Tải bản đầy đủ (.pdf) (127 trang)

Nhu cầu và thực trạng hoạt động nghề công tác xã hội hiện nay qua đánh giá của nhân viên công tác xã hội tại Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.63 MB, 127 trang )

i

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN



TRẦN THANH HƯƠNG



NHU CẦU VÀ THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG NGHỀ
CÔNG TÁC XÃ HỘI HIỆN NAY QUA ĐÁNH GIÁ
CỦA NHÂN VIÊN CÔNG TÁC XÃ HỘI TẠI HÀ NỘI
LUẬN VĂN THẠC SỸ XÃ HỘI HỌC




Hà Nội - 2012
ii


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

TRẦN THANH HƯƠNG

NHU CẦU VÀ THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG NGHỀ
CÔNG TÁC XÃ HỘI HIỆN NAY QUA ĐÁNH GIÁ
CỦA NHÂN VIÊN CÔNG TÁC XÃ HỘI TẠI HÀ NỘI



Chuyên ngành: Xã hội học
Mã số:60 31 30
LUẬN VĂN THẠC SỸ XÃ HỘI HỌC


Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Thị Thu Hà
Hà Nội - 2012

LỜI CAM ĐOAN
v

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
1. Lý do chọn đề tài 1
2. Tổng quan vấn đề nghiên cứu 3
3. Ý nghĩa của đề tài 8
3.1.Ý nghĩa lý luận 8
3.2 Ý nghĩa thực tiễn 8
4. Câu hỏi nghiên cứu, mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài 9
4.1. Câu hỏi nghiên cứu: 9
4.2.Mục đích nghiên cứu 9
4.3. Nhiệm vụ nghiên cứu 9
5. Đối tƣợng, khách thể và phạm vi nghiên cứu 10
5.1. Đối tượng nghiên cứu 10
5.2. Khách thể nghiên cứu 10
5.3. Phạm vi nghiên cứu 10
6. Phƣơng pháp nghiên cứu 10
6.1. Phương pháp luận nghiên cứu 10
6.2. Phương pháp thu thập thông tin 11

6.2.1. Phương pháp phân tích tài liệu 11
6.2.2. Phương pháp phỏng vấn sâu 12
6.2.3. Phương pháp thảo luận nhóm 13
6.2.4. Phương pháp quan sát 13
7. Giả thuyết nghiên cứu và khung lý thuyết 14
7.1. Giả thuyết nghiên cứu 14
7.2. Khung lý thuyết 11
NỘI DUNG CHÍNH 12
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI 12
1.1.Một số lý thuyết xã hội học vận dụng trong nghiên cứu 12
1.2. Hệ thống khái niệm công cụ 16
vi

1.2.1. Khái niệm nghề: 16
1.2.2. Công tác xã hội và nghề CTXH 16
1.2.3. Nhân viên CTXH 19
1.2.4. Khái niệm mạng lưới CTXH 20
1.2.5. Khái niệm nhu cầu xã hội 21
1.3. Tổng quan về địa bàn nghiên cứu 21
Chƣơng 2: ĐÁNH GIÁ CỦA NHÂN VIÊN CTXH VỀ NHU CẦU HOẠT
ĐỘNG NGHỀ CTXH HIỆN NAY 24
2.1. Nhận thức của nhân viên CTXH về nghề CTXH 24
2.2. Vai trò của hoạt động CTXH qua ý kiến đánh giá của NV CTXH 33
2.3. Đánh giá nhu cầu xã hội về hoạt động CTXH trong một số lĩnh vực 40
Chƣơng 3: ĐÁNH GIÁ CỦA NHÂN VIÊN CTXH VỀ THỰC TRẠNG HOẠT
ĐỘNG NGHỀ CTXH HIỆN NAY 50
3.1. Đánh giá của nhân viên CTXH về chính sách CTXH hiện nay 51
3.2. Thực trạng nguồn nhân lực CTXH 54
3.2.1. Số lượng nhân lực CTXH hiện nay 54
3.2.2. Chất lượng nhân lực CTXH 55

3.3. Thực trạng mạng lưới CTXH 65
3.4. Hiệu quả bước đầu của hoạt động CTXH 69
3.5. Một số khuyến nghị về giải pháp phát triển nghề công tác xã hội trong giai
đoạn tới 73
KẾT LUẬN 78
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 81
PHỤ LỤC






vii



DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

- CTXH Công tác xã hội
- NV CTXH Nhân viên CTXH
- LĐTBXH Lao động thương binh Xã hội
- CBXH Cán bộ xã hội






















viii


DANH MỤC BẢNG BIỂU

Danh mục các bảng Trang

Bảng 2.1. Nhận thức của cán bộ CTXH về hoạt động nghề CTXH 26
Bảng 2.2. Đánh giá của nhân viên CTXH về nhu cầu của xã hội với CTXH hiện nay
42
Bảng 2.3. Đánh giá của nhân viên CTXH về lĩnh vực đòi hỏi nhu cầu CTXH… 44
Bảng 2.4. Thảo luận nhóm nhân viên CTXH đánh giá lĩnh vực hoạt động đòi hỏi
nhu cầu cao về hoạt động nghề CTXH ở Hà Nội hiện nay 49
Bảng 3.1. Đánh giá của nhân viên CTXH tại Hà Nội về hệ thống chính sách CTXH
hiện nay ……………52
Bảng 3.2. Nhận xét của nhân viên CTXH về cán bộ làm CTXH tại Hà Nội………60

Bảng 3.3. Đánh giá của nhân viên CTXH về hiệu quả hoạt động CTXH trong cơ
quan ………… 70

Danh mục hình biểu đồ

Biểu đồ 2.1: Đánh giá của nhân viên CTXH về vai trò CTXH 35
Biểu đồ 3.2: Đánh giá của nhân viên CTXH về mạng lưới CTXH……………… 56
Biểu đồ 3.1: Nhận xét của nhân viên CTXH cán bộ làm CTXH tại Hà Nội…67
1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Việt Nam cũng như các nước khác trên thế giới bên cạnh những tiến bộ xã
hội đạt được còn có các vấn đề xã hội mới nảy sinh cùng với sự phát triển kinh tế.
Quá trình đô thị hóa diễn ra nhanh lối sống của cá nhân cũng bị thay đổi, giá trị kinh
tế chi phối mối quan hệ của con người, các thành viên trong gia đình ít có thời gian
quan tâm đến nhau đặc biệt là việc chăm sóc những thành viên yếu thế trong gia
đình: người già, trẻ em, người khuyết tật. Qua số liệu thống kê hiện nay cho thấy
trẻ em, phụ nữ thường là nạn nhân của bạo lực gia đình, họ cũng chính là nhóm
người bị ảnh hưởng bởi nguy cơ đói nghèo bệnh tật. Hàng loạt vấn đề xã hội nảy
sinh như: mại dâm, ma túy nghiện rươu thường xuyên gắn liền với thất nghiệp và ít
cơ hội phát triển kinh tế. Cùng với vấn đề xã hội sức khỏe con người cũng bị ảnh
hưởng bởi sự phát triển của kinh tế. Điều đó đòi hỏi phải có các nhà chuyên môn có
kiến thức, kỹ năng chuyên nghiệp.
Theo thống kê Bộ lao động thương binh Xã hội năm 2010 nước ta có khoảng
7,5 triệu người cao tuổi, 5.4 triệu người tàn tật, 1.7 triệu trẻ em có hoàn cảnh đặc
biệt, khoảng 3.5 triệu hộ gia đình thuộc hộ nghèo và cận nghèo. Hiện nay cả nước
có 500 cơ sở bảo trợ xã hội dành cho người già cô đơn, trẻ mồ côi, trẻ khuyêt tật,
nhiễm độc da cam và các trung tâm 05, 06 dành cho người nghiện ma túy, những
người từng hành nghề mại dâm cùng nhiều đối tượng khác cần có sự bảo vệ hỗ trợ

