năm. Năm 2007
kim ngạch xuất khẩu đạt 850 triệu USD, năm 2008, theo ước tính đạt 1 tỷ USD.
Các làng nghề đang đảm bảo việc làm cho khoảng 1,5 triệu thợ thủ công và
khoảng 4-5 triệu lao động thời vụ. Thu nhập của người lao động tại các làng
nghề cao hơn khoảng 3-4 lần so với lao động nông nghiệp, đặc biệt so với vùng
đồng bằng Bắc bộ, đất chật người đông (Tạp chí cộng sản, Nhân dân 6-2008).
Tôi xin được điểm qua 1 vài công trình nghiên cứu nổi bật về làng nghề:
Công trình nghiên cứu: “Vấn đề bảo tồn và phát triển nghề thủ công
truyền thống ở Nhật Bản” của tác giả Hồ Hoàng Hoa (chủ nhiêm đề tài), NXB
Khoa học xã hội 2004, khái quát cho chúng ta một cái nhìn chung về nghề thủ
công truyền thống Nhật Bản. Trong làn sóng công nghiệp hóa của xã hội hiện đại
với kiểu sản xuất hàng loạt, tiêu dùng ồ ạt, nghề thủ công truyền thống đã bị mai
một và mất đi vị trí quan trọng trong đời sống vật chất và tinh thần của người
dân Nhật Bản. Nhưng cùng với các loại hình văn hóa khác như kịch Kabuki,
kịch No, kịch búp bê Buraku, nghệ thuật cắm hoa, trà đạo, giấy Nhật…các nghề
thủ công truyền thống ở Nhật Bản vẫn được xem là những tài sản quí báu trong
kho tàng văn hóa dân tộc, đang được chính phủ và nhân dân trân trọng giữ gìn.
Và cho đến ngày nay, nghề thủ công truyền thống Nhật Bản không chỉ có vị trí,
vai trò trong sự phát triển kinh tế mà còn có vai trò lớn trong sự phát triển văn
hóa xã hội ở Nhật Bản.
Công trình nghiên cứu: “Làng nghề truyền thống trong quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa” của tác giả: Trần Minh Yến, NXB Khoa học xã hội
2004, chú trọng tìm hiểu những nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển làng nghề

10

truyền thống; Vai trò của làng nghề truyền thống trong quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa. Tác giả cũng chỉ ra kinh nghiệm phát triển làng nghề truyền
thống ở một số nước Châu Á. Đồng thời tác giả chỉ ra xu hướng vận động của

làng nghề truyền thống dưới tác động của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại
hóa; Những quan điểm định hướng và giải pháp phát triển làng nghề truyền
thống ở nông thôn nhằm đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Nghiên cứu:
“Phát triển làng nghề truyền thống trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại
hóa” của tác giả Mai Thế Hởn (chủ biên), NXB Chính trị Quốc gia 2003, cũng
nhằm tạo nên một bức tranh chung về sự phát triển làng nghề truyền thống trong
quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đồng thời tác giả khẳng định vai trò của
làng nghề truyền thống đối với việc phát triển kinh tế nông thôn, phát triển và ổn
định đô thị.
Cũng về chủ đề làng nghề trong quá trình công nghiệp hóa của các tác giả
Trần Minh Yến (năm 2004), Mai Thế Hởn (năm 2003), nghiên cứu:“Bảo tồn và
phát triển các làng nghề trong quá trình công nghiệp hóa” của tác giả Dương Bá
Phượng, NXB Khoa học xã hội 2001 đã nói về: con đường và điều kiện hình
thành các làng nghề; Lịch sử hình thành và phát triển các làng nghề; Vai trò tác
động và các nhân tố ảnh hưởng tới sự phát triển của các làng nghề; Thực trạng
phát triển các làng nghề; Quan điểm và phương hướng bảo tồn và phát triển các
làng nghề trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông thôn; Các giải
pháp về cơ chế chính sách nhằm bảo tồn và phát triển các làng nghề trong quá
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông thôn. Tác giả khẳng định: Sự phát triển
của các làng nghề đã trải qua những bước thăng trầm. Có nhiều làng nghề đã tồn
tại và phát triển khá mạnh, đồng thời còn mở rộng lan tỏa sang các khu vực lân
cận, tạo nên một cụm các làng nghề, dần hình thành sự phân công, chuyên môn
hóa nhất định. Ngược lại, có những làng nghề phát triển cầm chừng, không ổn
định, gặp nhiều khó khăn. Thậm chí, có những làng nghề đã và đang bị mai một,
dần suy vong và có khả năng bị mất đi. Hơn nữa, sự phát triển và chuyển hóa của

