Tải bản đầy đủ (.pdf) (121 trang)

Hoạt động tạo việc làm cho người khuyết tật tại huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình (Khảo sát tại hai xã Yên Thắng và Khánh Thịnh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.64 MB, 121 trang )



ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN



NGÔ THỊ BÍCH PHƢỢNG



HOẠT ĐỘNG TẠO VIỆC LÀM CHO NGƢỜI
KHUYẾT TẬT HUYỆN YÊN MÔ TỈNH NINH BÌNH
(Khảo sát tại 2 xã: Yên Thắng và Khánh Thịnh)



LUẬN VĂN THẠC SĨ CÔNG TÁC XÃ HỘI




Hà Nội - 2013


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN



NGÔ THỊ BÍCH PHƢỢNG




HOẠT ĐỘNG TẠO VIỆC LÀM CHO NGƢỜI
KHUYẾT TẬT HUYỆN YÊN MÔ TỈNH NINH BÌNH
(Khảo sát tại 2 xã: Yên Thắng và Khánh Thịnh)

Chuyên ngành: Công tác Xã hội
Mã số: 60 90 01 01
LUẬN VĂN THẠC SĨ CÔNG TÁC XÃ HỘI

Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Thế Huệ




Hà Nội - 2013



LỜI CAM ĐOAN

Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn xuất phát từ tình hình thực tế tại
xã Yên Thắng và Khánh Thịnh huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình.

Hà Nội, ngày 10/11/2013

Tác giả khóa luận
Học viên: Ngô Thị Bích Phượng















LỜI CẢM ƠN

Trong thời gian học tập và nghiên cứu để viết luận văn, tôi đã nhận
được rất nhiều sự quan tâm giúp đỡ của Ban giám hiệu nhà trường, Ban lãnh
đạo khoa Xã hội học, trường Đại Học Khoa Học Xã Hội và Nhân Văn và sự
tận tình truyền thụ kiến thức của các thầy cô trong khoa, đặc biệt là PGS.TS
Phạm Văn Quyết, Trưởng phòng Đào tạo sau đại học người đã tận tình giúp
đỡ tôi mỗi khi gặp khúc mắc trong luận văn.
Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến TS. Nguyễn Thế Huệ,
Viện trưởng Viện Nghiên Cứu Người Cao Tuổi Việt Nam người đã trực tiếp
hướng dẫn, tận tình chỉ bảo và đóng góp những kiến thức quý báu trong suốt
quá trình tôi thực hiện luận văn.
Tôi xin gửi lời cảm ơn đến gia đình, bạn bè và tất cả những người đã
giúp đỡ, động viên, khuyến khích tôi đặc biệt, là mẹ tôi trong suốt quá trình
học tập và nghiên cứu.
Trong quá trình nghiên cứu, do năng lực và thời gian có hạn nên luận
văn của tôi vẫn còn những hạn chế nhất định. Tôi rất mong nhận được sự

đóng góp quý báu của Quý thầy cô và bạn bè để luận văn của tôi được hoàn
thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 10 tháng 11 năm 2013

Học viên

Ngô Thị Bích Phượng



MỤC LỤC
DANH MỤC BIỂU ĐỒ

Biểu đồ 2.1: Độ tuổi của người khuyết tật tại hai cơ sở Yên Thắng và Khánh Thịnh 38
Biểu đồ 2.2: Cơ cấu độ tuổi của người khuyết tật tại hai cơ sở 38
Bảng 2: Giới tính của người khuyết tật tại hai cơ sở Yên Thắng và Khánh Thịnh . 40
Biểu đồ 2. 5: Hoàn cảnh kinh tế gia đình của người khuyết tật tại hai cơ sở
Yên Thắng và Khánh Thịnh 46
Biểu đồ 2.6: Tình trạng hôn nhân của người khuyết tật tại hai cơ sở tư nhân
Yên Thắng và Khánh Thịnh 48
Biểu đồ 2.8: Thời gian làm việc của người khuyết tật tại hai cơ sở Yên Thắng
và Khánh Thịnh 68
Biểu đồ 2.10: Mục đích sử dụng thu nhập hàng tháng của người khuyết tật tại
hai cơ sở Yên Thắng và Khánh Thịnh 73



DANH MỤC BẢNG


Bảng 2.3: Tình trạng khuyết tật của người khuyết tật tại hai cơ sở Yên Thắng
và Khánh Thịnh 41
Bảng 2.4: Trình độ học vấn của người khuyết tật tại hai cơ sở Yên Thắng và
Khánh Thịnh 43
Bảng 2.7: Mức độ hài lòng của người khuyết tật tại hai cơ sở Yên Thắng và
Khánh Thịnh 66
Bảng 2.9: Tỷ lệ thu nhập của người khuyết tật theo nhóm công việc tại hai cơ
sở Yên Thắng và Khánh Thịnh (đơn vị:%) 71


1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nhằm hỗ trợ người khuyết tật phát huy khả năng của mình để đáp ứng
nhu cầu bản thân; tạo điều kiện để người khuyết tật vươn lên tham gia bình
đẳng vào các hoạt động kinh tế - xã hội, góp phần xây dựng cộng đồng và xã
hội, Thủ tướng Chính Phủ đã phê duyệt Đề án trợ giúp người khuyết tật giai
đoạn 2012 – 2020. Theo đó mục tiêu đề ra đến năm 2020, cả nước ta có
300.000 người khuyết tật trong độ tuổi lao động còn khả năng lao động được
học nghề và tạo việc làm phù hợp. Các hoạt động chủ yếu của đề án để thực
hiện mục tiêu trên là nghiên cứu xây dựng và nhân rộng mô hình dạy, học
nghề gắn với giải quyết việc làm cho người khuyết tật; dạy nghề/tạo việc làm
phù hợp cho người khuyết tật. Đề án thực sự đã đáp ứng được nhu cầu có việc
làm của đông đảo người khuyết tật Việt Nam.
“Được lao động, được có việc làm” không chỉ là một trong những nhu
cầu cơ bản mà còn là quyền của mỗi người. Việc làm cho người khuyết tật
ngoài đem lại thu nhập, tự chủ về kinh tế mà còn có ý nghĩa vô cùng quan
trọng đối với người khuyết tật. Họ được tự khẳng định mình, hòa nhập cộng
đồng, lạc quan, xóa tự ti và mặc cảm.Tại nhiều quốc gia trên thế giới, vấn đề
tạo việc làm cho người khuyết tật là một nhiệm vụ không thể thiếu trong quá