của những nhân viên công tác xã hội [10]. Bên cạnh đó là các vấn đề xã hội nảy
sinh như tệ nạn xã hội, cuộc sống nghèo khổ, vấn đề phát sinh trong nhóm gia đình
tại các đô thị, làng quê chịu ảnh hưởng trong quá trình công nghiệp hóa - hiện đại
hóa, khoảng cách giầu nghèo giữa khu vực ngày càng tăng.
Để đạt được mục tiêu công nghiệp hoá - hiện đại hoá giải quyết vấn đề xã
hội chúng ta cần phải chuyên môn hoá các hoạt động nghề nghiệp. Công tác xã hội
đã ra đời đáp ứng nhu cầu xã hội phát triển và có vai trò quan trọng trong đời sống,
bảo vệ quyền con người, nâng cao chất lượng cuộc sống tinh thần của cá nhân và
gia đình. Công tác xã hội ra đời góp phần hình thành những giải pháp cho các hậu
2

quả xã hội tiêu cực tất yếu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đó là sự thay đổi
trong cấu trúc và khủng hoảng gia đình, khoảng cách giàu nghèo, trẻ em lang thang,
người già cô đơn, các tệ nạn xã hội mại dâm, ma túy Công tác xã hội phát triển
góp phần thực hiện hiệu quả công bằng xã hội, giải quyết vấn đề nghèo đói và các
vấn đề xã hội phức tạp khác mà nước ta cũng như các nước đang phát triển trên thế
giới phải đối mặt. Công tác xã hội ở nước ta hiện nay đã được coi là một nghề. Với
mục tiêu nhằm nâng cao nhận thức của toàn xã hội về nghề công tác xã hội, xây
dựng đội ngũ cán bộ, viên chức, nhân viên và cộng tác viên công tác xã hội đủ về số
lượng, đạt yêu cầu về chất lượng gắn với phát triển hệ thống cơ sở cung cấp dịch vụ
công tác xã hội tại các cấp, góp phần xây dựng hệ thống an sinh xã hội đảm bảo
công bằng ổn định xã hội.
Những tác động của quá trình chuyển đổi sang kinh tế thị trường đã xuất
hiện nhiều đối tượng mới cần sự tư vấn và trợ giúp xã hội. Sự xuất hiện đa dạng của
các nhóm đối tượng dễ bị tổn thương cùng các nhu cầu hỗ trợ rất khác nhau cho
thấy công tác xã hội đóng vai trò không thể thay thế trong việc cung cấp các dịch
vụ xã hội. Phát triển công tác xã hội là một đòi hỏi khách quan trong quá trình phát
triển kinh tế xã hội. Tuy nhiên, công tác xã hội ở Việt Nam mới ở giai đoạn khởi
đầu, là một nghề mới. Đội ngũ cán bộ nhân viên công tác xã hội còn thiếu và chưa
chuyên nghiệp. Số cán bộ được đào tạo đúng chuyên môn chiếm tỷ lệ thấp, chủ yếu

là qua các lớp ngắn hạn về CTXH, các cán bộ không đúng chuyên ngành chiếm một
tỷ lệ lớn. Mặc dù thâm niên công tác của nhân viên công tác xã hội tương đối cao
nhưng chuyên môn, nghiệp vụ của họ lại rải rác ở nhiều lĩnh vực như y tế, điều
dưỡng, giảng dạy, luật, xã hội học, kế toán Nhu cầu xã hội lớn nhưng có những
đối tượng chỉ nhận được các hoạt động trợ cấp xã hội của đội ngũ cán bộ CTXH
không chuyên ở các trung tâm bảo trợ xã hội, Hội chữ thập đỏ, các đoàn thể xã
hội Do vậy, hiệu quả giải quyết các vấn đề xã hội, vấn đề của cá nhân, gia đình,
nhóm và cộng đồng dân cư không cao, thiếu tính bền vững. Ngày 25/3/2010 Thủ
tướng Chính phủ đã ra quyết định đề án 32, công nhận CTXH là một nghề đồng
thời cũng quy định giai đoạn 2010 – 2015 cần “phát triển đội ngũ cán bộ, viên chức,
3

nhân viên, cộng tác viên CTXH trong cả nước, phấn đấu đến năm 2015 tăng
khoảng 10%. Trong đó mỗi xã phường, thị trấn ít nhất có từ 01 đến 02 cán bộ, viên
chức, nhân viên CTXH thuộc chức danh không chuyên trách hoặc cộng tác viên
công tác xã hội. Bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ và tập huấn
kỹ năng cho 50% số cán bộ, viên chức và nhân viên cộng tác viên CTXH đang làm
việc tại các xã phường, thị trấn, các cơ sở cung cấp dịch vụ CTXH” [3].
Hà Nội là một trong những thành phố phát triển của cả nước nơi diễn ra quá
trình đô thị hóa nhanh chóng kéo theo những các vấn đề, tệ nạn xã hội. Đồng thời là
nơi có nhiều trung tâm dịch vụ, cán bộ CTXH ở các cấp ngành khác nhau. Nhân
viên công tác xã hội là những người đã được đào tạo hoặc làm việc trong lĩnh vực
công tác xã hội. Họ là những người có hiểu biết tương đối đối việc phát triển
CTXH. Việc đánh giá của nhân viên CTXH được xem là nguồn thông tin đáng tin
cậy để từ đó có thể đánh giá xem xét sự phát triển CTXH nước ta đang diễn ra như
thế nào, sự phát triển ấy đã đáp ứng nhu cầu về phát triển CTXH chưa. Trong quá
trình phát triển nghề CTXH có cần phải thay đổi gì để phát triển nghề CTXH theo
hướng chuyên nghiệp đáp ứng yêu cầu mục tiêu đề án 32 của Chính phủ trong giai
đoạn tới. Vì vậy, chúng tôi chọn đề tài “Nhu cầu và thực trạng hoạt động nghề
công tác xã hội hiện nay qua đánh giá của nhân viên công tác xã hội tại Hà

