Tải bản đầy đủ (.pdf) (123 trang)

Sự đóng góp của người dân vào các hoạt động tại đình, chùa (Qua nghiên cứu trường hợp làng Giang Xá, Hoài Đức, Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.86 MB, 123 trang )


1

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA LỊCH SỬ


TRẦN THANH HOA


SỰ ĐÓNG GÓP CỦA NGƢỜI DÂN
VÀO CÁC HOẠT ĐỘNG TẠI ĐÌNH, CHÙA
(QUA NGHIÊN CỨU TRƢỜNG HỢP LÀNG GIANG XÁ, HOÀI ĐỨC, HÀ
NỘI)


Chuyên ngành: Dân tộc học
Mã số: 60 22 70

LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS LÂM BÁ NAM





HÀ NỘI - 2009

2


MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU
Trang
1
1. Mục đích, ý nghĩa của đề tài
1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
3
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
8
4. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu
9
5. Cấu trúc của luận văn
10
CHƢƠNG 1: Tổng quan về lý thuyết và địa bàn nghiên cứu
12
1.1 Lý thuyết phát triển cộng đồng và sự tham dự của ngƣời dân
vào các hoạt động văn hóa
12
1.1.1 Định nghĩa phát triển cộng đồng
12
1.1.2 Lý thuyết phát triển cộng đồng về mặt xã hội
16
1.1.3. Bảo tồn di sản có sự tham dự của cộng đồng
18
1.2 Tổng quan về làng giang Xá
22
1.2.1. Vị trí địa lý và cảnh quan
22

1.2.2. Tình hình dân cư
24
1.2.3. Đời sống kinh tế
24
1.2.4 Các thiết chế văn hoá và hoạt động tế tự, lễ hội của làng
26
CHƢƠNG 2: Hoạt động công đức từ góc độ kinh tế
30
2.1 Công đức trong các hoạt động tu sửa, tôn tạo
30
2.2 Công đức trong các hoạt động tế tự thường ngày
33
2.3 Công đức trong các lễ hội của làng
35
2.4 Các hoạt động công đức đặc biệt khác
59

3
CHƢƠNG 3: Hoạt động công đức và những tác động đối với ngƣời
dân và cộng đồng
64
3.1 Các lý do công đức của người dân
65
3.2. Các đồng thuận xã hội
67
3.3. Các xung đột trong quản lý, sử dụng công quỹ và những đóng góp
vượt trội
70
3.4 Các động thái biến chuyển văn hoá xã hội của cộng đồng nông thôn
76

KẾT LUẬN
80
TÀI LIỆU THAM KHẢO
84
PHỤ LỤC
87




4
MỞ ĐẦU


1. Mục đích, ý nghĩa của đề tài:
Đình, chùa được hình thành, phát triển và từng bước hoàn thiện trong
suốt chiều dài lịch sử dân tộc, trở thành biểu tượng cho làng xã Việt trong
lịch sử, là sự kết tinh, hội tụ của văn hoá truyền thống của dân tộc. Đình và
chùa có vai trò, vị trí quan trọng trong đời sống của một cộng đồng, đặc
biệt là trong đời sống tinh thần của người dân trong các cộng đồng làng xã
nông thôn vùng đồng bằng Sông Hồng.
Như chúng ta đều biết, đình, chùa là một thiết chế văn hoá, biểu thị
những giá trị tiêu biểu của một cộng đồng, một dân tộc, là trung tâm sinh
hoạt văn hóa cộng đồng. Vì thế, từ lâu, đình, chùa đã trở thành đối tượng
của nhiều ngành khoa học như dân tộc học, kiến trúc, nghệ thuật học,… đặc
biệt là trong ngành nghiên cứu văn hóa dân gian. Tuy nhiên, những nghiên
cứu về đình, chùa trong tương quan với đời sống văn hóa đương đại, đặt
chúng trong bối cảnh xã hội mới là còn ít, đặc biệt còn thiếu những nghiên
cứu có tính định lượng.
Ở vùng nông thôn đồng bằng Sông Hồng, trong suốt một thời gian

hàng chục năm, do hoàn cảnh khách quan, đặc biệt là do chiến tranh và một
số lý do về mặt chính sách văn hóa mà đình, chùa bị phá hủy, xuống cấp
nghiêm trọng; đời sống tôn giáo tín ngưỡng không được duy trì, thậm chí bị
coi là mê tín dị đoan, cần phải loại bỏ. Vì thế, nhiều sinh hoạt văn hóa cộng
đồng gắn với đình, chùa trong thời gian dài không được tổ chức. Kết quả là,
ở hầu hết các làng xã, các tổ chức xã hội phi quan phương gắn với các loại
hình sinh hoạt văn hoá này bị thu hẹp, mai một dần. Cho đến giữa những
năm 80 của thế kỷ XX, với đường lối đổi mới của Đảng, đời sống của nhân

5
dân có bước chuyển biến căn bản. Cùng với sự cải thiện điều kiện sống, gia
tăng mức sống, quá trình dân chủ hoá đời sống xã hội ở nông thôn là những
cơ sở để nhu cầu tâm linh bị dồn nén từ lâu nay được dịp “bung ra” một
cách mạnh mẽ, ngược hẳn lại với tình hình trước đó của những năm 60, 70
của thế kỷ trước.
Các nhà quản lý đã nhận thức được nhu cầu tôn giáo tín ngưỡng là nhu
cầu có thực, khách quan của nhân dân, nhu cầu này cần phải được thoả mãn
một cách chính đáng… Tuy nhiên để đánh giá tác động của quá trình đó
không phải đơn giản. Đình và chùa là nơi diễn ra các hoạt động tế tự theo
mùa, theo các ngày sóc vọng mỗi tháng hoặc các hoạt động tế tự trong
ngày. Với các lễ hội đình, chùa cũng như cúng hàng tháng, hai trung tâm
văn hoá này đã thu hút được sự đóng góp của nhiều cá nhân, tổ chức xã hội
trong và ngoài cộng đồng, tạo nên sức sống mãnh liệt của các hoạt động
văn hoá truyền thống trong đời sống các cộng đồng nông thôn vùng đồng
bằng Sông Hồng. Sự đóng góp của người dân trong các hoạt động tế tự tại
đình, chùa trong bối cảnh gia tăng mức sống và quá trình tự do tôn giáo tín
ngưỡng sau đổi mới, cả về số lượng, tần suất, kèm theo đó là các quan điểm
sống, các tâm tư, nguyện vọng của mỗi nhóm xã hội trong cộng đồng ký
thác qua sự đóng góp đó, đã là một chủ đề nghiên cứu có sức thu hút lớn.
Để góp phần vào việc nghiên cứu đời sống văn hoá vật chất và tinh

thần của người dân thông qua những đóng góp (công đức) của cộng đồng
nông thôn đương đại, tôi đã chọn mảng vấn đề công đức trong các hoạt
động tại đình, chùa làm nội dung nghiên cứu chính của mình. Qua các đóng
góp có tính chất tài chính đó, chúng ta có thể đọc ra được một số động thái
về chuyển biến văn hoá - xã hội của các cộng đồng nông thôn đang chuyển
đổi từ nền kinh tế lấy nông nghiệp là chính sang nền kinh tế hỗn hợp, trong
đó các hoạt động công thương, dịch vụ ngày càng có một vai trò quan