trình phục hồi chức năng và góp phần quan trọng giúp phục hồi toàn diện cho
bản thân người khuyết tật. Tạo việc làm là cả một quá trình cần được xem xét
kỹ từ khâu hướng nghiệp, dạy nghề, sắp xếp việc làm phù hợp với dạng tật và
khả năng lao động của người khuyết tật.
Yên Mô là huyện thuần nông, toàn huyện có 3.800 người khuyết tật,
trong đó độ tuổi từ 18 đến 30 chiếm 63,8% trong tổng số người khuyết tật. Số
lượng người khuyết tật nhiều hầu hết nằm trong độ tuổi lao động, trong khi
những hoạt động tạo việc làm để đáp ứng nhu cầu cho người khuyết tật chưa
nhiều và mới có một số cơ sở tư nhân đứng ra tạo việc làm cho người khuyết


2
tật. Hoạt động tạo việc làm cho người khuyết tật ở huyện Yên Mô đang trở
thành vấn đề rất cần thiết trong tình hình hiện nay.
Chính vì lý do trên đã gợi mở cho chúng tôi thực hiện đề tài: “Hoạt
động tạo việc làm cho người khuyết tật tại huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình”
qua đó đưa ra khuyến nghị và giải pháp giúp hoạt động tạo việc làm cho
người khuyết tật đạt hiệu quả cao hơn nữa. Luận văn giới hạn việc nghiên cứu
hoạt động tạo việc làm cho người khuyết tật tại 2 cơ sở tư nhân trên địa bàn
hai xã Yên Thắng và Khánh Thịnh của Huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình.






















3
2. Tổng quan về vấn đề nghiên cứu
2.1 Nghiên cứu chung về ngƣời khuyết tật
Monitoring Child Disability in Developing Countries/Results from the
Multiple Indicator Cluster Surveys: Việc hiểu sự phân bố khuyết tật giữa các
khu vực và những nguy cơ dẫn đến khuyết tật ở các nước trên thế giới sẽ có
tác dụng rất lớn trong việc xây dựng các chính sách và chương trình bảo vệ
quyền người khuyết tật cũng như cũng có những chính sách phòng ngừa
khuyết tật hợp lý, giúp đỡ người khuyết tật có đầy đủ các cơ hội tiếp cận với
các dịch vụ cần thiết cho sự phát triển như những người không có khuyết tật.
Vấn đề kiểm soát số lượng trẻ khuyết tật và các yếu tố nguy cơ khuyết tật ở
các nước phát triển và các nước đang phát triển có sự khác nhau rõ ràng do
không có bộ công cụ đo lường thống nhất. Ở các nước đang phát triển, các dữ
liệu tổng thể về trẻ khuyết tật dường như là không có sẵn, và số liệu ước tính
được sử dụng để mô tả sự phân bố của người khuyết tật, trong khi ở các nước
phát triển và các nước giàu, tỉ lệ phân bố người khuyết tật thường được xác
định chủ yếu thông qua hệ thống giáo dục và y tế, thêm vào đó ở những nước
này có các tổ chức giám sát riêng của một số loại khuyết tật. Các cuộc điều tra
hộ gia đình hoặc chung cuộc tổng điều tra của tất cả các hộ gia đình trong một

cộng đồng bao gồm các câu hỏi chung về cả người lớn và trẻ em khuyết tật
đếu cho thấy vấn đề việc làm cho người khuyết tật thích ứng với dạng khuyết
tật là một vấn đề đáng quan tâm.
Về quyền của người khuyết tật ở Việt Nam, tác giả Eric Rosenthal và
Viện quốc tế bảo vệ quyền người khuyết tật tâm thần thực hiện theo yêu cầu
của UNICEF Việt Nam, trên cơ sở luật pháp Việt Nam và quốc tế nghiên cứu
đã nêu lên các quyền lợi của người khuyết tật được hưởng như quyền được
bảo vệ, được tiếp cận các dịch vụ việc làm, quyền được sống trong cộng
đồng…Trong đó nghiên cứu nhấn mạnh đến quyền được tiếp cận là vấn đề
tràn lan nhất mà tất cả những trẻ khuyết tật phải đối mặt là tình trạng thiếu


4
tiếp cận đến những khu vực công và dịch vụ công: trẻ khuyết tật không được
đến trường, không được đến trung tâm y tế bởi các tòa nhà và phương tiện
giao thông đó không thiết kế làm môi trường họ có thể cư ngụ. Vì vậy ngay từ
đầu họ đã chưa được hòa nhập vào ngay cộng đồng họ đang sống để có thể
thực hiện nhu cầu có việc làm.
2.2 Nghiên cứu về hoạt động tạo việc làm cho ngƣời khuyết tật
Để có được việc làm trong nền kinh tế thị trường với sự cạnh tranh gay
gắt và nhiều áp lực với người bình thường đã khó nhưng với người khuyết tật
- một trong những nhóm người “yếu thế” của xã hội điều đó càng trở nên khó
khăn hơn. Bởi yếu tố khiến người khuyết tật không thể cạnh tranh trong quá
trình tìm kiếm việc làm lại nằm ở chính những khiếm khuyết mà họ đang
mang trong mình. Nhưng hơn ai hết, người khuyết tật là người có mong muốn
được hoà nhập với cộng đồng để đóng góp vào sự phát triển của xã hội một
cách mạnh mẽ. Điều đầu tiên họ cần có việc làm, có thu nhập để nuôi sống
bản thân, giảm áp lực cho gia đình và xã hội. Việc làm không chỉ đem lại
niềm vui, thu nhập cho người khuyết tật mà còn là cầu nối giúp họ tự tin, hòa
nhập với cuộc sống. Vì vậy, vấn đề tạo việc làm cho người khuyết tật luôn là