Nội”.
2. Tổng quan vấn đề nghiên cứu
Những vấn đề trong lĩnh vực hoạt động CTXH đã thu hút được sự chú ý của
các nhà nghiên cứu đặc biệt là trong những năm gần đây. Bởi tính cấp thiết của
CTXH ra đời đáp ứng nhu cầu xã hội, phát triển hệ thống an sinh xã hội. Một số
khía cạnh trong nghiên cứu CTXH như: nghiên cứu về nguồn nhân lực, nhu cầu đào
tạo CTXH, mạng lưới dịch vụ CTXH, những lĩnh vực đòi hỏi đáp ứng nhu cầu
CTXH, hệ thống cơ sở thực hành CTXH.
Nghiên cứu về nhu cầu đào tạo và nhu cầu xã hội đối với CTXH
Theo kết quả nghiên cứu “Nguồn nhân lực và nhu cầu đào tạo công tác xã
hội ở Việt Nam” – do Trường Đại học Lao động - Xã hội, Bộ Giáo dục và Đào tạo
4

tiến hành trên địa bàn 4 tỉnh, thành phố (Hà Nội, Lạng Sơn, Tp Hồ Chí Minh, và
Đồng Tháp) với sự hỗ trợ kỹ thuật và tài chính của Unicef, năm 2005. Nghiên cứu
đưa ra những số liệu định lượng về thực trạng phát triển công tác xã hội. Đồng thời
tác giả phân tích bối cảnh phát triển công tác xã hội ở nước ta gắn liền với mục tiêu
xoá đói giảm nghèo, công bằng trong tiếp nhận những lợi ích từ sự phát triển kinh
tế. Việc phát triển công tác xã hội như một nghề được xem như việc giải quyết sự
gia tăng của các vấn đề xã hội đi kèm theo phát triển kinh tế và đáp ứng đòi hỏi phải
có cách tiếp cận mang tính khoa học và hệ thống. Tác giả đặt ra những câu hỏi để
phát triển nghề công tác xã hội ở Việt Nam như: Nhiệm vụ của công tác xã hội, việc
đào tạo nên được mở rộng ở cấp nào và phát triển như thế nào, làm thế nào để có
thể phát triển công tác xã hội một cách tập thể… Để có thể nắm bắt được bức tranh
toàn cảnh về thực trạng công tác xã hội tại Việt Nam, Phòng bảo vệ trẻ em của
UNICEF Việt Nam kết hợp cùng với Bộ Lao động thương binh Xã hội, Ủy ban dân
số Gia đình và Trẻ em, Bộ giáo dục Đào tạo và 3 trường đại học để tiến hành một
cuộc khảo sát và phân tích hiện trạng về lĩnh vực an sinh xã hội, phạm vi kiến thức
về công tác xã hội và các quan điểm của nhiều tổ chức, ban ngành liên quan về phát
triển công tác xã hội như một nghề ở Việt Nam. Kết quả nghiên cứu cho thấy những

người trả lời (60%) cho rằng họ đã được đào tạo công tác xã hội. Việc đào tạo này
phần lớn nhằm nói đến các khoá đào tạo ngắn hạn được cấp chứng chỉ, và chỉ có
khoảng từ 15% đến 20% được đào tạo công tác xã hội cấp đại học. Một số người trả
lời họ được đào tạo công tác xã hội thực tế là những người có bằng đại học của một
chuyên ngành hoặc lĩnh vực khác và họ có học qua những lớp đào tạo tại chức về
công tác xã hội. Loại hình công việc các cán bộ đang đảm nhận phần lớn là làm việc
với cá nhân, gia đình và phát triển cộng đồng, còn công tác tham vấn, quản lý
chương trình và công tác hành chính là loại hình công việc chiếm phần nhỏ nhất. Từ
những kết quả nghiên cứu như vậy, tác giả thảo luận khung chương trình phát triển
công tác xã hội và đưa ra một số ý tưởng cho phát triển công tác xã hội ở Việt Nam.
“Nguồn nhân lực Công tác xã hội và nhu cầu đào tạo” - Đặng Kim Khánh
Ly trong Kỷ yếu Hội thảo khoa học 2010 – Đổi mới CTXH trong điều kiện nền
5

kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế những vấn đề lý luận và thực tiến. Tác giả
khẳng định Công tác xã hội ngày càng có vị trí quan trọng trong sự nghiệp ổn định
xã hội và phát triển bền vững. Nguồn nhân lực về CTXH đang trở thành một nhu
cầu cấp bách cho mọi quốc gia. Nhu cầu phát triển ngành CTXH Việt Nam đã xuất
hiện từ rất lâu trong lịch sử. Tuy nhiên nguồn nhân lực khoa học ngành CTXH ở
nước ta hiện nay còn thiếu, nhân viên công tác xã hội còn yếu về kinh nghiệm và kỹ
năng tay nghề. Những cán bộ giảng dậy, nhà nghiên cứu về CTXH tại các trường
đại học, các trung tâm nghiên cứu chưa được chuẩn hóa, chưa được đào tạo bài bản
và nâng cao trình độ.
Theo nghiên cứu tác giả Nguyễn Thị Thu Hà “Nhu cầu hoạt động CTXH
trong một số lĩnh vực tại Việt Nam hiện nay” – trong Tạp chí Xã hội học – Viện
XHH, Viện Khoa học xã hội Việt Nam, ISSN 0866 – 7659, 2011. Nhu cầu phát
triển CTXH ở Việt Nam ngày càng lớn đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội.
Cán bộ CTXH cần phải có những kiến thức, kỹ năng và phẩm chất cần thiết để đáp
ứng hiệu quả và hợp lý nhu cầu xã hội. Với nhiều vấn đề xã hội đặt ra thì nhu cầu
về một đội ngũ CTXH đảm bảo đủ về số lượng và chất lượng là rất cần thiết với