6
trọng, đó là quá trình dân chủ hoá xã hội, sự phân hoá xã hội theo các giai
tầng, là thái độ coi văn hoá truyền thống như một công cụ cân bằng mới
trong xã hội đang ngày càng trọng vật chất hơn, về sự xuất hiện các ý thức
cá nhân thay vì mỗi người đều tồn tại ở tư cách là thành viên cộng đồng
như trong xã hội truyền thống. Đó là cả một quá trình biến chuyển bên
trong của cộng đồng làng xã, phản ánh các biến chuyển của xã hội Việt
Nam thời hiện đại.
Để hiện thực hoá ý tưởng trên, chúng tôi đã nghiên cứu làng Giang Xá
(có tên Nôm là làng Giang) như một nghiên cứu trường hợp. Đây là một
làng đã hội tụ được nhiều những biến động văn hóa xã hội thời kỳ vừa qua,
có thể coi như một mẫu nghiên cứu khá điển hình cho các vấn đề nêu ở
trên.
Mục tiêu chung: Thông qua việc phân tích các đóng góp của người
dân trong trong đình, chùa, luận văn tìm hiểu các động thái tham dự của
người dân vào các hoạt động tế tự như là một biểu hiện của các biến chuyển
văn hoá-xã hội nông thôn vùng đồng bằng Sông Hồng hiện nay, trong một
nghiên cứu trường hợp là làng Giang Xá, thị trấn Trạm Trôi, thành phố Hà
Nội.
Mục tiêu cụ thể:
- Nghiên cứu sự đóng góp của người dân trong các hoạt động tế tự tại
đình, chùa, trong các dịp lễ hội của cộng đồng làng và các dịp lễ khác;

- Nghiên cứu sự tham dự của các nhóm xã hội trong cộng đồng như
một biểu hiện tăng cường tính dân chủ, sự phân tầng xã hội, sự cân bằng
các khía cạnh tinh thần và vật chất của người dân, mối quan hệ cá nhân và
cộng đồng.
- Góp phần vào sự nhận diện quá trình biến chuyển của xã hội nông
thôn Việt Nam trước quá trình hiện đại hóa, công nghiệp hóa hiện nay, cách

7
ứng xử của cộng đồng đương đại với vấn đề bảo lưu truyền thống trong xã
hội đang được đô thị hóa nhanh chóng như ở làng Giang Xá.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề:
Đề tài nghiên cứu của luận văn là sự đóng góp của người dân, trong đó
những đóng góp về tài chính là chủ yếu, của cộng đồng vào các hoạt động
tại đình, chùa, qua một nghiên cứu trường hợp. Song các tư liệu về vấn đề
này cũng còn rất mỏng, chủ yếu trên các phương tiện truyền thông đại
chúng là báo viết và trên các website, mang tính chất phản ánh các vấn đề
thời sự cấp bách đặt ra vào thời điểm đó.
Đầu tiên phải kể đến các tài liệu viết về đình, chùa và lễ hội. Đây là
mảng tư liệu có tính chất nền tảng cho luận văn, với nhiều tác phẩm được
viết qua các thời kỳ, trên các tạp chí nghiên cứu trong nước như Tạp chí
Kiến trúc, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, Tạp
chí Dân tộc học, Tạp chí Khảo cổ học, cũng như tại một số nhà xuất bản.
Đó là các công trình của nhóm tác giả Hà Văn Tấn và Nguyễn Văn Kự với
nhan đề tiếng Anh: Community Halls in Vietnam, nhà xuất bản Khoa học
Xã hội xuất bản năm 1998. Cuốn “Chùa Việt Nam”, xuất bản năm 2008 của
Hà Văn Tấn, Nguyễn Văn Kự và Phạm Ngọc Long. Các công trình nghiên
cứu của Chu Quang Trứ, Trần Lâm Biền, Nguyễn Du Chi cũng làm sáng tỏ
các giá trị của đình và chùa trong đời sống nông thôn truyền thống và hiện
tại. Bên cạnh các mô tả về kiến trúc và điêu khắc đình, chùa, các tác phẩm
trên cũng khẳng định đình, chùa là trung tâm của đời sống sinh hoạt văn

hóa làng xã, đồng thời là các thể chế duy trì trật tự trong cộng đồng. Các
công trình nghiên cứu về lễ hội của các tác giả như Nguyễn Văn Huyên,
Trần Quốc Vượng, Tô Ngọc Thanh, Ngô Đức Thịnh, Lê Trung Vũ… đã
nêu bật các giá trị của lễ hội, nơi biểu đạt các triết lý, các thế ứng xử của
người dân nông thôn. Ngoài các công trình nghiên cứu chuyên sâu, còn có

8
nhiều tác phẩm mang tính giới thiệu chung về đình, chùa và lễ hội đình,
chùa được xuất bản.
Với khía cạnh sự tham gia, đóng góp của người dân vào các hoạt động
tại đình chùa, chúng tôi chủ yếu tìm thấy các bài viết trên báo chí, bao gồm
cả báo viết truyền thống và báo mạng.
Trước hết là các bài viết mang tính chất thông tin, chủ yếu xuất hiện
trên các báo ra hàng ngày miêu tả thực trạng, các nguyên nhân xung quanh
hoạt động công đức, đóng góp của người dân ở đình chùa, ở các lễ hội tại
đình chùa. Tiêu biểu như: bài “Cụ bà 96 tuổi cung tiến 1000m2 đất xây
chùa” của Đức Chính đăng báo , ngày 17/3/2009;
“Khó ngăn đốt vàng mã, đặt tiền công đức bừa bãi”, đăng trên Báo Đất
Việt phát hành ngày 18/3/2010; loạt bài: “Công đư
́
c va
̀
ư
́
ng xư
̉
khi lê
̃
chu
̀

a”
của tác giả Hồng Quang, trích trên website phongthuy.net.vn (09/03/2010 -
). Các bài viết phản ánh khá chân thực thực trạng
công đức tiền, hiện vật vào các đình chùa. Phổ biến hơn cả là cúng tiến xây
chùa, công đức vào các dịp sóc vọng tại chùa và đóng góp tiền công đức tại
các lễ hội quy mô lớn trong vùng. Đây là hoạt động vốn trở thành truyền
thống của người Việt từ hàng ngàn năm nay và có xu hướng ngày càng gia
tăng theo quy luật “phú quý sinh lễ nghĩa”. Cũng theo các bài viết, động
thái của người dân trong các hoạt động công đức này là xuất phát từ tâm
nguyện làm việc thiện, cầu phúc, cầu tài, chút tiền gọi là “tiền giọt dầu” đặt
vào chùa để nhà chùa chăm lo đèn nhang hàng ngày, cầu mong được nhà
Phật ghi nhận tấm lòng thành tâm. Cũng có những ý kiến khá trái chiều,
tiêu biểu như ý kiến của Giáo sư Trần Lâm Biền: không ít người tham gia
lễ hội để cầu tiền tài, chức tước, danh vọng hoặc coi lễ hội chỉ như một
điểm vui chơi, giải trí. Xu thế này ngày càng rộ lên ở giới trẻ. Không ai nói
rằng việc cầu tài lộc, địa vị, chức tước là không chính đáng, nhưng xét kỹ