vấn đề mang tính thời sự và cần được sự quan tâm của tất cả các Quốc gia,
dân tộc và mọi công dân trên thế giới, trong đó có Việt Nam.
Theo điều tra của Tổ chức Lao Động Quốc Tế, ở Việt Nam, rất ít người
khuyết tật có việc làm và thu nhập ổn định, rất nhiều người vẫn phải làm
những công việc phi chính thức. So với các nhóm lao động khác, tỷ lệ thất
nghiệp ở nhóm khuyết tật cao hơn nhiều, lên tới 30%.
Theo số liệu thống kê của Bộ Lao Động Thương Binh và Xã Hội, tỉ lệ
người khuyết tật ở nông thôn là 87,27% trong tổng số người khuyết tật. Đa số
người khuyết tật sống ở khu vực này thuộc diện nghèo và cận nghèo. Số
người khuyết tật còn lại trong độ tuổi lao động là 61%, trong đó 40% còn khả
năng lao động, nhưng trong số này chỉ còn 30% đang tham gia lao động tạo


5
thu nhập cho bản thân và gia đình, chủ yếu làm các nghề nông – lâm – ngư
nghiệp có thu nhập thấp so với các công việc khác.
Từ thực trạng trên cho thấy vấn đề dạy nghề và tạo việc làm cho người
khuyết tật cần được quan tâm nhiều hơn nữa để có thể giảm bớt áp lực cho gia
đình, cộng đồng và xã hội. Đánh giá được tầm quan trọng của vấn đề này nên
từ lâu dạy nghề/ tạo việc làm cho người khuyết tật được Nhà nước quan tâm,
chỉ đạo và tổ chức thực hiện. Bộ luật Lao động năm 1994 đã ban hành văn
bản dành một mục riêng với bốn điều quy định về lao động là người khuyết
tật. Luật dạy nghề ban hành năm 2006 dành toàn bộ Chương VII quy định dạy
nghề cho người khuyết tật, với mục tiêu giúp họ có năng lực thực hành nghề
phù hợp với khả năng lao động của mình để tự tạo việc làm và tìm được việc
làm, ổn định đời sống và hòa nhập cộng đồng.
Tuy nhiên trên thực tế, vấn đề kỳ thị người khuyết tật vẫn diễn ra phổ
biến trong xã hội, nhiều người khuyết tật bằng nghị lực đã vươn lên, bằng mọi
cách mong tìm được công việc phù hợp nhưng cũng khó có việc làm ổn định.
Điều này cản trở việc hòa nhập cộng đồng của người khuyết tật, do vậy cần

phải có những biện pháp để có thể giúp người khuyết tật được học nghề và có
được việc làm, tìm được chỗ đứng và khẳng định bản thân trong xã hội.
Cho đến nay đã có rất nhiều công trình nghiên cứu khoa học khác nhau
về vấn đề việc làm cho người khuyết tật. Đặc biệt, vấn đề việc làm cho người
khuyết tật đang nhận được sự quan tâm của nhiều cơ quan, ban ngành và các
tổ chức trong và ngoài nước. Qua những nghiên cứu, những hội thảo đã tập
trung đưa ra nhiều vấn đề khác nhau về việc làm cho người khuyết tật như
việc thực hiện chính sách việc làm cho người khuyết tật, hướng nghiệp, dạy
nghề cho thanh thiếu niên khuyết tật, các giải pháp tạo việc làm cho người
khuyết tật… góp phần tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình thực hiện vấn đề
việc làm cho người khuyết tật như Luận án phó tiến sĩ khoa học kinh tế của
Đàm Hữu Đắc “Những biện pháp chủ yếu tạo việc làm cho người tàn tật ở


6
Việt Nam”. Luận án có cái nhìn cụ thể về sự cần thiết của việc làm đối với
người khuyết tật, nhu cầu được có việc làm của người khuyết tật, thực trạng
việc làm của người khuyết tật, đồng thời luận án chỉ ra những quan điểm cơ
bản để tạo việc làm hiệu quả phù hợp với sức khỏe, dạng tật và khả năng lao
động của người khuyết tật. Đặc biệt, luận án đã đưa ra những biện pháp chủ
yếu để chăm sóc sức khỏe, phục hồi chức năng lao động cho người khuyết tật,
đào tạo, dạy nghề cho người khuyết tật trên cơ sở quan điểm chung tay: Nhà
nước/cộng đồng/gia đình cùng chăm lo đời sống, việc làm cho người khuyết
tật. Tạo việc làm cho người khuyết tật phải xã hội hóa, đa dạng hóa dưới
nhiều hình thức khác nhau như sắp xếp việc làm cho người khuyết tật ở các
cơ quan hành chính sự nghiệp và ở các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh. Ổn
định và phát triển các cơ sở kinh doanh dành riêng cho người khuyết tật. Hỗ
trợ, tạo điều kiện cho người khuyết tật tự hành nghề. Ở cấp độ vĩ mô, luận án
khuyến nghị Nhà nước hoàn thiện luật pháp và chương trình, chính sách liên
quan đến người khuyết tật. Xây dựng và phát triển hệ thống tổ chức của người

khuyết tật, tổ chức vì người khuyết tật, nâng cao nhận thức của xã hội về việc
làm, đời sống cho người khuyết tật. Luận án đưa ra một quy trình đồng bộ để
giải bài toán việc làm cho người khuyết tật, mỗi một biện pháp đều dựa trên
quan điểm và cách nhìn nhận đúng đắn, thống nhất về vai trò, vị thế của
người khuyết tật trong xã hội vì vậy mỗi một giải pháp đều liên quan chặt chẽ
với nhau; để tạo việc làm thành công thì trước hết cần phải chăm sóc sức
khỏe, phục hồi chức năng rồi sau đó mới dạy nghề, những cơ sở sản xuất kinh
doanh được tạo điều kiện tốt nhất để có thể đáp ứng nhu cầu được học nghề
của người khuyết tật. Sau khi người khuyết tật được trang bị những kiến thức,
kỹ năng hành nghề thì sẽ được sắp xếp, bố trí việc làm phù hợp với dạng nghề
được học. Luận án đã chỉ ra tỉ mỉ và chi tiết những cách thức tạo việc làm cho
người khuyết tật nước ta trên quan điểm đồng bộ chung tay của Nhà nước,
cộng đồng, gia đình và bản thân của người khuyết tật. Tuy nhiên, đó là những