Việt Nam. Tác giả phân tích nhu cầu xã hội đối với hoạt động CTXH trên một số
lĩnh vực cũng như một số nhóm đối tượng như:
Nhu cầu CTXH trong lĩnh vực xóa đói giảm nghèo vai trò của cán bộ nhân
viên CTXH là rất quan trọng bởi cán bộ nhân viên CTXH là người giúp những
người nghèo nhận ra và phát huy tối đa năng lực của mình cũng như gia đình để
vươn lên thoát nghèo bền vững.
Nhu cầu xã hội trong lĩnh vực chăm sóc trẻ em không chỉ giới hạn ở những
nhóm trẻ khó khăn thiệt thòi về điều kiện vật chất hay thể chất mà còn với cả những
trẻ em gặp khó khăn về tinh thần. Trẻ em là nhóm đối tượng đặc biệt cần chú trọng
đến công tác phòng ngừa, loại bỏ sớm các yếu tố nguy cơ ảnh hưởng đến sự phát
triển toàn diện cuả trẻ…
Nhu cầu xã hội trong lĩnh vực chăm sóc người cao tuổi bởi có hàng triệu
người cao tuổi đang cần đến sự hỗ trợ, trợ giúp xã hội trong khi đó về mặt lĩnh vực
6

nhu cầu trợ giúp là đa dạng và rất quan trọng. Cần phải có một đội ngũ cán bộ
CTXH chuyên nghiệp, đông đảo được đào tạo để đáp ứng nhu cầu chăm sóc, hỗ trợ
người cao tuổi…Tác giả bàn đến nhu cầu xã hội trong một số lĩnh vực khác như
thanh niên, nhu cầu hoạt động CTXH trong lĩnh vực y tế, chăm sóc sức khỏe. Để
phát triển CTXH chuyên nghiệp, CTXH ở Việt Nam cần phải giải quyết được
những nhu cầu xã hội đặt ra mà trước hết là đào tạo về số lượng cũng như đảm bảo
chất lượng nguồn nhân lực CTXH.
“Nhu cầu về hoạt động CTXH đối với sự phát triển kinh tế xã hội hiện
nay” – tác giả Nguyễn Thị Kim Hoa trong kỷ yếu hội thảo khoa học: Đổi mới
CTXH trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế những vấn đề lý luận
và thực tiễn - 2010. Tác giả đã đưa ra những nhu cầu hoạt động CTXH đối với sự
phát triển kinh tế xã hội. Nhu cầu can thiệp CTXH trong một số lĩnh vực của đời
sống như nhóm yếu thế trong xã hội, bất kỳ nhóm nào cần chăm sóc sức khỏe tâm
thần, các lĩnh vực y tế chăm sóc sức khỏe cộng đồng. CTXH đáp ứng nhu cầu nhóm
đối tượng có hoàn cảnh bên cạnh những nhóm đối tượng bất ổn của xã hội. Những

nhu cầu trong hoạt động đào tạo CTXH, đội ngũ nhân viên CTXH còn thiếu và yếu
chưa đảm bảo được chất lượng. Trong thời gian tới cần đẩy mạnh hơn nữa phát
triển CTXH theo hướng chuyên nghiệp hóa gắn liền với thực tiễn. Những nhu cầu
về hoạt động nghiên cứu thuộc lĩnh vực CTXH: nghiên cứu vấn đề liên quan đến
đối tượng yếu thế, những phương pháp, kỹ thuật, kỹ năng thực hành CTXH…Bên
cạnh đó tác giả có một số phương hướng thúc đẩy hoạt động CTXH nhằm đáp ứng
nhu cầu phát triển CTXH: cần thể chế hóa ngành CTXH một cách chính thức, chú
trọng hơn nữa công tác đào tạo sinh viên chuyên ngành CTXH.
Những nghiên cứu về nhu cầu xã hội đối và nhu cầu đào tạo về CTXH các
tác giả đều khẳng định: hiện nay CTXH có vai trò quan trọng, trong từng lĩnh vực
hoạt động đòi hỏi nhu cầu về hoạt động CTXH chuyên nghiệp. Để đáp ứng đòi hỏi
của xã hội, chúng ta cần phải đào tạo đội ngũ nhân viên CTXH chuyên nghiệp có kỹ
năng, chuyên môn, phương pháp để hoạt động CTXH đạt được hiệu quả cao về bền
vững.
7

Nghiên cứu về thực trạng hoạt động CTXH
Đề tài cấp Bộ “Luận cứ khoa học để xác định công tác xã hội trở thành
một nghề” của PGS.TS Nguyễn Tiệp (chủ nhiệm). Đề tài đã đưa ra cơ sở khoa học
những luận cứ để xác định CTXH là một nghề, một hoạt động nghề nghiệp chuyên
môn. Những cơ sở, tiêu chí để xác định CTXH trở thành một nghề. Trên cơ sở
nghiên cứu tác giả đánh giá tình hình phát triển CTXH ở Việt Nam. Kết quả điều tra
là bức tranh đánh giá thực trạng về đối tượng, cán bộ làm CTXH trực tiếp giúp đỡ
các nhóm đối tượng: người già cô đơn, trẻ em có hoàn cảnh khó khăn, gái mại dâm,
người khuyết tật, gia đình nghèo, nạn nhân chiến tranh, người thất nghiệp, người
khuyết tật. Qua đó nội dung hoạt động của CTXH cũng tập trung vào vấn đề như:
Chăm sóc nâng đỡ những người yếu thế trong xã hội, công tác xóa đói giảm nghèo
đặc biệt là vùng nông thôn, chăm sóc đời sống vật chất tinh thân cho người đã hoàn
thành nghĩa vụ lãnh đạo người về hưu, bị tai nạn lao động… Phát triển CTXH ở
Việt Nam là cần thiết và xu hướng tất yếu và phải xây dựng mô hình phát triển

CTXH một cách chuyên nghiệp. Tác giả đưa ra một số khuyến nghị để xây dựng
phát triển nghề CTXH như: Xây dựng tiêu chuẩn, chức danh nghề CTXH, đối
tượng nghề, xây dựng quy điều đạo đức nghề nghiệp cho CTXH, thành lập hiệp hội
nghề nghiệp CTXH. CTXH phát triển chuyên nghiệp phải chú ý đến trình độ đào
tạo CTXH một cách chuyên nghiệp.
Theo Viện Khoa học lao động và Xã hội đã tiến hành nghiên cứu đề tài:
“Đánh giá nhu cầu sử dụng dịch vụ CTXH và đề xuất kế hoạch mô hình hệ
thống cung cấp dịch vụ CTXH từ trung ưng đến địa phương” – Dự án hỗ trợ phát
triển nghề CTXH tại Việt Nam giai đoạn 2010 – 2014. Đề tài đã đánh giá tìm hiểu
nhu cầu CTXH đồng thời đánh giá thực trạng phát triển nghề CTXH hiện nay. Đánh
giá năng lực của hệ thống trung tâm dịch vụ CTXH, hệ thống cơ sở bảo trợ xã hội.
Từ đó đề xuất mô hình trung tâm và hệ thống cung cấp dịch vụ CTXH từ Trung
ương đến cộng đồng. Theo kết quả nghiên cứu cho thấy nhu cầu về CTXH của các
đối tượng rất lớn. Trong tương lai một số nhóm đối tượng của CTXH sẽ tăng quy
mô và nhu cầu sử dụng dịch vụ CTXH. Các cơ sở cung cấp dịch vụ xã hội của Nhà
8