9
thì đó là điều đáng lo, bởi đây là một trong những nguyên nhân dẫn đến
tình trạng thương mại hóa, "đời" hóa lễ hội. Ông còn gọi đây là sự “hối lộ”
thần thánh, trong bài: “Mặt trái tại các lễ hội: cần sớm dẹp bỏ ”, đăng báo
Hà Nội mới, ngày 13/3/2009 [11; tr5]
Bên cạnh đó, có nhiều bài báo đưa tin về hoạt động từ thiện của các
nhân vật nổi tiếng, như bài: “Hương Lan, Đàm Vĩnh Hưng quyên tiền xây
chùa”, của Thoại Hà trên báo Phật tử Việt Nam (),
được sự quan tâm của nhiều độc giả.
Tuy vậy, một thực trạng khá phổ biến hiện nay là người dân đặt tiền
khá tùy tiện, bừa bãi, không vào đúng nơi quy định gây hình ảnh mất phản
cảm. Nguyên nhân chủ yếu là do sự thiếu hiểu biết và ý thức của người dân,
cộng với sự quá tải trong các hoạt động cúng lễ. Số lượng các hòm tiền

công đức quá nhiều, mang tính trục lợi bất chính của một số tập thể, cá
nhân. Một số tác giả đánh giá lễ hội và hoạt động công đức đang bị thương
mại hóa quá nhiều “Chất văn hóa giảm, lượng thương mại tăng” – chùm
bài “Mặt trái tại các lễ hội: cần sớm dẹp bỏ ”, đăng báo Hà Nội mới, ngày
13/3/2009
Tiếp đó, cần kể đến các loạt bài mang tính chuyền đề, đi sâu vào
phân tích các động thái, biến chuyển xung quanh vấn đề công đức của
người dân, nhấn mạnh khía cạnh quản lý và sử dụng nguồn tiền công đức.
Đây là các chủ đề khá nhạy cảm và tồn tại nhiều luồng ý kiến trái chiều.
Tiêu biểu nhất là các bài: “Cần có cái nhìn công bằng hơn về Lễ hội truyền
thống” của Đại đức Thích Thanh Thắng, báo Giác Ngộ tháng 1/2010; chùm
bài “Mặt trái tại các lễ hội: cần sớm dẹp bỏ ”, đăng báo Hà Nội mới, ngày
13/3/2009 của Thái Hà - Minh Ngọc. Những bài viết này không dừng lại ở
mô tả hoạt động công đức tại chùa chiền, lễ hội mà đưa ra những quan điểm
riêng của các chuyên gia, của người viết, đưa ra những giải pháp, đề

10
xuất. Bài: Quản lý tiền “công đức”: quản "thu chi" hay quản cả "tùy tâm"?
trên báo Nhân dân ra ngày 23-03-2009; Đóng khoán công đức Phủ Dầy,
trên www.vietbao.vn, ngày 8/4/2005, và Nhà chùa “chia” tiền công đức
cho chính quyền? của Minh Thúy () chỉ ra những mập
mờ trong vấn đề quản lý tiến công đức. Một loạt các bài viết khác liên quan
như: Tiền “công đức” - ai được phép sử dụng? của Quỳnh Vân, Báo An
Ninh thủ đô ra ngày 20/03/2009; tác giả Hồng Hà với “Sẽ có quy chế sử
dụng tiền công đức” - ; Xây dựng Thông tư quản
lý nguồn thu công đức, trên website , đã chỉ ra một
hiện tượng tại các địa phương, mỗi nơi đang diễn ra một quy chế ngầm
khác nhau và việc quản lý cấp nhà nước tỏ ra khá lúng túng. Nơi thì Ban
quản lý di tích quản lý, nơi thì Sở Văn hóa, thể thao và du lịch, hội Phật
giáo, nhiều nơi thì việc quản lý, tiếp nhận chi tiêu tiền công đức được giao

cho thủ nhang, thủ đền quản lý… Vì thế, nguồn tiền này gần như không thể
kiểm soát được. Chính do không quản lý được số tiền cúng tiến nên cũng
dẫn tới tình trạng tu sử di tích còn tùy tiện nhất nhất là tại các di tích do các
thủ nhang, thủ đền đứng ra trông nom. Thậm chí nhiều nơi còn xẩy ra tình
trạng gia đình hóa di tích, di tích hóa gia đình…
Thực tế là, vấn đề quản lý về mặt tài chính trong các hoạt động tại
đình chùa vốn là tồn tại lớn mà cơ quan chủ quản là Bộ Văn hóa - Thể thao
và Du lịch cũng đang tìm cách tháo gỡ và đưa ra những quy chế chung. Bộ
sẽ kiến nghị Bộ Tài chính xây dựng Thông tư liên tịch hướng dẫn quản lý
và sử dụng các nguồn thu này từ lễ hội và di tích để đảm bảo mục tiêu xã
hội hóa của lễ hội được thực hiện đúng. Song, chúng ta chỉ có thể tiếp tục
trông chờ những văn bản chặt chẽ và phù hợp hơn trong tương lai gần.
Tóm lại, các nghiên cứu chuyên sâu về những đóng góp về mặt tài
chính của cộng đồng đối với các sinh hoạt của đình, chùa tuy chưa xuất