11

các làng nghề, nhất là làng nghề truyền thống, trong tiến trình công nghiệp hóa ở
nông thôn sẽ diễn ra như thế nào đang là vấn đề khó khăn, phức tạp. Vì vậy cần

phải có một công trình nghiên cứu tương đối công phu về bảo tồn và phát triển
các làng nghề trong tiến trình công nghiệp hóa.
“Nghiên cứu qui hoạch phát triển Ngành thủ công theo hướng công
nghiệp hóa ở nông thôn Việt Nam” của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
Việt Nam và Tổ chức hợp tác quốc tế Nhật Bản (Jica) cùng thực hiện là một
nghiên cứu lớn và công phu về các làng nghề thủ công ở Việt Nam (tại 61 tỉnh)
từ năm 2002-2004. Với mục đích nghiên cứu chính là định hướng cho sự phát
triển làng nghề thủ công ở nông thôn Việt Nam trong quá trình công nghiệp hóa,
nghiên cứu này đã chỉ ra rằng cần phải có một cái nhìn tổng thể về tình hình phát
triển làng nghề ở nông thôn Việt Nam. Đồng thời qua việc phân tích tìm hiểu sâu
tình hình cụ thể ở mỗi ngành nghề thủ công, nghiên cứu cũng chỉ ra những đặc
tính riêng và định hướng cho việc phát triển.
“Báo cáo quốc gia 2008 về môi trường làng nghề” của Bộ tài nguyên và
môi trường là một nghiên cứu qui mô và tổng thể về các loại làng nghề, sự hình
thành, phát triển, vai trò và vị trí của nó trong đời sống kinh tế - xã hội. Đặc biệt,
báo cáo phân tích và chỉ rõ thực trạng ô nhiễm môi trường tại các làng nghề,
những nguyên nhân, những tác hại của ô nhiễm môi trường làng nghề đến sức
khỏe cộng đồng, kinh tế - xã hội, và những nhận định. Báo cáo cũng chỉ ra
những giải pháp bảo vệ môi trường làng nghề, những nhận định về xu hướng
phát triển của các làng nghề trong tương lai.
Ngoài ra còn nhiều công trình nghiên cứu khác về làng nghề như: “Làng
nghề thủ công truyền thống Việt Nam” của tác giả Bùi Văn Vượng, NXB Văn
hóa dân tộc 1998; “Hà Tây – Làng nghề, làng văn” của Phượng Vũ và nhiều tác
giả, Sở văn hóa thông tin thể thao 1992, và những công trình bài báo khác cung
cấp cho người đọc những thực trạng và sự phát triển của các làng nghề. Người

12

đọc có thể nhìn thấy một bức tranh tổng thể về các làng nghề: tình hình phát
triển, những vấn đề đặt ra và xu hướng phát triển của làng nghề trong tương lai.

Nghiên cứu: “Hoạt động sinh kế chính của hộ gia định tại một số làng
nghề tái chế Bắc Ninh” chỉ ra khía cạnh cụ thể hơn mà các công trình nghiên cứu
trước chưa đi sâu vào tìm hiểu. Đó là việc tìm hiểu chỉ ra những hoạt động sinh
kế chính của hộ gia đình 1 số làng nghề tái chế Bắc Ninh đang diễn ra như thế
nào? Những chiến lược sinh kế của họ? Sự lựa chọn, định hướng phát triển của
những hoạt động sinh kế đó bị ảnh hưởng bởi những yếu tố nào? những hoạt
động đó đem lại những lợi ích gì trong quá trình phát triển kinh tế nông thôn,
đồng thời để lại hậu quả hay những tác động tiêu cực gì đến môi trường sống nơi
đây.
2. Cơ sở Lý luận
Những ý tưởng về sinh kế đã được giới thiệu trong các nghiên cứu của
Robert Chambers vào giữa những năm 80, và sau đó được Chambers và Conway
phát triển thêm vào đầu những năm 90. Theo hai ông, sinh kế bao gồm các khả
năng, các tài sản (gồm cả các nguồn lực vật chất và xã hội) và các hoạt động cần
thiết như phương cách để sinh tồn. Sinh kế là bền vững khi nó có thể giúp con
người đối mặt và vượt qua sự căng thẳng và những thương tổn, bảo toàn hay
tăng thêm các khả năng và tài sản hiện tại và tương lai trong bối cảnh không phá
hoại nguồn tài nguyên tự nhiên cơ bản.
Chiến lược sinh kế hộ gia đình là sự kết hợp sử dụng các nguồn lực hộ gia
đình và cộng đồng nhằm đạt tới mục tiêu kinh tế hộ. Chiến lược sinh kế hộ gia
đình có thể là sự định hướng mục tiêu sản xuất, kinh doanh, hay cách thức đạt
được mục tiêu như bằng sự tận dụng ưu thế của một hay vài loại nguồn lực sinh
kế hay đầu vào sản xuất có lợi thế…
Dưới đây là khung phân tích dựa trên cơ sở tiếp cận chiến lược sinh kế hộ gia
đình:



13


Phân tích khung sinh kế của hộ gia đình.