7
giải pháp chung nhất để tạo việc làm cho người khuyết tật ở nước ta. Trên
thực tế của đời sống xã hội, ở mỗi địa phương, mỗi vùng miền trên cả nước
đều có những đặc điểm khác nhau về địa lý, tự nhiên, về trình độ phát triển
kinh tế, văn hóa xã hội, về tập tục làm ăn, sinh sống. Bao nhiêu tỉnh thành là
bấy nhiêu nền văn hóa, bấy nhiêu phong tục tập quán, lối sống qua hàng
nghìn đời nây, vì vậy việc áp dụng mỗi giải pháp đó như thế nào để đạt hiệu
quả cao nhất lại phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố, chính sách của Đảng và Nhà
nước hiện nay. Nhưng việc thực thi chính sách, sự quan tâm của mỗi cộng
đồng, gia đình hoặc thậm chí ngay cả bản thân của những người khuyết tật lại
khác nhau. Trong giới hạn của đề tài, luận án đã đưa ra những giải pháp rất cụ
thể dành cho người khuyết tật ở nước ta nhưng những hoạt động cụ thể về dạy
nghề/ tạo việc làm ở từng địa phương có người khuyết tật được nghiên cứu lại
chưa được đề cập đến.
Chung tay với Nhà nước, cộng đồng trong việc thực hiện chính sách,

chương trình trợ giúp người khuyết tật, năm 2006 với sự tài trợ của quỹ Ford,
Viện Nghiên cứu Phát triển Xã hội đã tiến hành một dự án nghiên cứu nhằm
phân tích tình hình người khuyết tật ở một số tỉnh có số người khuyết tật cao
ở Việt Nam đó là: Thái Bình, Quảng Nam, Đà Nẵng và Đồng Nai. Về mặt địa
lý những địa phương này trải dài từ miền Bắc qua miền Trung rồi đến miền
Nam để tăng thêm tính đa dạng của chủ đề nghiên cứu. Mục đích của dự án
nghiên cứu này chính là đánh giá tình hình kinh tế- xã hội mà người khuyết
tật bao gồm cả những người có thể bị ảnh hưởng của chất độc da cam. Nghiên
cứu xác định những khó khăn và nhu cầu cần trợ giúp của họ đồng thời cung
cấp thông tin giúp cho việc hoàn thiện chính sách cũng như thiết kế những
chương trình hỗ trợ hiệu quả. Như vậy, dự án nghiên cứu đã cụ thể hơn, chi
tiết hơn về đời sống của người khuyết tật Việt Nam ở cả ba miền đồng thời
tìm hiểu được những nhu cầu của người khuyết tật. Dự án cũng chỉ ra tình
trạng khuyết tật ảnh hưởng đến việc có việc làm của người khuyết tật, tỷ lệ


8
người khuyết tật không có việc làm ở 4 địa bàn nghiên cứu. Tuy nhiên, dự án
nghiên cứu mới đưa ra những kết quả chung nhất về những khó khăn của
người khuyết tật trong lĩnh vực như chăm sóc sức khỏe, giáo dục, dạy nghề và
việc làm, chưa thực sự đi sâu vào một địa phương hay một lĩnh vực cụ thể
như tạo việc làm cho người khuyết tật.
Trong “Tạo việc làm thông qua khôi phục và phát triển làng nghề
truyền thống” cho rằng giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp bằng
việc khôi phục, phát triển các làng nghề truyền thống là một phương hướng
chiến lược có ý nghĩa cả về kinh tế, văn hóa và xã hội. Nó vừa góp phần tạo
công ăn việc làm, thu hút lao động vừa nâng cao năng suất lao động, thu nhập
và đời sống của người dân nông thôn vừa thể hiện được giá trị văn hóa, tinh
thần của con người Việt Nam. Các sản phẩm truyền thống của các làng nghề
ở nước ta đã nổi tiếng từ xưa và được xuất khẩu sang nhiều nước trên thế giới.

Các làng nghề thủ công thu hút nhiều lao động, phương pháp chủ yếu là được
truyền nghề từ đời này sang đời khác, sản phẩm rất phong phú và đa dạng.
Chính vì vậy việc áp dụng những ngành nghề truyền thống sẽ là một hướng đi
trong hoạt động tạo việc làm cho người khuyết tật gắn với môi trường kinh tế
tại địa phương.
Trong “Tạo việc làm bền vững cho lao động là đối tượng yếu thế”
nhấn mạnh đến sự tác động của kinh tế thị trường đến nhóm yếu thế từ đó đưa
ra một số cách thức tạo việc làm bền vững cho người khuyết tật, mà yếu tố
đầu tiên nhấn mạnh đến dạy nghề cho người khuyết tật. Mục đích nhằm giúp
đỡ tạo công ăn việc làm cho người khuyết tật bởi ngoài ý nghĩa về mặt kinh
tế: Người khuyết tật được cải thiện và nâng cao cuộc sống thì xét về mặt xã
hội; người khuyết tật được hỗ trợ dạy nghề, tạo công ăn việc làm sẽ góp phần
cởi bỏ tâm lý mặc cảm, tự ti, vị thế của người khuyết tật được nâng lên bình
đẳng với các thành viên khác trong xã hội. Qua đó cũng đưa ra một số hoạt
động và mô hình hoạt động dạy nghề cho người khuyết tật, và những giải