nước hiện nay hoạt động dựa vào nguồn ngân sách đang gặp nhiều khó khăn do
kinh phí thấp và phân bố chưa kịp thời. Trong khi đó có nhiều cơ sở ngoài công lập
được mở ra nhằm đáp ứng dịch vụ CTXH cho các đối tượng yếu thế trong cộng
đồng. Nghiên cứu cho thấy thực trạng nguồn nhân lực CTXH, cán bộ tại địa phương
chủ yếu là cộng tác viên hoặc bán chuyên trách. Hiện nay công tac đào tạo chưa sâu
rộng, các cán bộ có chuyên môn chưa nhiều.
Như vậy, đã có những nghiên cứu đến nhu cầu và thực trạng hoạt động
CTXH đặc biệt là nghiên cứu về nhu cầu xã hội đối với hoạt động CTXH. Tuy
nhiên, đánh giá về nhu cầu và thực trạng hoạt động CTXH qua ý kiến của nhân viên
CTXH trên địa bàn Hà Nội thì chưa có một nghiên cứu nào đề cập đến. Nhân viên
CTXH là những người làm việc trực tiếp với nhóm đối tượng, là những người đang
hoạt động trong lĩnh vực CTXH. Vì vậy những ý kiến đánh giá của họ về nhu cầu
và hoạt động CTXH có ý nghĩa lớn đặc biệt tại khu vực Hà Nội – trung tâm kinh tế

văn hóa phát triển của cả nước và cũng là nơi diễn ra nhiều vấn đề xã hội cần phải
giải quyết.
3. Ý nghĩa của đề tài
3.1.Ý nghĩa lý luận
Đề tài nhằm vận dụng một số lý thuyết xã hội học như lý thuyết nhu cầu, lý
thuyết phát triển, lý thuyết biến đổi xã hội nghiên cứu tìm hiểu thực trạng phát triển
nghề CTXH hiện nay, qua đánh giá của nhân viên CTXH. Kết quả nghiên cứu
bước đầu của đề tài mong muốn góp phần phong phú hơn tri thức xã hội học, thúc
đẩy phát triển nghề công tác xã hội trong giai đoạn tới.
3.2 Ý nghĩa thực tiễn
Đề tài nhằm hướng đến nghiên cứu đánh giá nhu cầu và thực trạng phát triển
nghề CTXH hiện nay qua đánh giá của nhân viên CTXH ở một số khía cạnh: nhu
cầu về hoạt động CTXH được đánh giá qua: nhận thức của nhân viên CTXH về
nghề công tác xã hội, vai trò của CTXH trong phát triền đời sống kinh tế xã hội và
nhu cầu CTXH trong một số lĩnh vực. Đồng thời đánh giá thực trạng phát triển
CTXH dựa trên một số tiêu chí: chất lượng và số lượng nguồn nhân lực, mạng lưới
9

CTXH, hệ thống chính sách và hiệu quả bước đầu của hoạt động CTXH. Trên cơ sở
đó có thể đưa ra một số khuyến nghị về giải pháp để phát triển nghề CTXH một
cách chuyên nghiệp.
4. Câu hỏi nghiên cứu, mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
4.1. Câu hỏi nghiên cứu:
1. Nhân viên công tác xã hội nhận thức như thế nào về nghề công tác xã hội?
2. Nhân viên công tác xã hội đánh giá gì về vai trò của công tác xã hội với sự
phát triển kinh tế xã hội? Những lĩnh vực nào đòi hỏi nhu cầu cao về hoạt
động công tác xã hội?
3. Thực trạng hoạt động nghề công tác xã hội hiện nay như thế nào? Nguồn
nhân lực công tác xã hội có đủ số lượng, tốt về chất lượng để đáp ứng nhu
cầu phát triển không? Hiệu quả của hoạt động CTXH hiện nay như thế

nào?
4. Cần làm gì để phát triển nghề công tác xã hội theo hướng chuyên nghiệp
đáp ứng mục tiêu đề án 32 của chính phủ.
4.2.Mục đích nghiên cứu
Đề tài nhằm tìm hiểu nhu cầu và thực trạng hoạt động CTXH hiện nay qua
đánh giá của nhân viên CTXH tại Hà Nội. Từ đó đưa ra những khuyến nghị về giải
pháp cần thiết phát triển CTXH theo hướng chuyên nghiệp ở Việt Nam hiện nay.
4.3. Nhiệm vụ nghiên cứu
Đánh giá nhận thức về nghề CTXH của nhân viên CTXH. Đánh giá vai trò
CTXH trong đời sống kinh tế xã hội.
Tìm hiểu nhu cầu hoạt động CTXH trong một số lĩnh vực hoạt động cụ thể
Nghiên cứu làm rõ thực trạng phát triển nghề CTXH hiện nay ở một số khía
cạnh: đội ngũ cán bộ, hệ thống chính sách, mạng lưới CTXH và hiệu quả hoạt động
bước đầu của nghề CTXH trong một số lĩnh vực.
Chỉ rõ một số yếu tố quan trọng trong phát triển CTXH qua đó đưa ra một số
khuyến nghị về giải pháp để phát triển CTXH chuyên nghiệp hiện nay.
10

5. Đối tƣợng, khách thể và phạm vi nghiên cứu
5.1. Đối tượng nghiên cứu
Nhu cầu và thực trạng phát triển nghề CTXH hiện nay qua đánh giá của
nhân viên công tác xã hội tại Hà Nội.
5.2. Khách thể nghiên cứu
Những nhân viên công tác xã hội tại Hà Nội
5.3. Phạm vi nghiên cứu
o Phạm vi về thời gian: Đề tài được tiến hành nghiên cứu trong thời gian từ
năm 2010 đến năm 2012
o Phạm vi không gian: Nghiên cứu tại Hà Nội
o Phạm vi vấn đề nghiên cứu:
Đề tài nghiên cứu nhu cầu và thực trạng hoạt động CTXH qua ý kiến đánh

giá của nhân viên CTXH. Đánh giá nhu cầu về hoạt động CTXH trên cơ sở nhận
thức của nhân viên CTXH, vai trò của hoạt động CTXH và một số lĩnh vực đòi hỏi
cao về nhu cầu hoạt động của CTXH. Nhân viên CTXH đánh giá thực trạng hoạt
động CTXH về nguồn nhân lực, hệ thống chính sách, mạng lưới CTXH và một số
hiệu quả bước đầu của hoạt động CTXH.
6. Phƣơng pháp nghiên cứu
6.1. Phƣơng pháp luận nghiên cứu
Tư tưởng Macxit là kim chỉ nam cho mọi hoạt động lý luận và thực tiễn,
trong nghiên cứu xã hội học nói chung và cụ thể trong đề tài này chúng tôi cũng lấy
tư tưởng Macxit làm cơ sở lý luận cho việc nghiên cứu.
Hệ thống quan niệm duy vật biện chứng của Marx về các quá trình, hiện
tượng xã hội là sự thống nhất của chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng về lịch sử
và xã hội gọi đó là chủ nghĩa duy vật lịch sử. Chủ nghĩa Mác – Lenin khẳng định, ý
thức xã hội phản ánh tồn tại xã hội và do tồn tại xã hội quy định. Chủ nghĩa duy vật
lịch sử đòi hỏi nghiên cứu xã hội phải phân tích các cá nhân hiện thực và hoạt động
của họ, các điều kiện sống vật chất của họ trong tương quan với thực tế lịch sử xã
hội cụ thể. Phép biện chứng đòi hỏi xem xét sự vật, hiện tượng trong mối liên hệ tác
11