0
1
Tự nhiên
Con người
Tài chínhXã hội
Vật thể



Khung phân tích trên bao gồm 3 phần chính: Những loại vốn của hộ gia
đình làng nghề, quá trình tiếp cận và sử dụng các loại vốn, những chiến lược đã
được lựa chọn cho sinh kế của gia đình họ. Các hợp phần này có quan hệ qua lại
và thay đổi theo thời gian giữa các đơn vị, hộ gia đình và cộng đồng. Điểm bắt
đầu là bối cảnh xã hội trong sự hoạt động. Tiếp theo, các loại vốn sinh kế được
đặt tại điểm trung tâm của khung phân tích, trong bối cảnh xã hội. Con người
dựa vào những loại vốn này để lập nên sinh kế của họ. Những loại vốn có quan
hệ tới các chính sách, những thể chế, và tiến trình lựa chọn (mũi nhọn của các
chiến lược sinh kế). Những kết quả sinh kế là thành quả hay là những sản phẩm
đầu ra của những chiến lược sinh kế. Những kết quả đó không nhất thiết là điểm
kết thúc vì chúng phản ánh ngược lại vào trong các loại vốn sinh kế tương lai.
Có sự quan hệ rất chặt chẽ giữa những kết quả và các loại vốn sinh kế (xem mũi
tên tác động ngược lại trong khung sinh kế). Ví dụ hộ gia đình có thể lựa chọn
đầu tư hầu hết phần thu nhập tăng thêm của họ vào vốn, vậy vốn của họ trong
chiến lược sinh kế mới tăng lên, theo đó có thể tăng thu nhập của họ. Hay các hộ
Bối cảnh
xã hội

- Xu hướng
- Thời điểm
- Chấn động
(thị trường,
tự nhiên và
môi trường,
chính trị,.v )

Chính sásh,
tiến trình và cơ
cấu
- Chính sách đối với
làng nghề
-Chính sách CNH-
HDH
- Lịch sử phát triển
của làng nghề
- Tận dụng các
nguồn lực tự nhiên,
xã hội, con người,
tài chính.v.v.
- Các thiết chế
công dân, chính
trị và kinh tế
(thị trường ,
văn hoá)


Các chiến
lược sinh

kế
- Chiến lược
sinh kế
hướng vào
thị trường
- Chiến lược
sinh kế
hướng vào
phát triển
kinh tế, tăng
thu nhập
- Sinh tồn
hoặc tính
bền vững
- Chiến lược
hợp tác và
cạnh tranh
Các kết
quả
sinh kế
- Các sản
phẩm tái chế
của nguồn
tài nguyên tự
nhiên
- Phục hồi
nguồn lực
sinh kế
- Cuộc sống
đầy

đủ hơn
- Nâng cao
thu nhập
- Tăng
trưởng kinh
tế
- Các tác
động đến
môi trường


14

đầu tư lớn, từ thu nhập, cho con cái học hành, đào tạo nghề quản trị kinh doanh
chẳng hạn, làm gia tăng nguồn lực con người và đến lượt nó, người con có thể
giúp mở rộng qui mô doanh nghiệp gia đình, cũng như làm tăng trưởng thu nhập.
Các loại vốn sinh kế trong khung sinh kế bao gồm: vốn con người (giáo
dục, kỹ năng, sức khoẻ, số lượng các thành viên trong hộ gia đình); Vốn vật chất
(công cụ, phương tiện sản xuất, nhà xưởng, công trình giao thông thuỷ lợi, hệ
thống cung cấp nước, công nghệ thông tin liên lạc; Vốn xã hội (mạng lưới và
những hỗ trợ xã hội thuộc về các hộ gia đình). Tiếp cận đến các nguồn vốn này
cho phép các hộ gia đình tăng sự tin tưởng, khả năng làm việc cùng nhau, chia sẻ
và tiếp cận các cơ hội; Vốn tài chính (tiết kiệm, tín dụng, hàng hoá lưu
chuyển,…), và nguồn vốn tự nhiên (đất đai, nguồn nước,…). Tìm hiểu các loại
vốn của hộ gia đình sẽ giúp chúng ta hiểu được đúng về những điểm mạnh, điểm
yếu trong các tiếp cận đến các loại vốn nói trên và làm thế nào để có thể chuyển
được các nguồn vốn đó thành kết quả sinh kế của hộ. Điểm đáng chú ý là có sự
quan hệ qua lại giữa các loại vốn. Một loại vốn vật chất có thể tạo ra nhiều lợi
ích. Nếu hộ gia đình đã tiếp cận được đến đất đai (vốn tự nhiên), họ có thể cũng
tiếp cận đến tín dụng dễ dàng hơn vì họ cũng có thể dùng đất cho các hoạt động

sản xuất trực tiếp mà còn dùng để thế chấp cho các khoản vay. Nghĩa là sự kết
hợp các loại vốn theo nhiều cách khác nhau để tạo ra thu nhập của hộ. Điều này
thực sự quan trọng vì sẽ gợi mở việc tập trung hỗ trợ cho vốn sinh kế nào để có
thể tăng cường hiệu quả sử dụng của các vốn khác.
Các kết quả phân tích trong luận văn dựa trên cơ sở lý luận về sinh kế hộ
gia đình. Trong đó tác giả tập trung phân tích việc các hộ gia đình làng nghề tái
chế sử dụng các nguồn lực để phát triển sinh kế, chiến lược sinh kế hộ cũng như
phân tích các yếu tố tác động đến chiến lược sinh kế hộ gia đình.