9
pháp nâng cao hiệu quả công tác dạy nghề và tạo việc làm cho người khuyết
tật.
Như vậy, những vấn đề nghiên cứu, dự án nghiên cứu về việc làm cho
người khuyết tật còn dừng ở cấp độ vĩ mô chưa có nhiều bài viết đi sâu vào
những hoạt động cụ thể về dạy nghề/tạo việc làm tại một địa phương còn
nhiều khó khăn nhưng có số lượng người khuyết tật tương đối nhiều. Chính vì
thế, luận văn tập trung đi sâu, làm rõ hoạt động tạo việc làm cho người khuyết
tật tại hai cơ sở của huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình.
3. Ý nghĩa khoa học, ý nghĩa thực tiễn
3.1 Ý nghĩa khoa học
Nghiên cứu này đi sâu vào phân tích cho các lý thuyết xã hội học như:
lý thuyết hệ thống, lý thuyết nhu cầu để từ đó tìm ra cơ sở thực tiễn giải thích

cho các lý thuyết. Việc kiểm định những lý thuyết này sẽ góp phần đem lại
một cái nhìn thực tiễn, đầy đủ hơn với hệ thống tri thức của chuyên ngành
công tác xã hội.
3.2 Ý nghĩa thực tiễn
Câu hỏi làm thế nào để người khuyết tật tự nuôi sống bản thân, tự tin
hòa nhập cộng đồng trong bối cảnh hiện nay luôn cần được cả cộng đồng tìm
lời giải. Sự hỗ trợ của cộng đồng thông qua các quỹ, các phong trào dường
như mới dừng ở việc “cho con cá” chưa phải “cho cần câu” do vậy vẫn chưa
thực sự tìm được lời giải bền vững nhất, lâu dài nhất. Người khuyết tật cần
phải được dạy nghề và tạo việc làm để phát huy hết khả năng và sự sáng tạo.
Giai đoạn hiện nay, Yên Mô đang có những hoạt động tạo việc làm cho
người khuyết tật bước đầu đem đến những kết quả tích cực để nhằm khắc
phục tình trạng người khuyết tật đang trong độ tuổi lao động, còn khả năng
lao động nhưng không có việc làm.
Nghiên cứu hướng đến tìm hiểu thực trạng hoạt động tạo việc làm cho
người khuyết tật tại huyện Yên Mô của chủ hai cơ sở tư nhân tại xã Yên


10
Thắng và Khánh Thịnh, từ đó giúp cho các cơ sở tư nhân đang có xu hướng
tạo việc làm cho người khuyết tật có thêm một số dữ liệu và giải pháp trong
việc nâng cao chất lượng những hoạt động tạo việc làm cho người khuyết tật
đồng thời chỉ ra vai trò của nhân viên công tác xã hội trong hoạt động thực
tiễn cụ thể nhất.
4. Đối tƣợng và khách thể nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Hoạt động tạo việc làm cho người khuyết tật tại hai cơ sở tư nhân thuộc
huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình
4.2. Khách thể nghiên cứu
Cơ sở tư nhân tạo việc làm cho người khuyết tật và người khuyết tật tại

hai cơ sở thuộc xã Khánh Thịnh và Yên Thắng, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh
Bình.
5. Phạm vi nghiên cứu
Về không gian: Khảo sát được tiến hành tại hai cơ sở tư nhân trên địa
bàn xã Yên Thắng và Khánh Thịnh
Về thời gian: Khảo sát được tiến hành từ tháng 11 năm 2012 đến tháng
11 năm 2013.
Về lĩnh vực nghiên cứu: Tìm hiểu thực trạng những hoạt động tạo việc
làm cho người khuyết tật tại hai cơ sở tư nhân Yên Thắng và Khánh Thịnh.
6. Câu hỏi nghiên cứu
- Thực trạng hoạt động tạo việc làm cho người khuyết tật tại hai cơ sở
tư nhân trên địa bàn hai xã?
- Những thuận lợi và khó khăn trong hoạt động tạo việc làm cho người
khuyết tật tại hai cơ sở trên?
- Giải pháp nào cho hoạt động tạo việc làm cho người khuyết tật tại
huyện Yên Mô tỉnh Ninh Bình?


11
- Công tác xã hội có vai trò như thế nào trong cải thiện và thay đổi tình
hình hiện tại?
7. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
7.1 Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu đề tài nhằm tìm hiểu thực trạng của hoạt động tạo việc làm
cho người khuyết tật tại hai cơ sở tư nhân trên địa bàn huyện Yên Mô.
Trên cơ sở đó đề tài góp phần đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao
hiệu quả tạo việc làm cho người khuyết tật.
Đồng thời đưa ra vai trò cần thiết của nhân viên công tác xã hội trong
hoạt động dạy nghề và tạo việc làm cho người khuyết tật.
7.2 Nhiệm vụ nghiên cứu

Tìm hiểu về tình hình người khuyết tật tại hai cơ sở trên địa bàn xã Yên
Thắng và Khánh Thịnh
Tìm hiểu về thực trạng hoạt động tạo việc làm cho người khuyết tật tại
hai cơ sở trên địa bàn hai xã.
Từ đó tìm ra những thuận lợi và khó khăn trong hoạt động tạo việc làm.
Đề xuất một số giải pháp, khuyến nghị nhằm nâng cao hiệu quả hoạt
động tạo việc làm cho người khuyết tật đặc biệt là vai trò của nhân viên công
tác xã hội.
8. Phƣơng pháp nghiên cứu
8.1. Phương pháp luận nghiên cứu
8.1.1 Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin
Chủ nghĩa Mác – Lênin giúp chúng ta có cách nhìn đúng đắn và toàn
diện về thế giới khách quan. Trong đó, chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử đã phát hiện những quy luật cơ bản thể hiện sự luận giải
và là nguyên tắc cho nhiều khoa học nói chung. Con người là một thực thể
thống nhất giữa các yếu tố sinh vật và xã hội, đồng thời: “Bản chất con người
không phải là một cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính


12
hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa những quan hệ xã hội”. Bản
chất con người theo quan điểm của Mác được hình thành và thể hiện ở những
con người hiện thực. Là những con người cụ thể sống trong những điều kiện
cụ thể, những mặt khác nhau tạo nên bản chất con người. Ngoài ra tất cả các
mối quan hệ xã hội đều góp phần hình thành nên bản chất con người. Các
quan hệ này có vị trí vai trò khác nhau nhưng không tách rời nhau mà tác
động qua lại lẫn nhau. Từ đó phát triển con người là một điểm mấu chốt để
phát triển kinh tế xã hội.
Vận dụng quan điểm trên vào đề tài, có thể thấy rằng hoạt động tạo
việc làm cho người khuyết tật là một vấn đề cấp thiết trong tình hình kinh tế

xã hội hiện nay. Việc làm có ý nghĩa quyết định đến việc phát triển con
người, giúp người khuyết tật hòa nhập cộng đồng, phát triển khả năng bản
thân đóng góp tích cực vào xã hội. Thông qua việc làm, người khuyết tật có
được cơ hội được giao lưu, học hỏi nhưng hơn hết việc làm cho người khuyết
tật góp phần thể hiện việc “tổng hòa các mối quan hệ xã hội” của người
khuyết tật.
9.1.2 Quan điểm của Đảng và Nhà nước ta
Nhà nước luôn có những chính sách, chế độ tạo điều kiện thuận lợi cho
người khuyết tật có cơ hội có được việc làm thể hiện trong hiến pháp năm
1959, 1980 và 1992. Chính phủ cũng đã ban hành thông tư 51/Ttg ngày
17/5/1965, thông tư 202/CP ngày 26/11/1966; nghị quyết 196/CP ngày
16/10/1972, quyết định 284/CP ngày 23/12/1974 và sau đó liên Bộ đã có
nhiều thông tư liên tịch hướng dẫn cụ thể các ngành, các cấp, các chính quyền
địa phương về trợ giúp và tạo việc làm cho người khuyết tật trong các nhà
máy, cơ quan, xí nghiệp của Nhà nước, trong các hợp tác xã và các cơ sở sản
xuất kinh doanh dành riêng cho người khuyết tật. Chính sách đã đề cập đến
các vấn đề ưu tiên, ưu đãi cụ thể như: cấp đất đai nơi thuận lợi, việc hỗ trợ
vốn của Nhà nước để dạy văn hóa, dạy nghề; xây dựng nhà xưởng; mua sắm


13
trang thiết bị, máy móc; ưu tiên cung cấp vật tư, nguyên liệu; tiêu thụ sản
phẩm; dành tặng mặt hàng phù hợp; ưu tiên vay vốn Nhà nước với lãi xuất
thấp; miễn giảm các loại thuế…Nhìn chung người khuyết tật ở Việt Nam vào
những năm trước 1990 về cơ bản mọi người khuyết tật đều có việc làm trong
cơ quan, xí nghiệp của Nhà nước, hoặc được sắp xếp công việc thích hợp
trong các loại hình hợp tác xã tập trung hay trong các cơ sở dành riêng được
Nhà nước bảo trợ; một số ít ở nhà giúp việc gia đình khi khó khăn được Nhà
nước hỗ trợ thêm.
Bộ luật lao động năm 1994 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2002 và năm

2006 dành riêng mục III, chương XI quy định về lao động là người tàn tật.
Vào ngày 17/6/2010, Quốc hô
̣
i nươ
́
c Cô
̣
ng hoa
̀
xa
̃

̣
i chu
̉
ng hĩa Việt Nam đã
thông qua Luâ
̣
t ngươ
̀
i khuyết tâ
̣
t (số 51/2010/QH12) gồm có 10 chương, 53
điều, Luật Người khuyết tật đã có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2011. Luật
người khuyết tật có nô
̣
i dung mơ
̉

̣

ng hơn về quyền cu
̉
a ngươ
̀
i khuyết tâ
̣
t ,
việc chăm sóc sức khỏe, giáo dục, dạy nghề và việc làm đối với người khuyết
tật; bảo trợ xã hội đối với người khuyết tật; trách nhiệm của các cơ quan nhà
nước về công tác người khuyết tật. Đặc biệt Luật người khuyết tật dành
chương V dạy nghề và việc làm cho người khuyết tật quy định trách nhiệm
của các cơ quan đồng thời khuyến khích những cơ sở sản xuất kinh doanh sử
dụng lao động là người khuyết tật. Luâ
̣
t Ngươ
̀
i khuyết tâ
̣
t chắc chắn sẽ phát
huy được vai trò, trách nhiệm của cộng đồng, gia đình và xã hội đối với người
khuyết tật.
Ngoài ra, Đề án trợ giúp người tàn tật Việt Nam giai đoạn 2012 – 2020
nhằm hỗ trợ người khuyết tật phát huy khả năng của mình để đáp ứng nhu cầu
bản thân; tạo điều kiện để người khuyết tật vươn lên tham gia bình đẳng vào
các hoạt động kinh tế - xã hội, góp phần xây dựng cộng đồng và xã hội.
Như vậy hiện nay chúng ta đã có một hệ thống chính sách và luật pháp
tương đối đầy đủ và đồng bộ đối với vấn đề dạy nghề và tạo việc làm cho