11
hiện trong hệ thống nghiên cứu mang tính chuyên khảo, nhưng luôn là sự
quan tâm của báo chí và dư luận.
Cuối cùng, là nhóm các tư liệu viết về nơi chúng tôi khảo sát và
nghiên cứu. Trong các thư tịch cổ, đình và chùa làng Giang Xá đã được ghi
chép như những ngôi đình và chùa nổi tiếng của tỉnh Hà Tây (cũ), ở đây có
lễ hội đình tôn vinh Đức Thượng đẳng thần được tôn Thánh, được tổ chức
theo qui mô nghi lễ của triều đình, ngày xưa, phải 5, 10 hay 15 năm lễ hội
mới được tổ chức một lần, nay tổ chức cách nhau 5 năm (2004 và gần đây
nhất là 2010); có lễ hội chùa được coi là lễ hội Phật giáo lớn của vùng. Với
làng Giang Xá, đã có hai khóa luận tốt nghiệp đại học nghiên cứu về lễ hội
và các tổ chức phi quan phương trong làng xã của Nguyễn Thị Thanh Hoa,
thực hiện năm 2004, và của Bùi Thị Kim Phương thực hiện năm 2005. Đây
là hai nghiên cứu khá chi tiết về hội làng và sự vận hành của các tổ chức xã
hội trong làng xã, thông qua việc nghiên cứu này, luận văn này đã có những

tư liệu cơ bản về cộng đồng đang nghiên cứu, tuy nhiên, các tư liệu cũng đã
cũ, cần cập nhật và các số liệu nguồn tiền công đức là chưa có.
Nghiên cứu định lượng về tiền công đức của người dân là một trong
những nghiên cứu đầu tiên ở nước ta về sự đóng góp của người dân đối với
sinh hoạt của cộng đồng ở đình, chùa. Đây là nghiên cứu có tính liên ngành
giữa lịch sử văn hóa, nhân học và xã hội học, thông qua một vấn đề là sự
đóng góp của người dân tại đình, chùa để nghiên cứu các động thái biến đổi
của làng Việt trong giai đoạn hiện nay. Luận văn tiếp cận với một đối tượng
nghiên cứu mới này, hy vọng rằng sẽ mở hướng nghiên cứu tiếp tục cho các
công trình mà cá nhân người viết luận văn này có ý định theo đuổi tiếp.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của luận văn là hoạt
động đóng góp công đức bằng tiền, bằng hiện vật của người dân, các hội

12
đồng niên, khách thập phương, các tổ chức đối với các hoạt động tế tự tại
đình, chùa, bao gồm: lễ hội làng, các hoạt động tôn tạo, sửa chữa; các hoạt
động tế tự hàng ngày. Trong đó, hoạt động đóng góp rõ nét nhất là tại lễ hội
đình và chùa, hai hoạt động còn lại có phần mờ nhạt hơn.
Các hoạt động tham dự này được ghi nhận không chỉ là các đóng góp
tiền mặt và các đóng góp vật chất, công sức quy ra tiền mà còn là các thái
độ, niềm tin, các nguyện ước trong quá trình tham dự. Đó không chỉ là vấn
đề của mỗi cá nhân mà còn là của các nhóm xã hội khác nhau trong cộng
đồng, thể hiện những vấn đề của chính cộng đồng đó trong bối cảnh của
những biến chuyển kinh tế, chính trị, xã hội và văn hoá, rộng hơn là các vấn
đề của xã hội nông thôn Việt Nam.
Phạm vi không gian: luận văn tự hạn chế trong phạm vi các hoạt
động đóng góp tại đình, chùa làng Giang Xá, nay là thị trấn Trạm Trôi,
thành phố Hà Nội, trước thuộc Hà Tây cũ - nơi đậm đặc di tích lịch sử văn
hoá, người dân có ý thức về việc tôn tạo di tích, tổ chức lễ hội và các hoạt

động tế tự khác.
Phạm vi thời gian: Nghiên cứu công đức của người dân trong làng
trong các năm từ 2008 đến 2010, trong đó hai năm 2008 và 2009 là không
tổ chức lễ hội đình với quy mô lớn, nên chủ yếu là thu thập các số liệu định
lượng; năm 2010 là năm tổ chức lễ hội đình theo chu kỳ 5 năm (đại đám),
chủ yếu là thu thập các dữ liệu định tính, quan sát, chụp ảnh, các dữ liệu
định lượng chưa thể tập hợp được do thời điểm tổ chức lễ hội rất gần với
thời điểm kết thúc luận văn, Ban Khánh Tiết chưa công bố. Có một số dữ
liệu từ ngay thời kỳ đầu tu sửa lớn đình (1998), chùa (2001), tuy không đầy
đủ, đã được chúng tôi thu thập và đưa vào nghiên cứu để thấy được tính
chất lâu bền của các hoạt động đóng góp của người dân.

13
Do những hạn chế về sự tiếp cận các số liệu thống kê từ các năm trước
nên tác giả luận văn thiếu những cơ sở phân tích dài hơi hơn về chủ đề này.
Các cuộc chuyển giao về nhân sự trong Ban Khánh Tiết hàng năm, việc lưu
trữ chưa được khoa học tại đình, chùa đã không cho phép có được những
dãy số liệu có thể so sánh dài hơn trong dịp lễ hội. Có một số mảng vấn đề
có thể có được số liệu, nhất là các đóng góp của người dân vào tu sửa đình,
chùa, công đức các khoản lớn, các khoản nhỏ có thể còn chưa đầy đủ do
các hoạt động ghi chép ở đây còn có những thiếu sót, lưu trữ không khoa
học.
Đây là lý do khách quan khiến cho luận văn chưa có được đầy đủ dữ
liệu. Phần lớn chúng được ghi chép trong những cuốn sổ còn lưu giữ của
các cá nhân đã tham gia vào việc quản lý tài chính tại đình, chùa. Các sổ
sách này đã được tổng hợp lại, đối chiếu, so sánh giữa sổ ghi chép với trí
nhớ của người dân trong hai năm. Để bảo đảm độ chính xác hơn, các số liệu
này được chúng tôi kiểm chứng bằng cách hỏi lại, so sánh với từng người
đã tham gia vào Ban Khánh Tiết theo mỗi năm.
4. Nguồn tƣ liệu và phƣơng pháp nghiên cứu

Các nguồn tư liệu được sử dụng cho luận văn bao gồm:
1. Nguồn thứ nhất: tư liệu điền dã dân tộc học: các biên bản phỏng vấn
sâu, các ghi chép, ảnh… được ghi chụp tại địa bàn nghiên cứu. Các bảng
biểu thống kê, các báo cáo, tài liệu sưu tầm do UBND thị trấn Trạm Trôi,
và một số cá nhân cung cấp.
2. Nguồn thứ hai: sách, luận án, chuyên khảo, bài nghiên cứu từ tạp chí,
các website về chủ đề có liên quan.
Trong đó, nguồn tư liệu điền dã đóng vai trò quan trọng nhất được tác
giả thu thập từ việc khảo sát và nghiên cứu thực địa.