15


3. Một số lý thuyết xã hội học được sử dụng trong nghiên cứu
3.1. Lý thuyết lựa chọn hợp lý
Lựa chọn hợp lý nảy sinh từ truyền thống thuyết vị lợi Anh (utilitarinism),
truyền qua kinh tế học tân cổ điển (neo-classical). Đây là cốt lõi lý luận của kinh
tế học, mặc dù nó được hoàn thiện và cải tiến phần lớn qua những cải biến và sự
phát triển khác như lý thuyết trò chơi. Nó cũng lan truyền, với sự ủng hộ và phản
đối khác nhau, sang khoa học chính trị, xã hội học, nhân học, luật, lý thuyết tổ
chức, khoa học quản lý, và sang nhiều lĩnh vực khác. Luận đề trung tâm của lựa
chọn hợp lý là các tác viên cá thể và tập thể suy tính đến ý thích (preferences)
của mình và các điều kiện khách quan và sẽ hành xử để tối đa hóa ích lợi (utility)
hoặc lợi thế (advantage) của họ. Trong nghiên cứu này, việc người dân tận dụng
tối đa các nguồn lực của mình để phát triển sinh kế được coi là một sự lựa chọn
hợp lý. Những lựa chọn chiến lược sinh kế hướng vào thị trường, bỏ qua nghề
giấy dó truyền thống, việc làm hàng giả (mua băng vệ sinh Trung Quốc, thay
nhãn Việt Nam), chiến lược hợp tác và cạnh tranh,.v.v. là những biểu hiện lựa
chọn hợp lý của người dân làng nghề. Điều này được phân tích ở mục 1, mục 2
trong chương 2 của luận văn.
1. “Cái hợp lý” là một ý tưởng tương đối chứ không phải tuyệt đối. Nó

biến thiên theo khung quan điểm và cấp độ phân tích. Người dân 3 làng nghề tái
chế phải lựa chọn giữa phát triển kinh tế và xử lý môi trường; Các làng nghề tái
chế lựa chọn phát triển kinh tế hộ/làng nghề và trả giá bằng sự ô nhiễm môi
trường làng nghề có thể là hành vi ngắn hạn. Nhưng trong chừng mực nhất định,
họ đã lựa chọn điều mang lại lợi ích tối đa cho gia đình, cho sự phát triển kinh tế
làng nghề. Ở Dương Ổ người dân phải lựa chọn giữa bảo vệ nghề truyền thống
và sản xuất các sản phẩm mới đáp ứng nhu cầu thị trường; giữa công nghệ truyền
thống và công nghệ hiện đại. Phần 3 trong chương 2 của luận văn sẽ áp dụng

16

luận điểm này để phân tích. Người dân làng nghề có thể lựa chọn những chiến
lược sinh kế khác nhau trong những hoàn cảnh kinh tế - xã hội khác nhau. Điều
này thể hiện trong phân tích về biến động kinh tế năm 2008 ở mục 2 trong
chương 2 của luận văn.
2. Với sự nhấn mạnh vào động cơ của tác viên, lý thuyết lựa chọn hợp lý
dựa gần như hoàn toàn vào các định hướng một chiều (univalent). Lý thuyết lựa
chọn-hợp lý không quan tâm đến những khả năng trong đó chúng ta có thể lần
lượt yêu và ghét một cách tích cực đối với cùng một đối tượng, hoặc trong đó
những định hướng tình cảm không thể đạt tới điểm cân bằng với nhau cho phép
có thể tối ưu lựa chọn và hành động trên cơ sở lựa chọn ấy. Không có sự cân
bằng giữa phát triển kinh tế hộ/làng nghề và ô nhiễm môi trường, mà chỉ có lựa
chọn một chiều - phát triển kinh tế hộ/làng nghề. Sự lựa chọn hợp lý trong chừng
mực nhất định, đem lại những lợi ích không giống nhau giữa các chủ thể-các hộ
gia đình làng nghề, giữa những chủ doanh nghiệp giàu có và những người đi làm
thuê, giữa các thôn có nghề phi nông và thôn không có nghề. Tác động môi
trường ảnh hưởng mạnh mẽ hơn đối với người nghèo vì khả năng hạn chế trong
các biện pháp chống đỡ ô nhiễm-vị trí nhà ở, trang thiết bị…Điều này sẽ được
tác giả phân tích kỹ hơn trong mục 3 chương 2 của luận văn.
3.2. Lý thuyết xã hội hoá

Xã hội hoá là quá trình tương tác giữa con người và con người, con người
và xã hội qua đó con người với tư cách là cá thể học hỏi, lĩnh hội, tiếp nhận
những giá trị, chuẩn mực, khuôn mẫu hành vi để đóng vai trò của mình phù hợp
với vị thế xã hội đã cho hoặc tạo ra. Trên cơ sở đó cá thể biến thành cá nhân hình
thành nhân cách và con người hoà nhập vào xã hội.
Quá trình xã hội hoá đặc biệt quan trọng trong suốt thời thơ ấu và niên
thiếu của mỗi con người nhưng nó còn tiếp tục trong quá trình giáo dục và làm
việc. Thông qua quá trình xã hội hoá, các cá nhân thu nhận được các loại hành vi
và quan điểm được coi là cần thiết để có thể hoà nhập như là những thành viên