14

người khuyết tật. Tuy nhiên vấn đề đặt ra chính là việc áp dụng hệ thống
chính sách và luật pháp này vào thực tế như thế nào và đạt kết quả ra sao
nhằm tạo điều liện phát huy mặt mạnh của hệ thống chính sách này.
9.2 Phương pháp nghiên cứu cụ thể
9.2.1 Phương pháp phân tích tài liệu
Là phương pháp thu thập thông tin qua những tài liệu sơ cấp và thứ
cấp. Đây là phương pháp đầu tiên tôi sử dụng trong luận văn nhằm nắm bắt
được những thông tin liên quan đến vấn đề, từ đó thấy được tính cấp thiết của
việc nghiên cứu đề tài. Nguồn tài liệu như các công trình nghiên cứu, bài tạp
chí, sách và các bài viết có liên quan trên mạng internet. Tôi đã tiến hành thu
thập một số thông tin liên quan đến đề tài nghiên cứu như: Đề án trợ giúp
người tàn tật Việt Nam giai đoạn 2012 - 2020, Báo cáo về hoạt động hỗ trợ
người khuyết tật Việt Nam, Dạy nghề/ việc làm cho người khuyết tật Việt
Nam…Trên cơ sở những thông tin thu được, tôi tiến hành xử lý, phân tích và
nêu ra nhằm giải quyết các vấn đề trong giả thuyết nghiên cứu.
9.2.2 Phương pháp phỏng vấn sâu cá nhân
Phương pháp này được sử dụng để thu thập những thông tin mang tính
chiều sâu, những vấn đề chưa được đề cập, cần được làm rõ hơn thông qua
chia sẻ của những người được phỏng vấn. Thông qua quá trình phỏng vấn,
người nghiên cứu cũng có khả năng kiểm chứng mức độ tin cậy của thông tin
thu được và có thể dẫn dắt người được phỏng vấn theo định hướng của nhà
nghiên cứu, nhằm thu được thông tin cần thiết cho đề tài.
Phương pháp phỏng vấn sâu giúp chúng ta hiểu sâu về bản chất của
những hoạt động tạo việc làm cho người khuyết tật tại huyện Yên Mô, tỉnh
Ninh Bình; những thuận lợi, khó khăn trong hoạt động này tại hai cơ sở tư
nhân.
Trong đề tài này, tôi đã tiến hành phỏng vấn sâu 9 người khuyết tật tại
2 cơ sở trên địa bàn xã Khánh Thịnh và Yên Thắng; 2 chủ sử dụng lao động



15
khuyết tật, 2 cán bộ Phòng lao động thương binh và xã hội huyện, từ đó làm
rõ hơn vấn đề đang nghiên cứu.
9.2.3. Phương pháp trưng cầu ý kiến bằng bảng hỏi.
Bảng hỏi là một công cụ quan trọng trong nhận thức thực nghiệm. Nó
là sự thể hiện bên ngoài của chương trình nghiên cứu. Bảng hỏi là một hệ
thống các câu hỏi được xếp đặt trên cơ sở các nguyên tắc, tâm lý, logic và
theo nội dung nhất định nhằm tạo điều kiện cho người được hỏi thể hiện được
quan đeiểm của mình với những vấn đề thuộc về đối tượng nghiên cứu và
người nghiên cứu thu nhận được các thông tin cá biệt đầu tiên đáp ứng các
yêu cầu của đề tài và mục tiêu nghiên cứu.
Cũng tuân theo những nguyên tắc cơ bản của việc xây dựng bảng hỏi,
tuy nhiên phương pháp trưng cầu ý kiến bằng bảng hỏi có những yêu cầu tỉ mỉ
và chi tiết hơn như: tất cả các câu hỏi cần phải được diễn đạt sao cho khi đọc
lên ai cũng hiểu được ý nghĩ của nó và sẵn sàng cung cấp thông tin, việc trình
bày cũng phải rõ ràng, sạch đẹp để thể hiện sự tôn trọng đối với người được
nghiên cứu.
Luận văn sử dụng phương pháp điều tra khảo sát qua phiếu trưng cầu ý
kiến với kích thước mẫu là 76 mẫu.
9.2.4 Phương pháp quan sát
Quan sát là bao trùm tất cả các cách thức, quy tắc để tiếp cận và thu
nhận được các thông tin thực nghiệm từ thực tế xã hội. Đây là phương pháp
tạo ra những ấn tượng trực tiếp về các sự kiện, quá trình và hành vi xã hội.
Trong quan sát người quan sát cảm nhận trực tiếp những hành vi, những sự
kiện và các quá trình. Quan sát cho phép ghi lại những biến đổi khác nhau của
đối tượng được nghiên cứu vào lúc nó xuất hiện. Nó cũng cho phép thấy được
sự phát triển của các biến cố, cho phép nghiên cứu được thái độ của những
thành viên của nhóm trong môi trường tự nhiên. Qua quan sát sẽ thấy được
các một cách trực tiếp thái độ của cá nhân trong các tình huống tương tự. Như



16
vậy người quan sát với những kinh nghiệm thực tế nhất định, trong quá trình
tri giác liên tục, đối chiếu cái cảm nhận được trực tiếp từ thực tế với những
cái đã biết để đi đến kết luận phù hợp với kinh nghiệm của người quan sát.
Quan sát rất có giá trị khi nghiên cứu bản chất sâu lắng của hiện tượng,
nghiên cứu về những nguyên nhân, động cơ của những hoạt động, nghiên cứu
về cơ cấu của các mối quan hệ trong nhóm xã hội.
Trong luận văn, phương pháp quan sát được sử dụng để ghi lại những
nguyện vọng, mong muốn, mức độ hài lòng từ bản thân của người khuyết tật
và của người sử dụng lao động khuyết tật tại hai cơ sở Yên Thắng và Khánh
Thịnh.


.




17
NỘI DUNG LUẬN VĂN
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA NGHIÊN CÚU
1.1 Lý thuyết ứng dụng
1.1.1 Lý thuyết hệ thống
Lý thuyết có vai trò quan trọng và không thể thiếu trong thực hành
công tác xã hội. Việc áp dụng lý thuyết như thế nào để giải quyết vấn đề sẽ
biểu hiện sự chuyên nghiệp của hoạt động công tác xã hội. Lý thuyết chính là
nền tảng, là kim chỉ nam cho hành động. Trong hoạt động tạo việc làm cho
người khuyết tật huyện Yên Mô, tôi lựa chọn lý thuyết hệ thống để tiếp cận và
giải quyết vấn đề một cách hiệu quả nhất.