14
Cơ sở lý luận của luận văn là các lý thuyết về phát triển cộng đồng và
phát triển cộng đồng về mặt văn hóa; các lý thuyết về bảo tồn di sản có sự
tham gia của cộng đồng. Một đặc điểm chung của các lý thuyết này là cách
tiếp cận từ dưới lên, tôn trọng ý kiến của chủ thể văn hóa, khẳng định vai
trò to lớn của cộng đồng trong các vấn đề quản lý xã hội và văn hóa.
Luận văn lấy phân tích định lượng là phương pháp chủ đạo trong
nghiên cứu này, trong đó trước hết phải đo lường được số lượng, tần suất
tham gia của các thành phần xã hội vào quá trình đóng góp tại đình, chùa.
Tác giả luận văn đã dành nhiều thời gian và công sức cho việc thu thập các
dữ liệu này, phân tích, so sánh, xử lý định lượng bằng phần mềm SPSS.
Các phương pháp phân tích định tính như quan sát – thâm nhập, phỏng
vấn, phân tích văn bản cũng đã được sử dụng nhằm đi sâu nghiên cứu các
động thái bên trong của sự đóng góp của người dân tại đình, chùa, bao gồm
các kỹ thuật:
 Phỏng vấn sâu;
 Quan sát tham dự;
 Phân tích các tài liệu sẵn có.
Ngoài các phương pháp kể trên, trong quá trình viết, chúng tôi đã sử
dụng một số phương pháp khác như:

 Phương pháp mô tả;
 Phương pháp thống kê;
 Phương pháp phân tích - tổng hợp.
5. Cấu trúc của luận văn
Để thể hiện nội dung chính nêu trên, kết cấu của luận văn ngoài phần
Mở đầu và Kết luận, gồm 3 chương :
- Chương 1: Tổng quan về lý thuyết và địa bàn nghiên cứu. Chương
này đặt cơ sở lý luận cho các nghiên cứu thực tiễn của chương 2, trong đó

15
nhấn mạnh đến vai trò quan trọng của cộng đồng trong các vấn đề quản lý
xã hội và văn hóa. Đây là một hướng tiếp cận về bảo tồn di sản gắn với
quan điểm phát triển bền vững.
- Chương 2: Hoạt động công đức từ góc độ kinh tế. Chương này đi sâu
phân tích các đóng góp từ góc độ kinh tế của người dân trong các dịp lễ hội,
trong tôn tạo, tu bổ di tích, cả về công sức, tiền và hiện vật tại làng Giang
Xá. Đặc biệt, đi sâu vào các so sánh về giá trị công đức xét trên các biến số
về: tuổi, giới tính, nghề nghiệp, địa bàn cư trú, thời gian lễ hội…
- Chương 3: Hoạt động công đức và sự tác động đối với người dân và
cộng đồng. Trên nền tảng thực tiễn của một cộng đồng nông thôn đang
chuyển đổi, chương 3 tìm hiểu các lý do công đức của người dân, các tâm
tư, nguyện vọng, thái độ của họ trong hoạt động công đức. Đồng thời, đi
sâu phân tích các động thái biến chuyển bên trong dòng đóng góp tài chính
của cộng đồng dân cư: các đồng thuận xã hội, các mâu thuẫn, xung đột
trong quản lý sử dụng công quỹ và những đóng góp mang tính vượt trội.
Những phân tích mang tính chất định tính này kết hợp với phân tích định
lượng ở chương 2 cho ta cái nhìn khá toàn diện, đa chiều về hoạt động công
đức, những xu hướng, tác động đối với người dân của một cộng đồng làng
trong cơn lốc đô thị hóa, hiện đại hóa
Mặc dù đã hết sức cố gắng trong quá trình điền dã, thu thập tư liệu,

trong quá trình xử lý thông tin, giải quyết các vấn đề đặt ra, song trong
khuôn khổ của một luận văn thạc sĩ cũng như hạn chế của bản thân tác giả,
không thể tránh được thiếu sót và hạn chế trong luận văn này. Chúng tôi rất
mong nhận được sự góp ý, phê bình của các thầy cô, các nhà nghiên cứu và
các bạn có quan tâm tới chủ đề này.

16
CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ LÝ THUYẾT
VÀ ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU


Chương này có nhiệm vụ xây dựng các cơ sở lý thuyết cho việc phân
tích sự đóng góp của người dân tại đình, chùa làng Giang Xá, huyện Hoài
Đức, thành phố Hà Nội. Các vấn đề lý thuyết này đặt nền tảng cho việc
nghiên cứu sự tham dự của người dân trong tiến trình phát triển chung,
cũng như các hoạt động văn hóa xã hội khác. Sự đóng góp của người dân
trong các hoạt động tại cộng đồng cần phải có cách nhìn nhận mới từ dưới
lên, thay vì cách nhìn từ trên xuống - một cách tiếp cận mang tính nhà
nước, không thích hợp khi phân tích các hoạt động dân sự, đặc biệt trong
lĩnh vực có liên quan tới tâm linh, đời sống tinh thần của con người.
1.1. Lý thuyết phát triển cộng đồng và sự tham dự của ngƣời dân vào
các hoạt động văn hóa
1.1.1 Định nghĩa phát triển cộng đồng:
Lý thuyết phát triển cộng đồng là một cách tiếp cận phát triển xuất
hiện vào những năm 1940 tại các nước thuộc địa của Anh. Đến năm 1950,
Liên hiệp quốc công nhận khái niệm phát triển cộng đồng và khuyến khích
các quốc gia sử dụng khái niệm này nhằm phát triển các quốc gia, kết hợp
với nhiều chương trình viện trợ qui mô lớn về kỹ thuật, phương pháp và tài
chính vào thập kỷ 50 - 60. Sau này, các tổ chức phi chính phủ và chính phủ
đã triển khai nhiều dự án phát triển cộng đồng huy động sự đóng góp từ nhà

nước và người dân để thực hiện các công trình phúc lợi công cộng như xây
dựng hệ thống giao thông nông thôn, hệ thống thuỷ lợi, nước sạch, xây
dựng trường học, trạm y tế, xóa đói giảm nghèo, an sinh xã hội, quản lý các

17
hoạt động văn hóa tinh thần v.v Đây là sự cộng tác từ trên xuống, từ dưới
lên, thay vì cách tiếp cận chỉ từ trên xuống từ phía nhà nước [25, tr.10,11].
Cách tiếp cận không mang tính áp đặt từ trên xuống, dựa vào nhu cầu
cụ thể của từng cộng đồng, nhóm xã hội là đặc điểm lớn nhất của phong
trào này. Số cộng đồng “trắng” về cơ sở hạ tầng được giảm đi, nhiều chỉ số
phát triển kinh tế-xã hội được cải thiện, đặc biệt, sự thay đổi về nhận thức,
hành vi của người dân để tiếp nhận tiến trình hiện đại hoá và phát triển, sự
tham dự của người dân vào các tiến trình ra quyết định của hệ thống công
quyền, triển khai các dự án phát triển, giám sát và phản biện xã hội đã được
nâng cao hơn.
Ở Việt Nam, lần đầu tiên khái niệm phát triển cộng đồng được giới
thiệu vào giữa thập kỷ 50 thông qua một số các hoạt động phát triển cộng
đồng tại các tỉnh phía Nam, trong lĩnh vực giáo dục. Từ ngành giáo dục,
phát triển cộng đồng chuyển sang lĩnh vực công tác xã hội. Thập kỷ 60-70
hoạt động phát triển cộng đồng được đẩy mạnh thông qua các chương trình
phát triển nông thôn của sinh viên, của phong trào Phật giáo Từ thập kỷ
80 cho đến nay, phát triển cộng đồng được biết đến một cách rộng rãi hơn
qua các chương trình viện trợ phát triển của nước ngoài tại Việt Nam, ở đó,
chúng cần có sự tham dự của người dân tại cộng đồng như một trong những
nhân tố quyết định để chương trình đạt được tính hiệu quả bền vững. Các
chương trình hoặc dự án thuộc nhiều lĩnh vực phát triển nông nghiệp nông
thôn, tín dụng, xoá đói giảm nghèo, chăm sóc sức khoẻ, kế hoạch hoá gia
đình đã phổ cập hoá những quan niệm và phương pháp cơ bản về phát
triển cộng đồng tại Việt Nam trên một quy mô và chất lượng mới. Kinh
nghiệm về phát triển cộng đồng đã được chúng ta tích luỹ phong phú hơn