17

của một xã hội. Mục đích của sự xã hội hoá là các tổ chức, thiết chế xã hội dạy
cho con người cách ứng xử được xã hội chấp nhận, phù hợp với những yêu cầu
của tổ chức cũng như những chuẩn mực xã hội.
Các tổ chức có quyền lợi và nghĩa vụ đáng kể trong quá trình xã hội hoá. ở
chừng mực mà mục đích của tổ chức phù hợp với mục đích của các thành viên
thì tổ chức đó hoạt động hiệu quả hơn. Các cá nhân cũng cảm thấy hài lòng và
thành công hơn.
Trong luận văn này, lý thuyết xã hội hóa được vận dụng để hiểu về quá
trình các cá nhân học hỏi và hành nghề, cùng với nó là sự trao truyền nghề, dạy
nghề cho các cá nhân khác. Cùng với nó là quá trình tương tác, hợp tác, cạnh
tranh giữa các cá nhân, các nhóm, các tổ chức trong làng nghề, trong sử dụng lao
động làng nghề nhằm đạt đến hiệu quả công việc một cách tối đa nhất.
3.3. Lý thuyết phát triển nông thôn bền vững
Công cuộc phát triển nông thôn thường gặp những vấn đề nan giải cần
phải biết lựa chọn, đó là: quan hệ giữa nông thôn và đô thị, giữa nông nghiệp và
công nghiệp; giữa truyền thống và hiện đại; giữa chiến lược kinh tế hướng nội và
hướng ngoại; giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội; giữa phát triển tập
trung hoá hay phát triển phi tập trung hoá; giữa phát triển kinh tế - xã hội và bảo

vệ môi trường sống ở nông thôn; giữa phát triển kinh tế và bảo tồn văn hóa
truyền thống Luận điểm này được áp dụng vào phân tích trong mục 3 chương 2
của luận văn.
Nông thôn Việt Nam có bản chất hỗn hợp, với biểu hiện tập trung nhất là
lưỡng tính mâu thuẫn thống nhất giữa nông nghiệp và phi nông nghiệp, với hai
mô hình tiêu biểu là nông thôn trọng nông và nông thôn trọng phi nông; sự phát
triển nông thôn Việt Nam thực chất là sự thay đổi bản chất hỗn hợp trọng nông
và trọng phi nông này. Đó thực chất là sự chuyển đổi kép: một mặt từ nông thôn
hỗn hợp cũ sang nông thôn hỗn hợp mới tiến bộ hơn, có thể vẫn duy trì trọng
nông nhưng thay đổi trình độ nông nghiệp, từ nông nghiệp tự cung tự cấp sang

18

nông nghiệp hàng hoá, từ nông nghiệp kém phát triển sang nông nghiệp phát
triển, nhưng cũng có thể thay đổi khinh - trọng, như từ trọng nông sang trọng phi
nông hoặc ngược lại; mặt khác, từ hình thái xã hội nông thôn - nông nghiệp có
thể chuyển hẳn sang hình thái xã hội đô thị - công nghiệp, nghĩa là thay thế cơ
cấu xã hội nông thôn - nông nghiệp bằng cơ cấu xã hội đô thị - công nghiệp. Nói
khác đi, phát triển nông thôn là sự phủ định nông thôn. Nhưng sự phủ định đó có
hai loại: loại phủ định có kế thừa bản chất cũ, vượt gộp = tha hoá không hoàn
toàn (nông thôn cũ sang nông thôn mới) và loại phủ định thay thế bản chất cũ
bằng bản chất mới, vượt bỏ = tha hoá hoàn toàn (nông thôn - nông nghiệp sang
đô thị - công nghiệp). Phương thức phát triển chính là các quá trình thị trường
hoá, đô thị hoá, công nghiệp hoá, hiện đại hoá, quốc tế hoá, toàn cầu hoá…Các
quá trình này có hai mức độ: cao độ và cực độ. Cao độ thì nông thôn vẫn là nông
thôn, nhưng cực độ thì nông thôn - nông nghiệp chuyển hoá thành phi nông thôn
- nông nghiệp = đô thị - công nghiệp (Tô Duy Hợp. Xã hội học và phát triển
nông thôn Việt Nam thách thức và triển vọng. Tạp chí Xã hội học, số 3-2003).
Trong luận văn, lý thuyết phát triển nông thôn bền vững được sử dụng để
giải thích về việc tìm kiếm con đường phát triển cân bằng giữa phát triển kinh tế