động qua lại, trong mâu thuẫn và vận động phát triển không ngừng, luôn lấy thực
tiễn làm cái gốc của nhận thức, mọi nhận thức đều phải tiến tới bản chất của hiện
tượng. Chính vì thế, nhận thức xã hội được bắt đầu từ các nghiên cứu thực nghiệm,
tiến xa hơn, đi sâu hơn vào các sự kiện xã hội nhằm chỉ ra các quy luật xã hội học,
bổ sung và làm phong phú thêm các lý thuyết và giả thuyết mà nghiên cứu có
nhiệm vụ kiểm tra và đánh giá các giả thuyết này, qua đó giúp ta có được những
nhận thức sâu sắc hơn về bản chất của thực tế xã hội.
Dựa trên quan điểm Macxit khi nghiên cứu đề tài này chúng tôi xem xét vấn
đề trong mối liên hệ tác động và phát triển không ngừng của quá trình phát triển
kinh tế đã làm nảy sinh các vấn đề xã hội. Điều đó đòi hỏi phải giải quyết để đảm
bảo sự cân bằng, ổn định xã hội. Nghiên cứu tìm hiểu nhu cầu cũng như thực trạng

hoạt động CTXH cùng với hàng loạt các vấn đề xã hội đòi hỏi đáp ứng. Từ đó tìm
hiểu một số yếu tố quan trọng trong sự phát triển của CTXH để nhằm thúc đẩy hoạt
động CTXH đạt hiệu quả cao. Vận dụng nguyên tắc này chúng tôi có thể khảo sát
đối tượng một cách toàn diện, khách quan, biện chứng và nhờ đó chỉ ra đặc thù của
đối tượng nghiên cứu
6.2. Phƣơng pháp thu thập thông tin
6.2.1. Phương pháp phân tích tài liệu
Đề tài sử dụng phương pháp phân tích nguồn tài liệu thứ cấp: số liệu khảo
sát, số liệu thống kê, những số liệu liên quan đến hoạt động CTXH ở Hà Nội. Trọng
tâm phân tích số liệu định lượng của đề tài dựa trên một phần số liệu khảo sát về
thực trạng hoạt động CTXH trong khuôn khổ đề tài cấp Nhà nước (nghị định thư số
45/2011/HD – NĐT): “Đổi mới CTXH trong điều kiện kinh tế thị trường và hội
nhập Quốc tế. (Nghiên cứu kinh nghiệm CHXH CN Việt Nam và Liên bang Nga)
do TS. Nguyễn Thị Thu Hà phó chủ nhiệm khoa Xã Hội học – Trường ĐH Khoa
học Xã hội và Nhân văn chủ nhiệm đề tài. Đề tài được nghiên cứu ở 03 tỉnh thành
phố: Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Quảng Trị.
Tác giả của luận văn cũng là người trực tiếp tham gia cùng với nhóm nghiên
cứu viên và được sự cho phép của chủ trì đề tài sử dụng một phần số liệu thống kê
12

phục vụ cho mục đích nghiên cứu của luận văn. Chúng tôi chọn và phân tích số liệu
nghiên cứu tại khu vực Hà Nội số lượng 175 bảng hỏi với cơ cấu mẫu:
Cơ cấu mẫu giới tính của nhân viên CTXH tham gia trả lời
Giới tính
Số lƣợng
%
Nam
34
19.4
Nữ

141
80.6
Tổng
175
100

Cơ cấu mẫu vị trí công việc của nhân viên CTXH tham gia trả lời
Vị trí công việc
Số lƣợng
%
Quản lý
9
5.1
Chuyên viên/nhân viên
166
94.9
Tổng
175
100

Cơ cấu mẫu thâm niên làm việc liên quan đến CTXH của nhân viên CTXH
Số năm công tác
Số lƣợng
%
Từ 1 năm trở xuống
62
35.4
2 – 3 năm
86
49.1

4 – 5 năm
20
11.4
6 – 10 năm
6
3.4
Trên 10 năm
1
0.6
Tổng
175
100

6.2.2. Phương pháp phỏng vấn sâu
Nhằm mục đích bổ sung những thông tin mà người nghiên cứu quan tâm
nhưng còn thiếu trong phân tích số liệu định lượng. Chúng tôi tiến hành 15 phỏng
vấn sâu với những chuyên gia, nhân viên CTXH trên địa bàn Hà Nội và phỏng vấn
13

ở các cấp, các lĩnh vực khác nhau và đối tượng phỏng vấn được lựa chọn trên cơ sở
họ đang làm việc, hoạt động về CTXH: cấp Bộ - cấp thành phố (02 cán bộ), nhân
viên CTXH trong các trung tâm dịch vụ bảo trợ xã hội (08 nhân viên), nhân viên
CTXH trong bệnh viên (02 nhân viên), ở cấp xã phường, thị trấn (02 cán bộ) và 01
nhân viên CTXH trong chùa.
Qua đó thấy được cách nhìn nhận khác nhau về nhu cầu thực trạng hoạt động
CTXH của cán bộ quản lý làm chính sách và những nhân viên CTXH làm việc trực
tiếp với đối tượng ở các cấp, các ngành khác nhau.
6.2.3. Phương pháp thảo luận nhóm
Thảo luận nhóm được tiến hành với nhân viên CTXH ở hai trung tâm: Trung
tâm sống Độc lập Hà Nội và làng trẻ Hòa Bình SOS Thanh Xuân. Là hai trung tâm