rất nhiều so với các thời kỳ trước, trên thực tiễn triển khai của Việt Nam.

18
Thời kỳ này đã có đào tạo bậc đại học về phát triển cộng đồng trong khuôn
khổ bộ môn xã hội học và công tác xã hội.
Theo các tác giả cuốn Phát triển cộng đồng- Lý thuyết và vận dụng,
khái niệm phát triển cộng đồng là một khái niệm mới và mang tính phức
tạp [15, tr 15].
Ở tầm mức kỹ thuật, phát triển cộng đồng thực chất là quá trình tăng
trưởng kinh tế cộng đồng cùng với tiến bộ cộng đồng theo hướng hoàn
thiện các giá trị chân, thiện, mỹ, với các hoạt động chủ yếu sau:
- Cộng đồng xác định các vấn đề cần giải quyết (Nhu cầu và mục tiêu).
- Chọn lựa các vấn đề ưu tiên bằng các phân tích định lượng và định
tính (Nhu cầu và mục tiêu ưu tiên).
- Xây dựng các chương trình hành động trên cơ sở phối hợp các nguồn
lực bên trong và bên ngoài.
- Triển khai, bao gồm cả điều chỉnh các chương trình hành động, sau
khi có các bước trên.
- Lượng giá các chương trình hành động, trong đó nhấn mạnh đến tiến
trình tạo ra những chuyển biến xã hội hơn là một số hiệu quả trước mắt
hoặc mang tính hình thức, không căn bản.
Cũng theo các tác giả trên, lý thuyết phát triển cộng đồng bao gồm 3
nguyên lý như sau: (1) Nguyên lý tính tương đối của phát triển cộng đồng;
(2) Nguyên lý tính đa dạng của phát triển cộng đồng; (3) Nguyên lý tính
bền vững của phát triển cộng đồng.






1
2
3
Nguyên lý tương đối
Nguyên lý bền vững
Nguyên lý đa dạng

19

Trong lý thuyết phát triển cộng đồng, có 3 lĩnh vực mà nó quan tâm
đặc biệt:
- Các chỉ số phát triển cơ sở hạ tầng, nói theo ngôn ngữ thông dụng ở
nông thôn nước ta hiện nay là điện, đường, trường, trạm. Đây là những yếu
tố cơ bản, vừa là thước đo trình độ phát triển một cộng đồng, vừa là điều
kiện cho sự phát triển của mỗi cộng đồng. Cơ sở hạ tầng là một chỉ báo
tổng hợp kinh tế-xã hội, vừa có ý nghĩa là các cơ sở vật chất kỹ thuật, vừa
có ý nghĩa là các thành tựu tinh thần của một xã hội. Cơ sở hạ tầng là cốt
lõi của môi trường nhân tạo.
- Những chỉ số phát triển bền vững. Đây là những quan niệm mở rộng,
có một loạt các chỉ số có liên quan như chỉ số bảo vệ môi trường, phát triển
con người. Phát triển kinh tế-xã hội mà không bảo vệ môi trường thì có
nguy cơ sẽ dẫn tới mặt trái của nó, tức là suy thoái mà thế giới hiện đại đã
có quá nhiều bài học.
Giải quyết các vấn đề phát triển một cách tổng thể, thay vì chỉ chú
trọng, chạy theo sự tăng trưởng kinh tế bằng bất cứ giá nào. Dưới cách
hiểu này, nhân danh sự tiến bộ về văn minh, nhân danh một tư duy phát
triển theo kiểu lấy tăng trưởng kinh tế làm trọng để “đánh giá“, “xem xét”
các tư duy và cách làm khác, cho rằng đó là không tiến bộ, chậm phát triển,
là một cách nhìn có tính áp đặt. Các quốc gia, các cộng đồng có thể tìm
mục tiêu phát triển không chỉ là tăng trưởng kinh tế. Từ sáng kiến của các

cộng đồng, gia tăng tính năng động xã hội vi mô và giảm trừ độc quyền
Nhà nước vĩ mô, đạt được sự tăng trưởng kinh tế và tiến bộ xã hội. Phát
triển nguồn lực con người, bảo đảm ngay từ đầu các cân bằng về phát triển
xã hội và môi trường tự nhiên, không tạo ra những xung đột trong kế thừa
truyền thống và giao lưu, hội nhập quốc tế đó là những cách đi có ý

20
nghĩa, là một cách đặt vấn đề khác với các quan niệm phát triển chạy theo
tăng trưởng.
Phát triển cộng đồng là tổng thể những quá trình làm cho cộng đồng
biến dạng và có thể dẫn tới những thay đổi về chất. Những biến dạng và
đổi thay về chất nào cũng phải đảm bảo những yêu cầu phát triển chung
của xã hội, tức là phải đảm bảo sự bền vững của cộng đồng, sự công bằng
xã hội cho các nhóm xã hội vốn có những lợi ích riêng, hướng tới xây dựng
năng lực tự tổ chức, tự quản lý các vấn đề của cộng đồng trên cơ sở hội
nhập được các nguồn lực bên trong và bên ngoài, đảm bảo sự tăng trưởng
kinh tế và tiến bộ xã hội [15, tr 10]
1

Tiếp cận này đã phản ánh các giá trị cần được tôn trọng trong phát
triển cộng đồng, đó là: (1) Nhân quyền: bảo đảm cho mọi người quyền
được phát triển, có nhân phẩm, được tôn trọng và được bảo vệ; (2) Công
bằng xã hội để bảo đảm các cơ hội ngang nhau cho mọi người thoả mãn
nhu cầu cơ bản, gìn giữ giá trị và nhân phẩm của mình, bảo đảm sự tham
gia của mọi lực lượng xã hội vào tiến trình ra các quyết định quan trọng
trong cộng đồng; (3) Nâng cao trách nhiệm xã hội của mỗi cá nhân để cùng
nhau giải quyết các vấn đề xã hội chung.
1.1.2. Lý thuyết phát triển cộng đồng về mặt xã hội:
Nhu cầu phát triển của các cộng đồng nhỏ ở nông thôn đòi hỏi phải có
những cách đặt vấn đề mới xuất phát từ những nhu cầu được thức tỉnh từ

chính họ. Tính bền vững của các hoạt động phát triển cần phải có những
nguyên tắc làm việc mới, những phương pháp mới đáp ứng những đòi hỏi