(công nghiệp hóa nông thôn), công bằng xã hội và môi trường. Người dân làng
nghề tái chế có những lựa chọn phát triển kinh tế của họ, điều này có đem lại sự
phát triển cân bằng với đời sống xã hội và môi trường sống của họ?
4. Các khái niệm làm việc
4.1. Sinh kế
Một sinh kế được hiểu là bao gồm những khả năng có thể có, các tài sản
và các hoạt động cần thiết cho một kế sinh nhai (Chambers and Conway, 1992).
Theo định nghĩa này, các tài sản bao gồm “Vốn tự nhiên” - đất đai, nguồn nước,
…; “Vốn vật chất”- công cụ sản xuất, giống, phân bón, cơ sở hạ tầng phục vụ sản
xuất,…; “Vốn tài chính” - tiền mặt, tín dụng, tiết kiệm, các khoản vay,…; “Vốn

19

con người” - kiến thức, kỹ năng sản xuất, sức khỏe,…; và “Vốn xã hội” - các
quan hệ và mạng lưới xã hội, được xem như các nguồn sinh kế.
4.2. Sinh kế hộ gia đình
Sinh kế hộ gia đình dựa trên các nguồn vốn con người, vốn xã hội (mạng
lưới xã hội ), vốn thiên nhiên hay tài nguyên (rừng, đất canh tác, đất phi nông
nghiệp, đa dạng sinh học ), vốn vật chất (nhà ở, nhà xưởng, công cụ sản xuất,
phương tiện vận chuyển, CSHT ), vốn tài chính (tiết kiệm, tín dụng, hàng hóa
lưu chuyển ). Các nguồn lực này có quan hệ với nhau và có thể làm gia tăng
khả năng tiếp cận các nguồn lực khác, chẳng hạn như nếu hộ có đất (có chứng
nhận pháp lý về quyền sử dụng đất) có thể vay mượn, thế chấp, cầm cố để có
nguồn vốn tài chính phục vụ cho một mục tiêu kinh tế hay đời sống nào đó.
Cách tiếp cận phân tích sinh kế hộ gia đình

4.3. Chiến lược sinh kế hộ gia đình
Chiến lược sinh kế hộ gia đình là sự kết hợp sử dụng các nguồn lực hộ gia
đình và cộng đồng nhằm đạt tới mục tiêu kinh tế hộ. Chiến lược sinh kế hộ gia
đình có thể là sự định hướng mục tiêu sản xuất, kinh doanh, hay cách thức đạt

được mục tiêu như bằng sự tận dụng ưu thế của một hay vài loại nguồn lực sinh
kế hay đầu vào sản xuất có lợi thế…

20

4.4. Làng nghề
Làng nghề là những làng mà tại đó hầu hết dân cư tập trung vào làm một
nghề duy nhất nào đó; nghề của họ làm thường có tính chuyên sâu cao và mang
lại nguồn thu nhập cho dân làng.
4.5. Làng nghề tái chế
Làng nghề tái chế chủ yếu là các làng nghề mới hình thành, số lượng ít,
nhưng lại phát triển nhanh về qui mô và loại hình tái chế (chất thải kim loại,
giấy, nhựa, vải đã qua sử dụng.v.v.). Ngoài ra các làng nghề cơ khí chế tạo và
đúc kim loại với nguyên liệu chủ yếu là sắt vụn, sắt thép phế liệu cũng được xếp
vào loại hình làng nghề này. Đa số các làng nghề nằm ở phía Bắc, công nghệ sản
xuất đã từng bước được cơ khí hóa.
5. Vài nét về địa bàn nghiên cứu
5.1. Vài nét về tỉnh Bắc Ninh
Bắc Ninh là một tỉnh thuộc miền Bắc nước CHXHCN Việt Nam, là cửa
ngõ phía Bắc của Thủ đô Hà Nội, gần sân bay quốc tế Nội Bài, nằm trong vùng
kinh tế trọng điểm: Hà Nội – Hài Phòng – Quảng Ninh.
Bắc Ninh có tiềm năng kinh tế và văn hoá phong phú, đậm đà bản sắc dân
tộc. Miền đất Kinh Bắc xưa là vùng đất văn hiến, địa linh nhân kiệt, quê hương
của Kinh Dương Vương, Lý Bát Đế nơi hội tụ của kho tàng văn hoá dân gian.
Có nhiều công trình văn hoá nghệ thuật đặc sắc với những làn điệu dân ca quan
họ trữ tình đằm thắm, dòng nghệ thuật tạo hình, tranh dân gian Đông Hồ nổi
tiếng với bạn bè trong và ngoài nước.
Là một tỉnh thuộc vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, Bắc Ninh có nhiều
làng nghề thủ công truyền thống phát triển và được ví là "vùng đất trăm nghề".
Tổng sản phẩm trong tỉnh (GDP) năm 2001 ước đạt gần 5.300 tỷ đồng (chỉ số

giá năm 1994). Tổng giá trị sản xuất công nghiệp năm 2006 (giá thực tế) đạt
16.263,6 tỷ đồng, đứng thứ 6 miền Bắc (sau Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh,