Quan niệm hệ thống được đưa vào quản lý và tâm lý từ những năm
1940,1950 và được đưa vào công tác xã hội những năm 1970. Hệ thống có thể
được quan niệm từ nhiều góc độ như cấu trúc, quá trình, trạng thái, chuyển
dịch hay góc độ bản chất. Từ góc độ cấu trúc, hệ thống được quan niệm là có
một ranh giới trong đó các năng lượng vật lý hay tâm thần có thể trao đổi. Có
hai loại hệ thống đó là hệ thống đóng và hệ thống mở. Việc đóng hay mở phụ
thuộc vào sự trao đổi năng lượng qua ranh giới hay không. Từ góc độ quá
trình, hệ thống có đầu vào (là năng lượng được đưa vào hệ thống qua ranh
giới của nó), chuyển vận (là năng lượng được chuyển vận để sử dụng bên
trong hệ thống), đầu ra (là hiệu quả đối với môi trường sau khi năng lượng
được chuyển vận để sử dụng bên trong hệ thống), phản hồi (là kết quả của đầu
ra), nội vận (là hệ thống tự sử dụng năng lượng của bản thân nó để vận động).
Từ góc độ trạng thái, hệ thống, có: trạng thái ổn định, trạng thái cân bằng, tác
động qua lại khi một bộ phận của hệ thống thay đổi sẽ ảnh hưởng đến các bộ
phận khác và chúng cũng thay đổi theo. Từ góc độ chuyển dịch có hai hướng
là cùng đích (từ nhiều cách khác nhau có thể đi tới cùng đích) và đa đích (tức
là cùng điều kiện hoàn cảnh như nhau có thể đi tới các đích khác nhau). Từ
góc độ bản chất, hệ thống không chính thức hay hệ thống tự nhiên như gia


18
đình, bạn bè; hệ thống chính thức như cộng đồng, nhóm; hệ thống xã hội như
bệnh viện, trường học.
Lý thuyết hệ thống trong công tác xã hội ứng dụng các khái niệm về hệ
thống nói chung, coi mỗi hệ thống có một ranh giới nhất định; một hệ thống
có thể bao gồm các hệ thống phụ và nằm trong một hệ thống lớn hơn; các hệ
thống có thể trao đổi với nhau hay khép kín; một tác động đầu vào sẽ dẫn tới
một sản phẩm đầu ra qua hệ thống; một hệ thống có thể ổn định hay biến
động. Hơn nữa, lý thuyết hệ thống trong công tác xã hội nhấn mạnh yếu tố xã
hội song lại được sử dụng để làm việc với các cá thể.

Hoạt động tạo việc làm cho người khuyết tật tại huyện Yên Mô, tỉnh
Ninh Bình, ứng dụng hợp lý cho cách tiếp cận hệ thống. Cách tiếp cận hệ
thống đưa lại cách nhìn nhận vấn đề một cách tổng quát nhất. Qua đó, tìm
hiểu được những yếu tố tác động đến hệ thống như: đầu ra, đầu vào, sự
chuyển dịch, tự vận. Hoạt động tạo việc làm cho một số lượng lớn người
khuyết tật nằm trong độ tuổi lao động, còn khả năng lao động tại một huyện
thuần nông, điều kiện kinh tế còn nhiều khó khăn, mức sống của người dân
chưa cao cần được cả cộng đồng quan tâm, giải quyết. Bằng phương pháp tiếp
cận hệ thống sẽ liệt kê cụ thể những yếu tố tác động, ảnh hưởng đến vấn đề
tạo việc làm cho người khuyết tật. Điều đó bắt nguồn từ chính bản thân người
khuyết tật, sự cố gắng và nỗ lực vượt qua khó khăn của người khuyết tật.
Nhưng cũng có thể bắt nguồn từ yếu tố bên ngoài như việc thực thi chính sách
của Đảng và Nhà nước, người khuyết tật chưa được học nghề hay được học
nghề nhưng chưa có việc làm, bản thân gia đình người khuyết tật chưa thực sự
quan tâm đến vấn đề việc làm của người khuyết tật, nhận thức của cộng đồng,
doanh nghiệp về nhận người khuyết tật vào làm việc còn nhiều hạn chế. Cộng
đồng người khuyết tật đang sinh sống đã thực hiện những vai trò thế nào,
doanh nghiệp trên địa bàn huyện đã nhận người khuyết tật vào làm việc hay
chưa? Để hoạt động tạo việc làm cho người khuyết tật thực sự bền vững, lâu


19
dài luôn cần phương pháp tổng thể để phân tích, tổng hợp dữ kiện từ yếu tố
bên trong, yếu tố bên ngoài để tìm ra hướng giải quyết phù hợp nhất, tính ứng
dụng cao nhất cụ thể như sau:
Từ việc xác định đầu vào, đầu ra cho hệ thống sẽ tìm ra yếu tố chủ chốt
và mang tính quyết định cho hoạt động tạo việc làm cho người khuyết tật.
Điều quan trọng nhất chính là với cách tiếp cận hệ thống chúng ta có thể tiến
hành đánh giá chính xác vấn đề cũng như những giải pháp hiệu quả. Bản thân
người khuyết tật là một tiểu hệ thống, vấn đề tạo việc làm cho người khuyết

tật là một tiểu hệ thống, môi trường kinh tế xã hội huyện yên mô, các chính
sách xã hội đang được triển khai tại huyện Yên mô cũng là những tiểu hệ
thống, vậy làm thế nào để những tiểu hệ thống này có thể trao đổi tương tác
lẫn nhau để cùng nhau giải quyết vấn đề. Một điểm đáng chú ý trong việc vận
dụng lý thuyết hệ thống chính là sự linh động của mỗi hệ thống, nó vừa có thể
dung hòa bản thân nội tại trong hệ thống của mình vừa có thể phối hợp với
những hệ thống khác để giải quyết vấn đề một cách tốt nhất. Đó là sự trao đổi
năng lượng qua ranh giới, hiểu được điều này nhân viên công tác xã hội sẽ
biết cách xác định mục tiêu, từ mục tiêu tác động vào mỗi hệ thống để giải
quyết vấn đề một cách hiệu quả. Nhân viên công tác xã hội sẽ là người điều
phối những nguồn lực, những yếu tố bên ngoài để giúp vấn đề được giải
quyết, vấn đề tạo việc làm cho người khuyết tật sẽ được giải quyết khi nó đã
được xác định rõ ràng các yếu tố đồng thời nhân viên công tác xã hội là người
tham vấn, truyền cảm hứng, tình yêu, sự lạc quan để người khuyết tật có thể
xóa bỏ tự ti, mặc cảm và vượt qua khó khăn để hòa nhập với cộng đồng.

×