1
ở cấp độ phát triển cộng đồng, khái niệm phát triển được thao tác hoá bằng một loạt các chỉ
báo đo như: (1) Các nhóm thiệt thòi có thể cải thiện điều kiện sống và thoả mãn các nhu cầu cơ
bản như việc làm, nhà ở, có khả năng trả các phí dịch vụ xã hội cơ bản như học hành, chữa
bệnh; (2) Phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng; (3) Tăng quyền lực của người dân trong các quyết
định của cộng đồng; (4) Giảm nghèo, giảm thất nghiệp, quyền con người và công bằng xã hội
được củng cố (UN Centre for Regional Development. 1988)

21
của thực tiễn cuộc sống. Quá trình xác định nhu cầu, lập kế hoạch can thiệp
đã dựa trên một tư duy mới là: thay vì bên ngoài làm hộ, người dân ở mỗi
cộng đồng phải tự mình đứng ra giải quyết những vấn đề của riêng mình, sự
giúp đỡ của bên ngoài chỉ có tính chất hỗ trợ, không mang tính quyết định.
Thiếu hụt sự hưởng ứng, ý chí và nỗ lực của nhân dân là một trong
những nguyên nhân cho sự thất bại của nhiều chương trình phát triển cộng
đồng. Ngoài nguyên nhân là quá chú trọng các biện pháp hỗ trợ mang tính
cấp cứu, từ thiện hơn là các biện pháp hỗ trợ phát triển, tính bền vững của
các chương trình không được duy trì sau khi các dự án rút đi là do cách đặt
vấn đề có tính áp đặt từ trên xuống (Top down), thay vì cần có một cách đặt
vấn đề từ dưới lên (Bottom up). Về mặt tư tưởng, thói quen tư duy và
phương pháp làm việc, cách làm việc mới này vẫn còn khá xa lạ với cách
nghĩ, cách làm mệnh lệnh, mang tính áp đặt từ trên xuống, bên dưới chỉ có
một cách thực hiện chúng. Phát triển cộng đồng khuyến khích sáng kiến từ
dưới lên, với sự kết hợp với chính người dân để giải quyết vấn đề của cộng
đồng. Việt Nam đang bước vào một giai đoạn phát triển mang tính bước
ngoặt. Nhiều hình thức hợp tác tự nguyện mới như các tổ liên kết ở nông
thôn, các hợp tác xã ngành nghề, buôn bán ở thành thị là dấu hiệu rất tích

cực cho giai đoạn phát triển mới. Nhiều mô hình do người dân địa phương
tự liên kết để giải quyết nhu cầu của mình hay tham gia vào các chương
trình từ bên ngoài đưa vào, một số mô hình đã chứng minh tính hiệu quả
của nó. Truyền thống “tình làng nghĩa xóm, tương thân tương trợ, lá lành
đùm lá rách" cũng là những cơ sở xã hội-lịch sử quan trọng cho các hoạt
động này.
Cơ cấu tổ chức trên địa bàn cơ sở cũng là một thuận lợi cho vận động
quần chúng. Hệ thống tổ dân phố, thôn (ấp) tuy còn rơi vào các hoạt động
quan liêu nhưng là đơn vị tập hợp, liên lạc thông tin rất thuận lợi. Các tổ

22
chức chính trị xã hội như phụ nữ, đoàn thành niên, nông dân, cựu chiến
binh, chữ thập đỏ có mạng lưới rộng khắp và chân rết tại cơ sở. Đây là cơ
chế tổ chức tốt để chuyển tải các chính sách chủ trương từ trên xuống cũng
như phản ánh tâm tư nguyện vọng của người dân từ dưới lên. Thoát khỏi sự
“cương cứng” trong những năm bao cấp, các đoàn thể này đã đa dạng hoá
các hoạt động để hướng về phúc lợi xã hội, kinh tế gia đình chăm sóc sức
khoẻ, tín dụng tiết kiệm, xúc tiến việc làm, xoá đói giảm nghèo rất gần
gũi với phát triển cộng đồng. Vấn đề đặt ra là nếu áp dụng đúng phương
pháp phát triển cộng đồng các hoạt động xã hội tại cộng đồng sẽ có hiệu
quả hơn nhiều.
Với gần 80% dân cư sống ở nông thôn, đất nước không thể đi lên với
một nông thôn nghèo nàn lạc hậu. Phát triển cộng đồng ở nước ta gắn chặt
với tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn. Gần
đây, các Chỉ thị, Nghị quyết của Nhà nước đã nhấn mạnh đến phát triển
nông thôn toàn diện, bởi nông thôn không thể thoát khỏi nghèo đói để vươn
lên nếu không có những hoạt động đồng bộ về văn hóa, giáo dục, xã hội,
sức khoẻ bên cạnh chương trình kinh tế. Đối tượng của các chương trình
lớn kể trên đều là người nghèo thất học, người nghèo. Cần phát huy hơn
nữa tính chủ động của quần chúng bằng cách không chỉ dạy chữ, dạy nghề

mà còn giúp cho người dân khả năng phân tích tình hình, giác ngộ về hoàn
cảnh của mình, kỹ năng tổ chức để tự quản và đi lên bằng chính sức của
mình. Phát triển cộng đồng là ngành khoa học đáp ứng yêu cầu này. Các
chương trình chăm sóc sức khoẻ ban đầu, xoá đói giảm nghèo là những ví
dụ điển hình của cách làm này. Sự tự nguyện mới có thể khắc phục được
tình trạng nghèo, bệnh tật và thất học bằng nỗ lực của toàn cộng đồng. Sự
biến chuyển chỉ có nhờ thay đổi phương pháp luận và phương pháp tiến
hành cụ thể.