21

Vĩnh Phúc và Hưng Yên). Cơ cấu nông, lâm thuỷ sản - công nghiệp, xây dựng -
dịch vụ: 34% - 37% - 29%. (Nguồn: Báo cáo tình hình kinh tế, xã hội của Cục
thống kê tỉnh Bắc Ninh)
5.2. Vài nét về 3 điểm nghiên cứu
Dương Ổ là một làng trực thuộc xã Phong Khê nay trực thuộc thành phố
Bắc Ninh (năm 2007). Các hộ gia đình tại đây chủ yếu là làm nghề tái chế giấy.
Giấy phế liệu các loại bao gồm: Giấy bìa, giấy báo, giấy phô tô, giấy vở học
sinh, giấy in cũ. Từ những giấy phế liệu này các gia đình mua về và tái chế ra
những sản phẩm giấy khác nhau phục vụ thị trường. Tại Dương Ổ hiện nay tồn
tại nhiều hình thức sản xuất như: công ty, doanh nghiệp, xí nghiệp, cơ sở sản
xuất, hợp tác xã.v.v…Hầu hết mọi người trong thôn đều làm những việc có liên
quan đến tái chế giấy. Mỗi đối tượng làm những công việc khác nhau.
Mẫn Xá là một làng thuộc xã Văn Môn, người dân nơi đây chủ yếu làm
nghề tái chế phế liệu. Mẫn Xá có 500 hộ thì có tới 300 hộ trực tiếp sản xuất, số
còn lại tham gia vào các dịch vụ phục vụ cho làng nghề, cộng chung lại thì tới
90% các hộ trong thôn làm nghề phi nông nghiệp. Khác với Đa Hội, Dương Ổ,
Mẫn Xá nằm sâu trong đồng bằng so với đường quốc lộ 1A 15 km, rẽ trái về
phía thành phố Bắc Ninh. Cũng là tái chế phế liệu kim loại nhưng vật liệu và sản
phẩm tái chế ở Mẫn Xá và Đa Hội là khác nhau. Đa Hội tái chế sắt vụn, còn Mẫn
Xá tái chế nhôm, đồng, chì.
Làng Đa Hội thuộc xã Châu Khê. Nghề sắt vốn có ở Đa Hội nay đã lan ra
khắp xã Châu Khê. Theo báo cáo Kết quả thực hiện nhiệm vụ kinh tế - xã hội sáu
tháng đầu năm 2007, xã Châu Khê hiện có 1756 hộ sản xuất tiểu thủ công
nghiệp, trong đó có 164 hộ sản xuất đúc, 191 hộ sản xuất cán, 19 hộ sản xuất dây
truyền mạ, 367 hộ sản xuất đinh, rút dây các loại, hàn bấm ; các hộ còn lại tham

gia vào nhiều loại hình sản xuất thủ công và kinh doanh khác nhau như đồ gỗ,
đóng than, may Hàng ngày giải quyết việc làm cho 5.000 - 7.000 lao động địa
phương, cũng như ngoài địa phương.

22

Chương 2. Hoạt động sinh kế chính của hộ gia đình: thực trạng và
những yếu tố tác động
1. Hoạt động sinh kế chính của hộ gia đình làng nghề tái chế
Tái chế phế liệu là hoạt động sinh kế chính đem lại nguồn lợi nhuận lớn
cho người dân các làng nghề tái chế Mẫn Xá, Đa Hội và Dương Ổ ở Bắc Ninh.
Theo số liệu khảo sát tại 3 làng nghề năm 2007, tại đây các hộ gia đình
hầu như không còn hoạt động sản xuất nông nghiệp. Người dân vẫn có đất nông
nghiệp, nhưng họ không làm mà đem cho thuê, cho mượn, hoặc bỏ hoang.
97.1
2.9
98.1
1.9
100
0
0
20
40
60
80
100
Mẫn Xá Đa Hội Dương Ổ
Không sử dụng
Sử dụng


Biểu 1.1: Tỷ lệ hộ gia đình hiện đang sử dung và không sử dụng đất
nông nghiệp ở 3 làng nghề tái chế (%)
(Nguồn: Số liệu khảo sát định lượng: Nghiên cứu về làng nghề tái chế của Viện
Nghiên cứu các nền kinh tế đang phát triển JETRO của Nhật, năm 2007-2008)
Qua biểu 1.1 ta thấy, 100% các hộ gia đình được khảo sát ở làng Dương Ổ
không còn sử dụng ruộng đất nông nghiệp, họ cho thuê, cho mượn. Có tới 97,1%
và 98,1% tỷ lệ hộ gia đình được khảo sát ở Mẫn Xá và Đa Hội không sử dụng
ruông đất nông nghiệp nữa. Như vậy hoạt động sản xuất nông nghiệp trước kia là
hoạt động sinh kế chính của người dân những làng này, nay không còn là hoạt
động nghề nghiệp thường xuyên của người dân các làng nghề tái chế nữa.
“Ruộng đất ở đây vẫn còn nhiều, hầu như các gia đình đều vẫn có ruộng, nhưng
họ không làm nữa mà cho người khác làm” (Cán bộ xã Châu Khê).
Em sống ở quê thật nhưng bây giờ mà bảo đi cấy là chịu. Bảo phân biệt sắt
thì em còn biết, chứ bảo đi cấy là chịu chết. Lâu rồi chẳng ai làm ruộng nữa