với số lượng nhân viên CTXH và đối tượng lớn, đồng thời nhân viên CTXH tiếp
xúc với nhiều đối tượng khác nhau. Thảo luận nhóm nhằm đánh giá, tìm hiểu sâu
hơn về nhận thức, vai trò, nhu cầu và thực trạng của nhân viên CTXH tại Hà Nội.
Đồng thời phương pháp thảo luận nhóm được tiến hành trong nghiên cứu nhằm bổ
sung cho những thông tin từ nghiên cứu định lượng. Đối tượng được chọn để tiến
hành thảo luận nhóm được lựa chọn chủ yếu theo tiêu chí: là nhân viên CTXH hiện
đang làm việc trong lĩnh vực CTXH, là những nhân viên CTXH. Các nhóm thảo
luận được thiết kế với số lượng mỗi nhóm từ 6 – 10 người để đảm bảo chất lượng
của thông tin. Nội dung thảo luận nhóm phục vụ cho mục tiêu nghiên cứu của đề
tài.
6.2.4. Phương pháp quan sát
Phương pháp quan sát được tiến hành nhằm quan sát hoạt động của nhân
viên CTXH trong một số trung tâm công tác xã hội, trong việc đào tạo phát triển
nguồn nhân lực công tác xã hội. Khi thực hiện đề tài người nghiên cứu đã tiến hành
quan sát các trung tâm dịch vụ xã hội, các cơ quan có hoạt động CTXH. Đồng thời
quan sát thái độ của nhân viên CTXH với những câu hỏi phỏng vấn cũng như một
số kỹ năng của họ với công việc mà người nhân viên CTXH thực hiện.
14

7. Giả thuyết nghiên cứu và khung lý thuyết
7.1. Giả thuyết nghiên cứu
Hiểu biết của nhân viên CTXH về nghề công tác xã hội hiện nay chưa thực
sự sâu sắc, đầy đủ. Tuy vậy họ cũng đã nhận thấy công tác xã hội cần thiết đáp ứng
nhu cầu và có vai trò quan trọng trong sự phát triển ổn định, nâng cao đời sống xã
hội.
Nguồn nhân lực của CTXH hiện nay còn thiếu về số lượng, yếu về chất
lượng, chính sách xã hội về CTXH đã tương đối đầy đủ nhưng việc thực hiện những
chính sách này trong thực tế còn có những hạn chế. Tuy vậy, hoạt động CTXH cũng
thể hiện được những hiệu quả bước đầu trong một số lĩnh vực nhất định.
11


7.2. Khung lý thuyết










Nhu cầu hoạt động CTXH
Thực trạng hoạt động CTXH
Vai trò của
CTXH
Nhu cầu về hoạt
động CTXH trong
một số lĩnh vực.
Hệ thống chính
sách
Nguồn nhân lực
Một số khuyến nghị về giải pháp phát
triển CTXH
Hiệu quả
hoạt động
bước đầu
Nhận thức của
nhân viên
CTXH

Mạng lưới
CTXH
Điều kiện KTXH
Công tác xã hội
12


NỘI DUNG CHÍNH
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI

1.1.Một số lý thuyết xã hội học vận dụng trong nghiên cứu
1.1.1. Lý thuyết biến đổi xã hội
Xã hội cũng như các thực thể vật chất khác luôn vận động và biến đổi không
ngừng về chính trị, văn hóa, kinh tế….Biến đổi xã hội diễn ra theo nhiều yếu tố khác
nhau. Các nhà xã hội học đã khai thác phân tích sự biến đổi xã hội trên nhiều khía cạnh
hiện tượng đa dạng, những biến đổi trên qui mô lớn nhỏ, từ cấp độ toàn cầu cho đến cấp
độ gia đình, những biến đổi tác động đến giá trị, chuẩn mực, hành vi, quan hệ xã hội…
Các nhà xã hội học đã đưa ra quan điểm của mình về sự biến đổi xã hội [6, tr 35]:
Smelser cho rằng biến đổi xã hội là một quá trình “gia tăng giá trị” trong đó một
loạt điều kiện hay giai đoạn liên tiếp gắn kết với nhau để tạo ra sự biến đổi xã hội.
Herbert Spencer tiếp cận biến đổi xã hội trong sinh học xã hội phát triển nhấn mạnh sự
thích ứng nhưng lại qui quá trình biến đổi vào yếu tố gien di truyền của con người, biến
đổi xã hội là nhu cầu tất yếu của xã hội loài người. Các nhà sinh học xã hội lập luận rằng
con người chúng ta là sản phẩm của hàng triệu năm thích ứng để sinh tồn. Sinh tồn là vấn
đề then chốt nếu không nói là mục đích của biến đổi xã hội. Lý thuyết Maxist về biến đổi
xã hội ủng hộ hành động tích cực, tập trung vào khả năng mà con người có thể thay đổi
hành động của số phận mình thông qua hoạt động chính trị - đấu tranh giai cấp. Nhìn
chung các lý thuyết về biến đổi xã hội thế kỷ XIX đã nhìn biến đổi xã hội như là một quá
trình tổng thể trong đó mọi phương diện của đời sống đều thay đổi theo. Biến đổi xã hội
là một nhu cầu tất yếu của sự phát triển xã hội và con người phải thích nghi với những

biến đổi đó. Trong chừng mực nào đó con người có thể giải thích và tiên lượng được biến
đổi xã hội. Chúng ta có thể kiểm soát xã hội theo những chiều hướng mà mình mong
muốn

13


Đặc điểm của biến đổi xã hội
Biến đổi xã hội là một hiện tượng phổ biến, nhưng nó diễn ra không giống nhau
giữa các xã hội.
Biến đổi xã hội khác biệt về thời gian và hậu quả.
Biến đổi xã hội vừa có tính kế hoạch vừa có tính phi kế hoạch.
Biến đổi xã hội cũng có những quy luật của nó và nó có 5 quy luật:
Tính thống nhất giữa sự biến đổi và phát triển kinh tế với sự biến đổi và phát triển
của các mặt khác của đời sống xã hội.
Nhu cầu xã hội và hoạt động của con người trong quá trình biến đổi xã hội. Nhu
cầu và hoạt động là hai mặt không thể thiếu của con người và cũng là hai mặt không thể
tách rời nhau trong đời sống xã hội. Sự tăng lên của hoạt động tỉ lệ thuận với sự tăng lên
của nhu cầu. Nhu cầu của con người không ngừng biến đổi và phát triển. Nhu cầu này
được đáp ứng thì nhu cầu khác lại được nảy sinh và cao hơn nhu cầu trước đó, và như
vậy cùng với sự phát triển của nhu cầu thì hoạt động của con người cũng luôn biến đổi và
phát triển theo. Do đó các mặt của đời sống xã hội cũng biến đổi và phát triển.
Trong xã hội dù ở giai đoạn nào cũng có những chuẩn mực chung, đây là một điều
tất yếu của cộng đồng. Và việc các chuẩn mực này có phù hợp hay không phù hợp cũng
ảnh hưởng tới sự phát triển xã hội. Vì vậy, ta cần có những thay đổi linh hoạt phù hợp với
sự phát triển của xã hội.
Sự xuất hiện các xu hướng khác nhau trong quá trình biến đổi và phát triển là một
tất yếu. Sự kế thừa trong biến đổi và phát triển xã hội: sự thay thế xã hội cũ bằng xã hội
mới diễn ra theo một quy luật nhất định. Cái mới luôn nảy sinh trong lòng cái cũ và dần
thay thế cái cũ. Đây là một quy luật tất yếu của sự biến đổi xã hội.