23
Nhu cầu từ thực tiễn đặt ra là cần phải có quan điểm và phương pháp
vận động và tổ chức quần chúng, những phẩm chất của các nhà hoạt động
xã hội cho mỗi cán bộ làm công tác phát triển cộng đồng. Phát triển cộng
đồng sẽ đóng góp tích cực cho giai đoạn phát triển mới, là tinh thần và kỹ
năng hợp tác, kiến thức, kỹ năng tổ chức, quản lý. Đặc biệt, với triết lý
tham dự, các hoạt động phát triển cộng đồng đã có một hướng phát triển
mới, nhấn mạnh đến việc thu hút người dân vào các hoạt động phát triển.
1.1.3. Bảo tồn di sản có sự tham dự của cộng đồng:
Trong lĩnh vực văn hóa, lý thuyết phát triển cộng đồng được thấm sâu
và thực hành một cách sâu rộng trong các vấn đề bảo tồn và phát huy di sản
văn hóa trong đời sống đương đại. Các lý thuyết mới trong nhân học hiện
đại, đặc biệt là lý thuyết tương đối văn hóa đã góp phần vào quá trình này.
Trên thế giới hiện nay, khái niệm di sản thế giới là di chỉ hay di tích
của một quốc gia như rừng, dãy núi, hồ, sa mạc, tòa nhà, quần thể kiến trúc
hay thành phố do các nước có tham gia Công ước di sản thế giới đề cử
cho Chương trình quốc tế Di sản thế giới, được công nhận và quản lý bởi
UNESCO. Chương trình Di sản thế giới sẽ lập danh mục, đặt tên và bảo tồn
những vị trí nổi bật về văn hóa hay đặc điểm tự nhiên cho di sản nhân loại
chung theo Công ước di sản thế giới, được Đại hội đồng UNESCO chấp
nhận ngày 16 tháng 11 năm 1972. Nhằm bảo vệ các di sản văn hóa ngày

càng có nguy cơ xâm phạm, năm 2001, Luật Di sản Văn hóa được Quốc hội
thông qua, gồm 74 điều quy định về bảo vệ các di sản văn hóa ở Việt Nam.
Luật này được sửa đổi năm 2009, bổ sung thêm những điều luật mới. Luật
quy định về các hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hoá; xác
định quyền và nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân đối với di sản văn hoá. Luật áp
dụng đối với tổ chức, cá nhân Việt Nam, tổ chức, cá nhân nước ngoài và
người Việt Nam định cư ở nước ngoài đang hoạt động tại Việt Nam; trong

24
trường hợp điều ước quốc tế mà nước ta ký kết hoặc tham gia có quy định
khác thì áp dụng quy định của điều ước quốc tế [27, tr 5].
Như vậy, cho đến nay, Việt Nam đã ký kết các công ước liên quan đến
bảo vệ di sản văn hóa, đồng thời nhà nước cũng hết sức quan tâm đến di
sản văn hóa dân tộc. Điều đó chứng tỏ, di sản có vị trí quan trọng trong
chiến lược củng cố, phát huy giá trị vật thể và phi vật thể đối với thế hệ mai
sau của đất nước.
Ở Việt Nam hiện nay, di sản văn hóa được chia làm 3 loại, trong đó có
di sản văn hóa phi vật thể, di sản văn hóa vật thể và báu vật nhân văn sống.
- Di sản văn hoá phi vật thể là sản phẩm tinh thần có giá trị lịch sử,
văn hoá, khoa học, được lưu giữ bằng trí nhớ, chữ viết, được lưu truyền
bằng truyền miệng, truyền nghề, trình diễn và các hình thức lưu giữ, lưu
truyền khác, bao gồm tiếng nói, chữ viết, tác phẩm văn học, nghệ thuật,
khoa học, ngữ văn truyền miệng, diễn xướng dân gian, lối sống, nếp sống,
lễ hội, bí quyết về nghề thủ công truyền thống, tri thức về y, dược học cổ
truyền, về văn hoá ẩm thực, về trang phục truyền thống dân tộc và những tri
thức dân gian khác.
- Di sản văn hoá vật thể là sản phẩm vật chất có giá trị lịch sử, văn
hoá, khoa học, gồm di tích lịch sử-văn hoá, danh thắng, di vật, cổ vật, bảo
vật quốc gia.
- Báu vật nhân văn sống là những người có tài năng xuất sắc, thể hiện

ở kiến thức mà nghệ nhân nắm giữ, như các bài bản hay trình độ kỹ thuật
mà họ thể hiện, có vai trò xứng đáng với cộng đồng, có sự cống hiến, tham
gia vào đời sống văn hóa cộng đồng.
Bảo tồn di sản văn hóa hiện nay đã được các học giả hết sức quan tâm
và có những công trình đã trình bày về những vấn đề lý luận này. Những tri
thức này hiện nay rất phổ biến trong giới nghiên cứu văn hóa, thậm chí ở

25
Việt Nam đã có những công trình nghiên cứu sâu về vấn đề lý luận này.
Ashworth, một học giả có uy tín hiện nay, đã tổng kết từ thực tế bảo tồn di
sản ở nhiều nước trên thế giới thành ba quan điểm và tương ứng với nó là
ba mô hình bảo tồn di sản [28, tr 32]:
Bảo tồn y nguyên: Đây là quan điểm dựa trên quan điểm bảo tồn văn
hóa vật thể của các nhà bảo tàng học. Quan điểm này cho rằng, các sản
phẩm của quá khứ cần được bảo tồn nguyên dạng như nó vốn có. Quan
điểm này phát triển từ năm 1850 và thịnh hành một thời gian dài. Các nhà
bảo tàng học nước ta cũng chịu ảnh hưởng khá mạnh bởi quan điểm này.
Đối với lễ hội truyền thống - một loại hình văn hóa phi vật thể - thì
việc xác định đâu là các yếu tố nguyên gốc sẽ gặp phải những khó khăn.
Một mặt, những thay đổi lịch sử tác động đến sự biến đổi về chức năng của
các lễ hội dẫn đến biến đổi cấu trúc lễ hội, mặt khác, bất cứ một lễ hội nào
cũng tự tích hợp những yếu tố văn hóa của thời đại hoặc ngoại lai (dù vô
tình hay hữu ý) để thích nghi với từng thời đại.
Bảo tồn trên cơ sở kế thừa: Quan điểm này thừa nhận sự biến đổi của
di sản, nhưng lại cực đoan cho rằng mỗi di sản có nhiệm vụ lịch sử ở những
không gian và thời gian cụ thể, những mặt tích cực của chúng phải được
phát huy cho phù hợp với nhu cầu thời đại, ngược lại những mặt tiêu cực
phải bị loại bỏ. Di sản, nhất là di sản văn hóa phi vật thể luôn là một thực
thể hữu cơ không thể chia cắt thành những yếu tố tích cực/tiêu cực; tiến
bộ/lạc hậu; tốt/xấu Vì thế, khi chúng bị chia cắt một cách siêu hình thì lập

tức bị biến dạng và tiêu vong. Thực tiễn ở Việt Nam đã cho thấy, với quan
điểm bảo tồn này, nhiều lễ hội chỉ còn lại phần “hội”, nhiều hình thái văn
hóa gắn với tín ngưỡng cổ xưa, nhiều diễn xướng dân gian có giá trị bị coi
là dị đoan. Rõ ràng bảo tồn di sản theo quan điểm này sẽ dẫn đến một hệ
quả tất yếu là nhiều hình thái văn hóa cổ truyền mà dưới con mắt của người

×