23

đâu. Từ đời bố mẹ em là đã không làm nữa rồi. Ruộng nhà em cũng có khoảng 2
sào thì phải, em cũng chẳng nhớ chính xác nữa vì chẳng làm ruộng. Nhà em cho
họ thuê rồi. Nhưng cho họ làm không chứ làm gì có lấy tiền đâu. Họ ở làng khác
đến xin thuê, cấy lúa và đóng thuế cho mình luôn. Cũng tiện vì để không cũng
phí. Nhưng đất ruộng ngày càng hẹp, lại phai màu thì cũng chẳng đủ ăn, nên
hầu hết là bỏ. (Nữ, Đa Hội)

Thay vào hoạt động sản xuất nông nghiệp là những hoạt động sản xuất thủ
công tại 3 làng nghề tái chế. “Theo thống kê, lao động làng nghề đã thu hút tới
10 triệu lao động thường xuyên. Bên cạnh đó, thu nhập từ hoạt động nghề là
nguồn thu nhập đáng kể với các hộ nông dân, ở nhiều làng nghề, hoạt động nghề
không còn là nghề phụ, mà đã trở thành nghề chính với cả gia đình hay một số
lao động chính trong gia đình. Các làng nghề tái chế ở miền Bắc đã phát triển

thành các cụm công nghiệp ở nông thôn.” (Làng nghề trước những thách thức về
môi trường sống. www.vacne.org.vn/CD_ROM/root/data/HTML/ChuongVI-
4.html).
1.1 Tình hình phát triển sản xuất tại các Làng nghề tái chế
Theo báo cáo Kết quả thực hiện nhiệm vụ kinh tế - xã hội sáu tháng đầu
năm 2007, xã Châu Khê hiện có 1756 hộ sản xuất tiểu thủ công nghiệp, trong đó
có 164 hộ sản xuất đúc, 191 hộ sản xuất cán, 19 hộ sản xuất dây truyền mạ, 367
hộ sản xuất đinh, rút dây các loại, hàn bấm ; Các hộ còn lại tham gia vào nhiều
loại hình sản xuất thủ công và kinh doanh khác nhau như đồ gỗ, đóng than,
may.v.v. Các hoạt động nghề nghiệp này hàng ngày giải quyết việc làm không
những cho mọi người dân trong làng xã mà còn cho từ 5.000 đến 7.000 người từ
các tỉnh thành khác.




24

Bảng 1.1: Các hoạt động nghề nghiệp chính ở làng Đa Hội (%)
Các hoạt động nghề
Tỷ lệ
Cán, kéo sắt, thép
32,4
Đúc sắt, thép
75,7
Các dịch vụ sắt, thép
13,5
Làm ruộng
8,1
Kinh doanh, buôn bán

16.2
(Nguồn: Số liệu khảo sát định lượng: Nghiên cứu về làng nghề tái chế của Viện
Nghiên cứu các nền kinh tế đang phát triển JETRO của Nhật, năm 2007-2008)
Bảng 1.1 cho thấy người dân làng Đa Hội chủ yếu làm nghề tái chế sắt
thép (đúc sắt thép, cán kéo sắt thép). Có đến 75.7% các hộ gia đình khảo sát làm
đúc sắt thép, 32,4% các hộ gia đình được khảo sát làm cán kéo sắt thép. Có
13.5% hộ được khảo sát làm các công việc liên quan đến tái chế sắt thép như cân
hàng, nhập phôi.v.v, 16,2% các hộ gia đình được khảo sát làm các dịch vụ kinh
doanh buôn bán khác; chỉ có 8.1% các hộ gia đình còn tiếp tục làm nông nghiệp.
Mặc dù có ruộng nhưng hầu hết các gia đình không làm ruộng mà cho người
làng khác làm.
Nghề sắt ở Đa Hội gồm nhiều việc, nhiều công đoạn khác nhau: đúc - cán
- rút sắt - hàn chập, hàn bấm Một số hộ gia đình làm cả công đoạn tái chế phế
liệu đúc thành phôi, cán kéo phôi thành các sản phẩm sắt. Nhưng phần lớn các
hộ khác chỉ làm một công đoạn. Phôi được sản xuất và tiêu thụ ngay trong làng.
Cả xã Châu Khê tạo thành một dây chuyền sản xuất khép kín. Sản phẩm làm ra
được bán trực tiếp cho nhà máy, cho các đại lí ở khắp các miền bắc, trung, nam.
Nghề đúc phôi, cán kéo thép phát triển kéo theo nhiều dịch vụ khác xuất hiện
trên địa bàn xã Châu Khê: dịch vụ bốc vác, dịch vụ xe cải tiến, dịch vụ bán than
đá
Một khu công nghiệp tại xã Châu Khê đã được thành lập. Khu công
nghiệp cách Đa Hội khoảng 2 km, nằm trên địa phần thôn Trịnh Xá và Đồng
Phúc xã Châu Khê. Khu công nghiệp này bắt đầu hoạt động từ năm 2001, hiện
có 159 hộ, trong đó 139 hộ kinh doanh, 20 hộ làm dịch vụ như ăn uống, buôn

×