Vận dụng lý thuyết biến đổi vào trong đề tài nghiên cứu chúng ta thấy rằng: Biến
đổi xã hội là một vấn đề tất yếu trong đời sống xã hội. Sự phát triển của kinh tế xã hội,
quá trình đô thị hóa nhanh đã đem lại những mặt tích cực nhưng bên cạnh đó nó kéo theo
những biến đổi về mặt xã hội: số người thất nghiệp, thiếu việc làm ngày càng tăng, bệnh
14

tật, mại dâm, ma túy, khủng hoảng gia đình, người già cô đơn không nơi nương tựa ngày
càng nhiều… Con người chúng ta trong một chừng mực nhất định có thể kiểm soát được
những biến đổi xã hội. Con người muốn tồn tại và phát triển buộc phải thích nghi với
điều kiện hoàn cảnh. Vì vậy,CTXH với chức năng vai trò của mình ra đời đáp ứng nhu
cầu của xã hội, hạn chế những hậu quả tiêu cực cùng với quá trình phát triển, biến đổi xã
hội. CTXH có vai trò quan trọng điều hòa các mối quan hệ xã hội, phát triển một xã hội
công bằng bình đẳng. Sự ra đời và phát triển của CTXH là tất yếu đáp ứng nhu cầu đời
sống của con người và sự biến đổi xuất hiện ngày càng nhiều vấn đề trong xã hội hiện
nay.
1.1.2. Lý thuyết về nhu cầu xã hội
Tiếp cận lý thuyết nhu cầu là một hướng tiếp cận theo quan điểm nhân văn hiện
sinh, đánh giá cao khả năng của con người và bản thân họ tự quyết định lấy cuộc sống
của mình [46, tr128]. Tiếp cận thuyết nhu cầu cho thấy con người cần phải đảm bảo được
những nhu cầu cơ bản. Mọi vấn đề sai lệch xã hội đều do nhu cầu không được giải quyết.
Trị liệu không phải là để giải quyết nhu cầu mà giúp thân chủ phân tích nguyên nhân vì
sao nhu cầu không đáp ứng và để đáp ứng nhu cầu này thân chủ cần có những điều kiện
gì. Nhu cầu chi phối mạnh mẽ đến đơi sống tâm lý cũng như hành vi của con người.
Nhân viên CTXH là những người gần gũi với đối tượng. Họ phải thức tỉnh để thân chủ
đạt được những nhu cầu mà họ cần thiết trong cuộc sống. Nhu cầu là yếu tố tất yếu, cần
thiết để đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển của cá nhân. Nếu nhu cầu được thoả mãn thù
sẽ tạo nên cảm giác thoải mái và an toàn cho sự phát triển và ngược lại, nếu không được
đáp ứng thì sẽ gây nên sự căng thẳng và có thể dẫn tới những hậu quả nhất định gây mất
“thăng bằng” trong đời sống xã hội. Xã hội càng phát triển thì nhu cầu của con người
ngày càng cao. Vì thế nhu cầu là động lực bên trong kích thích cá nhân hoạt động, quyết

định mọi hoạt động của con người.
Hệ thống nhu cầu của Maslow được thể hiện dưới hình kim tự tháp. Theo đó ông
sắp xếp nhu cầu của con người theo 5 cấp bậc: nhu cầu cơ bản (ăn uống, hít thở), nhu cầu
về sự an toàn (tình yêu thương, nhà ở, việc làm), nhu cầu xã hội (nhu cầu được hòa nhập
15

xã hội), nhu cầu được quí trọng (chấp nhận vị trí trong xã hội) và nhu cầu được thể hiện
mình. Theo Maslow viên mãn (đạo đức, sáng tạo chấp nhận thực tế, hoàn toàn tự chủ
không bị ràng buộc bởi những khuôn sáo) là tầng cao nhất trong 5 tầng nhu cầu của con
người [46, tr127].
Sự thỏa mãn nhu cầu ở tầng thấp là tiền đề cho sự thỏa mãn ở tầng cao hơn. Con
người chỉ đạt được thỏa mãn khi các nhu cầu ở tầng thấp hơn được thỏa mãn và ở trạng
thái này người ta có khả năng chấp nhận thực tế, không chối bỏ sự thật, chấp nhận bản
thân, yêu đời. Trong bậc thang nhu cầu để tồn tại, con người cần phải đáp ứng được
những nhu cầu thiết yếu của cuộc sống: ăn, mặc, nhà ở, chăm sóc, dịch vụ xã hội Để
phát triển con người cần phải được đáp ứng những nhu cầu cao hơn như nhu cầu an toàn,
nhu cầu được thuộc về một nhóm, nhu cầu được hoàn thiện. CTXH thường hướng tới giải
quyết đáp ứng những nhu cầu thiết yếu của đối tượng trước. Khi xác định được nhu cầu
nào là những nhu cầu quan trọng và cần được đáp ứng đầu tiên, nhân viên CTXH sẽ có
cơ sở thiết lập kế hoạch can thiệp, huy động các nguồn lực liên quan.
Theo thuyết nhu cầu của Maslow con người cần được đáp ứng các nhu cầu thấp
hơn trước khi nảy sinh ra những nhu cầu bậc cao hơn. Mỗi người đều có nhu cầu cơ bản
phục vụ cho cuộc sống của mình. Thỏa mãn nhu cầu của con người cũng là mục đích
chính của CTXH. CTXH đáp ứng những nhu cầu thiết yếu của đời sống con người. Nhân
viên CTXH cần phải nắm vững được những nhu cầu đó và trong từng hoàn cảnh khác
nhau lại nảy sinh ra những nhu cầu khác biệt. Cách tiếp cận này nhấn mạnh thân chủ là
trọng tâm để giải quyết vấn đề và nhân viên CTXH có vai trò quan trọng. Tiếp cận nhu
cầu đòi hỏi nhân viên CTXH cần phải thực hiện tốt kỹ năng lắng nghe để thỏa mãn
những mong muốn và nhu cầu của đối tượng. Để hoàn thành nhiệm vụ của mình nhân
viên CTXH cần có những kỹ năng riêng biệt.

Vận dụng lý thuyết này nhằm tìm được hướng tiếp cận trong vấn đề nghiên cứu.
Trong đời sống con người cần phải được đảm bảo những nhu cầu cơ bản. Và chỉ đạt được
sự thỏa mãn khi con người đạt được ở những nhu cầu cao hơn. Nhân viên CTXH là người
phải hiểu và có những kỹ năng cần thiết để can thiệp, trị liệu, giải quyết vấn đề hiểu được

×